VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG MỘNG LONG
THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HÓA NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM SANG AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND
TRONG BỐI CẢNH MỚI
Ngành : Kinh tế quốc tế
Mã số : 9 31 01 06
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. NGUYỄN DUY DŨNG 2. PGS.TS. NGUYỄN HƯƠNG LAN
HÀ NỘI – 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ là kết quả nghiên cứu khoa học của nghiên cứu
sinh, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và
chưa từng được bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cám
ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2023
Tác giả luận án
Hoàng Mộng Long
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm
ơn tới Ban Lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội cùng các thầy cô giáo tham gia giảng
dạy đã cung cấp những kiến thức cơ bản, chuyên môn sâu và đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Duy Dũng –
người hướng dẫn khoa học đã tận tâm giúp đỡ và chỉ dẫn cho tôi những kiến thức cũng
như phương pháp luận trong suốt thời gian hướng dẫn nghiên cứu, hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Sở, Ban, Ngành có liên quan đã cung cấp tài
liệu, các bạn đồng nghiệp, những người thân, bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2023
Tác giả luận án
Hoàng Mộng Long
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 14
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................... 14
1.1.1. Nhóm những công trình nghiên cứu về lý luận thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản .............................................................................................................. 14
1.1.2. Nhóm những nghiên cứu về thực tiễn thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
sang Australia và New Zealand .......................................................................... 22
1.2. Nhận xét về tổng quan nghiên cứu và các khoảng trống ................................. 26
1.2.1. Những giá trị đạt được ............................................................................. 26
1.2.2. Các khoảng trống nghiên cứu .................................................................. 28
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 30
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ NÔNG SẢN TRONG BỐI CẢNH MỚI .......................................... 31
2.1. Xuất khẩu hàng hoá nông sản .......................................................................... 31
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 31
2.1.2. Đặc điểm và vai trò của xuất khẩu hàng hoá nông sản ........................... 36
2.1.3. Hình thức xuất khẩu hàng nông sản ......................................................... 41
2.2. Bối cảnh mới ................................................................................................... 43
2.2.1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ................................................ 44
2.2.2. Sự nở rộ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới .............................. 44
2.2.3. Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 ......................................... 45
2.2.4. Các vấn đề phức tạp của chính trị thế giới .............................................. 45
2.2.5. Các vấn đề toàn cầu khác ......................................................................... 45
2.3. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới ........................... 46
2.3.1. Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới ... 46
2.3.2. Vai trò của thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới . 47
2.3.3. Yêu cầu đối với chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong bối
cảnh mới ............................................................................................................. 49
2.3.4. Điều kiện thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới .... 52
2.3.5. Nội dung thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của chính phủ trong bối
cảnh mới ............................................................................................................. 53
2.3.6. Nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong bối cảnh
mới ...................................................................................................................... 59
2.3.7. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của xuất khẩu hàng nông sản ...... 64
2.4. Kinh nghiệm thực tiễn về thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong bối cảnh mới tại
một số quốc gia ....................................................................................................... 67
2.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan ....................................................................... 67
2.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc .................................................................. 69
2.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .......................................................... 71
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 73
Chương 3: THỰC TRẠNG THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÔNG SẢN
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND TRONG
BỐI CẢNH MỚI ....................................................................................................... 74
3.1. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang Australia và
New Zealand ........................................................................................................... 74
3.1.1. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nông sản .............. 74
3.1.2. Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu hàng hoá nông sản....................... 75
3.1.3. Chính sách sản phẩm xuất khẩu ............................................................... 79
3.2. Phân tích thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang Australia
và New Zealand trong thời gian qua ...................................................................... 80
3.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam
sang Australia và New Zealand .......................................................................... 80
3.2.2. Tăng cường hợp tác mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản . 82
3.2.3. Tăng cường kiểm soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu83
3.2.4. Xây dựng hệ thống thông tin và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nông
sản sang thị trường Australia và New Zealand. ................................................. 87
3.3. Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới .................... 90
3.3.1. Thống kê mô tả đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối
cảnh mới ............................................................................................................. 90
3.3.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo ............................................................ 91
3.3.3. Phân tích nhân tố khám phá EFA ............................................................ 92
3.3.4. Phân tích hồi quy tuyến tính ..................................................................... 93
3.4. Đánh giá chung về thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường
Australia và New Zealand trong bối cảnh mới ....................................................... 96
3.4.1. Kết quả phát triển của xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang thị
trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới ...................................... 96
3.4.2. Những thành tựu đạt được ...................................................................... 111
3.4.3. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 112
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 116
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND TRONG
BỐI CẢNH MỚI ..................................................................................................... 117
4.1. Những cơ hội và thách thức ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam sang Austrailia và New Zealand trong bối cảnh mới .................... 117
4.1.1. Những cơ hội thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand ................................................................................ 117
4.1.2. Những thách thức ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam sang Australia và New Zealand ............................................................... 123
4.2. Quan điểm, định hướng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand trong bối cảnh mới ..................................................... 127
4.2.1. Quan điểm phát triển xuất khẩu hàng hóa nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand giai đoạn 2021-2030.............................................. 127
4.2.2. Định hướng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand giai đoạn 2021 – 2030 ........................................... 127
4.2.3. Mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia
và New Zealand đến năm 2030 ........................................................................ 129
4.3. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang thị trường
Australia và New Zealand trong bối cảnh mới ..................................................... 130
4.3.1. Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang thị
trường Australia và New Zealand .................................................................... 130
4.3.2. Thúc đẩy các hợp tác kinh tế quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh
vực nông nghiệp để tháo gỡ khó khăn xuất khẩu hàng hoá nông sản với Australia
và New Zealand ................................................................................................ 137
4.3.3. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường
Australia và New Zealand ................................................................................ 139
4.3.4. Xây dựng hệ thống thông tin xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nông sản sang thị
trường Australia và New Zealand .................................................................... 144
4.3.5. Phòng ngừa rủi ro và xử lý các vấn đề vướng mắc cản trở đến thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand ....................... 149
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 152
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 155
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Tổng kết các yếu tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ... 22
Bảng 3.1. Các bước để đưa trái vải của Việt Nam vào thị trường Australia ........... 85
Bảng 3.2. Kết quả khảo sát về nhân tố ảnh hướng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand ........................................ 91
Bảng 3.3. Độ tin cậy của các thang đo ..................................................................... 91
Bảng 3.4. Kết quả kiểm định các giả thuyết của mô hình ........................................ 93
Bảng 3.5. Tỷ trọng nhập khẩu nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu
nông sản của Australia và New Zealand giai đoạn 2010 - 2022 .............................. 98
Bảng 3.6. Tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam giai đoạn 2010 –
2022 .......................................................................................................................... 99
Bảng 3.7. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang New Zealand ..... 101
Bảng 3.8. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia ............ 104
Bảng 3.9. Tỷ trọng nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông
sản của Việt Nam, Australia và New Zealand giai đoạn 2010 – 2022................... 105
Bảng 3.10. Số lô hàng nông sản của Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào Australia và
một số nước nhập khẩu lớn giai đoạn 2010 - 2020 ................................................ 107
Bảng 3.11. Các biện pháp phi thuế quan của Australia có tỷ lệ tần suất áp dụng cao
nhất năm 2015 ........................................................................................................ 109
Bảng 3.12. Các sản phẩm nhập khẩu vào Australia có tỷ lệ tần suất bị áp dụng các
biện pháp NTM cao nhất năm 2015 ....................................................................... 110
Bảng 3.13. Các hình thức xử lý hoa quả tươi theo yêu cầu của Australia ............. 110
Bảng 4.1. Chiến lược kiểm soát rủi ro trong xuất khẩu hàng nông sản ................. 149
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ 1: Khung phân tích của luận án ...................................................................... 7
Hình 3.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia và . 97
New Zealand giai đoạn 2010 - 2022 ...................................................................... 97
Hình 3.2. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang New Zealand .... 100
theo nhóm hàng giai đoạn 2010 – 2022 ............................................................... 100
Hình 3.3. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia ........... 103
theo nhóm hàng giai đoạn 2010 – 2022 ............................................................... 103
Hình 3.4. Lý do các nhóm hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam bị từ chối .... 108
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ tiếng Việt
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
Chuyên môn hoá CMH
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DN DN
KHCN Khoa học công nghệ
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NLTS Nông lâm thuỷ sản
NSXK Nông sản xuất khẩu
PTNT Phát triển nông thôn
TCTD Tổ chức tín dụng
TMQT Thương mại quốc tế
XK Xuất khẩu
XKHHNS Xuất khẩu hàng hoá nông sản
Chữ tiếng Anh
Chữ đầy đủ tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt
Chữ viết tắt AEC
ASEAN
AANZFTA ASEAN – Australia – New Zealand Free trade area
CPTPP
ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Association of South East Asian Nam Á Nations Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Australia – New Zealand Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc
Hiệp định thương mại tự do Chu trình nông nghiệp an toàn Tổng sản phẩm quốc nội FTA GAP GDP
Chế độ tối huệ quốc MFN
RCEP
SPS Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership Food and Agriculture Organization of the United Nations Free trade ageement Good Agriculture Practice Gross domestic product Most Favoured Nation Treatment Regional Comprehensive Economic Partnership Sanitary and Phytosanitary Measures
Technical Barriers to Trade TBT
World Bank WB
World Integrated Trade Solution WITS
World Trade Organization Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại Ngân hàng Thế giới Giải pháp thương mại tích hợp thế giới Tổ chức TMQT WTO
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Xuất khẩu là một trong những định hướng mũi nhọn quan trọng để phát triển
kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Chiến lược “thay
thế nhập khẩu, hướng tới xuất khẩu” thành công đã cho ra đời những “con rồng châu
Á” ở nửa sau thế kỷ XX bởi xuất khẩu thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng GDP, nhanh
chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn khoảng cách với các nước
kinh tế phát triển cũng như định hình những thị trường rộng lớn.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thế giới, xuất khẩu chỉ có thể
được thực hiện hiệu quả khi một quốc gia xác định đúng đắn các mặt hàng đưa ra thị
trường thế giới. Hầu hết các nước lựa chọn các mặt hàng xuất khẩu thường là những
sản phẩm có lợi thế so sánh, chất lượng và được sản xuất trên nền tảng tiến bộ khoa
học và công nghệ mới sẽ đáp ứng phần lớn nhu cầu của thị trường quốc tế. Nhưng trên
thực tế, ngoài đặc điểm của hàng hoá, hoạt động xuất khẩu còn chịu ảnh hưởng bởi rất
nhiều yếu tố khác bên trong và bên ngoài. Đặc biệt, những yếu tố này thường xuyên
thay đổi cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội – chính trị, khoa học công nghệ và
mối quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới khiến hoạt động xuất khẩu cũng phải có
những thay đổi để thích nghi. Điều đó có nghĩa là, sự thành công của hoạt động xuất
khẩu không phải ở mọi không gian và thời điểm. Các nhà quản lý vĩ mô hay các DN
xuất khẩu đều phải luôn quan tâm nghiên cứu thị trường, tìm hiểu những bối cảnh mới
và có các điều chỉnh phù hợp mới giúp hoạt động xuất khẩu được thực hiện liên tục và
đạt được mục tiêu đặt ra. Nghiên cứu về xuất khẩu trong bối cảnh mới là yêu cầu tất
yếu trong các hoạt động nghiên cứu kinh tế quốc tế.
Mặc dù xuất khẩu hàng hoá nông sản khá truyền thống và là bộ phận không nhỏ
của xuất khẩu hàng hoá của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nhưng bởi sự khác biệt
về lợi thế (vốn, lao động, điều kiện tự nhiên, công nghệ và các chính sách của chính
phủ) mà sự tham gia xuất khẩu hàng hoá nông sản của các quốc gia khác nhau cũng
như luôn có cơ hội cho mỗi quốc gia nếu đáp ứng yêu cầu về lợi ích. Với điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, Việt Nam có nhiều mặt hàng nông
sản độc đáo được nhiều thị trường yêu thích như trái vải, sầu riêng, xoài, thanh long,
1
chè, tiêu, điều, cà phê, cao su… Trong nhiều năm gần đây, xuất khẩu hàng hoá nông
sản là nguồn thu quan trọng của đất nước.
Sự cần thiết nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand xuất phát từ cả lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng hoá nông sản đã được rất
nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và đề cập trong các tài liệu khác nhau nên khung lý
thuyết giải thích về vai trò của xuất khẩu và tính tất yếu của thúc đẩy xuất khẩu một
loại hàng hoá (trong đó có nông sản) đã hình thành. Tuy nhiên, khá ít các lý thuyết
phân biệt rạch ròi về chủ thể thực hiện là chính phủ hay các doanh nghiệp. Đặc biệt,
khung lý thuyết đang có hiện nay là sự kế thừa, tổng hợp của các nghiên cứu được
xuất hiện từ khá lâu nên bối cảnh nghiên cứu ít được đề cập đặc biệt là khi bối cảnh
luôn có sự thay đổi. Chính vì vậy, mô hình về sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng
tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của một quốc gia ra thị trường quốc tế chưa có
sự thống nhất và phù hợp với bối cảnh hiện nay. Điều này đặt ra vấn đề cần thiết phải
xây dựng được mô hình nghiên cứu định lượng nhằm đánh giá một cách sâu sắc thực
tiễn làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp phù hợp, giảm thiểu tính mơ hồ của
các suy luận định tính. Bên cạnh đó, các tiêu chí đánh giá về thúc đẩy XKHHNS cũng
cần được tổng hợp và lựa chọn để việc nghiên cứu mang lại hiệu quả. Đây cũng là lý
do để luận án được thực hiện.
Về thực tiễn, những bối cảnh mới hiện nay (nhất là bối cảnh quốc tế mới) đang
tác động mạnh tới xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới ở
nhiều phương diện khác nhau đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới.
Xem xét riêng xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và
New Zealand, các Hiệp định thương mại thế hệ mới (FTAs) như: CPTPP,
AANZFTA… đã mở ra cơ hội lớn. Với tiềm năng và sự bổ sung hợp lý từ cơ cấu
ngành hàng xuất nhập khẩu, Việt Nam đã vươn lên trở thành đối tác thương mại lớn
thứ 12 của Australia, và ngược lại Australia là đối tác thương mại lớn thứ 10 của Việt
Nam, cao hơn một bậc so với năm 2020. Theo Tổng cục Hải quan, Xuất khẩu của Việt
Nam sang Australia đạt hơn 4,45 tỷ USD, tăng hơn 23% và kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam từ Australia đạt khoảng gần 8 tỷ USD, tăng xấp xỉ gần 70%, so với năm
2020.” 4 tháng năm 2022, “kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Australia đạt 1,855
tỷ USD. Trong đó, hàng thủy sản tăng 53,3% so với cùng kỳ; rau quả tăng 22,75%.”.
2
Đối với thị trường New Zealand, năm 2022, “Việt Nam xuất khẩu sang New Zealand
đạt 534 triệu USD. Ở chiều ngược lại Việt Nam nhập khẩu từ New Zealand ước đạt
công nghệ 4.0 cũng tạo ra nhiều cơ hội giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các thị trường xuất khẩu. Các
ứng dụng nổi bật nhất của cách mạng công nghệ 4.0 như công nghệ số (AI, Bigdata,
Internet vạn vật IoT, Công nghệ viễn thám…) giúp giảm chi phí, tăng chất lượng và
năng suất một cách hiệu quả. Australia, New Zealand và Việt Nam có cơ cấu mặt
541 triệu USD.” [61] Sự phát triển khoa học công nghệ và làn sóng của cách mạng
hàng xuất nhập khẩu bổ sung cho nhau. Bên cạnh đó, thị trường Australia và New
Zealand là thị trường tiêu thụ nông sản lớn của thế giới. Điều này mở ra cơ hội lớn cho
Việt Nam trong xuất khẩu hàng nông sản sang Australia và New Zealand.
Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế mới cũng khiến xuất khẩu hàng hoá nông sản của
Việt Nam sang hai thị trường ở bán cầu Nam phải đổi mặt với nhiều thách thức. Đối
với hàng nông sản, hai quốc gia trên đều yêu cầu cao về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an
toàn thực phẩm là tất yếu. Australia và New Zealand là thị trường có tính bảo hộ rất
cao với hàng rào phi thuế quan (đặc biệt là các rào cản kỹ thuật) rất nghiêm ngặt với
những quy định chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ, vệ sinh, an toàn thực phẩm, kiểm dịch
động vật, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử
dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường v..v… Ngoài ra, những xung đột về chính trị, quân
sự giữa các quốc gia lớn trên thế giới như sự kiện Brexit – Anh rời khỏi EU, cuộc
chiến thương mại Mỹ - Trung, chiến tranh giữa Nga – Ukcraina… đã gây ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động di chuyển hàng hoá nông sản của Việt Nam ra thị trường thế
giới nói chung và Australia - New Zealand nói riêng. Ngành nông nghiệp luôn phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ các tác động của thiên tai (biến đổi khí hậu dẫn
đến các hình thái thời tiết cực đoan xảy ra bất thường, mưa đá, xâm nhập mặn mức độ
nghiêm trọng hơn), dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất và thương mại nông sản. Các
rào cản trên đang gây khó khăn cho các DN Việt Nam. Thị trường xuất khẩu hàng hoá
nông sản sang hai nước châu Đại dương chưa thực sự được quan tâm như: chưa có
chính sách riêng nhằm thúc đẩy hàng nông sản xuất khẩu, việc xin cấp phép và tiếp
cận thị trường để xuất khẩu sang hai nước gặp nhiều khó khăn dù đã có các ký kết
FTA. Đặc biệt, việc kiểm soát chất lượng nông sản xuất khẩu thiếu chặt chẽ khiến
3
hàng hoá nông sản khó vượt qua các rào cản kỹ thuật để mở rộng thị trường. Hoạt
động xây dựng hệ thống thông tin và xúc tiến thương mại còn hạn chế.
Có thể thấy, Australia và New Zealand là thị trường còn rất nhiều dư địa để DN
xuất khẩu hàng hoá nông sản mở rộng bán hàng, quan trọng là phải đa dạng, nâng cao
chất lượng sản phẩm, đáp ứng các điều kiện xuất khẩu. Trong bối cảnh như vậy, cần
thiết phải tiến hành nghiên cứu thấu đáo cơ sở khoa học để thúc đẩy xuất khẩu của mặt
hàng nông sản Việt Nam sang Australia và New Zealand trong bối cảnh mới nhằm
giúp cho các cấp quản lý và các DN Việt Nam nhận diện đầy đủ về thị trường nông
sản Australia và New Zealand, từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao khả năng xuất
khẩu của mặt hàng nông sản trên thị trường này.
Xuất phát từ những phân tích về lý luận và thực tiễn ở trên, tôi chọn vấn đề:
“Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand
trong bối cảnh mới” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Với những phân tích về tính cấp thiết của đề tài ở trên, luận án cần trả lời được
câu hỏi nghiên cứu sau:
(1) Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong bối cảnh mới gồm có những
nội dung nào? Có những nhân tố nào ảnh hưởng đến chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng nông sản trong bối cảnh mới?
(2) Thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
sang Australia và New Zealand trong thời gian qua như thế nào?
(3) Trước bối cảnh mới của thế giới, chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần
thực hiện các biện pháp nào để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand?
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục tiêu chung
Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới.
* Mục tiêu cụ thể
Phân tích những cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn về thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá nông sản mà chủ thể thực hiện là chính phủ để tìm ra những vấn đề hạn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
4
chế hiện nay ở Việt Nam và nguyên nhân nhằm đề xuất một số giải pháp thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang thị trường Australia và New
Zealand trong bối cảnh mới.
Để đạt được mục đích nghiên cứu đó, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản có liên quan đến xuất
khẩu hàng nông sản và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam trong bối
cảnh mới.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam
sang thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand dưới sự tác động của bối cảnh mới.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Về bối cảnh nghiên cứu: Bối cảnh mới trong giới hạn nghiên cứu của luận án
được hiểu là các vấn đề kinh tế - xã hội – chính trị điển hình diễn ra trên thế giới
trong thời gian gần đây, tạo ra sự biến đối và hình thành nên các xu hướng mới trong
sản xuất, kinh doanh và mối quan hệ kinh tế quốc tế so với các giai đoạn trước đó
kéo dài đến hiện nay (hay còn gọi là bối cảnh quốc tế mới). Bối cảnh mới được mô
tả ở nhiều khía cạnh khác nhau như sự phát triển của toàn cầu hoá và hội nhập quốc
tế giữa các quốc gia, sự ra đời của các FTAs thế hệ mới đặc biệt là , cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, các vấn đề về văn hoá, chính trị, xã hội toàn cầu…
Về chủ thể: thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản được thực hiện bởi nhiều
chủ thể khác nhau như chính phủ, các tổ chức, các DN… Tuy nhiên, trong khuôn
khổ nghiên cứu của luận án, bởi giới hạn dung lượng, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu những hỗ trợ của Chính phủ.
Về nội dung: nghiên cứu thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand (Châu Đại dương) của chính phủ
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5
bao gồm: (1) Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong
khu vực mậu dịch tự do; (2) Xây dựng chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản; (3)
Tăng cường hợp tác mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản; (4) Tăng cường kiểm
soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu. Những hoạt động này đặt dưới
sự tác động của bối cảnh mới.
Về không gian: thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand trong bối cảnh mới.
Về thời gian: luận án nghiên cứu dữ liệu từ năm 2010 đến 2022. Đây là thời
điểm tính từ khi Hiệp định AANZFTA có hiệu lực tới thời điểm nghiên cứu. Hiệp
định AANZFTA với mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại hàng hoá giữa các bên
tham gia, đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam
sang Australia - New Zealand. Bên cạnh đó, giai đoạn 2010 – 2022 còn diễn ra
nhiều sự kiện quan trọng định hình các xu hướng phát triển mới của nền kinh tế thế
giới như sự ra đời và hoàn thiện của các FTAs; sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế số toàn cầu; sự thay đổi phức tạp trong mối quan hệ giữa các quốc gia như chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung, sự kiện Brexit, cuộc chiến Nga – Ukraina; diễn biến
của biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu… Bối cảnh này cũng tác động không nhỏ
tới xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang hai nước ở Nam bán cầu hiện
nay và thời gian tới. Định hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand được đề xuất đến năm 2030.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Khung phân tích và cách tiếp cận nghiên cứu
5.1.1. Khung phân tích
Khung phân tích của luận án được xây dựng với trung tâm là “thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand trong bối cảnh
mới”. Để nghiên cứu vấn đề này, luận án cần xây dựng một khung lý luận đầy đủ về
xuất khẩu hàng hoá nông sản cũng như thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong
bối cảnh mới, trong đó làm rõ các khái niệm có liên quan, nội dung thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá nông sản, xác định các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hoá nông sản
trong bối cảnh mới. Khung lý luận được xây dựng phải dựa trên việc tổng hợp, khái
quát hoá, lựa chọn các nội dung phù hợp. Kết quả xuất khẩu hàng hoá nông sản của
6
công và hạn chế của công tác thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản sang châu Đại
Dương mà chính phủ đã thực hiện.
Việt Nam sang Australia và New Zealand thời gian qua là minh chứng cho cả thành
thuc
Bối cảnh mới - Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế - CMCN 4.0 - Các vấn đề khác tranh, dịch (chiến bệnh, thế tự trật giới…)
Kết quả thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand - Doanh thu hàng nông sản xuất khẩu - Tỷ lệ khối lượng hàng nông sản xuất khẩu - Cơ cấu và chất lượng mặt hàng xuất khẩu nông sản - Thị phần hàng nông sản xuất khẩu
Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand - Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong khu vực mậu dịch tự do - Xây dựng chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản - Tăng cường hợp tác mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản - Tăng cường kiểm soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu
Những bất cập, vướng mắc
Quan điểm, định hướng, giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand
Sơ đồ 1: Khung phân tích của luận án
Điểm mới của nghiên cứu là khung lý luận được đặt trong bối cảnh quốc tế mới
(toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, CMCN 4.0 hay các vấn đề quốc tế khác) để
Australia và New Zealand để chỉ ra những thành công đã đạt được và hạn chế. Từ đó,
tiến hành phân tích thực tiễn thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
luận án có cơ sở để đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm khắc phục hạn chế, thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang hai nước trên dựa trên việc nắm
bắt cơ hội, đối mặt với thách thức trong bối cảnh mới thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu vừa trả lời được các câu hỏi nghiên cứu đặt ra, vừa đạt
được mục tiêu nghiên cứu đã xác định.
5.1.2. Cách tiếp cận
Để nghiên cứu vấn đề một cách thấu đáo, luận án sử dụng cách tiếp cận sau:
- Tiếp cận từ góc độ lý luận về kinh tế quốc tế: nghiên cứu của luận án đặt trong
bối cảnh quốc tế mới hay nói cách khác giải quyết vấn đề nghiên cứu trong mối quan
hệ quốc tế trong đó các chính sách quốc tế và các vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng mạnh
7
mẽ hình thành nên những đặc thù riêng đối với công tác thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand.
- Tiếp cận thực tiễn: Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu đề xuất
Australia và New Zealand trong bối cảnh quốc tế mới, đánh giá thực trạng thúc đẩy
giải pháp phải xuất phát từ thực tiễn mối quan hệ thương mại của Việt Nam và
xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang hai quốc gia trên ở khía cạnh vai trò của chính
phủ trong quản lý kinh tế vĩ mô bằng dữ liệu thực tế trong giai đoạn hiện nay.
- Tiếp cận hệ thống: phân tích, đánh giá vấn đề nghiên cứu bằng cách nhìn tổng thể,
Zealand, các bộ phận và sự tương tác của chúng trong một chỉnh thể theo logic phát triển. Để
mô tả cấu trúc hệ thống xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản phải thực hiện các biện pháp mang tính tổng
thể, biện chứng và đồng bộ.
- Tiếp cận nghiên cứu định tính: Các dữ liệu được thu thập sẽ xử lý theo
phương pháp tiếp cận định tính, mô tả, phân tích để làm rõ thực trạng cũng như đưa ra
các nhận định đánh giá về thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam sang Australia và New Zealand. Từ đó, luận án không chỉ cho thấy những hạn
chế trong của công tác này trong bối cảnh quốc tế mới mà xây dựng cơ sở khoa học đề
xuất các giải pháp phù hợp nhằm làm nổi bật mục tiêu nghiên cứu.
- Tiếp cận định lượng: Các dữ liệu sơ cấp thu được sẽ được xử lý theo phương
pháp tiếp cận định lượng để xác định mô hình hồi quy đánh giá mức độ tác động của
Australia và New Zealand. Đây cũng là cơ sở để đề xuất giải pháp phù hợp theo
mức độ ưu tiên nhằm đạt được hiệu quả mục tiêu
các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
5.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
5.2.1 Nguồn số liệu thực hiện luận án
Nguồn số liệu thực hiện đề tài được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau nhằm
đạt mục tiêu nghiên cứu.
Luận án sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp cụ thể:
- Cục Thống kê: các niên giám thống kê, các báo cáo có liên quan đến xuất khẩu
hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand trong giai đoạn 2010 - 2022.
sang Australia và New Zealand trong giai đoạn 2010 – 2022.
- Các văn bản, quyết định liên quan đến thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
8
- Các ấn phẩm được công bố như sách, bài báo chuyên ngành, các công trình
nghiên cứu khoa học, từ các nghiên cứu đã được xuất bản và chưa được xuất bản
trong nước, ngoài nước và từ internet.
Nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát (được mô tả chi tiết ở
phụ lục 2).
5.2.2. Cách thức xử lý dữ liệu
Đề tài có hai hướng xử lý thông tin: (1) Xử lý logic đối với thông tin định tính.
Đó là việc đưa ra những phán đoán về bản chất của sự kiện; và (2) Xử lý toán học đối
với các thông tin số liệu. Đó là việc sử dụng phương pháp thống kê toán để xác định
xu hướng, diễn biến của tập hợp số liệu thu thập được.
* Xử lý thông tin định tính
vấn đề mà luận án lựa chọn, là sự bổ sung hợp lý cho các phân tích định lượng.
Xử lý thông tin định tính thông qua phân tích các tài liệu nghiên cứu sâu về
Việc xử lý thông tin được thực hiện từ việc thu thập thông tin qua các phương
pháp quan sát, phân tích, tổng hợp nghiên cứu tài liệu..; đưa ra các giả thiết và chứng
minh cho giả thiết đó từ những sự kiện đơn lẻ được thu thập. Sau đó là xử lý logic đối
với các thông tin định tính, đó là việc đưa ra những phán đoán về bản chất các sự kiện
đồng thời thể hiện những logic của các sự kiện, các phân hệ trong hệ thống các sự kiện
được xem xét.
Thông qua việc xử lý các số liệu thu thập được từ nguồn thứ cấp, bằng các
phương pháp tổng hợp, so sánh theo thời gian để rút ra kết luận về mối quan hệ
giữa xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam và hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá nông sản sang Australia và New Zealand trong bối cảnh mới. Ngoài ra, để làm
sâu sắc hơn cho nghiên cứu và bổ sung thêm các minh hoạ, tác giả có điều tra, khảo
sát các DN xuất khẩu để đánh giá thêm về hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản sang Australia và New Zealand. Các số liệu có thể được trình bày ở nhiều dạng
* Xử lý thông tin định lượng
khác nhau, như: Bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị…
Ngoài ra, luận án còn phân tích dữ liệu sơ cấp bằng các phương pháp kinh tế
lượng như: phân tích độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá, xây dựng mô
9
hình hồi quy tuyến tính để đánh giá mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand.
5.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng
5.3.1 Phương pháp phân tích và tổng hợp
Luận án sử dụng phương pháp phân tích trong cả 3 chương. Phân tích trước hết là
phân chia các vấn đề của luận án thành những phần nhỏ có mối quan hệ tương quan từ
pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New
Zealand trong bố cảnh Hiệp định AANZFTA. Phân tích từng nội dung của việc thúc
lý luận đến thực tiễn, từ xuất khẩu hàng hoá nông sản tới việc Chính phủ có các biện
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản và đánh giá hiệu quả ở các mặt khác nhau. Từ đó, phát
hiện ra thuộc tính và bản chất của từng khía cạnh, và giúp chúng ta hiểu được đối tượng
nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ
phận ấy. Điều đó giúp cho việc hiểu các vấn đề một cách thấu đáo, cặn kẽ. Nhiệm vụ
của phân tích sử dụng trong luận án là thông qua cái riêng để tìm cái chung, thông qua
hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến.
Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để có được cái nhìn tổng
thể về sự vật và hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái quát. Từ
những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn
cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động quyết định mức độ thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản bằng các chính sách trong bối cảnh hiện nay.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung
cho nhau trong nghiên cứu nói chung và nghiên cứu của đề tài này nói riêng, và có cơ sở
khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc
xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối
tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng. Trong tổng hợp vai trò quan
trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể từ sự phân tích, khả năng trìu tượng,
khái quát nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau.
Trong quá trình sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, đề tài có sử dụng
các số liệu thống kê đã qua xử lý, các công thức toán học và kinh tế lượng, các biểu đồ
để giúp thấy rõ hơn đặc trưng, xu hướng, quy mô, tỷ trọng... của hiện tượng, nội dung,
vấn đề nghiên cứu.
10
5.3.2 Phương pháp logic và lịch sử
Quan hệ logic là quan hệ tất yếu, nó nhất định xảy ra khi có những tiền đề cho
quan hệ đó. Lịch sử, đó là những hiện thực của logic ở một đối tượng cụ thể, trong một
không gian và thời gian xác định. Là phương pháp xem xét và trình bày quá trình
nghiên cứu các mô hình về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản ở các không gian và
thời gian khác nhau, đánh giá tác động của các chính sách tới sự phát triển giá trị xuất
khẩu theo một trình tự liên tục và nhiều mặt. Sử dụng phương pháp này đòi hỏi phải
đảm bảo tính liên tục về thời gian, làm rõ điều kiện, đặc điểm phát sinh, phát triển từ
thấp đến cao, làm rõ các mối quan hệ đa dạng trong tự do hoá thương mại với các vấn
sản sang Australia và New Zealand trong bố cảnh Hiệp định AANZFTA trong mối
đề khác liên quan đến nó. Đồng thời đặt quá trình thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông
quan hệ tương tác qua lại giữa các chính sách quản lý.
5.3.3 Phương pháp quy nạp và diễn giải
Phương pháp quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc,
độc lập ngẫu nhiên rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất của một
đối tượng nào đó.
Từ những mô hình nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản mà
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản và xây dựng các tiêu chí đánh giá về xuất khẩu
các nhà nghiên cứu công bố, luận án tổng kết quy nạp thành những nội dung thể hiện
hàng hoá nông sản. Phương pháp quy nạp đi sâu vào mối quan hệ giữa bản chất và
hiện tượng. Một hiện tượng bộc lộ nhiều bản chất. Nhiệm vụ của khoa học là thông
qua hiện tượng để tìm ra bản chất, cuối cùng đưa ra giải pháp. Phương pháp quy nạp
đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện ra các quy luật, rút ra từ những kết
luận tổng quát đưa ra các giả thuyết. Phương pháp quy nạp được luận án sử dụng ở
từng chương để giải quyết câu hỏi nghiên cứu.
Ngoài ra, luận án còn xuất phát từ những giả thuyết và số liệu khảo sát thực tế
để đi sâu nghiên cứu những vấn đề cụ thể nhờ vậy mà có nhận thức sâu sắc hơn về đối
tượng nghiên cứu bằng phương pháp diễn giải. Phương pháp diễn giải cũng được luận
sang Australia và New Zealand trong bố cảnh Hiệp định AANZFTA trên nền tảng cơ
án sử dụng trong việc phân tích thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
sở lý luận được hệ thống hóa và đưa ra các giải pháp phù hợp. Phương pháp diễn giải
nhờ vậy có ý nghĩa rất quan trọng đối với nghiên cứu của luận án. Với những tiền đề,
11
giả thuyết đặt ra, luận án cố gắng tìm hiểu, phân tích bằng những suy diễn lôgic để rút
ra những kết luận.
Quy nạp và diễn giải là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều ngược nhau
song liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng. Nhờ có những kết quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp trước đó mà việc
nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển theo phương pháp diễn giải. Phương pháp diễn
giải, do vậy mở rộng giá trị của những kết luận quy nạp vào việc nghiên cứu đối tượng
5.3.4. Phương pháp thống kê mô tả
Luận án sử dụng phương pháp này cho phép thông qua tất cả các số liệu thống
Zealand trong bố cảnh Hiệp định AANZFTA, những số liệu biểu thị tác động của các
kê mô tả về thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New
chính sách quản lý vĩ mô đối với thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản, vạch ra tính
quy luật về quản lý kinh tế vĩ mô và hiệu quả của các chính sách quản lý. Luận án sử
dụng phương pháp này chủ yếu tại chương 3 để thống kê về thực trạng và so sánh,
Zealand trong bố cảnh Hiệp định AANZFTA, từ đó tìm ra hướng cho những giải
phân tích các chỉ tiêu đánh giá xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New
pháp thúc đẩy xuất khẩu phù hợp với bối cảnh tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Về lý luận:
nước trong thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trên thị trường nước ngoài. Cụ thể:
Luận án góp phần khái quát và bổ sung nghiên cứu về xuất khẩu và vai trò nhà
- Xây dựng khung lý luận về hệ thống các nội dung thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá nông sản của một quốc gia ra thị trường thế giới của Chính phủ.
- Xây dựng các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng
nông sản
* Về thực tiễn:
- Luận án minh chứng cho khung lý luận bằng nghiên cứu, tìm hiểu và tổng hợp
thị trường nước ngoài.
các kinh nghiệm thực tiễn đáng tin liên quan đến thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ra
động thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Australia và New Zealand
- Cung cấp những nhận định, đánh giá về thành công và hạn chế của các hoạt
12
của Chính phủ Việt Nam dưới sự tác động của bối cảnh mới thời gian qua với
- Kết quả nghiên cứu, các kiến nghị, giải pháp đề xuất sẽ là nguồn tư liệu hữu
những căn cứ khoa học
ích đối với các nhà hoạch định chính sách quản lý vĩ mô nói chung, giúp ích cho quá
thị trường Australia và New Zealand nói riêng hiện nay và trong thời gian tới và là tài
trình hoạch định và thực thi chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang
liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy về TMQT.
7. Kết cấu luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm những phần sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối
cảnh mậu dịch tự do
Chương 3: Thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị
trường Australia Và New Zealand bối cảnh mới
Chương 4: Quan điểm, giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt
Nam sang Australia Và New Zealand trong bối cảnh mới
13
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong những năm trở lại đây, đã có nhiều bài viết, tài liệu cũng như các nghiên
cứu của Việt Nam và thế giới về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu
hàng nông sản nói riêng. Cụ thể như sau:
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Nhóm những công trình nghiên cứu về lý luận thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá nông sản
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của thúc đẩy xuất khẩu nông sản
Rất nhiều các nghiên cứu chỉ ra thúc đẩy xuất khẩu nông sản có vai trò lớn tới phát
triển kinh tế của quốc gia, đặc biệt với những nước có lợi thế về sản xuất nông nghiệp.
Jeffrey J. Reimer, Gary W. Williams, Rebekka M. Dudensing, and Harry M.
Kaiser (2017) cho rằng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản có những tác động tích
cực đối với nền kinh tế. Các tác giả đã phân tích về chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá nông sản và phúc lợi sản xuất của Hoa Kỳ, chỉ ra những tác động tích cực
đến nền kinh tế khi được đo lường các thay đổi trong GDP và việc làm. Từ đó, các tác
giả cho khẳng định sự cần thiết phải xây dựng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản bởi Hoa Kỳ là một quốc gia có lợi thế về sản xuất nông sản [92].
Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (2018) cho rằng chế biến nông sản và
xuất khẩu hàng hoá nông sản là một lĩnh vực quan trọng. Sản lượng xuất khẩu hàng
hoá nông sản của Ấn Độ trên toàn cầu đang tăng đều đặn. Nông nghiệp Ấn Độ hiện
nay vẫn là xương sống của xã hội, cung cấp sinh kế cho gần 50% dân số. Vì vậy, thúc
đẩy xuất khẩu nông sản không chỉ mang lại cơ hội tăng thu nhập lớn cho nền kinh tế
mà còn giải quyết nhiều công ăn việc làm trong nước [84].
Sanjuan Lopez và Dawson (2010) đã chứng minh XKNS góp phần vào tăng
trưởng kinh tế của các nước kém phát triển thông qua việc xây dựng mô hình định
lượng về mối quan hệ giữa hệ số co dãn XKHHNS với GDP [138].
Nguyễn Thị Đường (2012) lại cho rằng thúc đẩy XKHHNS tạo ra nguồn thu
ngoại tệ cho quốc gia. Đồng thời, hoạt động này cũng có vai trò phát triển sản xuất
trong nước, nhất là ở các quốc gia dựa vào nông nghiệp [15].
14
Ngoài vai trò đóng góp giá trị gia tăng cho nền kinh tế làm tiền đề phát triển,
Ngô Thị Mỹ (2016) còn bổ sung thêm vai trò của thúc đẩy XKHHNS là tạo điều kiện
cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn lực, phát huy lợi
thế so sánh, tạo việc làm, nâng cao mức sống người dân, tạo ra sự ổn định cho nền
kinh tế cũng như góp phần tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế với phần còn lại của thế
giới, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và phân công lao động quốc tế [42].
Urriola (2018) cũng khẳng định thúc đẩy XKHHNS giúp nền kinh tế tăng
trưởng, đồng thời tạo ra sự đa dạng hoá trong sản xuất nông nghiệp bằng những minh
chứng định lượng có độ tin cậy cao [155].
Tuy nhiên, Faridi (2012) lại cho rằng không phải quốc gia nào thúc đẩy XKHHNS
cũng đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Vai trò của thúc đẩy XKHHNS còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nó chỉ thực sự tích cực khi quốc gia có lợi thế về sản
xuất nông nghiệp, đáp ứng điều kiện xuất khẩu mà thị trường thế giới đặt ra [89].
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về nội dung thúc đẩy xuất khẩu nông sản
Trong mỗi nghiên cứu được công bố, nội dung về thúc đẩy XKHHNS được đề
cập có thể khác nhau, tuy nhiên, những nội dung thường được thấy bao gồm:
Thứ nhất, Chính phủ cần xây dựng một chiến lược tổng thể để làm cơ sở cho
XKHHNS. Theo nghiên cứu của Guillermo Donoso (2016) cụ thể tại Chile, việc xây
dựng chiến lược tiếp cận thị trường thế giới đã giúp đất nước này dễ dàng đưa HHNS
của mình sang nhiều quốc gia. Chile với những lợi thế của mình trong sản xuất hàng
nông sản đã được Chính phủ xác định rõ chiến lược tiếp cận thị trường thế giới bằng
việc xây dựng 14 văn phòng tại Chile và 59 văn phòng xúc tiến thương mại tại 38
nước để phát triển thị trường nông sản xuất khẩu tới việc thiết lập các ưu tiên thông
qua sự kết hợp phân tích thị trường và hợp tác với các hiệp hội ngành [100]. Nghiên
cứu của Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (2018) thì cho rằng Ấn Độ cần có
chiến lược định hướng nông dân để đạt được mục tiêu song song là an ninh lương thực
và là nhà xuất khẩu nông nghiệp nổi tiếng của thế giới [84]. Dominique Bruhn (2014)
khẳng định vai trò của chiến lược XKHHNS trong dài hạn là tạo điều kiện khai thác
tối đa và hiệu quả những nguồn lực, lợi thế so sánh của đất nước về hàng nông sản để
xuất khẩu, đồng thời tận dụng tối đa cơ hội là thành viên trong các FTA để tăng kim
ngạch xuất khẩu [86].
15
Chiến lược XKHHNS còn được thể hiện cụ thể bởi các chiến lược cụ thể trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản. Năng lực cạnh tranh của hàng
hoá nông sản trước hết dựa vào việc khai thác lợi thế so sánh của các mặt hàng [29].
Các tác giả như Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh và Nguyễn Võ Định (1999)
đã phân tích sâu hơn và cho rằng những yếu tố tạo ra lợi thế cạnh tranh của nông sản
Việt Nam phải là: chất lượng sản phẩm, khối lượng sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã, uy
tín của sản phẩm, môi trường kinh tế vĩ mô và giá thành sản phẩm [29]. Tương tự, Ngô
Thị Tuyết Mai (2007) cũng cho rằng chiến lược nâng cao sức cạnh tranh hàng nông
sản xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập là điều kiện để thúc đẩy XKHHNS
Việt Nam ra thế giới. Cụ thể, để thúc đẩy XKHHNS cần có chiến lược nâng cao chất
lượng hàng xuất khẩu, phát triển thị trường xuất khẩu, phát triển thương hiệu, về tổ
chức mạng lưới tiêu thụ [32]. Báo cáo khoa học của Nguyễn Đình Long (2001) thì
phân tích những đặc điểm và đưa ra những chỉ tiêu về lợi thế cạnh tranh trên thị trường
quốc tế của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam như gạo, cà
phê, cao su, chè và điều, bao gồm các chỉ tiêu về định tính như chất lượng và độ an
toàn trong sử dụng, quy mô và khối lượng, kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm, phù hợp
thị hiếu và tập quán tiêu dùng, giá thành.v.v... và các chỉ tiêu định lượng như: mức lợi
thế so sánh (RCA), chi phí nguồn lực nội địa (DRC) [30]. Bài viết của Nguyễn Thị Tú
(2004) đã đề cập đến việc xây dựng chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng
nông sản về chất lượng sản phẩm, giá sản phẩm, xúc tiến thương mại để đẩy mạnh
xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ [65]. Hay Đặng Vũ Thanh Bình
(2005) thì cho rằng việc chú đa dạng hóa sản phẩm, bảo đảm chất lượng sản phẩm đáp
ứng các tiêu chuẩn của Nhật Bản về vệ sinh, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi
trường… là nội dung cơ bản không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh của HHNS nói
chung mà còn thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang Nhật Bản hiệu quả [2].
Thứ hai, chính phủ cần chú trọng xây dựng khung pháp lý, các quy định và tổ
chức hoạt động để có thể thúc đẩy XKHHNS. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu tập
trung vào các ưu tiên thị trường được phân bổ cho các ngành hoặc sản phẩm có tiềm
năng tăng trưởng xuất khẩu cao nhất, đặc biệt là các ngành có các hiệp định thương
mại tự do có hiệu lực [100]. Ở quốc gia khác là Ấn Độ, việc ban hành các chính sách
16
cụ thể cũng là hành động quan trọng của chính phủ để thúc đẩy XKHHNS. Bộ Thương
mại và Công nghiệp Ấn Độ (2018) đã khẳng định thúc đẩy XKHHNS thông qua các
chính sách được thiết kế để khai thác tốt nhất lợi thế của đất nước nhưng cũng khắc
phục những hạn chế trong sản xuất nông sản. Chính sách này hướng tới việc nâng cao
năng suất, cải thiện thu nhập thông qua việc bổ sung giá trị tại chính nguồn sẽ giúp
giảm thiểu tổn thất trong chuỗi giá trị [84]. Nghiên cứu ở Việt Nam của Nguyễn Minh
Sơn (2010) cũng cho thấy chính sách tiếp cận thị trường, mở rộng thị trường, quảng bá
nông sản Việt Nam trong và ngoài nước thông qua các kênh thông tin [50] chính là nội
dung cần thiết để thúc đẩy XKHHNN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng
thời, đây cũng là nội dung quan trọng thể hiện vai trò của Nhà nước trong thúc đẩy
XKHHNS. Chính vì vậy, Trịnh Thị Ái Hoa (2007) đã đi sâu phân tích, đề cập khá toàn
diện các cơ chế, chính sách đã được Nhà nước ban hành trong thời gian qua đối với
xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam [18].
Thứ ba, để thúc đẩy XKHHNS là sự cần thiết phải mở rộng mối quan hệ hợp tác
toàn diện giữa các quốc gia làm tiền đề cho hoạt động trao đổi thương mại [15]. Từ đó,
việc phát triển thị trường ở từng quốc gia nhập khẩu nông sản mới có nền tảng để thực
hiện. Ngoài ra tăng cường liên kết để nâng cao sức cạnh tranh trên cơ sở tổ chức tốt các
chuỗi giá trị ngành hàng và bảo đảm quyền lợi của các tác nhân tham gia chuỗi giá trị.
Chính phủ cũng cần tăng cường ký kết các hợp tác kinh tế song phương với các nước
khác về xuất nhập khẩu hàng nông sản với những điều kiện cụ thể nhằm tạo điều kiện cho
các DN xuất khẩu hàng nông sản có hướng tiếp cận và mở rộng thị trường [23].
Thứ tư, kiểm soát đảm bảo chất lượng hàng NSXK là nội dung khá quan trọng
để có thể thúc đẩy XKHHNS ra thị trường quốc tế [26]. Trong các khu vực mậu dịch
tự do, rào cản lớn nhất là các tiêu chuẩn về chất lượng bởi hàng rào thuế quan cũng
như các công cụ hạn chế thương mại khác đều bị dỡ bỏ bởi các cam kết song phương,
đa phương [26]. Chính vì vậy, kiểm soát và đảm bảo chất lượng sẽ giúp hàng nông sản
có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật ngày một nhiều hơn. Nghiên cứu của Sayeeda
Bano, Yoshiaki Takahashi, Frank Scrimgeour (2013) cho thấy thực hiện cải cách trong
phương thức sản xuất hàng nông sản xuất khẩu theo hướng hiện đại, hướng đến tuân
17
thủ đầy đủ quy trình sản xuất “sạch” là điều quan trọng để giúp HHNS có thể đáp ứng
yêu cầu của thị trường quốc tế [139].
Thứ năm, các nghiên cứu cũng khẳng định việc xây dựng hệ thống thông tin và
xúc tiến bán hàng giúp thúc đẩy XKHHNS. Eric Osei-Assibey (2015) đã chỉ rõ xúc
tiến xuất khẩu giúp Ghana có thể đưa hàng nông sản của mình ra nhiều quốc gia.
Trong đó, chính phủ thực hiện một loạt các hoạt động hỗ trợ kinh doanh, tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hỗ trợ xúc tiến
thương mại có vai trò rất quan trọng đối với các DN trong việc tìm kiếm thị trường,
tìm kiếm đối tác [87]. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Tú (2004), chính phủ có thể
thúc đẩy XKHHNS thông qua các hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu như: Hỗ trợ khảo sát thị
trường; Tổ chức hội chợ TMQT tại các thị trường nhập khẩu; Hỗ trợ DN xây dựng cơ
sở dữ liệu thông tin điện tử về các thị trường [65]. Bên cạnh đó, Nguyễn Thị Đường
(2012) còn nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong xúc tiến thương mại nhưng chưa
chú ý đến vai trò của DN xuất khẩu [15].
1.1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất
khẩu nông sản
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy XKHHNS được chỉ ra trong các
nghiên cứu khác nhau.
Sevela (2002) sử dụng mô hình trọng lực để phân tích tác động của các nhân tố
đến XKHHNS của Cộng hòa Séc. Nghiên cứu đã chỉ ra được 3 nhân tố (GNI, GNI
bình quân đầu người và khoảng cách địa lý) có tác động đến sự thay đổi của quy mô
sản phẩm nông nghiệp. Tác giả cho rằng khoảng cách địa lý quy định chi phí vận
chuyển hàng NSXK. Với các quốc gia có khoảng cách địa lý nhỏ, việc vận chuyển dễ
dàng, đồng thời chi phí vận chuyển thấp và rủi ro bảo đảm chất lượng hàng hoá thấp
giúp đất nước thuận lợi trong thúc đẩy XKHHNS. Ngược lại, ở những thị trường có
khoảng cách địa lý xa, việc vận chuyển trở thành một rào cản thì thúc đẩy XKNS cũng
trở nên khó khăn [140].
Fugazza (2004) đã xây dựng một mô hình Gravity đánh giá về các yếu tố ảnh
hưởng tới hoạt động xuất khẩu chia thành nhóm yếu tố bên trong và bên ngoài. Các
yếu tố bên ngoài gồm khả năng tiếp cận thị trường và nhu cầu nhập khẩu. Trong đó,
việc tiếp cận thị trường quy định bởi chi phí vận chuyển (từ khoảng cách địa lý và cơ
18
sở hạ tầng), các rào cản thương mại và khả năng cạnh tranh. Các yếu tố bên trong gồm
tiếp cận nguồn nguyên liệu, tiếp cận công nghệ. Bên cạnh đó, những thay đổi trong bối
cảnh nền kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu một quốc gia như
mức độ hội nhập quốc tế, sự tồn tại của các Hiệp định thương mại [91].
Hatab và các cộng sự (2010) đã sử dụng mô hình Gravity để phân tích những
nhân tố chính ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản của Ai Cập (EAEs) sang 50 nước đối
tác thương mại trong giai đoạn 1994 – 2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí vận
chuyển có tác động tiêu cực tới XKNS. Giá trị xuất khẩu có thể tăng lên khi các quốc
gia hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, giảm chi phí vận chuyển. Bên cạnh đó, các
Hiệp định thương mại được ký kết cũng ảnh hưởng lớn tới thúc đẩy XKNS [102].
Thai Do Tri (2006) đã sử dụng mô hình Gravity với bộ số liệu hỗn hợp từ năm
1993 đến năm 2004 để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại hai chiều giữa
Việt Nam với 23 quốc gia châu Âu. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu nhập khẩu
hàng hoá quyết định bởi quy mô nền kinh tế nước nhập khẩu đã ảnh hưởng lớn tới xuất
khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, cạnh tranh về giá cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến thương mại song phương giữa Việt Nam và EC23 [148].
Nghiên cứu của Rahman (2009) thì phân tích thương mại 2 chiều của Australia
với 49 đối tác thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô kinh tế (GDP, GDP
bình quân đầu người), độ mở của nền kinh tế đã tác động đến xuất khẩu của Australia.
Ngoài ra, khoảng cách địa lý cũng ảnh hưởng tới việc xuất khẩu bởi nó liên quan đến
chi phí vận chuyển hàng hoá sang các nước khác [134].
Filippini và Molini (2003) lại cho rằng tiếp cận công nghệ tạo động lực cho
những khoảng cách làm nền tảng cho hàng hoá di chuyển giữa các quốc gia [90].
Nghiên cứu của Gani và Prasad (2006) đã phân tích các yếu tố quyết định xuất
khẩu, nhập khẩu và tổng thương mại. Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng các
biến giải thích truyền thống và một tập hợp các chỉ số về chất lượng thể chế (gồm:
hiệu quả của chính quyền, pháp quyền, chất lượng điều hành, và kiểm soát tham
nhũng) cho 6 quốc đảo Thái Bình Dương bao gồm Fiji, Kiribati, Samoa, Quần đảo
Solomon, Tonga và Vanuatu. Thể chế được xem xét ở cả nước xuất khẩu và nhập
khẩu. Ngoài ra, tác giả cũng khẳng định mức phổ cập công nghệ càng cao là yếu tố
quan trọng giúp thúc đẩy XKHHNS. Các nguyên tắc tự do hoá thương mại trong bối
19
cảnh quốc tế mới cũng như các chính sách thúc đẩy xuất khẩu của các nước tạo điều
kiện thuận lợi gia tăng thương mại [98].
Mendonca và cộng sự (2014) đã đánh giá tác động của sự khác biệt về thể chế
giữa các nước đối với thương mại các sản phẩm nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho
thấy thể chế, chính sách xuất khẩu có tác động đáng kể tới XKHHNS. Sự khác biệt về
thể chế giữa các nước càng lớn thì càng có tác động hạn chế thương mại giữa họ [112].
Martinez-Zarzoso và các cộng sự (2004) sử dụng mô hình Gravity nhưng bổ
sung thêm biến công nghệ và cơ sở hạ tầng để phân tích tác động của chúng tới xuất
khẩu. Những biến “truyền thống” của mô hình như khoảng cách địa lý, các vấn đề
chung của toàn cầu hoá (hội nhập, hiệp định ưu đãi giữa các quốc gia, sử dụng chung
ngôn ngữ..) vẫn được đánh giá là có tác động tới xuất khẩu [111].
Zhang và Han (2008) lại cho rằng các vấn đề trong kinh tế quốc tế như hàng rào
phi thuế quan, các rào cản thương mại mang tính kỹ thuật, môi trường tác động tới
xuất khẩu. Các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt, có thể đáp ứng các tiêu chuẩn
mới này, cải thiện chất lượng sản phẩm sẽ có thể mở rộng được thương mại quốc tế.
Những rủi ro gây ra bởi các vấn đề kinh tế toàn cầu cũng sẽ gây khó khăn cho xuất
khẩu hàng hoá [171].
Liu và Chouinard (2013) cho rằng chất lượng sản phẩm tác động tích cực tới
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, mức độ tác động sẽ khác nhau giữa các quốc
gia bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau [109]. Tương
tự, Imbriani và các cộng sự (2013) cũng cho rằng chất lượng sản phẩm, đổi mới sản
phẩm sẽ cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu. Từ đó làm tăng giá
trị hàng bán trên thị trường quốc tế [104].
Hallak (2006) nghiên cứu khía cạnh cầu (nhập khẩu) ảnh hưởng tới khả năng
xuất khẩu hàng hoá trong thương mại song phương. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
khẳng định phù hợp của những dự đoán về mặt lý thuyết, cụ thể là các nước giàu có xu
hướng nhập khẩu tương đối nhiều từ các quốc gia sản xuất các mặt hàng chất lượng
cao [101].
Okabe (2015) chỉ nghiên cứu tác động của các Hiệp định thương mại tới khả
năng xuất khẩu hàng hoá của các quốc gia. Nghiên cứu khẳng định các FTA thế hệ
mới đã tạo ra cơ hội lớn cho việc thúc đẩy xuất khẩu. Đây là một trong những bối cảnh
quốc tế mới [126]. Tương tự, nghiên cứu của Hayakawa và các cộng sự (2015) cũng
20
cho thấy việc tạo lập các ưu đãi RTA giữa các quốc gia giúp thuận lợi hoá thúc đẩy
xuất khẩu [103].
Poddar (2004) lại khẳng định năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất
khẩu quyết định tới khả năng thương mại quốc tế của một quốc gia. Ngoài ra, tự do
hoá thương mại dẫn đến cạnh tranh được đẩy cao hơn khiến các doanh nghiệp phải
không ngừng nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh để có thể vững vàng [133].
Wei và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu với hoạt động thúc đẩy xuất
khẩu chè của Trung Quốc trong giai đoạn 1996-2009. Điểm mới của nghiên cứu này là
việc đưa nhân tố tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) (biến giả) vào mô hình
đánh giá [159].
Yang và Martínez-Zarzoso (2014) sử dụng mô hình trọng lực để nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy XKHHNS trong khu vực thương mại tự do ASEAN-
Trung Quốc (ACFTA) giai đoạn 1995-2010. Bên cạnh những biến khá quen thuộc như
GDP, dân số, ngôn ngữ,…thì trong nghiên cứu đã xuất hiện thêm 2 biến là đường biên
giới chung và hiệp định thương mại tự do AFTA. Nhóm tác giả đã khẳng định việc
tham gia vào hiệp định thương mại tự do có ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của một quốc gia [168].
Nguyễn Thị Phong Lan (2017) cho rằng những nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy
XKHHNS bao gồm: (1) nhóm nhân tố chủ qua như: năng lực quản lý của bộ máy
QLNN đối với XKHHNS; mức độ hoàn thiện của hệ thống các chính sách, pháp luật
của Nhà nước về XKHHNS và sự thực hiện các chính sách này; các cam kết của Việt
Nam về XKHHNS trong hội nhập quốc tế. (2) Nhóm nhân tố khách quan bao gồm: sự
thay đổi của thị trường hàng nông sản thế giới; chính sách của các nước nhập khẩu
hàng nông sản của Việt Nam và của các nước xuất khẩu nông sản khá [28].
Nguyễn Đình Cung và cộng sự (2017) đánh giá tác động của cải cách thể chế và
chính sách tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá dưới sự tác động của các cam kết WTO,
FTA mà Việt Nam đã tham gia. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định được đó là những
yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới xuất khẩu [11].
Từ kết quả nghiên cứu của những công trình đã công bố, có thể tổng kết lại các
yếu tố ảnh hưởng thường được nhắc tới có tác động lớn tới thúc đẩy XKHHNS như:
21
Bảng 1.1. Tổng kết các yếu tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
STT
1 Yếu tổ ảnh hưởng Thể chế, chính sách của nước nhập khẩu Nguồn nghiên cứu Gani và Prasad (2006), Mendonca và cộng sự (2014), Nguyễn Thị Phong Lan (2017)
2 Nhu cầu nhập khẩu, GDP, GDP bình quân đầu người Sevela (2002), Thai Do Tri (2006), Rahman (2009), Hallak (2006)
3 Chi phí vận chuyển, khoảng cách địa lý
4 Các vấn đề toàn cầu hoá
5 Chính sách xuất khẩu
6 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
7 Đặc thù hàng hoá
8 Tiếp cận khoa học công nghệ Sevela (2002), Fugazza (2004), Hatab và các cộng sự (2010), Rahman (2009), Martinez- Zarzoso và các cộng sự (2004) Fugazza (2004), Hatab và các cộng sự (2010), Gani và Prasad (2006), Martinez-Zarzoso và các cộng sự (2004), Zhang và Han (2008), Okabe (2015), Hayakawa và các cộng sự (2015), Yang và Martínez-Zarzoso (2014) Fugazza (2004), Mendonca và cộng sự (2014), Nguyễn Đình Cung và cộng sự (2017) Fugazza (2004), Thai Do Tri (2006), Zhang và Han (2008), Liu và Chouinard (2013), Poddar (2004) Zhang và Han (2008), Liu và Chouinard (2013), Wei và cộng sự (2012) Filippini và Molini (2003), Fugazza (2004), Hatab và các cộng sự (2010), Gani (2006),
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
1.1.2. Nhóm những nghiên cứu về thực tiễn thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản sang Australia và New Zealand
Australia và New Zealand mặc dù là những nước có nền sản xuất nông nghiệp
lớn trên thể giới nhưng do đặc thù vị trí địa lý và khí hậu nên họ cũng là những nước
nhập khẩu hàng nông sản lớn để làm phong phú cho thị trường trong nước. Nghiên cứu
về thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản sang hai nước này cũng được một số nhà
kinh tế quan tâm.
1.1.2.1. Nhóm các nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang
Australia và New Zealand
Rey Santella (2018) đã thực hiện một quyển hướng dẫn dành cho các nhà xuất
khẩu muốn vào thị trường New Zealand. Nghiên cứu này mặc dù tập trung phân tích
22
cho các nhà xuất khẩu hàng hoá nông sản Hoa Kỳ nhưng vẫn là tài liệu tham khảo có
giá trị cho các nước khác muốn xuất khẩu vào đất nước này. Tác giả cho rằng, mặc dù
năm 2017, New Zealand đã nhập khẩu hơn 4,5 tỷ đô la thực phẩm và nông sản nhưng
xu hướng vẫn tăng lên trong nhiều năm tới và là cơ hội lớn cho các nhà xuất khẩu Hoa
Kỳ. Tác giả phân tích chi tiết các đặc điểm cấu trúc, yêu cầu và xu hướng của thị
trường để đưa ra các gợi ý quan trọng cho các nhà xuất khẩu hàng hoá nông sản có thể
thành công trên thị trường New Zealand [135].
Sayeeda Bano, Yoshiaki Takahashi, Frank Scrimgeour (2013) phân tích sự phát
triển thương mại giữa ASEAN và New Zealand. Kết quả nghiên cứu cho thấy tiềm
năng thương mại được khẳng định ở mọi lĩnh vực trong đó có hàng nông sản. Đặc biệt,
theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản hai chiều của ASEAN
và New Zealand khá cân bằng và có chiều hướng tăng lên cho thấy xu hướng mối quan
hệ thương mại sẽ bền vững trong tương lai [139].
Zhang-Yue Zhou, Yan-Rui Wu and Wei Si (2007) phân tích rằng mua bán nông
sản giữa Australia và Trung Quốc đã tăng đáng kể trong những năm gần đây và động
lực có thể sẽ tiếp tục. Bài viết đã xem xét các mô hình thương mại nông nghiệp giữa
Australia và Trung Quốc và giải quyết câu hỏi liệu thương mại nông nghiệp giữa
chúng là cạnh tranh hay bổ sung. Nghiên cứu cho thấy thương mại nông nghiệp giữa
hai nước được thiết lập để tăng hơn nữa và có sự bổ sung cao giữa hai nước. Thương
mại nông nghiệp gia tăng khó có thể tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến toàn bộ ngành
nông nghiệp của họ, mặc dù các nhà sản xuất trong một số ngành có thể bị ảnh hưởng
xấu ở một mức độ nào đó. Nhìn chung, cả hai nước sẽ được hưởng lợi từ việc mở rộng
thương mại nông nghiệp giữa họ [170].
Các nghiên cứu đều khẳng định thị trường Australia và New Zealand là cơ hội
tốt cho các nước muốn xuất khẩu hàng hoá nông sản, đặc biệt trong điều kiện các Hiệp
định thương mại đang được ký kết và có hiệu lực.
1.1.2.2. Nhóm các nghiên cứu thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand trong bối cảnh mới
Riêng đối với Việt Nam, kể từ khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN -
Australia và New Zealand được ký kết cũng như các thoả thuận CPTPP hình thành thì
cơ hội cho các nhà xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam lại được mở rộng.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy rõ điều này. Trước đó, rất hiếm có những nghiên
23
cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, các nghiên cứu thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt
Nam sang thị trường hai nước châu Đại dương thường đặt trong bối cảnh thực hiện các
Hiệp định thương mại tự do.
Báo cáo của Bộ Công Thương (2015) đã phân tích cơ hội thúc đẩy xuất khẩu
sang thị trường các nước CPTPP. Bối cảnh mới được đặt ra là khi Australia và New
Zealand là hai đối tác quan trọng trong CPTPP của Việt Nam. Bằng việc phân tích cụ
thể hai thị trường này, báo cáo đã chỉ ra các mặt hàng nông sản mà Việt Nam có thể
tiếp cận và phát triển thị trường như tiêu, điều, một số mặt hàng thuỷ sản. Báo cáo cho
thấy các cơ hội mà Việt Nam có thể nắm bắt để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
sang hai thị trường rộng lớn khi CPTPP có hiệu lực [5].
Nhóm nghiên cứu Trung tâm WTO và Hội nhập, được tài trợ bởi Quỹ hỗ trợ
Cựu sinh viên Australia (2019) đã nghiên cứu về cơ hội thị trường Australia cho Việt
Nam từ CPTPP và các FTA liên quan. Bối cảnh mới được đặt ra khi xuất hiện các thoả
thuận từ CPTPP cũng như sự xuất hiện của các FTA thế hệ mới. Bài nghiên cứu phân
tích sâu giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Australia với những đánh giá về tăng
trưởng kim ngạch cũng như từng mặt hàng. Trong đó, hàng nông sản chiếm tỷ lệ khá
cao. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chỉ ra tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá nông sản rất
chậm chạp khiến cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường này chiếm một
tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, mặc dù Australia là
một trong những đối tác FTA đầu tiên của Việt Nam và Australia [47].
Thương vụ Việt Nam Tại Australia (2016) đã có báo cáo “Thị trường thuỷ sản
của Úc và các giải pháp xúc tiến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này”
với những phân tích sâu sắc về đặc điểm thị trường nông sản ở Australia và khả năng
đáp ứng của hàng nông sản Việt Nam để có thể mở rộng thị trường xuất khẩu sang
Australia [56]. Nghiên cứu này đặt trong bối cảnh Hiệp định thương mại tự do
ASEAN – Australia và New Zealand đã được ký kết. Trong đó, Việt Nam đang nỗ lực
khai thác những cơ hội mà AANZFTA mang lại.
Phạm Hoàng Ngân, Phạm Thị Tước, Phạm Quang Diệu (2005) cũng đã phân
tích “triển vọng thương mại nông sản Việt Nam trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN
– Úc – Niudilân”. Trong đó, bài nghiên cứu tập trung vào tình hình phát triển nông
nghiệp và thương mại nông sản ở hai thị trường Australia và New Zealand và thực
trạng xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam cũng như tác động của AANZFTA. Từ
24
đó, các tác giả đưa ra những gợi ý chính sách để Việt Nam có thể phát huy lợi thế cũng
như nắm bắt cơ hội, hạn chế các vấn đề trong quá trình mở rộng xuất khẩu hàng hoá
nông sản sang Australia và New Zealand [45].
Bài tạp chí của tác giả Phùng Thị Vân Kiều (2018) với tên “Quan hệ thương
mại Việt-Úc trong bối cảnh hội nhập” đã phân tích các vấn đề liên quan đến quan hệ
thương mại Việt-Úc giai đoạn 2008-2017. Theo đó, tác giả nghiên cứu thực trạng quan
hệ thương mại, đánh giá những kết quả đạt được và các vấn đề đặt ra trong quan hệ
thương mại Việt-Úc; từ những phân tích đó, tác giả đưa ra các nhóm giải pháp cho
chính phủ và DN để tăng cường hợp tác thương mại song phương. Điểm đáng chú ý
của bài báo là tác giả đã chỉ rõ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Australia đang
ngày càng phát triển. Với cơ cấu kinh tế bổ sung cho nhau, AANZFTA được triển khai
và CPTPP được ký kết cùng bối cảnh gia tăng hội nhập khu vực và toàn cầu, quan hệ
này sẽ ngày càng được củng cố và phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, bài báo chưa dự báo
được triển vọng trong quan hệ thương mại Việt Nam- Australia đến năm 2025 [23].
Bài tạp chí có tên “Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam - Niu Di Lân: Thực
trạng và giải pháp” của tác giả Trịnh Thị Thanh Thủy (2018) đã luận giải cơ sở và đề
xuất giải pháp phát triển mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước trong bối
cảnh phát triển mới. Cụ thể, tác giả đã phân tích khá chi tiết tình hình xuất nhập khẩu
hàng hóa giữa Việt Nam và New Zealand giai đoạn 2008-2017, tình hình đầu tư và
phát triển chính thức của New Zealand cho Việt Nam. Tác giả cũng đã đánh giá những
kết quả đạt được và nhận định những vấn đề đặt ra và nguyên nhân trong quan hệ
thương mại, đầu tư giữa hai quốc gia. Qua đó, bài báo đề xuất bốn giải pháp chung và
bốn giải pháp cho DN để tăng cường hợp tác kinh tế song phương [60].
Nguyễn Hà Phương (2019) đã phân tích tác động của Hiệp định thương mại tự
do ASEAN – Australia – New Zealand đến quan hệ thương mại của Việt Nam với Úc
và New Zealand. Luận án đã chỉ rõ sự khác biệt trong quan hệ thương mại hàng hoá
của Việt Nam với Australia và New Zealand trước và sau khi AANZFTA được thực
thi từ đó làm nổi bật tác động của AANZFTA tới giá trị thương mại, cơ cấu thwong
mại và chuyển hướng thương mại giữa Việt Nam với hai nước châu Đại dương [48].
Bài báo “Enhancement of Trade and Investment in Agriculture Between
Australia and Vietnam: Opportunities and Challenges” của Kim Kunmin và Nguyen
Anh Tru (2015) đã nêu bật thực trạng đầu tư và thương mại song phương giữa
25
Australia và Việt Nam. Thông qua việc phân tích tình hình thương mại và đầu tư vào
nông nghiệp và chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu trong nông nghiệp của mỗi nước,
bài báo chỉ ra những cơ hội và thách thức trong thúc đẩy thương mại và đầu tư vào
nông nghiệp giữa hai nước. Kết quả cho thấy điều kiện địa lý, khí hậu, lợi ích của
chính phủ, môi trường kinh tế ổn định và các lợi ích tiềm năng là những cơ hội chính
để tăng cường thương mại và đầu tư vào nông nghiệp giữa hai nước. Tuy nhiên, cả hai
nước đều phải đối mặt với những trở ngại về yêu cầu an ninh lương thực, an toàn thực
phẩm, sự cạnh tranh của ngành nông nghiệp và các vấn đề trong chính sách thương
mại [105].
Có thể thấy, “bối cảnh mới” được xác định trong các nghiên cứu về thúc đẩy
XKHHNS của Việt Nam sang Australia và New Zealand là bối cảnh các quốc gia ký
kết và thực hiện các FTA thế hệ mới như: AANZFTA hay CPTPP nhưng những bối
cảnh khác như sự phát triển của khoa học công nghệ, hình thành chuỗi giá trị toàn cầu,
các vấn đề toàn cầu (chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí hậu) thì không được đề cập.
1.2. Nhận xét về tổng quan nghiên cứu và các khoảng trống
Thúc đẩy XKHHNS không phải là vấn đề quá mới mẻ nhất là trong điều kiện
Việt Nam là nước mà tỷ trọng sản xuất nông nghiệp còn cao trong nền kinh tế. Đặc biệt,
hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các hiệp định thương mại tự do, các khu vực mậu
dịch tự do được hình thành thì càng tạo điều kiện mở rộng TMQT và phát triển xuất
khẩu. Đây là một vấn đề thường được xem xét dưới khía cạnh một hoạt động kinh tế vĩ
mô, dưới sự điều tiết của chính phủ. Trong phạm vi nghiên cứu riêng về thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand thì số
lượng những nghiên cứu trực tiếp còn khá hạn hẹp. Phần lớn những tài liệu tìm thấy là
các khía cạnh nghiên cứu, hay báo cáo lồng ghép trong các vấn đề nghiên cứu lớn hơn ở
trong và ngoài nước. Có thể nhận xét chung về tổng quan nghiên cứu như sau:
1.2.1. Những giá trị đạt được
Các nghiên cứu trên đây là nguồn tham khảo quý giá cho nghiên cứu sinh thực
hiện luận án của mình. Chúng giúp nghiên cứu sinh hiểu rõ hơn về các vấn đề nghiên
cứu của mình, gợi ý hướng nghiên cứu và xây dựng hệ thống cơ sở lý thuyết toàn vẹn.
Các giá trị mà chúng mang lại sau khi nghiên cứu sinh tổng hợp được thể hiện như sau:
26
1.2.1.1. Các giá trị về lý luận
Thứ nhất, các tài liệu nghiên cứu đã giúp nghiên cứu sinh xác định được hệ
thống một số vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản bắt đầu
từ vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế, tính tất yếu của việc khai thác lợi
thế so sánh để xuất khẩu hàng hoá thu lợi cho quốc gia. Đối với những nước đang phát
triển, tập trung chuyên môn hoá và xuất khẩu chính là thúc đẩy nền kinh tế nhanh
chóng đạt tới mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra bởi họ rất cần ngoại tệ để nhập khẩu máy
móc, công nghệ mới phục vụ cho phát triển sản xuất.
Thứ hai, các nhà kinh tế học đã chỉ rõ vai trò của nhà nước trong thúc đẩy xuất
khẩu nói chung và xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hoá nông sản sang từng thị
trường cụ thể nói riêng. Đối với hàng nông sản, muốn thúc đẩy xuất khẩu cần phải có
những chiến lược cũng như hàng động riêng từ định hướng mặt hàng đến sản xuất và
tập trung thị trường mục tiêu.
Thứ ba, các tài liệu nghiên cứu đã tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau để chỉ
ra những hoạt động cần thiết mà chính phủ cần thực hiện để thúc đẩy xuất khẩu nói
chung và xuất khẩu hàng hoá nông sản nói riêng. Phân tích những đặc thù xuất khẩu
hàng hoá nông sản và những hỗ trợ cần thiết để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản.
Thứ tư, các tài liệu công bố đã chỉ rõ quan điểm: các quốc gia muốn thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản đều luôn phải đối mặt với cơ hội và thách thức. Vì thế các
chính sách, chiến lược thúc đẩy xuất khẩu là chìa khóa để giải quyết các vấn đề. Tuy
nhiên, những chính sách này phải được xây dựng và thực hiện dựa trên mối quan hệ của
quốc gia với các tổ chức, quốc gia, khu vực khác. Hoạt động của chính phủ là cầu nối để
giải quyết các quan hệ đó bởi hoạt động xuất khẩu luôn hướng tới hiệu quả kinh tế.
1.2.1.2. Các giá trị về thực tiễn
Những nghiên cứu đã cung cấp cho nghiên cứu sinh bức tranh toàn cảnh về
thúc đẩy xuất khẩu và các chính sách của chính phủ trong thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản nhất là ở Việt Nam. Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu là nền tảng hỗ trợ, thúc
đẩy sản xuất, thu ngoại tệ và tăng trưởng kinh tế, những hàng nông sản phát huy lợi
thế so sánh sẽ được nghĩ tới. Khi khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Australia – New
Zealand được hình thành cũng như các thoả thuận trong CPTPP có hiệu lực, cơ hội
cho Việt Nam xuất khẩu hàng hoá nông sản được mở rộng. Các nghiên cứu được công
bố đã mang lại giá trị thực tiễn cho luận án như sau:
27
Thứ nhất, khắc họa rất đầy đủ về thực trạng xuất khẩu hàng hoá nông sản của
Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand thời gian qua.
Thứ hai, chỉ ra các đặc điểm, cấu trúc thị trường và nhu cầu về hàng nông sản ở
hai thị trường Australia và New Zealand.
Thứ ba, các nghiên cứu đã đưa ra nhiều khuyến nghị khả thi để các nhà quản lý
Nhà nước đưa ra chiến lược, chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
hướng tới mục tiêu chung của toàn nền kinh tế.
1.2.2. Các khoảng trống nghiên cứu
Tuy nhiên những nghiên cứu trước đây vẫn còn những khoảng trống. Cụ thể
như sau:
1.2.2.2. Về cơ sở lý luận
Thứ nhất, mặc dù các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước đã hình thành
khung lý thuyết về tính tất yếu của xuất khẩu hay thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông
sản nhưng lại chưa có lý luận đầy đủ về nội dung thúc đẩy XKHHNS sang một thị
trường, phân biệt rạch ròi về chủ thể thực hiện là chính phủ hay các doanh nghiệp.
Thứ hai, những lý thuyết về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung
không nêu bật được rõ ràng những đặc trưng riêng của bối cảnh mới như các vấn đề về
chính trị, mối quan hệ giữa các quốc gia, chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí hậu hay sự
phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ 4 mà mới chỉ đề cập đến
bối cảnh thực hiện các Hiệp định thương mại tự do. Từ đó, xác định rõ cơ sở, điều kiện,
các ưu tiên, nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy XKHHNS trong bối cảnh mới hiện nay.
Thứ ba, Các nghiên cứu về thúc đẩy XKHHNS khá đầy đủ nhưng chưa xây
dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá về một cách rõ ràng, thống nhất.
1.2.2.2. Về cở sở thực tiễn
Thứ nhất, chưa có nghiên cứu về thúc đẩy XKHHNS sang thị trường Australia
và New Zealand trong bối cảnh mới như các hiệp định tự do thương mại riêng có hiệu
lực, sự ra đời của kinh tế số và số hoá phương thức sản xuất, sự phát triển của khoa
học công nghệ, các vấn đề chính trị - xã hội toản cầu.
Thứ hai, chưa có những nghiên cứu đầy đủ về các hoạt động thúc đẩy
XKHHNS sang thị trường Australia và New Zealand của Chính phủ cũng như các giải
pháp chính phủ thực hiện nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản sang thị trường
28
Australia và New Zealand một cách đồng bộ, thống nhất, phù hợp với điều kiện đặc
thù của bối cảnh hiện nay.
Tóm lại, tất cả những nghiên cứu có liên quan được thực hiện trong thời gian
qua sau khi được tổng hợp đã cho thấy vẫn còn khía cạnh chưa được khai thác và đã
lựa chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nông sản của Việt Nam sang Australia
và New Zealand trong bối cảnh mới” để có được sự nghiên cứu một cách sâu rộng về
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản sang hai thị trường tiềm năng trên nền tảng các
hiệp định thương mại tự do có hiệu lực với mục đích có thể ứng dụng nghiên cứu trong
quản lý và thúc đẩy XHHHNS của Việt Nam sang Australia và New Zealand trong bối
cảnh mới một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Đề tài cũng không trùng với bất kỳ đề
tài nghiên cứu nào đã có. Trong đề tài, tác giả sẽ kế thừa những giá trị nghiên cứu như
những khảo sát, số liệu hay hệ thống cơ sở lý luận trong phạm vi nghiên cứu của mình,
đồng thời cũng có những đóng góp riêng có thể bổ sung cho những thiếu sót mà những
tài liệu trước chưa đưa ra.
29
Tiểu kết chương 1
Chương 1 thực hiện tổng quan các công trình nghiên cứu đã công bố về thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá, thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản và tập trung vào những
công trình nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang Australia và New
Zealand và nhận thấy ngoài những giá trị tham khảo rất lớn, vẫn còn tồn tại khoảng
trống nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Đó là: chưa có lý luận đầy đủ về thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản sang một thị trường dựa trên nền tảng điều kiện liên kết
kinh tế sâu rộng trong một khu vực mậu dịch tự do, đặc biệt, các nghiên cứu chưa làm
nổi bật đặc trưng riêng của bối cảnh hội nhập mới và khung lý thuyết về các hảnh
động của Chính phủ nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản. Hiện nay, chưa có
tài liệu nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang thị
trường Australia và New Zealand với các chính sách đầy đủ, đồng bộ trong điều kiện
đặc thù của bối cảnh hiện nay.
Australia và New Zealand là thị trường còn rất nhiều cơ hội để DN xuất khẩu
hàng hoá nông sản mở rộng bán hàng, quan trọng là phải đa dạng, nâng cao chất lượng
sản phẩm, đáp ứng các điều kiện xuất khẩu. Trong bối cảnh Hiệp định AANZFTA có
hiệu lực, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu thấu đáo các cơ sở khoa học cả lý luận và
thực tiễn để nâng cao khả năng xuất khẩu của mặt hàng nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand nhằm giúp cho các cấp quản lý và các nhà DN Việt Nam
nhận diện đầy đủ về thị trường nông sản Australia và New Zealand, từ đó đề xuất các
giải pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu của mặt hàng nông sản trên thị trường này.
30
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ NÔNG SẢN TRONG BỐI CẢNH MỚI
2.1. Xuất khẩu hàng hoá nông sản
2.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Theo A. Smith, phân công lao động xã hội dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất để
tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn có
thể xuất khẩu ra nước ngoài [68]. Theo học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo khi
một quốc gia sản xuất và đem trao đổi những mặt hàng có lợi thế so sánh của mình với
một quốc gia khác thì cả hai quốc gia đều thu được lợi nhuận [81]. Như vậy, “xuất khẩu
hàng hóa là một hoạt động tất nhiên xảy ra khi phân công lao động xã hội đạt được một
trình độ nhất định”. Bởi thế, có nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu hàng hóa như:
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh với phạm vi vượt ra khỏi biên giới quốc gia
hoặc là hoạt động buôn bán của một nước với nước khác trên phạm vi quốc tế [64].
Đây không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán
phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm thúc đẩy hàng hóa phát triển ổn
định đem lại lợi ích cho quốc gia.
Điều 28 của Luật Thương mại số 17/VBHN-VPQH có ghi rõ “Xuất khẩu hàng
hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp
luật” [49]. Như vậy, có thể hiểu xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá và dịch vụ từ
Việt Nam ra các nước khác nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Xuất khẩu phản ánh
mối quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới.
Từ các quan điểm khác nhau có thể đưa ra khái niệm mang tính tổng quát về
xuất khẩu như sau: “Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc
gia với phần còn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường
nhằm mục đích hai thác lợi thế của đất nước trong phân công lao động quốc tế để đem
lại lợi ích cho quốc gia”.
31
2.1.1.2. Khái niệm nông sản
Nông sản là một trong những hàng hóa thiết yếu, không thể thiếu đối với sản
xuất và tiêu dùng của người dân của mỗi quốc gia, có nhiều quan điểm khác nhau về
nông sản, cụ thể như sau:
WTO chia hàng hoá thành 2 nhóm chính là nông sản và phi nông sản được xác
định trong “Hiệp định nông nghiệp”. Theo đó, “nông sản bao gồm một phạm vi khá
rộng các loại hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:
+) Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như: lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động
vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi...
+) Các sản phẩm phái sinh: như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt...
+) Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như: bánh kẹo, sản phẩm
từ sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bong xơ, da động vật thô... [166].
Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp quốc
(FAO), “hàng nông sản là tập hợp của nhiều nhóm hàng hóa khác nhau bao gồm: nhóm
hàng các sản phẩm nhiệt đới (chè, ca cao, cà phê, tiêu...), nhóm hàng ngũ cốc (mì, lúa
gạo, kê, ngô, sắn,...), nhóm hàng thịt và các sản phẩm từ thịt (thịt bò, thịt lợn, thịt gia
cầm,...), nhóm hàng dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu (các loại hạt có dầu như đậu tương,
hướng dương,... và các loại dầu thực vật), nhóm hàng sữa và các sản phẩm từ sữa (bơ,
pho mát và các sản phẩm làm từ sữa), nhóm hàng nông sản nguyên liệu (bông, đay, sợi,
cao su thiên nhiên,...), nhóm hàng rau quả (các loại rau, củ, quả) [88].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “nông sản là những sản phẩm hoặc bán
thành phẩm của ngành sản xuất hàng hóa thông qua trồng trọt và phát triển của cây
trồng. Sản phẩm nông nghiệp bao gồm nhiều nhóm hàng thực phẩm, tơ sợi, nhiên liệu,
nguyên vật liệu, dược phẩm và ma túy bất hợp pháp (thuốc lá, cần sa), các sản phẩm
độc đáo đặc thù”. Ngày nay, “nông sản còn hàm nghĩa những sản phẩm từ hoạt động
làm vườn và thực tế nông sản thường được hiểu là những sản phẩm hàng hóa được làm
ra từ tư liệu sản xuất là đất.” [20].
Ở Việt Nam, theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Nghị định 57/2018/NĐ-CP về
cơ chế, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thì khái niệm
nông sản được quy định cụ thể: “Nông sản là sản phẩm của các ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp.” [10].
32
Nguyễn Văn Ngọc (2006) lại đưa ra khái niệm nông sản hàng hoá (để phân biệt
với nông sản tự sản tự tiêu) “là chỉ các loại nông sản mà người nông dân sản xuất ra
với mục đích bán ra thị trường” [46].
Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống và lâu đời. Nông nghiệp là ngành
kinh tế quan trọng, luôn đóng góp tỷ trọng đáng kể trong GDP cả nước.Với cách hiểu
đơn giản, nông sản là sản phẩm của ngành nông nghiệp trong đó ngành nông nghiệp sẽ
bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng
nông nghiệp sẽ còn cả lâm nghiệp và thủy sản [53]
Tổng hợp từ các quan điểm trên cho thấy: “Nông sản là sản phẩm của hoạt động
sản xuất nông nghiệp, bao gồm thành phẩm hoặc bán thành phẩm thu được từ cây trồng,
vật nuôi hoặc sự phát triển của cây trồng, vật nuôi (không bao gồm sản phẩm của ngành
lâm nghiệp và ngư nghiệp)”. Đây là khái niệm rộng và tương đối phức tạp, vì thế để phù
hợp với nội dung nghiên cứu, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu với một số mặt hàng nông
sản cụ thể thuộc nhóm cây trồng (sản phẩm làm ra từ tư liệu sản xuất đất đai). Đối với
những nội dung cần khái quát chung về nông sản sẽ sử dụng theo khái niệm nông sản
(đã trình bày ở trên) kết hợp với cách phân loại hàng hóa của SITC2 phiên bản 3 [167]
Theo cách phân loại này, “nông sản sẽ bao gồm các nhóm hàng hóa là SITC0, SITC1,
SITC2 và SITC4. Tuy nhiên, trong nhóm SITC2 không tính đến SITC27 (phân bón
thô/khoángsản) và SITC28 (quặng kim loại/kim loại phế liệu) - bởi hai nhóm hàng hóa
này không phù hợp với quan điểm về nông sản của WTO.” [167].
Đặc điểm hàng nông sản
Khác với nhiều hàng hoá trên thị trường, hàng nông sản có những đặc điểm khá
đặc thù khiến cho việc mua bán, trao đổi phải tuân thủ những nguyên tắc riêng.
Thứ nhất, hàng nông sản mang “tính thời vụ”. Quá trình sản xuất, thu hoạch,
buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ bởi các loại cây trồng sinh trưởng và phát
triển theo quy luật sinh vật nhất định. Mặt khác, do sự biến thiên về điều kiện thời tiết
- khí hậu làm cho mỗi loại cây trồng có sự thích ứng riêng, tạo nên những mùa vụ khác
nhau trong sản xuất. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về
chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ,
hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Ngoài
ra, do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoạch hàng nông sản thường
chỉ diễn ra trong thời gian ngắn [17].
33
Thứ hai, hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết.
Nông sản chịu tác động lớn từ các điều kiện tự nhiên, đặc biệt là các điều kiện về đất
đai, khí hậu và thời tiết. Đa phần các nông sản đều rất nhạy cảm với các nhân tố ngoại
cảnh. Do vậy, mọi sự thay đổi về điều kiện tự nhiên đều tác động trực tiếp đến sự sinh
trưởng và phát triển của cây trồng. Nếu khí hậu, thời tiết mưa thuận gió hoà, cây cối
phát triển, cho năng suất cao thì hàng nông sản sẽ được cung cấp nhiều trên thị trường
làm giá cả trở nên rẻ. Ngược lại, nếu khí hậu, thời tiết khắc nghiệt sẽ làm hàng nông
sản trở nên khan hiếm, chất lượng không cao nhưng giá bán cao [27]
Thứ ba, chất lượng hàng nông sản ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính
mạng của người tiêu dùng. Đây là nhóm hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu đối với
con người. Các quốc gia phát triển ngày càng có nhiều yêu cầu đặt ra đối với hàng nông
sản về tiêu chuẩn, chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ… [100].
Thứ tư, hàng nông sản có tính tươi sống. Nông sản có đặc tính tươi sống nên khó
bảo quản được trong thời gian dài. Ngoài ra, nhân tố thời vụ của nông sản dẫn đến tính
không phù hợp giữa sản xuất và tiêu dùng, cho nên cần quan tâm đến khâu chế biến và
bảo quản cho tốt đặc biệt với nông sản xuất khẩu. Bên cạnh đó, nông sản dễ bị hư hỏng,
ẩm mốc, biến chất,... do đó chỉ cần để một thời gian ngắn trong môi trường không bảo
đảm về độ ẩm, nhiệt độ... là nông sản sẽ bị hư hỏng, giảm chất lượng [32].
Thứ tư, chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng. Bởi, nông sản
được sản xuất ra từ các địa phương khác nhau, với các nhân tố về địa lý, tự nhiên khác
nhau, mỗi vùng, mỗi hộ, mỗi trang trại có phương thức sản xuất khác nhau với các
giống nông sản khác nhau cho nên chủng loại cũng khác nhau. Đây cũng là nguyên
nhân làm cho chất lượng nông sản không có tính đồng đều, do đó vấn đề quản lý chất
lượng nông sản thường gặp nhiều khó khăn. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về
cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Ví dụ: đối với mặt hàng gạo,
trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại chính, mỗi loại gạo lại có thể phân thành
nhiều nhóm khác nhau. Mỗi nhóm thích ứng với từng thị trường riêng. Thị trường
châu Âu quen tiêu dùng gạo hạt dài nhưng thị trường châu Á lại tiêu dùng gạo hạt
ngắn. Thị trường châu Phi quen dùng gạo hấp (luộc sơ) có chất lượng không cao, thị
trường Trung đông lại dùng gạo thâm còn Lào lại có thói quen dùng gạo nếp [43].
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản có thể được ưa thích ở thị trường
này nhưng lại không được chấp nhận ở thị trường khác. Giá cả có thể cao ở thị trường
34
này nhưng thấp ở thị trường nước khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản xuất
khẩu, các quốc gia cần chú trọng xác định thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng
2.1.1.3. Xuất khẩu hàng hoá nông sản
phù hợp với sản phẩm mà mình có.
Trên cơ sở của khái niệm về xuất khẩu và hàng hoá nông sản ở trên, xuất khẩu
hàng hoá nông sản có thể định nghĩa như sau: Xuất khẩu hàng hoá nông sản là hoạt
động trao đổi nông sản của một quốc gia với các nước khác trên thế giới dưới hình
thức mua bán thông qua quan hệ thị trường nhằm mục đích hai thác lợi thế sẵn có của
đất nước trong phân công lao động quốc tế nhằm đem lại lợi ích cho quốc gia [42].
Tuy nhiên, hàng hoá nông sản có những đặc thù riêng, đặc biệt chúng không chỉ
là hàng tiêu dùng thiết yếu mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ người tiêu dùng
khiến cho việc XKHHNS gặp nhiều rào cản. Các quốc gia phát triển thường đặt ra
nhiều yêu cầu khắt khe về chất lượng, vệ sinh ATTP, kiểm dịch, xuất xứ… Chính vì
vậy, định nghĩa về XKHHNS không chỉ dừng lại ở việc trao đổi giá trị như đối với các
hàng hoá khác mà phải quan tâm đến cả quá trình trước, trong và sau trao đổi hàng hoá
nông sản với quốc gia khác. “Các hoạt động diễn ra trước quá trình trao đổi là chuẩn bị
các điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu như hoàn thiện cơ chế, chính sách; tổ chức sản
xuất, chế biến, thu gom, đóng gói, bảo quản hàng hoá nông sản theo yêu cầu kỹ thuật
mà các thị trường nhập khẩu đặt ra.” “Các hoạt động diễn ra trong quá trình trao đổi là
thực hiện quan hệ xuất khẩu bao gồm: xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường,
thiết lập kênh phân phối, thực hiện bán hàng, vận chuyển hàng hoá cho đối tác, người
tiêu dùng ở thị trường xuất khẩu.” “Hoạt động sau quá trình trao đổi là giải quyết các
quan hệ lợi ích phát sinh như phân phối hài hoà lợi ích giữa các chủ thể tham gia sản
xuất, chế biến, thu gom, bán hàng, giữa người mua – người bán và giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong quá trình giao hàng, thanh toán…”
Như vậy, định nghĩa về xuất khẩu hàng hoá nông sản được sử dụng trong luận
án phải như sau: “Xuất khẩu hàng hoá nông sản là tổng hoà các hoạt động cần thiết
diễn ra trước, trong và sau trao đổi nông sản của một quốc gia với các quốc gia khác
trên thế giới dưới hình thức bán hàng thông qua quan hệ thị trường nhằm đáp ứng tiêu
chuẩn thị trường quốc gia nhập khẩu, tổ chức thực hiện quan hệ xuất khẩu cũng như
giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích phát sinh giữa các chủ thể có liên quan”.
35
2.1.2. Đặc điểm và vai trò của xuất khẩu hàng hoá nông sản
2.1.2.1. Đặc điểm xuất khẩu hàng hoá nông sản
Thứ nhất, thị trường kinh doanh lớn. Khác với hoạt động thương mại nội địa,
hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông sản gắn với thị trường ngoài nước có phạm vi rộng
lớn, có nhiều yếu tố ảnh hưởng như nhu cầu, văn hóa, thói quen, lối sống. Trong thế
giới hội nhập ngày nay, các quốc gia đều quan tâm đến chính sách khuyến khích xuất
khẩu bởi nhiều mục đích, như: mở rộng thị trường ngoài nước trong khi thị trường
trong nước đang có xu hướng không tăng trưởng; xuất khẩu thu được ngoại tệ để bù
đắp khoản ngoại tệ cho nhập khẩu; và các mục tiêu tiếp nhận các văn minh của nước
nhập khẩu cho DN và người tiêu dùng... [85].
Thứ hai, điều kiện mua - bán hàng hoá phức tạp. So với việc xuất khẩu các hàng
hóa phi nông sản thì hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông sản cũng có nhiều khác biệt.
Hàng nông sản với đặc điểm là chịu sự tác động mạnh bởi điều kiện tự nhiên và môi
trường như dễ bị hư hỏng, ẩm mốc, biến chất. Có những nông sản đặc trưng cho từng
địa phương khác nhau tùy theo điều kiện về tự nhiên như đất đai, thời tiết, khí hậu. Do
đó, XKHHNS cũng cần phải tính toán kỹ lưỡng về thời gian thu mua - bán hàng, về điều
kiện bảo quản, chế biến. Nông sản xuất khẩu cần phải đáp ứng được các nhu cầu của
nước nhập khẩu và người tiêu dùng tại nước nhập khẩu về các chỉ số dinh dưỡng, an
toàn thực phẩm, an toàn kỹ thuật, môi trường. Nông sản chủ yếu là các hàng tiêu dùng
thiết yếu, việc XKHHNS chịu sự kiểm soát ngặt nghèo về chất lượng, đặc biệt là vệ sinh
an toàn thực phẩm. Đồng thời, hàng nông sản có đặc điểm là cầu nhìn chung ít co giãn,
do đó, việc QLNN đối với XKHHNS phải hướng tới việc ổn định cung [27].
Thứ ba, XKHHNS là lĩnh vực quan trọng, mang tính nhạy cảm cao và thường
gặp các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Hầu hết các nước đều muốn bảo
vệ ngành nông nghiệp cũng như người nông dân nên nhiều chính sách có lợi cho nền
sản xuất trong nước được ban hành, gây khó khăn cho các nước XKHHNS. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều XKHHNS và cũng nhập khẩu hàng nông sản do sự khác
biệt về điều kiện thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng ở các quốc gia. trong hội nhập quốc tế,
hoạt động XKHHNS phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới. Việc ký kết các
Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương về cơ bản mang lại những tác
động tích cực cho hoạt động XKHHNS. Ngoài ra, các thay đổi về cung cầu hàng nông
sản, về chính sách của nước nhập khẩu, về đối thủ cạnh tranh đều có tác động lớn đến
36
hoạt động XKHHNS. Điều này đòi hỏi các nước nâng cao khả năng dự báo thị trường,
cơ chế, chính sách điều hành quản lý hoạt động XKHHNS phải linh hoạt để theo kịp
với những sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới [77].
Thứ tư, sự thiếu ổn định trong hàng hoá và giá xuất khẩu. Hàng hoá nông sản
có tính mùa vụ và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố của tự nhiên nên tính đồng đều về
mặt chất lượng rất khó được đảm bảo. Điều này khiến cho cả số lượng và chất lượng
của hàng hoá nông sản có thể kém ổn định. Một nguồn cung cấp tốt năm nay cũng có
thể không tốt vào năm sau do tác động của thiên tai, dịch bệnh hoặc các yếu tố khác.
Bên cạnh đó, các cơ sở nuôi trồng khác nhau cũng khiến cho hàng hoá khác nhau.
Trong khi muốn xuất khẩu thì hàng hoá đòi hỏi phải có số lượng lớn, được thu gom từ
nhiều nguồn khác nhau. Các tiêu chuẩn chung ra đời đã khắc phục phần nào vấn đề
thiếu ổn định của hàng hoá nhưng việc áp dụng lại khá phức tạp. Bên cạnh đó, chính
sự mất ổn định của nguồn cung cũng khiến cho giá nông sản xuất khẩu thường lên
xuống thất thường. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào thì giá bị hạ thấp.
Ngược lại, vào những lúc trái vụ, hàng thường khan hiếm, thì giá bán sẽ tăng cao. Bên
cạnh đó, do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoạch hàng nông sản
thường chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, giá biến động làm cho hoạt động xuất khẩu
hàng hoá nông sản phải thường xuyên đối mặt với tình trạng được mùa mất giá. Đặc
điểm này có thể kéo theo những rủi ro về biến động giá trong xuất khẩu hàng hoá nông
sản hoặc những rủi ro về chính sách của nước nhập khẩu khi các quốc gia này có
những ưu ái hoặc hạn chế về nông sản nhập khẩu kéo theo việc tăng hoặc giảm giá
mua hàng tại những thời điểm khác nhau. Thương lái và người nông dân có mối quan
hệ với nhau, nếu không giải quyết tốt có thể dẫn đến tranh chấp, cạnh tranh không lành
mạnh. Trong khi đó, người mua hàng lại sống ở các nước khác nhau, có phong tục, tập
quan, thói quen tiêu dùng khác nhau nên việc xuất khẩu hàng nông sản phù hợp cũng
là vấn đề cần quan tâm [80].
Thứ năm, hoạt động XKHHNS có nhiều nước tham gia. Mỗi nước có thể thực
hiện tất cả các khâu trong chuỗi giá trị hàng NSXK, từ sản xuất, chế biến, đến
XKHHNS, hoặc chỉ tham gia khâu chế biến và XKHHNS tùy thuộc vào khả năng và
điều kiện của từng nước. Các nước có lợi thế trong hoạt động XKHHNS không phụ
thuộc vào việc nước đó đã XKHHNS nhiều năm hay không. Điều quan trọng để giành
37
được lợi thế cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chất lượng, thương hiệu,
thông tin thị trường hàng NSXK... [15].
2.1.2.2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nông sản
Nông sản giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của bất kỳ
quốc gia nào bởi nó được xếp vào nhóm hàng hoá thiết yếu, là lương thực, thực phẩm
quan trọng để duy trì cuộc sống con người. Nước nào có điều kiện thiên nhiên ưu đãi để
sản xuất và khai thác nông sản thì nước đó có lợi thế trong xuất khẩu hàng hoá nông sản
trên thị trường thế giới. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nông sản được thể hiện ở các
mặt cụ thể như sau:
Thứ nhất, xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ để nhập khẩu công nghệ hiện đại
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hiện nay, trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự chuyển dịch mạnh mẽ
của nền kinh tế, quốc gia nào vẫn còn sống dựa vào nền nông nghiệp với tỷ lệ cao
trong GDP thì thường cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém. Việc sản xuất nông nghiệp
còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nhiều tiềm năng vẫn chưa được khai thác hợp lý.
Chính vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, phát triển ngoại thương là cơ hội cho
những nước này mở rộng hợp tác kinh tế, tiếp cận khoa học công nghệ nhằm tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu là cần thiết trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với những nước
này, nông sản trở thành lợi thế so sánh nếu khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài
nguyên, sức lao động và đất đai, cải tiến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp với thị
hiếu tiêu dùng của từng thị trường. Lúc đó, xuất khẩu hàng hoá nông sản đóng vai trò
tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng mức độ tích lũy cho đất nước, phục vụ tốt cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [26].
Như vậy, kết quả xuất khẩu nông sản có ý nghĩa trong việc phát huy mọi nguồn
lực trong nước, tăng tích lũy quốc dân, tạo thêm vốn đầu tư đổi mới công nghệ và tăng
thêm việc làm cho đội ngũ lao động nông nghiệp, và có tác động tích cực ngược trở
lại đối với ngành nông nghiệp. Có thể nói rằng, nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất
khẩu nông sản là nguồn vốn để các nước dựa vào nông nghiệp có thể nhập khẩu công
nghệ, máy móc phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước
[40]. Mặt khác, đẩy mạnh xuất khẩu còn có ý nghĩa trong việc dành một khoản ngoại
tệ để trả nợ cho các khoản vay nợ nước ngoài đã đến hạn phải trả, tạo thêm uy tín
cho các khoản vay mới.
38
Thứ hai, xuất khẩu nông sản tác động thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế ở hầu hết các nước trong tiến trình phát triển đều có sự chuyển
dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất
công nghiệp và dịch vụ [42]. Đối với những nước mà lợi thế so sánh là hàng nông sản
thì chuyển dịch cơ cấu sản xuất là sự thay đổi từ phương thức độc canh lúa, tự cấp lương
thực, phân tán quy mô nhỏ hiệu quả thấp sang nền kinh tế đa canh, hướng sản xuất tập
trung quy mô lớn, hiệu quả kinh tế xã hội cao, môi trường sinh thái bền vững [52]. Cơ
cấu diện tích các loại cây trồng có những thay đổi tích cực theo hướng nâng cao hiệu
quả kinh tế, nhất là các cây phục vụ xuất khẩu. Chất lượng hàng nông sản tăng lên sẽ
giúp những nước này tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Như vậy, việc đẩy
mạnh xuất khẩu hàng nông sản đã tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp [50].
Thứ ba, giá trị hàng nông sản tăng lên trong tổng sản phẩm quốc dân (GDP)
Xuất khẩu hàng hoá nông sản sẽ giúp lĩnh vực nông nghiệp của các nước có
điều kiện phát triển với nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định [45]. Cùng với sự gia tăng
về nhịp độ phát triển giá trị sản lượng thì tỷ trọng giá trị hàng nông sản trong tổng
GDP cả nước cũng ngày càng thay đổi theo chiều hướng không ngừng tăng về giá trị
sản lượng và giảm về tỷ trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân [42]. Có thể thấy
rằng, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân tuy giảm xuống,
nhưng giá trị tuyệt đối của ngành nhờ hoạt động xất khẩu sẽ vẫn liên tục tăng, đây là
dấu hiệu chuyển biến tích cực của nền kinh tế. Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch mạnh
mẽ sang sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, tỷ trọng nông sản xuất khẩu trong sản lượng
hàng hóa ngày càng tăng [48].
Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò
quan trọng trong cơ cấu kinh tế đất nước. XKHHNS góp phần gia tăng giá trị sản xuất
nông nghiệp, đóng góp vào GDP nông nghiệp. Chẳng hạn, XKHHNS Việt Nam đóng
góp khoảng 25% giá trị sản xuất nông nghiệp của đất nước. Thêm vào đó, người dân
sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ lớn và nguồn thu nhập chính của họ đều từ sản xuất nông
nghiệp. Khi XKHHNS phát triển, một bộ phận lao động nông nghiệp thuần túy sẽ được
chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp khác ở nông thôn như chế biến NSXK,
thủ công xuất khẩu, công nghiệp và dịch vụ [52]. XKHHNS cũng kích thích đa dạng
hóa sản phẩm nông nghiệp cho xuất khẩu, tăng thu nhập cho nông dân, bảo đảm an ninh
39
lương thực, hạn chế những tổn thương cho nông dân do tác động của thị trường, thiên
tai, dịch bệnh... Thu nhập của dân cư nông thôn tăng làm tăng quy mô thị trường, yếu tố
quan trọng cho CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn [27].
Thứ tư, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động trong xã hội và
cải thiện nhiều mặt đời sống xã hội nông thôn
Việt Nam là một nước với hơn 60% dân số làm nghề nông. XKHHNS là tiền đề
để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho người nông dân.
Trong những năm gần đây, sản xuất hàng NSXK đã thu hút rất nhiều lao động ở nông
thôn, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân và giảm bớt sự gia tăng các tệ nạn xã
hội ở nông thôn [63]. XKHHNS hướng vào việc đáp ứng nhu cầu rộng lớn của thị
trường thế giới nên thúc đẩy tăng quy mô sản xuất, tăng sản lượng nông sản. Cơ cấu
diện tích các loại cây trồng có những thay đổi tích cực theo hướng nâng cao hiệu quả
kinh tế, nhất là các cây phục vụ xuất khẩu. Sản phẩm NSXK đã tạo được chỗ đứng
trên thị trường quốc tế [55]. Nhiều mặt hàng nông sản đã có vị trí hàng đầu thế giới
như gạo, cà phê, tiêu, cao su... về cả khối lượng xuất khẩu lẫn KNXK. Tỷ trọng hàng
NSXK chiếm khoảng 30 - 35% tổng khối lượng hàng nông sản. Không những người
nông dân trực tiếp sản xuất có điều kiện tăng thu nhập, cải thiện đời sống, mà những
người nông dân cung cấp các dịch vụ liên quan như phục vụ gieo trồng, thu hoạch, vận
tải, kho bãi cũng có điều kiện có việc làm, tăng thu nhập [50].
Thứ năm, XKHHNS góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.
XKHHNS góp phần mở cửa nền kinh tế, đưa kinh tế nước ta hội nhập sâu với
kinh tế thế giới [51]. Trong quá trình HNQT, Việt Nam đã lần lượt là thành viên của
nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, như ASEAN, AFTA, WTO... Đây là cơ hội
cho Việt Nam mở rộng mối quan hệ về kinh tế với các nước trên thế giới. XKHHNS
cũng nhờ thế mà có nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường một cách đầy đủ và thuận lợi
nhất. Đồng thời, XKHHNS thúc đẩy nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, công nghệ... ,
thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế. Thời gian qua, Việt Nam
trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê, tiêu lớn nhất thế giới, nhiều
nông sản Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau
[32]. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực XKHHNS lại củng cố thêm vị thế của
Việt Nam khi là thành viên của các tổ chức trong khu vực và thế giới [27].
40
Thông thường, một quốc gia sẽ lựa chọn một số mặt hàng có lợi thế để đầu tư sản
xuất và xuất khẩu đồng thời nhập khẩu trở lại các sản phẩm mà mình không có hoặc có ít
lợi thế [74]. Từ đây sẽ hình thành nên sự phân công lao động và CMH quốc tế, từng bước
đưa nền kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của mỗi
quốc gia sẽ được đo lường bằng kết quả hội nhập của quốc gia đó với thế giới [85].
Thứ sáu, xuất khẩu hàng hoá nông sản góp phần thúc đẩy cải tiến cơ chế quản
lý, chính sách kinh tế của nhà nước cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đã, đang là xu thế phát triển chung của
toàn thế giới, nó tác động sâu sắc và toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống KTXH
của các quốc gia, làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng gắn bó chặt chẽ với nền kinh
tế toàn cầu [86]. Chính vì vậy mà mỗi quốc gia, mỗi ngành khi tham gia vào TMQT là
đã tham gia vào một sân chơi với luật chơi chung, sức ép cạnh tranh lớn song cũng rất
bình đẳng. Tuy nhiên, việc tham gia sẽ trở nên khó khăn, bất cập với những quốc gia có
hệ thống quản lý thương mại hoạt động chưa bài bản, thiếu tính thực tiễn [105]. Do đó,
để xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu hàng hoá nông sản nói riêng ngày một
phát triển thì việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành cho
phù hợp với những cam kết quốc tế, phù hợp với quy định của tổ chức WTO sẽ là vấn
đề cần giải quyết cấp bách và đồng bộ hiện nay [42].
2.1.3. Hình thức xuất khẩu hàng nông sản
Kinh doanh nông sản diễn ra dưới các hình thức khác nhau, có hình thức giao
dịch buôn bán truyền thống và hình thức giao dịch buôn bán hiện đại. Đối với mỗi thị
trường, DN cần có những hình thức thâm nhập và bán hàng đặc thù để đạt được hiệu
quả kinh doanh, phát huy sức cạnh tranh hàng NSXK của DN trên thị trường đó.
XKHHNS diễn ra dưới một số hình thức chính sau:
Một là, XKHHNS trực tiếp. Đây là hình thức XKHHNS truyền thống, do chính
DN sản xuất trong nước đưa hàng tới khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức của
mình [30]. Có hai hình thức XKHHNS trực tiếp:
- XKHHNS chính ngạch: Là hợp đồng XKHHNS theo giấy phép của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, lưu thông qua các cửa khẩu quốc tế và quốc gia, phải
chấp hành đầy đủ các thủ tục xuất khẩu theo thông lệ và tập quán quốc tế. Trong hình
thức xuất khẩu này, tùy vào điều kiện giao hàng có thể chia ra thành các hình thức:
xuất khẩu theo giá FOB, xuất khẩu theo giá CIF, xuất khẩu theo DAF.
41
- XKHHNS tiểu ngạch: Là hợp đồng XKHHNS theo giấy phép của ủy ban nhân
dân các tỉnh biên giới. Với hình thức xuất khẩu này, các DN không phải thông qua
nhiều thủ tục hành chính, nhưng nó chỉ được thực hiện với điều kiện là xuất khẩu sang
các nước có chung biên giới.
Ưu điểm của XKHHNS trực tiếp là: DN XKHHNS trực tiếp tiếp xúc khách
hàng, trực tiếp tìm hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu mới và tâm lý thị hiếu thay đổi của
khách hàng nên kịp thời cải tiến sản phẩm, thoả mãn tốt nhất nhu cầu đó. Việc trực tiếp
tiếp xúc với thị trường nước ngoài, giúp cho DN dễ tiếp thu các kinh nghiệm quốc tế.
Ngoài ra, ưu điểm khác của hình thức này là DN XKHHNS không phải chịu những chi
phí xuất khẩu trung gian và không phải chia sẻ lợi nhuận [75].
Hạn chế của hình thức XKHHNS này là DN XKHHNS phải dàn trải các nguồn
lực của mình trên phạm vi thị trường rộng lớn phức tạp, phải chấp nhận môi trường
cạnh tranh quốc tế khốc liệt với nhiều rủi ro hơn. Điều này đòi hỏi DN phải có đủ
nguồn lực để mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài, có khả năng quản lý, điều
hành xuất khẩu hiệu quả [82].
DN sử dụng các hình thức để XKHHNS trực tiếp sau: Mở chi nhánh bán hàng
của mình ở nước ngoài; Xuất khẩu từ nước thứ ba; Xuất khẩu từ công ty liên doanh;
Lập đại diện bán hàng ở nước ngoài; Tiến hành qua Hiệp hội XKHHNS [100].
Hai là, XKHHNS gián tiếp (XKHHNS qua trung gian). Đây là hình thức
XKHHNS mà DN thông qua dịch vụ của tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu
để tiến hành XKHHNS. Các trung gian bao gồm: công ty quản lý xuất khẩu, đại lý
trung gian xuất khẩu,...[85]. Ưu điểm của hình thức này là các tổ chức trung gian
thường nắm rõ phong tục, tập quán cũng như những quy định của nước nhập khẩu nên
có thể đẩy nhanh việc mua bán. Đồng thời, các DN XKHHNS giảm chi phí thâm nhập
thị trường, tìm hiểu thông tin về thị trường, các đối thủ cạnh tranh thông qua các tổ
chức trung gian. Hạn chế của hình thức này là DN kinh doanh XKHHNS không trực
tiếp tiếp xúc với khách hàng nên không đáp ứng đúng và kịp thời nhu cầu của khách
hàng. Hơn nữa, DN XKHHNS phải chia sẻ lợi nhuận với các trung gian [64].
Ba là, thương mại điện tử (Electronic commerce): là hình thức XKHHNS ra đời
trong nền kinh tế số hóa, là hình thức hoạt động thương mại không giấy tờ [85]. Đây là
phương thức hoạt động kinh doanh tiên tiến. Ưu điểm của hình thức này là nếu DN áp
dụng tốt sẽ giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo được bước đột phá trong cạnh tranh
42
xuất khẩu. Mặt hạn chế của hình thức này là đòi hỏi về điều kiện cơ sở vật chất, hệ
thống pháp lý, trình độ cán bộ để ứng dụng hiệu quả thương mại điện tử của cả Nhà
nước và DN; dễ gặp rủi ro do giao dịch “ảo”. Đồng thời, trong quá trình thực hiện hợp
đồng, các bên cần phải bảo mật hệ thống dữ liệu [136].
Bốn là, XKHHNS thông qua các sở giao dịch hàng hóa. Đây là một hình thức
XKHHNS hiện đại mà nhiều nước trên thế giới thực hiện. Mặt tích cực của hình thức
XKHHNS thông qua sở giao dịch là giá ổn định, chất lượng được kiểm định là các DN
XKHHNS có thể biết được giá quốc tế trong từng tháng, từng quý để chủ động kế hoạch
sản xuất kinh doanh, cân đối cung cầu; cho phép người nông dân, DN chế biến, DN xuất
khẩu xích lại gần nhau; giảm thiểu các rủi ro về vấn đề biến động về giá do thời tiết, do
mùa vụ cho nông dân cũng như DN XKHHNS [85]. Mặt hạn chế của hình thức này đòi
hỏi cao về trình độ tổ chức quản lý của nhà nước trong việc tổ chức thực hiện mô hình,
trong kết nối với các sở giao dịch khác trên thế giới. Thêm vào đó, chất lượng hàng
nông sản phải ở mức độ cao, đồng đều.
Ngoài ra, còn có các hình thức XKHHNS khác như: tạm nhập tái xuất,
chuyển khẩu hàng hóa, quá cảnh hàng hóa; XKHHNS theo nghị định thư (để gán
nợ các loại theo Nghị định thư giữa hai nước); Buôn bán đối ứng (là phương thức
xuất khẩu hàng đổi hàng).
2.2. Bối cảnh mới
“Bối cảnh mới” là hoàn cảnh thể hiện các sự kiện, biến cố, sự việc, hoạt động,
các xu hướng mới hình thành và đang diễn ra trên thế giới ở hiện tại. Bối cảnh mới có
thể ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế, xã hội nói chung và hoạt xuất khẩu hàng hoá
nông sản nói riêng. Khi bối cảnh quốc tế thay đổi, nó có thể khiến cho hoạt động
XKHHNS đứng trước những thách thức và cơ hội mới.
Bối cảnh của thế giới liên tục thay đổi theo thời gian và sự phát triển của các
yếu tố bên trong như kinh tế, chính trị, xã hội, con người ở thực tại. Chính vì vậy, việc
xác định “bối cảnh mới” mang tính tương đối cao. Ở thời điểm nghiên cứu, những vấn
đề quốc tế lớn đang diễn ra (thường phát sinh mạnh trong giai đoạn khoảng 10 năm trở
lại), được đông đảo mọi người quan tâm và có ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế của các
DN trong nền kinh tế được coi là “bối cảnh mới” chứ không chỉ là những vấn đề mới
phát sinh ở thời điểm nghiên cứu.
43
Hiện nay, bối cảnh mới được xác định bởi những sự kiện, hoạt động, xu
hướng như sau:
2.2.1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Xét về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân
biệt với “cái khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính trị nhất
định trên thế giới), “các phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp lực lượng trên thế
giới), “cái quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng đất nước) [116]. Xã hội loài người
ngày nay, với nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho
thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu rộng; đồng thời, khẳng định “toàn cầu hóa” thực
sự là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược. Điều rõ ràng là, dù còn rất nhiều hạn
chế, khiếm khuyết hay khuyết tật... trong cả ba hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu
phát triển nội tại, tự thân của xã hội loài người chính là gốc rễ quy định xu thế toàn cầu
hóa [150]. Điều đáng chú ý là tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra một cách tuyến tính,
mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất xã
hội loài người. Trong quá trình toàn cầu hoá, các quốc gia có mối quan hệ ngày càng sâu
sắc hơn, phụ thuộc vào nhau nhiều hơn thúc đẩy hợp tác kinh tế và liên kết kinh tế quốc
tế phát triển. Các Hiệp định thương mại, các tổ chức quốc tế được hình thành và tạo ra
những quy tắc hợp tác chung cho các nước thành viên tham gia nhằm giúp đỡ, khai thác
các lợi thế để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội [146].
2.2.2. Sự nở rộ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
FTA được hiểu như là “một thỏa thuận giữa các nhóm của hai hoặc nhiều vùng
lãnh thổ hải quan trong đó thuế và các quy định hạn chế thương mại khác được loại bỏ
với hầu hết các mặt hàng có nguồn gốc từ vùng lãnh thổ đó và được tự do trao đổi
thương mại giữa các thành viên" [160, tr43]. FTA là một hình thức thiết yếu của hội
nhập kinh tế quốc tế tiến tới hình thành một thị trường chung duy nhất cho hàng hóa và
dịch vụ. Về bản chất, trong FTA, hàng hóa được tự do di chuyển giữa các thành viên,
qua đó, tạo ra một thị trường chung cho hàng hóa trong quá trình sản xuất và tiêu dùng
trong khu vực [143]. Đồng thời, đây là một mô hình liên kết kinh tế không đòi hỏi mức
độ hội tụ quá cao giữa các nền kinh tế thành viên. Thuật ngữ “Hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới” được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện,
bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các “FTA truyền
thống”; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có
44
cơ chế thực thi chặt chẽ và hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là “phi
truyền thống” như: Lao động, môi trường, DN nhà nước, mua sắm chính phủ, minh
bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư… Các cam kết trong FTA thế hệ mới
không chỉ tối đa hoá mục tiêu tự do thương mại mà còn hướng tới tạo dựng môi trường
thương mại minh bạch, cạnh tranh, bình đẳng và hướng tới sự phát triển bền vững, hài
hoà lợi ích giữa các bên tham gia. Các FTA có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp tới hoạt
động xuất khẩu hàng hoá của các quốc gia bởi nó phải tuân thủ nghiêm ngặt các cam kết
trong hiệp định.
2.2.3. Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0
Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ ra đời nhằm làm tăng năng suất lao
động, khai thác hiệu quả các nguồn lực và thúc đẩy phát triển sản xuất. Cách mạng
công nghiệp hình thành nên những nền công nghiệp mới, thay đổi phương thức sản
xuất và tạo ra những cơ hội cho các DN phát triển khi nhanh chóng nắm bắt và ứng
dụng [115]. Ngược lại, khi các DN không cải tiến sản xuất theo xu hướng cách mạng
công nghiệp thì sản xuất trở nên lỗi thời, giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
2.2.4. Các vấn đề phức tạp của chính trị thế giới
Các cuộc chuyển giao quyền lực lớn trên thế giới giữa các quốc gia hay nhóm
quốc gia tạo ra những thế cực trong mối quan hệ toàn cầu. Mối quan hệ giữa các quốc
gia về kinh tế - chính trị - xã hội có thể bị thay đổi tuỳ theo quan điểm lãnh đạo của
chính phủ cầm đầu, sự phát triển kinh tế chi phối các hoạt động di chuyển nguồn lực,
hàng hoá và dịch vụ giữa các nước. Các vấn đề chính trị thế giới tạo ra bầu không khí
khác nhau như hoà hảo hợp tác hoặc chiến tranh, tranh chấp kinh tế… [96].
2.2.5. Các vấn đề toàn cầu khác
Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề toàn cầu
như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa
thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, biến đổi khí hậu, nghèo đói và dịch bệnh, an
ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng [141]. Trong những vấn đề gay
cấn và là những thách thức to lớn đó, cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn
nước đang là vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều
khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi
và các nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các
nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Cùng với những vấn đề
đe dọa an ninh toàn cầu nêu trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới.
45
An ninh biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng
mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do
tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi
truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong những vấn đề chi phối quan hệ
giữa các nước.
2.3. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới
2.3.1. Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới
Ở góc độ DN, thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản là tổng hợp các cách thức,
biện pháp của DN để đưa ngày càng nhiều khối lượng sản phẩm ra nhiều thị trường
ngoài nước để tiêu thụ, mở rộng quy mô kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận và nâng cao
uy tín DN trên thị trường quốc tế. Thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của DN không
chỉ là việc phát triển thêm những thị trường mới mà còn phải làm tăng thị phần của
hàng hoá nông sản trên các thị trường đã có sẵn [17]. Nói cách khác, thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản là DN sử dụng các biện pháp để gia tăng mức tiêu thụ sản
phẩm, thị phần ở thị trường cũ và mở rộng các thị trường mới [92].
Ở góc độ quốc gia, thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản là các biện pháp mà quốc
gia đó đưa được sản phẩm của nước mình thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường quốc tế,
mở rộng được phạm vi địa lý của thị trường và kết quả là tăng được kim ngạch xuất
khẩu từ sản phẩm đó [85]. Đây là sự kết hợp giữa hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá nông sản của tất cả các DN và các hoạt động hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà
nước trong quốc gia đó. Các DN là người trực tiếp thực hiện thúc đẩy xuất khẩu đối với
các mặt hàng mà DN sản xuất, kinh doanh, từ đó góp phần tạo nên thị trường xuất khẩu
rộng lớn cho quốc gia đối với từng mặt hàng nông sản cụ thể [89]. Nếu quốc gia nào làm
tốt thúc đẩy xuất khẩu thì sự hiện diện của hàng hoá quốc gia đó trên thị trường quốc tế
ngày càng được mở rộng và thương hiệu sản phẩm ngày càng được nhiều người tiêu
dùng nước ngoài biết đến. Trong thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản, Nhà nước và
các tổ chức liên quan đóng vai trò quan trọng thông qua việc đề ra các chiến lược xuất
khẩu và định hướng thị trường cho từng ngành hàng và cho các DN trong nước [44].
Các bộ, ngành, các tổ chức xúc tiến thương mại, các đại diện thương mại và ngoại giao
ở nước ngoài cùng phối hợp để giới thiệu hàng hoá của quốc gia với bạn hàng quốc tế,
hỗ trợ các DN trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, dự báo thị trường xuất khẩu, cung cấp
những thông tin cập nhật về thị trường cho DN. Trong quan hệ đối ngoại, việc nhà nước
46
nỗ lực tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế thông qua ký kết các hiệp định thương mại
song phương, đa phương, đồng thời tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế cũng là
một nội dung quan trọng của để thúc đẩy xuất khẩu [13].
Cần phân biệt giữa “thúc đẩy xuất khẩu”, “phát triển xuất khẩu” và “mở rộng
xuất khẩu”. Thúc đẩy xuất khẩu là biện pháp, cách thức để đưa hàng hoá thâm nhập
vào thị trường nước ngoài, mở rộng mới thị trường xuất khẩu, tăng cường số lượng
hàng xuất khẩu ở những thị trường đã có [16]. Mục tiêu của thúc đẩy xuất khẩu là tăng
cả về chất và lượng xuất khẩu đối với một loại hàng hoá cụ thể. Phát triển xuất khẩu là
quá trình biến đổi xuất khẩu về mọi mặt, từ số lượng đến chất lượng, cơ cấu xuất khẩu
nhằm tăng hiệu quả xuất khẩu trong một thời kỳ [12]. Thực hiện thúc đẩy xuất khẩu
mới có phát triển xuất khẩu. Hay phát triển xuất khẩu là kết quả của thúc đẩy xuất
khẩu. Mở rộng xuất khẩu là sự kết hợp giữa mở rộng thị trường xuất khẩu của tất cả
các DN và các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước để đưa hàng hoá của nước mình thâm
nhập thị trường quốc tế, mở rộng phạm vi địa lý của thị trường và làm tăng kim ngạch
xuất khẩu [31].
Ở một khía cạnh hẹp hơn, “thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của một quốc gia
trong bối cảnh mới là việc là tổng hợp tất cả các biện pháp, cách thức mà Chính phủ
(trực tiếp hay gián tiếp tác động tới DN và các tổ chức liên quan) thực hiện, có tính
đến những tác động của bối cảnh (chủ yếu là những thay đổi của các mối quan hệ quốc
tế mới) gây ảnh hưởng tới khả năng sản xuất, kinh doanh trên thị trường quốc tế của
hàng hoá nông sản quốc gia bằng cách phát huy lợi thế, nắm bắt cơ hội, khắc phục hạn
chế, vượt qua thách thức nhằm khai thác có hiệu quả thị trường xuất khẩu hiện tại và
tìm kiếm, thâm nhập thị trường ngoài nước để tăng được gia tăng sản lượng XK, tăng
mạnh kim ngạch XK, đa dạng hóa các mặt hàng XK” [17].
2.3.2. Vai trò của thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới
Thứ nhất, thúc đẩy XK làm gia tăng quy mô XK. Để đảm bảo thành công cho
thúc đẩy xuất khẩu cần phải nghiên cứu thị trường, xác định điều kiện thị trường, đặc
điểm khách hàng và nhu cầu khách hàng tại địa bàn mới để đưa ra các chiến lược tiếp
cận thị trường phù hợp [154]. Các bối cảnh bên trong và bên ngoài hoạt động xuất khẩu
nông sản thường xuyên thay đổi và đặt ra những yêu cầu mới cũng như cơ hội, thách
thức mới. Điều này đòi hỏi các hành động trên phải được thực hiện thường xuyên, liên
tục. Từ đó, các nhà quản lý hay các DN XK cũng cần xác định được điểm mạnh, điểm
47
yếu của đối thủ cạnh tranh để có những hoạt động hợp lý trong việc cạnh trạnh trên thị
trường; đa dạng hoá theo yêu cầu của khách hàng cũng là điều cần thiết [21]. Nắm bắt
bối cảnh mới và có những hành động thúc đẩy kịp thời, phù hợp sẽ giúp sự hiện diện của
hàng nông sản tại các thị trường nước ngoài có thể được tăng cường bằng cách đa dạng
hoá sản phẩm, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu [156]. Từ đó, thúc đẩy XK hàng hoá
nông sản sẽ làm gia tăng quy mô XK.
Thứ hai, thúc đẩy XK làm thay đổi trình độ và năng lực XK. Bối cảnh mới luôn
thay đổi cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, mối quan hệ hợp tác và cạnh
tranh giữa các quốc gia. Chính vì vậy, các hoạt động thúc đẩy XK hàng hoá nông sản
cũng luôn phải điều chỉnh theo hướng cập nhật công nghệ hiện đại trong sản xuất, kinh
doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Điều này thể hiện ở sự gia tăng về tốc độ
phát triển, tốc độ tăng trưởng kim ngạch, sự chuyển dịch về cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị
trường XK, sự khai thác sâu hơn thị trường hiện tại nhằm tăng thêm thị phần trên thị
trường [135]. Tạo sự thay đổi trong chất lượng của hoạt động xuất khẩu bằng việc nâng
cao chất lượng sản phẩm, thay đổi phương thức xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm
xuất khẩu, nâng cao năng lực sử dụng nguồn lực nhằm tạo ra sự phát triển ổn định và
thu được giá trị gia tăng lớn hơn bên cạnh đó đảm bảo thực hiện hài hoà việc bảo vệ môi
trường và an sinh xã hội. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu thể hiện ở sự chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu từ các sản phẩm sử dụng nhiều tài nguyên, lao động rẻ, giá trị gia tăng
thấp sang các sản phẩm và dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng cao trên cơ sở sử dụng các nhân
tố làm tăng năng suất, chất lượng, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hạn chế khai thác tài
nguyên không tái tạo [118]. Đó là sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng hiện đại,
phù hợp với xu hướng biến động của thị trường thế giới.
Thứ ba, thúc đẩy XK làm nâng cao hiệu quả XK, thể hiện thông qua giá trị gia
tăng của sản phẩm, nâng cao tỷ trọng sản phẩm XK vào tổng kim ngạch XK của nền
kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực phục vụ cho phát triển XK [107].
Thúc đẩy XK hàng nông sản đặt trong bối cảnh mới là nắm bắt những cơ hội mới,
không ngừng cải tiến để vượt qua thách thức nên không chỉ giúp cho hàng XK cải
thiện được tỷ trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng mà còn đem
lại lợi ích và hiệu quả, tác động tích cực nhiều mặt cho nền kinh tế [86], giúp tăng thu
ngoại tệ cho đất nước, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của quốc gia, cải thiện thu nhập cho người sản xuất, kinh doanh xuất khẩu, hình
48
thành một nền sản xuất lớn, bền vững ít bị ảnh hưởng bởi các vấn đề bất ổn thị trường,
giới hạn nguồn cung khi mà quá trình CNH, HĐH và mức độ đô thị hóa đang diễn ra
một cách nhanh chóng.
Thứ tư, thúc đẩy XK hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, thể hiện ở việc
trồng trọt, canh tác và chế biến sản phẩm gắn với bảo vệ môi trường sẽ góp phần vào
quá trình tăng trưởng XK ổn định trong tương lai và ít tác động bởi các yêu tố bên
ngoài [87]. Bối cảnh mới dưới áp lực của các vấn đề toàn cầu khiến cho thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản không thể nằm ngoài yêu cầu về bảo vệ môi trường,
giảm thiểu tổn thất của quá trình “tăng trưởng bất chấp” trước kia và hướng tới phát
triển bền vững, lâu dài. Chính vì vậy, để đảm bảo phát triển xuất khẩu với bảo vệ
môi trường cũng cần tính đến nhu cầu về những sản phẩm thân thiện môi trường
trên thế giới, đặc biệt là ở những nước nhập khẩu. Nhu cầu về các loại sản phẩm
thân thiện môi trường trên thế giới ngày càng cao. Điều này bắt buộc các nhà xuất
khẩu phải đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về an toàn và vệ sinh trong sản xuất
và trao đổi hàng hóa xuất khẩu [82]. Ngược lại, người tiêu dùng cũng phải thay đổi
nhận thức để chấp nhận chi phí môi trường và sẵn sàng hoàn trả chi phí đó. Đây là
một vấn đề mâu thuẫn trong sản xuất và trao đổi hàng hóa thân thân thiện môi
trường. Mâu thuẫn này thể hiện thông qua việc chấp nhận hay không chấp nhận các
chi phí môi trường trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa xuất khẩu.
2.3.3. Yêu cầu đối với chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong
bối cảnh mới
Thứ nhất, xuất khẩu hàng nông sản phải đảm bảo các cam kết của FTA.
Việc là thành viên kinh tế của một khu vực mậu dịch tự do buộc các quốc gia
phải đảm bảo thực hiện các cam kết của mình ngoài những quyền lợi được hưởng.
Một số các cam kết cần chú ý như cam kết thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan
đối với hàng nông sản [82]. Các quốc gia cần phải quan tâm tới danh mục các hàng
hoá áp đặt mức thuế quan chung cũng như lộ trình giảm thuế để có chiến lược thực
hiện phù hợp. Bên cạnh đó, các nước cũng cần có chính sách hỗ trợ sản xuất trong
nước cũng như trợ cấp xuất khẩu phù hợp theo cam kết quốc tế.
Dưới tác động của các FTA thế hệ mới, nguyên tắc dỡ bỏ dần các hàng rào phi
thuế quan được đặt ra rất rõ ràng nhưng các điều kiện về chất lượng và vệ sinh an toàn
thực phẩm luôn được đề cao và không coi là hàng rào phi thuế quan [81]. Các nước
49
nhập khẩu hàng nông sản không chỉ yêu cầu hàng hoá phải thỏa mãn được các điều
kiện về chất lượng, độ đồng đều, an toàn vệ sinh mà còn cần phải chứng minh được cả
những tiêu chuẩn nghiêm khắc về chế độ nuôi trồng và tính bền vững trong việc sử
dụng tài nguyên thiên nhiên. Hiệp định về biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) của WTO
xác định các nguyên tắc và quy định về vệ sinh cũng như tiêu chuẩn sản xuất khác đối
với nông sản xuất khẩu [161]. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện
đại có thể thay đổi cách thức sản xuất, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có chất
lượng cao hơn, tốt hơn cho sức khoẻ con người cũng như cách thức bảo quản, vận
chuyển hiệu quả hơn. Những chính vì thế mà đòi hỏi về hàng hoá nông sản của các
nước phát triển cũng ngày càng cao hơn. Cho đến nay, các tiêu chuẩn quốc tế về nông
sản và thực phẩm đều quy định rất khắt khe về quá trình sản xuất, thu hoạch nông sản.
Trong đó, chu trình nông nghiệp an toàn (GAP) đòi hỏi không có dư lượng thuốc trừ
sâu và thuốc kích thích tăng trưởng trong nông sản phẩm hàng hóa [105].
Bên cạnh đó, dưới yêu cầu của các FTA thế hệ mới, việc xác định xuất xứ của
hàng hóa là một trong những nội dung quan trọng trong xuất nhập khẩu hàng hóa nói
chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng mà hải quan tiến hành. Đây là căn cứ để
xác định nguồn gốc của hàng hóa, áp và tính thuế xuất, nhập khẩu cũng như các công
việc khác có liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu [100]. Cho đến nay, nhiều Hiệp
định thương mại đã coi yêu cầu về xuất xứ hàng hoá là một nội dung quan trọng khi
thực hiện xuất nhập khẩu hàng hoá. Việc bảo đảm, xác định xuất xứ hàng hóa nói
chung, hàng nông sản xuất khẩu nói riêng là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng, bảo vệ lợi ích của Chính phủ, và bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất. Đây là những
đòi hỏi, yêu cầu rất chính đáng, được các nước và tổ chức thương mại thế giới thừa
nhận. Tuy nhiên, việc quy định rất khắc khe, phức tạp như thế là thách thức rất lớn
đối với hàng nông sản xuất khẩu.
Thứ hai, quy hoạch phát triển nguồn hàng nông sản một cách bền vững
Dưới tác động của các vấn đề toàn cầu cũng như các thay đổi về nhu cầu tiêu
dùng hàng hoá nông sản trên thị trường thế giới, để tìm kiếm các thị trường xuất
khẩu nông sản ổn định, Chính phủ cần phải tổ chức sản xuất theo quy hoạch, lợi thế
từng vùng, từng địa phương một cách khoa học, bài bản và có tính thực tiễn cao.
Điều này đòi hỏi việc sản xuất và tiêu thụ phải gắn liền thành một chuỗi chặt chẽ, có
tính pháp lý, vừa quản lý được chất lượng hàng hóa, vừa chia sẻ được lợi ích một
50
cách hài hòa trong chuỗi giá trị đó. Sản xuất nông sản vừa phải xây dựng được
thương hiệu, tuân thủ nghiêm kỉ luật sản xuất và kỉ luật thị trường trong thu hoạch,
chế biến tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Sản xuất với năng suất cao, chất lượng đảm
bảo và giá cả cạnh tranh. Bên cạnh đó, việc sản xuất phải đảm bảo về chất lượng môi
trường, giảm thiểu sử dụng hoá chất (nhất là hoá chất độc hại) trong sản xuất nông
sản. Các giao dịch hàng hóa nông sản trên thị trường trong và ngoài nước phải đảm
bảo tính công khai minh bạch, có đầy đủ dữ liệu thông tin về hàng hóa và thị trường.
Các giao dịch này tiến tới nhất thiết phải thông qua các sàn giao dịch hàng hóa nông
sản độc lập hoặc qua các chợ đầu mối được thiết lập 1 cách hiện đại đủ tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế. Giao dịch hàng hóa sẽ được thông qua hợp đồng, không bị ép
cấp, ép giá, đem lại thua thiệt phần lớn cho người sản xuất. Sản xuất ra hàng hóa nếu
dư thừa hoặc đang chờ bán thì phải có những kho dự trữ lớn. Hệ thống phân phối
phải được xây dựng theo quy hoạch chung của địa phương và trên toàn quốc cũng
như theo quy hoạch thị trường quốc tế. Việc đẩy mạnh cấp mã số vùng nuôi trồng, số
hoá quản lý nguồn hàng trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Chính phủ cũng như các cơ quan chức năng (các Bộ, ngành) địa phương cần
có hỗ trợ hợp lý, hiệu quả nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp XKHHNS như
tiếp cận đất đai để phát triển sản xuất, xây dựng chuỗi phân phối để thúc đẩy sản
xuất lớn và tiêu thụ trên thị trường quốc tế, xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại, giao
thông cho giao lưu hàng hoá nhằm giảm bớt các chi phí logistics và các chi phí khác
cho doanh nghiệp XKHHNS.
Cần coi trọng công tác nghiên cứu và phát triển về sản xuất, XKHHNS bền
vững và hiệu quả. Chính phủ cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ xúc tiến thương mại,
mở rộng thị trường XK để hàng NS không chỉ phụ thuộc và một vài thị trường chính.
Các hoạt động kiểm soát thị trường cũng cần triển khai mạnh mẽ như chống hàng giả,
hàng kém chất lượng, buôn lậu, tham nhũng gây thiệt hại cho các DN chân chính.
Thứ ba, nghiên cứu, nắm bắt kịp thời thông tin về tình hình biến động của thị
trường hàng nông sản thế giới
Trong thời đại công nghiệp 4.0 cần coi trọng việc sử dụng các thành tựu của
trí tuệ nhân tạo, data dữ liệu , internet vạn vật để thu thập và xử lý thông tin phục vụ
cho sản xuất và tiêu thụ hàng hóa một cách khoa học nhanh chóng và hiệu quả.
51
Chính phủ cần xây dựng các trạm thu nhận thông tin ở các thị trường XKNS,
nâng cao hiệu quả công tác thông tin và dự báo ngắn hạn, trung hạn về thị trường NS
quốc tế để có những phân tích, tư vấn chính xác cho việc điều chỉnh chính sách thúc
đẩy XKHHNS. Các trung tâm thông tin sử dụng thế mạnh phần mềm hiện đại, tập
hợp dữ liệu lớn và thường xuyên cập nhật để kịp thời nắm bắt được xu hướng thiếu
hụt của thị trường, những thay đổi trong nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng và cung cấp
cho các DN, tổ chức liên quan đến XKHHNS.
2.3.4. Điều kiện thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới
Để chính phủ thúc đẩy XKHHNS hiệu quả trong bối cảnh mới, các điều kiện
cần được đảm bảo như sau:
Thứ nhất, chuẩn bị năng lực cạnh tranh mới cho hàng hoá nông sản xuất khẩu
phù hợp với bối cảnh mới. Tất cả các hàng hoá chuẩn bị cho xuất khẩu phải được rà
soát và đảm bảo giá trị dinh dưỡng cao, tập trung vào các hàng hoá nông sản là lợi thế
của quốc gia và có lợi cho sức khoẻ người tiêu dùng. Cơ cấu sản phẩm phải đáp ứng
được nhu cầu của thị trường thế giới. Chất lượng NS ổn định là một trong những điều
kiện quan trọng để việc thúc đẩy XK trở nên hiệu quả hơn, đặc biệt trong bối cảnh mới
khi các yêu cầu kỹ thuật trong FTA ngày càng cao và chặt chẽ nhất là đối với vấn đề
vệ sinh, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc vì sẽ giảm thiểu các đơn hàng XK bị
trả về do không đạt yêu cầu trong quá trình sản xuất và chế biến. Bên cạnh đó, năng
lực cạnh tranh của hàng NSXK còn phải thể hiện ở việc đảm bảo sản phẩm sản xuất
theo các tiêu chuẩn bền vững, có đủ chứng nhận quốc tế (ví dụ: GAP), mức độ tổn thất
do hư hỏng, nhiễm khuẩn thấp… Ngoài đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá cả cạnh
tranh cũng là vấn đề được xem xét. Trong đó, giảm chi phí sản xuất là điều kiện quan
trọng giúp giá cả hàng hoá có thể cạnh tranh trên thị trường. Các chi phí logistics chỉ
giảm khi hạ tầng vận tải cải thiện hiện đại, trang thiết bị cơ sở vật chất vận hành chuỗi
cung ứng lạnh hiện đại, vận hành hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng chuỗi liên kết giá trị và chính sách bảo hiểm thích hợp.
Chuỗi giá trị bắt đầu từ các nhà cung ứng yếu tố sản xuất, nhà sản xuất, nhà cung cấp
dịch vụ hỗ trợ tới nhà xuất khẩu. Trong đó, công nghiệp chế biến cần được phát triển.
Đồng thời, các chính sách bảo hiểm phù hợp được thiết kế trên cơ sở xử lý rủi ro, đối
mặt với những biến động thị trường. Nhờ vậy, đáp ứng các yêu cầu, quy định ngày
càng khắt khe của thị trường cả về kinh tế, xã hội và môi trường của thị trường toàn
52
cầu. Bên cạnh đó, đa dạng hoá thị trường XK, chủ động khai thác các cơ hội, lợi thế từ
hội nhập quốc tế cũng là điều kiện quan trọng cho thúc đẩy XKHHNS được hiệu quả.
Thứ ba, tăng cường năng lực thông tin, dự báo, cảnh báo, đàm phán, giải quyết
tranh chấp trên thị trường quốc tế. Việc tồn tại các các Hiệp hội XKNS là điều kiện
nâng cao hiệu quả điều phối, đàm phán, giải quyết tranh chấp nhằm thúc đẩy các hoạt
động XKHHNS; tăng cường đàm phán với các nước về việc thừa nhận chung các tiêu
chuẩn, kỹ thuật đang áp dụng tại Việt Nam. Các trung tâm nghiên cứu thị trường cũng
giúp việc các bên có liên quan hiểu rõ về nhu cầu NSXK, tạo điều kiện đàm phán mở
cửa thị trường, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và thực hiện các hoạt động hỗ
trợ DN tìm kiếm đối tác.
2.3.5. Nội dung thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của chính phủ trong
bối cảnh mới
2.3.5.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong
bối cảnh mới
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ có vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản thông qua xây dựng chiến lược, kế hoạch một cách tổng thể. Dưới tác
động của các FTA, quốc gia thành viên luôn có lợi thế lớn về những cam kết dành
ưu đãi cho nhau, vì vậy, chiến lược xuất khẩu hàng hoá nông sản phải tính đến
những giá trị này [82].
Chiến lược xuất khẩu hàng hoá nông sản thường được xây dựng ở dài hạn,
trong đó phải lồng ghép vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển
ngành nông nghiệp và chiến lược xuất khẩu quốc gia. Mục tiêu của chiến lược xuất
khẩu hàng hoá nông sản là tạo điều kiện khai thác tối đa và hiệu quả những nguồn lực,
lợi thế so sánh của đất nước về hàng nông sản để xuất khẩu, đồng thời tận dụng tối đa
cơ hội là thành viên trong các FTA để tăng kim ngạch xuất khẩu [86].
Để xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới, trước
hết phải thu thập và phân tích các thông tin chính trị, kinh tế, xã hội cũng như thông
tin thị trường của tất cả các nước nhập khẩu hướng tới, làm cơ sở cho định hướng thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản. Các thông tin thu thập được đưa vào phân tích để
thấy được nhu cầu thị trường đối với hàng nông sản ở các nước có quan hệ thương mại
như thế nào, lợi thế so sánh trong sản xuất mặt hàng nào mà quốc gia có được, điều
kiện thuận lợi và khó khăn trong việc xuất khẩu hàng nông sản sang các nước trong
53
này… Từ đó, Chính phủ xác định mặt hàng nông sản mũi nhọn có thể xuất khẩu và tập
trung chuyên môn hoá sản xuất. Chiến lược xuất khẩu hàng hoá nông sản vạch ra
những phương hướng và biện pháp khai thác nguồn lực của đất nước một cách có hiệu
quả nhất, bao gồm nguồn lực tự nhiên, nguồn lực tài chính và nguồn lực con người,
trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương, mỗi ngành đối với sản xuất
mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đã được xác định [92]. Từ đó, chiến lược xuất khẩu
hàng nông sản đưa ra các định hướng giúp hàng nông sản của quốc gia thâm nhập và
mở rộng thị trường quốc tế. Nội dung cơ bản của chiến lược là hệ thống chỉ tiêu phát
triển xuất khẩu hàng hoá nông sản cần đạt được trong mỗi thị trường cụ thể.
Chiến lược xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới vừa là những định
hướng vừa là những công cụ, phương tiện giúp nhà nước quản lý hoạt động XKHHNS
có hiệu quả. Trong quá trình hoạch định chiến lược, Nhà nước điều chỉnh, quản lý và
duy trì sự cân bằng các lợi ích, đặc biệt là lợi ích phát triển kinh tế gắn liền với mục
tiêu phát triển bền vững trong từng giai đoạn phát triển [119].
Chú ý, ngoài các chiến lược chung liên quan đến XKHHNS, chính phủ cũng
cần chú trọng xây dựng những chiến lược riêng đối với các thị trường trong khu vực
mậu dịch tự do, các quốc gia có thể có các chiến lược thúc đẩy XKHHNS cụ thể như:
Chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu vào một quốc gia thành viên, Chiến lược
chiếm lĩnh thị trường khu vực.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng chiến lược, Chính phủ tiến hành xây
dựng kế hoạch, chính sách cụ thể thúc đẩy XKHHNS theo các FTA.
Kế hoạch XKHHNS là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm định hướng
cho hoạt động XKHHNS trong khu vực mậu dịch tự do một cách cụ thể. Khác với
chiến lược mang tính dài hạn, kế hoạch chủ yếu mang tính trung hạn và ngắn hạn. Kế
hoạch XKHHNS là việc bố trí nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để thực hiện. Kế
hoạch nói chung và kế hoạch XKHHNS nói riêng có ở nhiều cấp độ: kế hoạch cấp
quốc gia, cấp ngành, địa phương, đơn vị xuất nhập khẩu. Dưới giác độ QLNN, người
ta thường chú trọng kế hoạch cấp quốc gia và cấp ngành trong trung hạn (5 năm).
Chương trình XKHHNS là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các
quy tắc, các nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu
tố cần thiết khác để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định để thúc đẩy
XKHHNS trong bối cảnh mới. Chương trình có thể lớn và dài hạn, trung hạn và ngắn
54
hạn. Dựa vào các chương trình, Nhà nước thành lập trình tự các hoạt động cần thiết để
thực hiện các mục tiêu XKHHNS [92].
Để chiến lược, kế hoạch và chương trình XKHHNS trong bối cảnh mới có chất
lượng và khả thi cao, cần phải đáp ứng được những yêu cầu sau: Sự phù hợp của hoạch
định chiến lược, kế hoạch về XKHHNS với trình độ phát triển KTXH và yêu cầu bảo
đảm sự phát triển bền vững của đất nước; Cần thiết phải có một hệ thống cơ quan
QLNN đối với XKHHNS đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả chiến lược, kế hoạch với
phương châm vừa tinh gọn vừa hiệu quả; Sự phù hợp của cơ chế trong QLNN đối với
XKHHNS như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ chế báo cáo của tổ chức
cá nhân và thanh tra, cơ chế bảo đảm lợi ích của người dân, DN và Nhà nước [27].
2.3.5.2. Xây dựng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Chính sách XKHHNS trong bối cảnh mới là một bộ phận của chính sách
TMQT của một quốc gia, là tổng thể các biện pháp, công cụ và cách thức mà Nhà
nước tác động vào quá trình XKHHNS, phù hợp với sự thay đổi của bối cảnh quốc tế,
nhằm đạt được các mục tiêu trong từng giai đoạn [18].
Nhà nước sử dụng những chính sách theo hướng khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy
và điều chỉnh nhằm tác động tới hoạt động XKHHNS trong ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn. Chính sách XKHHNS trong khu vực mậu dịch thường khá giống với chính sách
XHNS quốc gia. Tuy nhiên, nó có thêm những chính sách mang tính đặc thù, phù hợp
với những cam kết song phương, đa phương trong khu vực mậu dịch tự do [16].
Những chính sách thúc đẩy nông sản điển hình như:
- Chính sách thị trường, chính sách mặt hàng XKHHNS và chính sách xúc tiến
thương mại (XTTM).
Chính sách thị trường nông sản hướng đến các vấn đề về giá và marketing sản
phẩm nông sản (đặc biệt là những sản phẩm mũi nhọn đã xác định trong chiến lược
xuất khẩu hàng hoá nông sản trong khu vực). Chính sách thị trường hướng tới mục
tiêu chủ yếu là: bảo vệ người sản xuất và người tiêu dùng nông sản; ổn định hoặc tăng
giá bán ra tại trang trại; cải tiến và nâng cao tiêu chuẩn chất lượng của nông sản [81].
Chính sách mặt hàng XKHHNS là việc xác định cơ cấu mặt hàng NSXK trong
ngắn hạn và dài hạn, xác định mặt hàng xuất khẩu chủ lực, mặt hàng xuất khẩu tiềm
năng và mặt hàng xuất khẩu mới [75]. Cơ cấu mặt hàng NSXK có thể xét trên nhiều
giác độ: hàng nông sản là sản phẩm chăn nuôi, trồng trọt, nguyên liệu dạng thô,
55
nguyên liệu sơ chế, nông sản chế biến sâu, chế biến tinh; là lương thực đồ uống, thực
phẩm; mặt hàng chủ lực, sản phẩm mới, sản phẩm tiềm năng.
- Chính sách tín dụng XKHHNS: Nhà nước đưa ra các hình thức tín dụng ưu đãi
đối với hoạt động XKHHNS nhằm một số mục tiêu: khắc phục sự hạn chế tăng trưởng
sản lượng NSXK do thiếu tiền đầu tư trong nông nghiệp và mua các đầu vào cho sản
xuất NSXK; thúc đẩy sự lựa chọn kỹ thuật mới cho sản xuất NSXK của nông dân bằng
cách cung cấp vốn lưu động cho họ; Giúp nông dân bớt khó khăn do phải vay từ các
nguồn tín dụng không chính thức khi lãi suất cao, không có tài sản thế chấp, thiếu
thông tin...; bù đắp cho nông dân sản xuất NSXK những bất lợi do những chính sách
khác không thuận lợi đối với họ như giá phân bón và các đầu vào khác cao [26]. Nhà
nước thực hiện phân bổ tín dụng cho nông dân thông qua các tổ chức tín dụng của Nhà
nước, do Nhà nước điều tiết để đạt được những mục tiêu như tăng sản lượng, công
bằng trong sản xuất nông nghiệp thông qua: tỷ lệ lãi suất thấp, cho vay theo mục tiêu,
điều tiết các khoản đầu tư cho vay và tín dụng bằng hiện vật như cung cấp phân bón,
giống mới cho XKHHNS...[32].
- Chính sách bảo hiểm XKHHNS: Trước bối cảnh rủi ro tăng cao trong hoạt
động TMQT và những khó khăn kinh tế trên toàn cầu hiện nay, Nhà nước sử dụng
hình thức bảo hiểm XKHHNS mục đích đối phó với các rủi ro, tăng tính cạnh tranh,
tăng ưu thế trong việc tiếp cận nguồn tín dụng cho các DN XKHHNS [35]. Các rủi ro
bao gồm: Rủi ro liên quan đến thời tiết; Rủi ro về giá của NSXK; Rủi ro thương mại
đến từ việc soạn thảo hợp đồng không chặt chẽ, cả hợp đồng nội với hợp đồng ngoại;
Và rủi ro liên quan đến thể chế. Bảo hiểm XKHHNS là giúp bù đắp thiệt hại, khắc
phục tổn thất khi phát sinh rủi ro đối với hàng hóa NSXK và góp phần ngăn ngừa, đề
phòng và hạn chế tổn thất trong quá trình XKHHNS. Qua đó, góp phần quan trọng
trong việc ổn định tài chính cho DN XKHHNS [61]. Các DN XKHHNS khi nhận
được trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời sẽ nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định lại
hoạt động, sẵn sàng cho đợt XKHHNS tiếp theo. Nhờ có bảo hiểm XKHHNS, chủ DN
sẽ không phải mạo hiểm với vốn đầu tư trong trường hợp xảy ra rủi ro đối với hàng
hóa XKHHNS [62]. Từ đó, ngân hàng cũng sẽ nới lỏng hoạt động cho DN vay vốn để
tiến hành XKHHNS.
- Chính sách tỷ giá hối đoái: là một công cụ quan trọng trong việc thực hiện
chiến lược xuất khẩu nói chung, trong đó có XKHHNS. Chính sách tỷ giá có thể khuyến
56
khích hoặc hạn chế XKHHNS [82]. Chính sách tỷ giá hối đoái được xây dựng cụ thể
điều chỉnh tỷ giá hối đoái của nước xuất khẩu với các nước nhập khẩu. Muốn thúc đẩy
xuất khẩu, đồng tiền nước xuất khẩu thấp một cách tương đối so với đồng tiền các nước
khác, đồng thời phải thực hiện các biện pháp giảm lạm phát [37].
- Chính sách trợ cấp nông nghiệp: là hình thức hỗ trợ của Chính phủ cho việc
sản xuất, tiêu thụ nông sản (cho sản xuất nông nghiệp nói chung, cho một vùng nông
nghiệp hoặc cho sản phẩm chủ lực để xuất khẩu). Sự hỗ trợ có thể thực hiện theo các
hình thức: hỗ trợ trực tiếp bằng tiền từ ngân sách, qua miễn, giảm thuế, mua với giá
cao hơn bình thường... [35]. Theo quy định của WTO, các trợ cấp trực tiếp cho
XKHHNS đều bị cấm hoàn toàn đối với những nước gia nhập sau 1-1- 1995. Tuy
nhiên, các loại trợ cấp nội địa đối với nông nghiệp được phép thực hiện nhưng theo
những điều kiện và giới hạn cụ thể.
- Chính sách khuyến khích chuyển đổi số và phát triển thương mại điện tử:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã hình thành sự phát triển của nền kinh tế số làm
thay đổi phương pháp tiếp cận thị trường. Thương mại điện tử giúp các quốc gia dễ
dàng hơn trong việc marketing hàng hoá nông sản và ký kết hợp đồng trao đổi. Chính
sách khuyến khích phát triển thương mại điện tử phải bắt đầu từ việc chính phủ hỗ trợ
DN nhanh chóng chuyển đổi số, thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh nhằm
nâng cao quản lý xuất xứ, chất lượng, tạo niềm tin cho các đối tác ở thị trường nhập
khẩu và mở rộng thị trường tiềm năng.
2.3.5.3. Tăng cường hợp tác mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và các FTA được ký kết đã tạo điều kiện cho
các nước thành viên mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng hoá xuất khẩu, tham gia
sâu vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Về cơ hội, việc ký kết các hiệp
định FTA song phương và đa phương đã dỡ bỏ phần lớn các rào cản và điều kiện trong
thương mại, chủ yếu là các hàng rào thuế quan (hầu hết về 0 hoặc dưới 5%). Điều này
mang lại lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và triển vọng cho ngành sản xuất nông sản
xuất khẩu.
Tuy nhiên, để triển khai các FTA đã ký và có hiệu lực, Chính phủ phải ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, quy định tiêu chuẩn và quy tắc xuất xứ, biểu
thuế hàng hoá, hướng dẫn chi tiết các cam kết [23]. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần
tăng cường ký kết các hợp tác kinh tế song phương với các nước khác về xuất nhập
57
khẩu hàng nông sản với những điều kiện cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các DN xuất
khẩu hàng nông sản có hướng tiếp cận và mở rộng thị trường.
2.3.5.4. Tăng cường kiểm soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu
Đối với xuất khẩu hàng hoá nông sản trong khu vực mậu dịch tự do, rào cản
lớn nhất là các tiêu chuẩn về chất lượng bởi hàng rào thuế quan cũng như các công
cụ hạn chế thương mại khác đều bị dỡ bỏ bởi các cam kết song phương, đa phương.
Một quốc gia có lợi thế so sánh trong việc sản xuất nông sản cũng không thể xâm
nhập thị trường nước ngoài nếu chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu. Một trong
những nội dung quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản là Chính phủ
phải tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng sản phẩm, đảm bảo việc xuất khẩu an
toàn và bền vững [26].
Các sản phẩm nông sản cần phải được kiểm tra chỉ số dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật, đảm bảo trong giới hạn cho phép trước khi xuất khẩu để tránh tình trạng bị
trả về, đền hợp đồng… Điều này đi kèm với một loạt các biện pháp tuyên truyền,
hướng dẫn người nông dân sản xuất theo quy trình “sạch”. Thực hiện cải cách trong
phương thức sản xuất hàng nông sản xuất khẩu theo hướng hiện đại. Khuyến khích
ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, loại bỏ việc sử dụng các
hoá chất độc hại [139].
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần xây dựng quy trình kiểm soát chặt chẽ từ vật tư
đầu vào đến sản phẩm đầu ra. Tăng cường các biện pháp quản lý bảo vệ thực vật, kiểm
soát chất lượng sản phẩm nông sản là nhằm thúc đẩy xuất khẩu an toàn và bền vững.
2.3.5.5. Xây dựng hệ thống thông tin và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu hàng hoá
nông sản trong khu vực mậu dịch tự do
Chính phủ thực hiện một loạt các hoạt động hỗ trợ kinh doanh, tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hỗ trợ xúc tiến
thương mại có vai trò rất quan trọng đối với các DN trong việc tìm kiếm thị trường,
tìm kiếm đối tác [87].
Các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu của
nhà nước gồm: Hỗ trợ khảo sát thị trường; Tổ chức hội chợ TMQT tại các thị trường
nhập khẩu; Hỗ trợ DN xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin điện tử về các thị trường [65].
58
2.3.6. Nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong bối
cảnh mới
2.3.6.1. Các nhân tố khách quan
Cơ chế, chính sách của nước nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được tiến hành thông qua các chủ thể ở
hai hay nhiều môi trường chính trị - pháp luật khác nhau, thông lệ về thị trường cũng
khác nhau. Tất cả các đơn vị tham gia vào TMQT đều phải tuân thủ luật thương mại
trong nước và quốc tế. Sự thành công hay thất bại của DN trong kinh doanh quốc tế
phụ thuộc phần lớn vào DN có am hiểu các chính sách, các luật lệ của nước sở tại
hay không. Mỗi một nước có hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh trực tiếp hoặc
gián tiếp các hoạt động kinh doanh quốc tế của các DN. Luật pháp quốc tế đòi hỏi
các DN phải nắm vững luật pháp các nước có đối tác tham gia, luật pháp các nước có
liên quan và những quy định quốc tế mang tính pháp lý và điều chỉnh các hoạt động
của mình cho phù hợp với những thay đổi về luật của mỗi nước [82].
Mặt hàng nông sản nhập khẩu vào một nước có thể được điều chỉnh và bị chi
phối bởi một hệ thống các luật sau đây: Luật kiểm soát ngoại hối và ngoại thương,
luật và quy định liên quan đến hàng cấm, luật và quy định liên quan đến kiểm dịch
của Chính phủ, các quy định về thuế, luật về trách nhiệm sản phẩm, các thủ tục hải
quan... [106] Nếu quốc gia nhập khẩu có hệ thống luật thông thoáng đối với các nhà
nhập khẩu nông sản, các yêu cầu kỹ thuật không cao, thì sẽ tạo điều kiện cho mặt
hàng nông sản dễ dàng thâm nhập vào thị trường nhập khẩu. Ngược lại, sẽ tạo nên áp
lực hạn chế hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông sản của quốc gia xuất khẩu.
Trong khu vực mậu dịch tự do, các cam kết dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan và
các biện pháp bảo hộ phi thuế quan tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hoá nông sản
[98]. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ sản xuất nông sản trong nước của quốc gia
nhập khẩu cũng có tác động hạn chế nhập khẩu hàng nông sản từ bên ngoài. Mặc dù
chủ trương tự do hoá thương mại trong FTA nhưng việc thực hiện vẫn cần phải có lộ
trình cụ thể [117]. Nhiều nước phát triển chi những khoản tiền rất lớn để trợ cấp sản
xuất hàng nông sản cùng với những quy định nghiêm ngặt về tiêu chuẩn kỹ thuật và
vệ sinh an toàn thực phẩm đã gây khó khăn cho hàng nông sản của nước ngoài thâm
nhập vào các thị trường này.
59
Vì vậy, chính phủ cần hỗ trợ các DN tham gia xuất khẩu hàng nông sản tìm
hiểu về các rào cản thương mại, đặc biệt là các quy định về chất lượng và kỹ thuật
đối với hàng nông sản. Nếu những quy định này hợp lý (ví dụ như các quy định về
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm) thì các DN buộc phải tuân theo. Ngược lại, nếu
những quy định này thiếu hợp lý do các quốc gia nhập khẩu muốn bảo hộ ngành sản
xuất trong nước, thì nước xuất khẩu cần nhanh chóng đàm phán với nước nhập khẩu
để dỡ bỏ.
Nhu cầu của thị trường nhập khẩu
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ quốc gia này
sang quốc gia khác. Vì thế, xuất khẩu không chỉ phụ thuộc vào nhóm nhân tố bên
trong quốc gia xuất khẩu mà còn phụ thuộc vào những nhân tố thuộc về nhu cầu
nhập khẩu. Nông sản là hàng hoá thiết yếu, cũng giống như các loại hàng hoá khác
nó cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu tiêu dùng... Nhu cầu hàng
nông sản ít co giãn với giá và thu nhập, hệ số co giãn nhỏ. Điều này có nghĩa là nhu
cầu hàng nông sản tương đối ổn định, ít biến động [100]. Khi thu nhập của người dân
cao thì cầu về nông sản chất lượng cao có xu hướng tăng lên và cầu đối với nông sản
chất lượng thấp lại giảm đi. Do đó, tỷ trọng chi tiêu cho các mặt hàng nông sản nói
chung trong tổng thu nhập về cơ bản ít biến động. Cầu về nông sản trên thị trường
thế giới do những nước chủ yếu nhập khẩu nông sản quyết định [92].
Tác động của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong những năm cuối
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thị trường nông sản thế giới ngày càng tăng trưởng nhanh
chóng, cho phép thoả mãn nhu cầu đa dạng của giới tiêu dùng về nông sản. Đó cũng
là điều kiện quyết định để tăng năng suất lao động, tăng năng suất cây trồng và chất
lượng nông sản, từ đó hạ giá thành nông sản [45]. Đồng thời nó cũng tác động cho
phép tăng cầu về nông sản ở mỗi quốc gia. Như vậy, khoa học và công nghệ đã tạo ra
hiệu quả có tính hai mặt: đa dạng hoá, nâng cao nhu cầu của khách hàng tiêu dùng
nông sản đồng thời hạ giá bán sản phẩm nông sản [92]. Vì vậy, thị trường nông sản
thế giới sẽ biến động theo chiều hướng có lợi cho cả người sản xuất và xuất khẩu
hàng hoá nông sản lẫn người nhập khẩu và tiêu dùng nông sản. Nhân tố này được
xem xét trên hai phạm vi: Trong sản xuất nông nghiệp và ngoài sản xuất nông
nghiệp, nhưng có liên quan trực tiếp đến sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản.
60
Trong sản xuất nông nghiệp, nhân tố khoa học và công nghệ bao gồm cơ giới
hóa, thuỷ lợi hóa, hóa học hóa, áp dụng những thành tựu mới của công nghệ sinh học
vào sản xuất nông sản sẽ ngày càng có vị trí quyết định trong hoạt động sản xuất và
xuất khẩu hàng hoá nông sản. Các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, khối EU đang có
nhiều ưu thế trong lĩnh vực này.
Ngoài sản xuất, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao trình độ các ngành công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
khâu chế biến và bảo quản nông sản [124]. Do phần lớn nông sản là mặt hàng thực
phẩm thiết yếu có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người tiêu dùng, nên yêu cầu về
chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm ở các nước nhập khẩu, đặc biệt là
những quốc gia nhập khẩu lớn, ngày càng đòi hỏi khắt khe, chặt chẽ hơn.
Nhân tố khoa học và công nghệ ngày càng giữ vai trò quyết định đối với khả
năng sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản. Do công nghệ bảo quản đơn giản,
hàm lượng khoa học thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác nuôi trồng,
chế biến, bảo quản, vận chuyển lạc hậu, đặc biệt là công nghệ bảo quản sau thu
hoạch kém dẫn đến tỷ lệ hư hỏng sản phẩm cao là nhân tố quan trọng đẩy giá thành
sản phẩm lên cao. Đó chính là một lý do quan trọng khiến giá nông sản xuất khẩu
của Việt Nam khó cạnh tranh được so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác
có nền khoa học và công nghệ tiến bộ trong lĩnh vực này [5].
Tác động của các vấn đề toàn cầu
Các vấn đề toàn cầu xảy ra thường xuyên gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động
thương mại quốc tế nói chung và XKHHNS của các quốc gia nói chung. Tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và đại dịch Covid tác động rõ rệt đến thị
trường hàng nông sản. Một là, làm giảm nhu cầu nhập khẩu giữa các quốc gia có
đồng tiền bị sụt giá; hai là, làm tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu giữa các quốc gia
này; ba là, làm giảm nhu cầu về các nông sản chế biến do thu nhập giảm ở các nước
chịu tác động của khủng hoảng.
Nhìn chung, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến thị trường hàng
nông sản chế biến thế giới còn phụ thuộc vào các vấn đề: Một là, tỷ giá hối đoái sẽ thay
đổi ra sao và thời gian phục hồi dài hay ngắn; hai là, chính phủ sẽ áp dụng các chính
sách gì để đối phó với khủng hoảng, nhất là các chính sách về xuất, nhập khẩu nông sản;
ba là, khả năng giải quyết vấn đề thiếu hụt tín dụng cho nhu cầu nhập khẩu [105].
61
Tuy nhiên, đối với những mặt hàng nông sản là nguyên liệu đầu vào của các
ngành công nghiệp thì kim ngạch xuất nhập khẩu đã bị sụt giảm một cách đáng kể do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và đại dịch toàn cầu.
Vận chuyển hàng nông sản trên thị trường thế giới
Vận chuyển hàng hoá nông sản trên thị trường thế giới ảnh hưởng khá nhiều
tới hoạt động xuất khẩu. Với đặc điểm hàng nông sản thường có trọng lượng nặng
nhưng lại khó bảo quản, dễ bị hỏng khiến cho rất nhiều quốc gia muốn xuất khẩu
nông sản có thế mạnh của mình mà không thực hiện được, đặc biệt là sang các quốc
gia có khoảng cách địa lý lớn [65]. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ,
các phương tiện vận chuyển, vận tải đã hiện đại hoá hơn giúp rút ngắn thời gian đưa
hàng nông sản xuất khẩu sang các thị trường khác trên thế giới. Cùng với đó, các kỹ
thuật bảo quản hàng hoá (không gây hại) cũng được nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu như
ở các nước có nền công nghệ cao, việc XKHHNS trở nên dễ dàng hơn thì ở những
nước đang phát triển với kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu thì vận chuyển trở thành một
yếu tố gây trở ngại. Phải khắc phục những khó khăn trong vận chuyển hàng nông sản
thì các quốc gia mới có thể thúc đẩy XKHHNS tới nhiều thị trường để giải quyết
những chênh lệch cung – cầu [62].
2.3.6.2. Các nhân tố chủ quan
Cơ chế chính sách của nước xuất khẩu
Thực tế cho thấy, nhiều nước đang giữ vị trí quan trọng trên thị trường xuất
khẩu hàng hoá nông sản thế giới mặc dù trình độ khoa học công nghệ thấp hơn các
nước phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản [100]. Một trong những nguyên nhân là do
các nước này có hệ thống chính sách hợp lý và hiệu quả trong tổ chức sản xuất và
xuất khẩu hàng nông sản. Có thể nói hoạt động phát triển thị trường có hiệu quả hay
không chủ yếu phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh và sự hỗ trợ tích
cực bằng chính sách kinh tế của chính phủ. Một hệ thống chính sách hợp lý có tác
dụng tích cực thúc đẩy và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản, phát
triển thị trường xuất khẩu [100].
Các chính sách nhằm phát triển thị trường có vai trò quan trọng đối với hoạt
động xuất khẩu. Tuy nhiên, đây là công việc khó khăn, phức tạp và phụ thuộc nhiều
vào mối quan hệ giữa các quốc gia. Vì vậy, chính phủ các nước cần xây dựng được
chiến lược phát triển thị trường phù hợp với từng nước, từng khu vực trên thế giới.
62
Trên cơ sở định hướng và những hiệp định song phương, đa phương được ký kết của
chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước cung cấp, các DN chủ
động giới thiệu sản phẩm nông sản tới các thị trường tiêu thụ [153]. Chính sách hỗ
trợ của chính phủ có tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông sản, nó
có tác dụng khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động xuất khẩu. Ví dụ, chính sách về
phát triển nông thôn, chính sách vùng nguyên liệu, chính sách về tỷ giá hối đoái,
chính sách thu hút đầu tư vào sản xuất nông sản xuất khẩu. Trong điều kiện hội nhập
và tự do hoá thương mại, các chính sách hỗ trợ này cần phải tuân thủ các nguyên tắc
của WTO cũng như các hiệp định đã ký kết.
Năng lực cạnh tranh của DN xuất khẩu
Năng lực cạnh tranh của DN thể hiện thực lực và lợi thế của DN so với đối
thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để đem lại lợi
nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực cạnh tranh trước hết phải được tạo ra từ nội
lực của mỗi DN. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi DN, không chỉ được tính bằng
các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị ... một cách riêng biệt
mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một
lĩnh vực, cùng một thị trường [32]. Khả năng cạnh tranh của DN thể hiện trên nhiều
mặt: chất lượng, giá cả sản phẩm, sự khác biệt của sản phẩm, năng lực tài chính, kinh
nghiệm, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực hay vị thế của DN trên thị
trường... [30]. Quyết định xuất khẩu hay không và liệu DN đã sẵn sàng thực hiện
chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường hay chưa phụ thuộc vào việc xem xét các
yếu tố trên. Nâng cao năng lực cạnh tranh của DN là một tất yếu khách quan trong
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Những đặc trưng riêng của hàng nông sản xuất khẩu
Các đặc trưng riêng có của hàng hoá xuất khẩu ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động xuất khẩu nói chung cũng như hoạt động phát triển thị trường nói riêng của mặt
hàng đó. Đối với hàng nông sản, quá trình sản xuất, thu hoạch và buôn bán mang
tính thời vụ cao. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về
chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ
hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao [2].
Chính vì vậy, đối với mỗi DN tham gia xuất khẩu hàng nông sản, việc nghiên cứu thị
trường (cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài) từ đó đưa ra những dự
63
báo phục vụ cho quá trình thu mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào lúc
trái vụ là thực sự cần thiết [18]. Bên cạnh đó, hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều
của yếu tố khí hậu, thời tiết [92]. Căn cứ vào đặc tính này các DN có thể tìm ra cơ
hội kinh doanh cho mình.
Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng
của người tiêu dùng. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu hàng nông sản, ngày
càng có nhiều yêu cầu được đặt ra đối với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn chất
lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ.... Vì vậy để xâm nhập vào
các thị trường khó tính này buộc DN phải đáp ứng được những yêu cầu mà nước
nhập khẩu đặt ra [97]. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc vào
khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến. Chính
vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến
phải được các DN đặc biệt quan tâm [95].
2.3.7. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của xuất khẩu hàng nông sản
Để có thể đánh giá kết quả và hiệu quả hàng nông sản xuất khẩu có rất nhiều
tiêu chí. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, tác giả sử dụng các tiêu chí
cơ bản sau đây:
2.3.7.1. Doanh thu hàng nông sản xuất khẩu
Doanh thu của hàng nông sản xuất khẩu là tiêu chí quan trọng, mang tính tuyệt
đối dễ xác định nhất để đánh giá hiệu quả của hàng nông sản xuất khẩu [86]. Thông
thường, khi doanh thu của một mặt hàng nông sản xuất khẩu nào đó đạt ở mức cao và
được duy trì đều đặn qua các năm, thì sẽ kéo theo sản lượng và diện tích sản xuất hàng
nông sản cũng tăng (do nhận được tín hiệu tốt từ người tiêu dùng thông qua doanh thu
tăng sẽ tác động tích cực đến người sản xuất nông sản), ngược lại, nếu nhu cầu của thị
trường đang tăng lên, nhưng diện tích, sản lượng, doanh thu suy giảm thì chứng tỏ khả
năng hạn chế của hàng nông sản thông qua khả năng cạnh tranh kém.
Doanh thu của một mặt hàng nông sản được tính bằng công thức:
TR= ∑Pi xQi i=1
Trong đó: TR: Doanh thu; Pi: Giá cả của một đơn vị sản phẩm i; Qi: Số lượng
sản phẩm i được tiêu thụ; N: Số nhóm sản phẩm được tiêu thụ
64
Ngoài ra, còn có thể xem xét tốc độ tăng trưởng quy mô xuất khẩu hàng năm
(so sánh mức gia tăng của sản lượng hay kim ngạch xuất khẩu giữa năm này với năm
khác). Tốc độ tăng trưởng được tính bằng đơn vị %.
2.3.7.2. Tỷ lệ khối lượng hàng nông sản xuất khẩu
Việc xác định tỷ lệ khối lượng hàng nông sản xuất khẩu (chủ yếu là từng mặt
hàng cụ thể như gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều...) là nhằm mục đích đánh giá được khối
lượng hàng nông sản sản xuất ra, được xuất khẩu vào thị trường các nước thành viên
trong khu vực mậu dịch tự do chiếm bao nhiêu (%) [96], đây là một trong những yếu
tố quan trọng để từ đó xây dựng giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong
tương lai, có thể xác định tỷ lệ khối lượng hàng nông sản xuất khẩu bằng công thức:
Tỷ lệ khối lượng hàng NSXK (%) = Khối lượng hàng NSXK thị trường A/Tổng
hàng NSXK
2.3.7.3. Cơ cấu và chất lượng mặt hàng xuất khẩu hàng hoá nông sản
Thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản không thể tách rời việc nâng cao chất lượng
sản phẩm, bởi đây là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sản phẩm trên
thị trường. Chất lượng hàng nông sản không ngừng được nâng cao sẽ có tác dụng tích
cực trong việc nâng cao giá trị và giá trị sử dụng cho sản phẩm, đồng thời nâng cao
năng lực cạnh tranh bằng cách tạo ra nhiều yếu tố vô hình như thương hiệu, uy tín
[51]. Điều này thực sự rất quan trọng trong việc nâng tầm giá trị DN, tạo lập tên tuổi
và thương hiệu thu hút khách hàng.
Mục đích của sự chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu là điều chỉnh sự
phát triển xuất khẩu theo hướng bền vững, hiệu quả hơn. Thực tế hiện nay, xu hướng
phổ biến của các nước là thay thế xuất khẩu các mặt hàng thô đơn giản, giá trị gia tăng
thấp bằng những sản phẩm chuyên sâu đòi hỏi nhiều chất xám và sáng tạo với giá trị
gia tăng cao. Sự chiếm lĩnh của mặt hàng XK dưới tác động của các biện pháp thúc
đẩy XK còn thể hiện ở sự tương thích của cơ cấu và chất lượng mặt hàng XK theo yêu
cầu của các thị trường XK khác nhau [44].
(1) Cơ cấu mặt hàng XK: là tỷ lệ tương quan giữa các ngành, mặt hàng XK
hoặc tỷ lệ tương quan giữa các thị trường XK. Cơ cấu các mặt hàng XK có thể thay
đổi qua các năm, thời kỳ, điều chỉnh phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thị trường
XK. Sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu được biểu hiện qua sự thay đổi tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng đó trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
65
R (A) = M (A)/ M x 100%
Trong đó R(A) : Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng A M(A) : Kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng A
M : Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
(2) Chất lượng mặt hàng XK nông sản
Chất lượng mặt hàng XK cho biết mức độ ưa thích và hài lòng của khách hàng
trên thị trường, thường thể hiện qua một số yếu tố như: (i) Giá trị sử dụng, bao gồm cả
chất lượng dinh dưỡng, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, có tác dụng trực tiếp tới
yêu cầu dinh dưỡng, sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng. (ii) Các tiêu chuẩn chất
lượng theo chuẩn mực, theo tiêu chuẩn ISO quốc tế... (iii) Các tiêu chuẩn theo quy
định cam kết trong FTA và các tiêu chuẩn của các nước. Ví dụ: dư lượng kháng sinh
và chất bảo vệ thực vật trong sản phẩm XK, các quy định về môi trường an toàn lương
thực, thực phẩm.
2.3.7.4. Thị phần hàng nông sản xuất khẩu
Mỗi loại hàng nông sản thường có những khu vực thị trường riêng với số lượng
khách hàng nhất định. Khi hàng hóa đảm bảo được yếu tố như chất lượng tốt, giá cả
thấp hơn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tốt, cơ hội kinh doanh xuất hiện, công
tác xúc tiến bán hàng hiệu quả, thương hiệu sản phẩm mạnh, kênh phân phối được mở
rộng v.v... sẽ làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và mở rộng được thị trường tiêu
thụ [42]. Thị phần của hàng nông sản xuất khẩu trên thị trường thường được tính theo
công thức sau:
Ms = (Ma/M) x100%
Trong đó: Ms: Thị phần của hàng hóa; Ma: Số lượng hàng hóa a được tiêu thụ
trên thị trường; M: Tổng số lượng hàng hóa cùng loại được tiêu thụ trên thị trường
Độ lớn của chỉ tiêu này phản ánh sức cạnh tranh của mặt hàng và vị trí của quốc
gia trên thị trường thế giới. Một mặt hàng có thị phần càng lớn trên thị trường thì mặt
hàng đó càng có sức cạnh tranh cao, tiềm năng cạnh tranh lớn. Ngược lại, một mặt
hàng có thị phần nhỏ hay giảm sút trên thị trường thì mặt hàng đó có sức cạnh tranh
yếu, khả năng ảnh hưởng của mặt hàng đối với thị trường là rất kém.
66
2.4. Kinh nghiệm thực tiễn về thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong bối cảnh
mới tại một số quốc gia
2.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Suốt thời gian qua, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện rất nhiều các hoạt động
khác nhau nhằm thúc đẩy XKHHNS, cụ thể như sau:
2.4.1.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Chính phủ Thái Lan xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp, coi đây là khu
vực kinh tế mũi nhọn bởi những lợi thế so sánh về điều kiện sản xuất. Ngành nông
nghiệp Thái Lan đang thu hút tới 60% lực lượng lao động toàn xã hội và XKHHNS,
đặc biệt là nông sản chế biến đã trở thành ngành kinh tế quan trọng đưa Thái Lan vào
danh sách các quốc gia XKHHNS hàng đầu thế giới. Đặc biệt, Thái Lan xác định
chiến lược nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu bằng cách tập trung cho những sản
phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Ngoài ra, kế hoạch chuyển đổi diện tích trồng lúa
và tăng đầu tư cho các nhà máy sản xuất NSXK được chú trọng xây dựng.
2.4.1.2. Xây dựng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Chính phủ Thái Lan có nhiều chính sách để khuyến khích và hỗ trợ phát triển
sản xuất và XKHHNS, đặc biệt là hàng chế biến [26] như:
- Chính sách giảm hoặc miễn thuế đối với doanh nghiệp sản xuất và XKHHNS:
Chính phủ Thái Lan đã áp dụng các chính sách miễn giảm thuế thu nhập, thuế kinh
doanh, thuế lợi tức cho các cơ sở chế biến mới thành lập. Các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) trong nông nghiệp được miễn giảm 50% thuế nhập khẩu đối với các
loại máy móc, thiết bị [26].
- Chính sách nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ: các khóa học tại
chỗ về kỹ thuật canh tác, chuyển giao công nghệ được mở rộng với nhiều ưu đãi nhằm
thu hút và nâng cao trình độ nguồn nhân lực nông nghiệp. Một số trường đại học của
Thái Lan như Chulalongkorn đã đầu tư thiết bị thí nghiệm, mời chuyên gia giỏi tham
gia nghiên cứu nông nghiệp, đồng thời, tạo cơ chế đãi ngộ cho nhiều nghiên cứu sinh
trẻ trong lĩnh vực nông nghiệp sang các trường đại học ở Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu.
- Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp: Thái Lan
định hướng FDI vào việc khai thác đặc sản của từng vùng, thậm chí cả những vùng
khó khăn nhất [26].
67
- Chính sách hỗ trợ tín dụng và bảo hiểm XK: Chính phủ Thái Lan dành
nhiều ưu đãi về vốn và tăng cường bảo hiểm cho người nông dân, thuế nông
nghiệp được bãi bỏ [26].
- Chính sách xây dựng chuỗi giá trị: Chính phủ Thái Lan có chính sách tăng
cường hợp tác “bốn nhà” (nhà nước, nhà khoa học, thương nhân và nông dân) làm cho
sản xuất ổn định, có hiệu quả và giữ được giá cả sản phẩm. Mối quan hệ “bốn nhà”
được gắn kết dựa trên sự kết hợp hài hòa các lợi ích.
- Chính sách hỗ trợ xúc tiến XKHHNS: Chính phủ còn tích cực hỗ trợ các
chương trình tiếp thị, tìm kiếm địa chỉ xuất khẩu những sản phẩm sau thu hoạch và chế
biến nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tiêu thụ nông sản bằng cách đẩy mạnh hình thức
hợp đồng “chính phủ với chính phủ”. Khi giá thị trường thấp, chính phủ đã tự bỏ tiền
bao tiêu nông sản cho nông dân.
2.4.1.3. Tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường
Trong những năm gần đây, Chính phủ Thái Lan đã tích cực hỗ trợ các doanh
nghiệp XKHHNS thâm nhập các nước láng giềng mới mở cửa nền kinh tế như Việt
Nam, Trung Quốc, Lào và Campuchia. Sự gần gũi về địa lý đã tạo cho Thái Lan
những lợi thế nhất định so với các nước khác. Ngoài ra, ở Châu Á, còn nhiều thị
trường nhập khẩu nông sản chế biến của Thái Lan, như: Indonesia, Malaysia,
Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc... Bên cạnh đó, Thái Lan cũng rất coi
trọng và mở rộng sang thị trường ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ. [26] Đây là những
thị trường đòi hỏi khắt khe về mặt chất lượng sản phẩm xuất khẩu cũng như các tiêu
chuẩn đi kèm như nguồn gốc xuất xứ, chỉ dẫn địa lý... Thị trường nhập khẩu nông sản
chế biến của Thái Lan ở hai châu lục này chủ yếu là các nước: Canada, Mỹ, Australia,
Thụy Sĩ, Đức, Pháp, Hà Lan...
2.4.1.4. Tăng cường đảm bảo chất lượng hàng hoá nông sản
Việc nâng cao chất lượng nông sản theo hướng phát triển bền vững đã được các
nhà khoa học giải quyết bằng con đường công nghệ sinh học. Quan trọng hơn, những
sản phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học được Chính phủ Thái Lan công nhận và
được người dân áp dụng vào sản xuất và chế biến nông sản rất hiệu quả. Thái Lan hiện
nay đi đầu sản xuất và xuất khẩu vi sinh vật cho nông nghiệp.
Thái Lan luôn luôn chú trọng việc đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn
thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, tính toàn vẹn môi trường, trách nhiệm xã hội và nội
68
quy lao động. phát triển hệ thống chứng nhận tiêu chuẩn nuôi trồng và cải thiện kết
quả xét nghiệm.
2.4.1.5. Xây dựng hệ thống thông tin và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
Chính phủ Thái Lan đã hỗ trợ và khuyến khích DN xây dựng thương hiệu để
tiếp cận với thị trường quốc tế. Cho đến nay, thương hiệu của nhiều sản phẩm nông
nghiệp chế biến được biết đến và nổi tiếng thế giới. Thái Lan có nhiều mặt hàng xuất
khẩu đứng đầu thế giới về giá trị xuất khẩu, như gạo, thủy sản, hoa quả. Ngoài ra, Thái
Lan cũng đang cố gắng để trở thành “bếp ăn của thế giới”. Thủy sản của Thái Lan
được đánh giá là một đầu mối quan trọng trong thương mại thủy sản toàn cầu. Gạo của
Thái Lan được biết đến với loại gạo có phẩm cấp và chất lượng cao, được nhiều thị
trường cao cấp chấp nhận. Trái cây cũng là một thương hiệu mà người tiêu dùng trên
thế giới, đặc biệt là người tiêu dùng trong khu vực lựa chọn [26].
2.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
2.4.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Với mục tiêu trở thành quốc gia XKHHNS lớn hàng đầu thế giới, Trung Quốc
đã xây dựng chiến lược đa dạng hóa chủng loại sản phẩm và nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng nông sản xuất khẩu. Mặc dù vậy, Trung Quốc có chiến lược lựa chọn mặt
hàng XK rất rõ ràng, khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung vào các
sản phẩm có ưu thế về xuất khẩu [21].
Bên cạnh “Kế hoạch Đốm lửa” tập trung phát triển khoa học nông nghiệp hiện
đại để nâng cao chất lượng hàng hoá nông sản, “Kế hoạch Bó đuốc” được thực hiện
với phương châm: lấy thị trường làm hướng đi, thúc đẩy thương phẩm hóa thành quả
công nghệ cao công nghiệp hóa thương phẩm công nghệ cao và quốc tế hóa công
nghiệp công nghệ cao [31].
2.4.2.2. Xây dựng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Để thúc đẩy XKHHNS, Chính phủ Trung Quốc đã tập trung vào chính sách
giảm chi phí sản xuất nông nghiệp thông qua trợ cấp. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ
đối với nông dân được thực hiện bao gồm: giảm thuế để thu hút đầu tư vào nông
nghiệp, chính sách tam nông định hướng hỗ trợ tài chính cho nông nghiệp với ba mục
tiêu “nông nghiệp gia tăng sản xuất, nông thôn phát triển và nông dân tăng thu nhập”,
thực hiện các chính sách khuyến nông và tăng quyền cho nông dân [50].
69
Nhằm tăng sức cạnh tranh của nông sản được sản xuất từ Trung Quốc và tạo lợi
thế trong xuất khẩu hàng hóa, chính phủ Trung Quốc thường xuyên kiểm soát chặt chẽ
tỷ giá đồng nhân dân tệ.
2.4.2.3. Tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường
Trung Quốc liên tục ký kết các Hiệp định, thoả thuận thương mại song phương
và đa phương để tạo điều kiện cho hàng hoá nông sản tiếp cận với thị trường thế giới.
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Trung Quốc tập trung vào thị trường các nước
phát triển như Mỹ, Nhật, châu Âu, Hong Kong và các nước ASEAN. Chính phủ Trung
Quốc đã tích cực hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, thông
qua đó tìm đại lý phân phối cho NSXK. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc
tiến hành khảo sát, nghiên cứu và lập kế hoạch hợp tác với các doanh nghiệp của nước
ngoài để phát triển mạnh mẽ các kênh phân phối cho hàng nông sản của Trung Quốc
tại thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Trung Quốc
có thể phân phối hàng hóa tại thị trường nước ngoài thông qua sử dụng bên phân phối
thứ ba hoặc tự sở hữu một công ty ngoại thương [50].
2.4.2.4. Tăng cường đảm bảo chất lượng hàng hoá nông sản
Chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm được thực hiện thông qua việc đẩy
mạnh phát triển khoa học kỹ thuật. Kế hoạch Đốm lửa được thực hiện với việc phát
triển nông nghiệp sản lượng cao chất lượng tốt, thúc đẩy việc xây dựng hệ thống dịch
vụ xã hội hóa nông thôn và phát triển kinh tế quy mô nông thôn. Trong khoảng 10
năm trở lại đây, các nhà khoa học nông nghiệp của Trung Quốc đã tạo ra hơn 300
loại giống mới cây canh tác nông nghiệp, tìm ra phương pháp tưới tiêu kiểu mới tiết
kiệm trên 30% tài nguyên nước [50].
2.4.2.5. Xây dựng hệ thống thông tin và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
Hoạt động xúc tiến XKHHNS của Chính phủ Trung Quốc tại thị trường quốc tế
được đẩy mạnh. Trung Quốc thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu thông qua việc
thành lập các cơ quan thương vụ tại nhiều nước trên thế giới nhằm quảng bá hàng
nông sản của Trung Quốc, quảng bá và tuyên truyền về thương hiệu hàng nông sản
Trung Quốc tới các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các quốc gia thành viên WTO
và cả các quốc gia không phải thành viên WTO. Tính đến nay, Trung Quốc đã có 222
cơ quan thương vụ ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Bên cạnh đó, Trung
Quốc còn thành lập các cơ quan đại diện cho các công ty ngoại thương tại nhiều quốc
70
gia nhằm mở rộng quan hệ với doanh nghiệp và giới kinh doanh ở nước ngoài, thúc
đẩy việc giao lưu buôn bán với nước ngoài. Kênh TMĐT trở thành kênh marketing
quan trọng để đưa NSXK của Trung Quốc tới nhiều quốc gia trên thế giới [50].
2.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của chính phủ một
số nước với những đặc điểm khác nhau, có thể rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như Việt
Nam thì phải coi XKHHNS là một lĩnh vực cần chú trọng để tạo ra giá trị gia tăng cho
nền kinh tế. XKHHNS có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn, ảnh
hưởng tới hiệu quả, cơ cấu và nhịp độ phát triển của nền nông nghiệp trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, cần có chiến lược phát triển toàn diện sản xuất nông nghiệp, xây dựng
vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản
và dịch vụ nông nghiệp. Hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Các mặt hàng nông sản
xuất khẩu phải thông qua khâu chế biến. Trong sản xuất NSXK, áp dụng công nghệ
chế biến nhiều trình độ, tranh thủ hiện đại hóa công nghệ ở những khâu mũi nhọn. Với
trình độ công nghệ chế biến còn lạc hậu như hiện nay, Việt Nam chưa thể áp dụng một
lúc tất cả các trình độ công nghệ cao, hiện đại mà phải sử dụng công nghệ đa dạng, từ
khâu thủ công đến hiện đại hóa. Đồng thời, cần phải tiến hành phân loại và lựa chọn
để dần dần hướng tới một công nghệ hiện đại ở các khâu chế biến.
Ba là, xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ cho XKHHNS. Trong bối
cảnh mới khi Việt Nam là thành viên của nhiều FTA, dưới ảnh hưởng của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, Chính phủ cần tập trung thực hiện các chính sách hỗ trợ về tài
chính, xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi để sớm mở rộng và nâng cấp các cơ sở
chế biến. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước cần áp dụng một số chính sách khuyến
khích và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm tinh chế như miễn thuế và cho hưởng lãi suất
thấp đối với các nhà máy chế biến.
Bốn là, phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phục vụ
các khâu bảo quản, chế biến nông sản theo hướng sơ chế tại chỗ, tinh chế tập trung với
các quy mô và trình độ thích hợp. Chính phủ cũng cần khuyến khích phát triển nông
71
nghiệp theo hướng hiện đại: số hoá trong sản xuất, quản lý quy trình sản xuất – chế
biến, đảm bảo chất lượng sản phẩm bằng công nghệ cao.
Năm là, đẩy mạnh nâng cấp và hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và
chế biến, bảo quản và lưu thông tiêu thụ. Xây dựng kết cấu hạ tầng tốt để nối liền các
cơ sở chế biến khai thác nguyên liệu với các trung tâm chế biến, khai thông sản phẩm
chế biến với thị trường tiêu thụ. Nâng cấp hệ thống thông tin, dự báo sản xuất và thị
trường, hệ thống kho tàng, phương tiện cất giữ và bảo vệ sau thu hoạch, cơ sở thương
mại và cung ứng vật tư, cơ sở nghiên cứu và chuyển giao công nghệ kỹ thuật.
Sáu là, thực hiện liên kết và hợp tác sản xuất kinh doanh. Hiện nay, việc liên kết
và hợp tác trong sản xuất kinh doanh đang rất yếu khâu sản xuất và xuất khẩu nông
sản ở Việt Nam. Liên kết này bao gồm: giữa nuôi trồng trong nông nghiệp và trong
chế biến nông sản xuất khẩu, giữa chế biến nông sản xuất khẩu với các ngành công
nghiệp khác cũng như các ngành thuộc kết cấu hạ tầng, giữa các doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp ngoài nước.
72
Tiểu kết chương 2
Chương 2 đã xây dựng khung lý thuyết về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông
sản trong bối cảnh mới về phía Chính phủ. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cũng như
lý thuyết về xuất khẩu, xuất khẩu hàng hoá nông sản nhưng lại thiếu những khung lý
thuyết về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản trong bối cảnh mới với rất nhiều sự
kiện, diễn biến, hình thành nên những xu hướng sản xuất kinh doanh mới trên thị
trường quốc tế.
Xuất phát từ các nghiên cứu về xuất khẩu, diễn giải về đặc điểm bối cảnh mới
dẫn tới xây dựng một khung lý thuyết riêng về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
trong bối cảnh mới hiện nay. Với quan điểm đó, chương 2 đã đưa ra hệ thống lý luận
chi tiết về khái niệm, nội dung thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong bối cảnh mới
của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, các FTA thế hệ mới được ký kết, cuộc
cách mạng công nghiệp phát triển, các diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, mối
quan hệ giữa các quốc gia, dịch bệnh, biến đổi khí hậu cũng như sự hình thành các
chuỗi giá trị toàn cầu của chính phủ và các vấn đề liên quan. Trong đó, luận án đề cập
tới các tiêu chí đánh giá mức độ thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản từ phía Chính
phủ. Đây là căn cứ lý thuyết để các nhà nghiên cứu có thể dựa vào đó, thực hiện phân
tích thực trạng cụ thể cho bất kể quốc gia XKHHNS nào. Bên cạnh đó, chương 2 còn
phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản dưới tác
động của bối cảnh mới.
Cuối cùng, để minh chứng cho khung lý thuyết, chương 2 phân tích cơ sở
thực tiễn về thúc đẩy XKHHNS ở một số quốc gia điển hình và rút ra bài học cho
Việt Nam.
73
Chương 3
THỰC TRẠNG THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÔNG SẢN
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND
TRONG BỐI CẢNH MỚI
3.1. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand
Trên thực tế, Chính phủ không có chính sách riêng nhằm thúc đẩy xuất khẩu
hàng nông sản sang thị trường Australia và New Zealand mà chỉ có chính sách chung
về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản ra nước ngoài. Cụ thể như sau:
3.1.1. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nông sản
Thời gian qua, các cơ quan Chính phủ từ trung ương đến địa phương đã rất
quan tâm tới việc thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ra các nước. Đặc biệt, chính sách
có tác động tới các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand
bởi tính phức tạp và khó khăn khi tiếp cận hai thị trường này.
Trong tình hình mới, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thúc đẩy xuất
khẩu nông lâm thủy sản đến năm 2030. Mục tiêu chung của Đề án đến năm 2030 là thúc
đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông lâm thủy sản (NLTS), tham
gia toàn diện và bền vững vào chuỗi cung ứng NLTS, thực phẩm toàn cầu. Nâng cao
chất lượng và giá trị sản phẩm NLTS xuất khẩu của Việt Nam nhằm đáp ứng được các
quy định của các thị trường nhập khẩu. Tiếp tục định vị và phát triển thương hiệu cho
các sản phẩm NLTS của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu đề ra,
Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung các văn
bản quy phạm pháp luật, tạo thuận lợi, đơn giản hóa các thủ tục liên quan đến xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản như: Các quy định về kiểm dịch, an toàn thực phẩm, đăng ký danh
sách DN, danh mục sản phẩm được phép xuất khẩu, thủ tục hải quan... Tổ chức, sắp
xếp, đổi mới những hợp tác xã hiện có, xây dựng các hợp tác xã kiểu mới theo hướng
phát triển gắn với thị trường. Thúc đẩy phát triển các mô hình chuỗi giá trị nông sản
thực phẩm an toàn, trong đó liên kết hợp tác xã với DN là vai trò chủ đạo trong việc sản
xuất theo tiêu chuẩn chất lượng an toàn thực phẩm, có truy xuất nguồn gốc, xây dựng
thương hiệu nông, lâm, thủy sản. Hỗ trợ các DN xây dựng, triển khai các hoạt động
nhằm phát triển thương hiệu sản phẩm; quảng bá hình ảnh, thương hiệu sản phẩm trên
74
các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc tế... Đề án là nền tảng để
UBND các tỉnh, thành phố cụ thể hoá chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
sát với điều kiện thực tiễn của địa phương nhất là với những vùng nông sản được cấp
phép xuất khẩu sang Australia và New Zealand.
3.1.2. Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu hàng hoá nông sản
Nghị định 55/2015/NĐ-CP, các chính sách tín dụng khác có liên quan, các chính
sách tín dụng ưu đãi do Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCS XH) thực hiện; cùng cơ
chế điều hành lãi suất, điều hành tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hướng
dòng vốn đến các lĩnh vực ưu tiên, trong đó có nông nghiệp – nông thôn, xuất khẩu, DN
nhỏ và vừa,…Vốn tín dụng đầu tư từ khâu sản xuất, đến thu mua, chế biến và xuất khẩu
các mặt hàng: gạo, cao su, cà phê, thủy sản, thanh long, vú sữa, chôm chôm, nhãn, vải,
bưởi,…; đầu tư cho cả hộ gia đình nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, đến các DN hoạt
động cả đầu vào, cung ứng vật tư, giống… đến đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Đặc
biệt, một khối lượng vốn đáng kể đầu tư cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao, sản xuất nông nghiệp sạch theo hướng bền vững.
Theo số liệu của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế thuộc NHNN, tính đến cuối
tháng 8/2018, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trong cả nước
tăng khoảng 12% so với cuối năm 2017, chiếm tỷ trọng khoảng 23% tổng dư nợ đối
với nền kinh tế (3), cao gấp khoảng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng dư nợ chung, đây là kết
quả rất tích cực. Kết quả đó cũng cho thấy, các tổ chức tín dụng (TCTD) tích cực thực
hiện Nghị quyết Đại hội XII và chủ trương của Chính phủ, định hướng của NHNN,
hướng dòng vốn tín dụng đến các lĩnh vực ưu tiên, an toàn, hiệu quả, góp phần tăng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản cũng như ngăn chặn những hoạt động tín
dụng bất hợp pháp đang gây nhiều hệ lụy xấu trong đời sống người dân nông thôn,
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững.
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ thường xuyên quan tâm đến phát
triển nông nghiệp – nông thôn và tạo việc làm, cải thiện đời sống cho người nông dân.
Theo đó, các chính sách tín dụng của nhà nước đối với lĩnh vực này cũng không ngừng
được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là trong giai
đoạn hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế, gia tăng kim ngạch và mở rộng thị trường
xuất khẩu hàng hoá nông sản, yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao tính
cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam đang đặt ra có tính cấp bách. Theo hướng đó,
75
mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành có
liên quan, xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định 116/2018/NĐ-CP, ngày
7/9/2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định 55/2015/NĐ-CP “về chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn”, có hiệu lực thi hành từ ngày 25/10/2018, với nhiều
điểm mới, tháo gỡ nhiều khó khăn, tạo thuận lợi cho các TCTD mở rộng tín dụng an
toàn, hiệu quả đối với nông nghiệp – nông thôn và ứng dụng công nghệ cao trong nông
nghiệp, thúc đẩy phát triển các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị, đưa kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam lên các mức cao mới.
Thứ nhất, quy định mới nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm của
cá nhân, hộ gia đình lên gấp 2 lần mức cho vay tối đa quy định tại Nghị định
55/2015/NĐ-CP. Theo đó, cá nhân, hộ gia đình cư trú ngoài khu vực nông thôn có sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp: 100 triệu đồng (quy định tại Nghị định 55
là 50 triệu đồng); Cá nhân, hộ gia đình cư trú tại địa bàn nông thôn: 200 triệu đồng
(quy định tại Nghị định 55 là 100 triệu đồng). Chủ trang trại là cá nhân thực hiện kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp phù hợp với các quy định của pháp luật và đáp ứng
các tiêu chí kinh tế trang trại do cơ quan có thẩm quyền quy định, cũng được vay vốn
ở mức cao gấp 2 lần theo quy định mới.
Để tháo gỡ khó khăn và áp lực cho TCTD khi nâng mức cho vay không có tài
sản bảo đảm, Nghị định 116 giao nhiệm vụ cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, cơ quan ngang bộ
trình Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chí xác định dự án, phương án sản xuất
kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để TCTD có cơ sở, tiêu chí
xem xét cho vay.
Chính phủ giao trách nhiệm Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp
hướng dẫn việc không thu phí chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản và phí đăng ký
giao dịch bảo đảm theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định này. Theo đó, người
vay vốn theo chính sách này không phải trả 2 khoản phí như đã nêu.
Thứ hai, Nghị định 116/2018/NĐ-CP bổ sung cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
sản xuất trong khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hoặc vùng nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao được TCTD xem xét cho vay tối đa 70% nhu cầu vốn thực hiện
dự án (Nghị định 55 chỉ quy định DN, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hưởng
chính sách này). Các DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được TCTD xem xét
76
cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 80% giá trị của dự án, phương án sản
xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Trường hợp DN
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả
kháng thì khoản nợ vay được xử lý tương tự như đối với trường hợp tổ chức đầu mối
thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị quy định tại Khoản 3 Điều 14 của Nghị định này.
Chính phủ cũng quy định rất cụ thể về khái niệm “Dự án, phương án sản xuất
kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Đó là dự án, phương án sản
xuất kinh doanh thực hiện trong khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, vùng nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao; dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công
nghệ cao trong nông nghiệp của DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; dự án,
phương án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao khác hướng tới nông nghiệp
sạch, nông nghiệp thân thiện với môi trường, nông nghiệp gắn với biến đổi khí hậu do
cơ quan có thẩm quyền quy định”.
Thứ ba, Chính phủ bổ sung DN có dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng
dụng công nghệ cao nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận DN nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao và không thuộc khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được
TCTD xem xét cho vay tối đa 70% giá trị dự án (quy định cũ tại Nghị định 55 chỉ bao
gồm DN, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao
mới được hưởng mức vay tối đa không có tài sản bảo đảm này).
Thứ tư, Chính phủ bổ sung quy định về việc TCTD được nhận tài sản hình
thành từ vốn vay của dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao
trong nông nghiệp làm tài sản bảo đảm cho khoản vay của khách hàng. Đây được xem
là một sự đổi mới, giúp tháo gỡ khó khăn rất nhiều cho các chủ thể tham gia các dự án,
phương án đầu tư lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ năm, Nghị định 116/2018/NĐ-CP có những quy định rất cụ thể khuyến
khích phát triển liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Chính phủ bổ
sung quy định về quản lý dòng tiền cho vay liên kết trong sản xuất nông nghiệp, góp
phần hạn chế rủi ro tín dụng và tạo cơ sở pháp lý khuyến khích TCTD đẩy mạnh cho
vay. Quy định mới siết quản lý dòng tiền cho vay liên kết, tránh các hình thức biến
tướng gây thiệt hại cho người nông dân. Cụ thể, về cho vay liên kết, Nghị định số
116/2018/NĐ-CP bổ sung nội dung quản lý dòng tiền cho vay liên kết trong sản xuất
nông nghiệp, đã quy định, căn cứ vào hợp đồng liên kết theo chuỗi giá trị giữa tổ chức
77
đầu mối và tổ chức, cá nhân tham gia liên kết, TCTD ký thỏa thuận cho vay đối với tổ
chức đầu mối, bên liên kết và quản lý dòng tiền cho vay chuỗi liên kết theo nguyên
tắc: Tổ chức đầu mối và bên liên kết mở tài khoản tại TCTD cho vay và cam kết thực
hiện tất cả các giao dịch tiền tệ liên quan đến chuỗi giá trị thông qua các tài khoản này.
Chính phủ quy định, trường hợp tổ chức đầu mối thực hiện liên kết theo chuỗi
giá trị gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng thì được TCTD xem xét
cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, đồng thời cho vay mới trên cơ sở
xem xét tính khả thi của dự án, phương án sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của
khách hàng nhằm giúp khách hàng khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất, thực hiện trả
được nợ cũ và nợ mới cho TCTD; Chính phủ xem xét xóa nợ cho khách hàng và cấp
bù nguồn vốn ngân sách nhà nước cho TCTD theo mức độ thiệt hại cụ thể.
Thứ sáu, Chính phủ quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn về cơ chế xử lý rủi ro trong
sản xuất nông nghiệp bởi các nguyên nhân bất khả kháng, tạo thuận lợi cho người dân
bị thiệt hại nhưng cũng tránh trường hợp lợi dụng, ngăn ngừa các tiêu cực có liên
quan. Nghị định 116 quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục xử lý khoanh nợ và
thẩm quyền thực hiện khoanh nợ đối với khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách
quan bất khả kháng; tạo cơ sở để các đơn vị liên quan thực hiện nhằm tháo gỡ khó
khăn cho khách hàng vay vốn.
Nghị định cũng quy định về việc TCTD xem xét thỏa thuận với khách hàng về
thời gian ân hạn gốc và lãi phù hợp với giai đoạn kiến thiết của cây trồng lâu năm, tạo
điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện trồng mới các loại cây lâu năm. Ví dụ, để
tiếp tục hỗ trợ người dân, DN thực hiện cải tạo, tái canh cây cà phê nói riêng và cây
lâu năm nói chung, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP đã bổ sung quy định về ân hạn,
theo đó, đối với các loại cây trồng lâu năm, thời gian đầu tư vốn dài, TCTD và khách
hàng thỏa thuận thời gian ân hạn gốc và lãi phù hợp với giai đoạn kiến thiết của cây
trồng, cây công nghiệp lâu năm, như: Cà phê, cao su, hồ tiêu, điều…
Chính phủ cũng đã quy định rất cụ thể về nguồn tài chính xử lý rủi ro và giao
trách nhiệm rất rõ ràng của các cơ quan: “trường hợp khách hàng bị thiệt hại về vốn
vay, tài sản hình thành từ vốn vay do hậu quả thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên phạm vi
rộng hoặc do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng theo khoản 3 Điều 14 và khoản
3 Điều 15 Nghị định này được TCTD đánh giá chưa có khả năng hoặc không có khả
năng trả nợ vay cho TCTD, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổng hợp,
78
đánh giá cụ thể thiệt hại, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, NHNN Việt Nam, Bộ Tài
chính để được xem xét khoanh nợ không tính lãi đối với dư nợ bị thiệt hại; thời gian
khoanh nợ tối đa là 2 (hai) năm. Riêng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều
14 và khoản 3 Điều 15 Nghị định này thời gian khoanh nợ tối đa là 3 năm. Các khoản
nợ khoanh được giữ nguyên nhóm nợ như đã phân loại trước khi thực hiện khoanh nợ.
Số tiền lãi TCTD không thu được do đã thực hiện khoanh nợ cho khách hàng được
ngân sách nhà nước cấp tương ứng từ ngân sách địa phương. Trường hợp ngân sách
địa phương khó khăn, UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
NHNN Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định hỗ trợ từ dự phòng ngân sách trung ương.
Chính phủ giao Bộ Tài chính cũng chủ trì, phối hợp với NHNN Việt Nam, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ cho các
địa phương khó khăn số tiền lãi TCTD không thu được do thực hiện khoanh nợ từ
nguồn dự phòng ngân sách trung ương theo cơ chế ngân sách trung ương hỗ trợ cho
ngân sách địa phương thực hiện các chính sách an sinh xã hội hiện hành.
Thứ bảy, Chính phủ khuyến khích phát triển bảo hiểm nông nghiệp trong cho
vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, khách hàng khi tham gia mua bảo
hiểm đối với đối tượng sản xuất nông nghiệp hình thành từ nguồn vốn vay, được
TCTD giảm lãi suất cho vay với mức tối thiểu 0,2%/năm so với lãi suất của các khoản
cho vay cùng loại và có thời hạn tương ứng.
3.1.3. Chính sách sản phẩm xuất khẩu
Vì Australia và New Zealand là hai quốc gia gần nhau về vị trí địa lý, có những
điểm tương đồng trong nhu cầu cũng như yêu cầu đối với hàng nông sản nhập khẩu.
Chính vì vậy, chính sách sản phẩm xuất khẩu sang hai thị trường này của Việt Nam
khá giống nhau. Nhóm nông sản chủ lực xuất khẩu của Việt Nam là rau quả. Suốt thời
gian qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực trong thuyết phục hai quốc gia trên xem xét
và cấp phép cho từng loại hoa quả đặc sản của Việt Nam để đưa vào mở rộng thị
trường như vải, xoài, chôm chôm, thanh long, sầu riêng… Một nhóm hàng thế mạnh
khác của Việt Nam cũng hướng tới xuất khẩu sang Australia và New Zealand là gạo,
cà phê, trà, gia vị, các loại hạt như hạt điều. Đây là những mặt hàng chỉ có ở vùng
nhiệt đới và có thể bù trừ trong danh mục hàng nông sản đang có ở hai thị trường này.
79
Tuy nhiên, cùng với việc khó khăn trong hợp tác giữa các DN xuất, nhập
khẩu nông sản tươi giữa hai bên, Việt Nam cũng đang có chính sách tăng dần đối
với danh mục hàng nông sản chế biến như các chế phẩm của rau, củ, hoa quả. Điều
này không chỉ làm tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu mà còn giúp nông sản Việt vượt
qua được hàng rào kiểm dịch khó khăn, mất thời gian đối với các loại nông sản tươi
xuất khẩu thời gian qua.
3.2. Phân tích thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand trong thời gian qua
3.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam sang Australia và New Zealand
Chiến lược thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang Australia và New Zealand
được đặt trong “Chiến lược tăng cường hợp tác kinh tế” giữa hai nước và Việt Nam
(công bố năm 2021) và nằm trong chiến lược xuất khẩu hàng hoá quốc gia cho từng
giai đoạn. Cả hai nước và Việt Nam đều có những nhận định chung về thương mại
nông sản giữa hai bên là có rất ít cạnh tranh trực tiếp trong cơ cấu thương mại, thậm
chí có sự bổ sung mạnh mẽ mang lại cơ hội hợp tác thương mại ở nhiều lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau, trong đó có nông sản. Hai quốc gia đã đặt mối quan hệ hợp tác
chiến lược với Việt Nam nhằm mở rộng thị trường đối với HHNS cho cả hai phía. Từ
đó, định hướng chung về thương mại nông sản giữa Việt Nam với Australia và New
Zealand được xác định là tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận thị trường nối địa của
nhau thông qua đàm phán các nghị định về an toàn sinh học, các điều kiện trao đổi
thương mại liên quan đến rủi ro và nguyên tắc khoa học, phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế.. được xây dựng.
Dựa trên chiến lược hợp tác thương mại nông sản trên, chiến lược XKHHNS
của Việt Nam sang Australia và New Zealand được xác định là nỗ lực gia tăng tốc độ
tăng trưởng XKHHNS, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng, tăng sản phẩm chế biến, tăng chất lượng hàng NSXK đáp ứng yêu cầu kỹ thuật
cao của hai quốc gia cũng như đạt các tiêu chuẩn quốc tế; mở rộng số lượng các mặt
hàng được phép xuất khẩu (đặc biệt là các loại trái cây và rau quả nhiệt đới); phát triển
chuỗi cung ứng sản xuất liên kết...[8].
Chiến lược và kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand được lập theo từng mặt hàng hoặc nhóm hàng cụ thể. Bắt
80
đầu từ việc tiếp cận thị trường, ký kết giấy phép cho một mặt hàng hoặc nhóm hàng
được xuất khẩu. Với mỗi mặt hàng (đặc biệt là hoa quả như vải, bưởi, ổi, sầu riêng,
thanh long…) tuỳ theo đặc điểm của sản phẩm, cơ quan chức năng sẽ lập kế hoạch tiếp
cận thị trường, xin giấy phép xuất khẩu, xây dựng vùng trồng và hướng dẫn kỹ thuật
tới các nhà nông để đảm bảo đáp ứng các nghị định về an toàn sinh học và tháo gỡ các
rào cản hiện có trong thương mại với Australia và New Zealand.
Sau khi tham vấn với Australia và New Zealand, các cơ quan chức năng xây
dựng “Kế hoạch chi tiết thực hiện đầu tư song phương trong ngành chăn nuôi”; “Kế
hoạch xây dựng chuỗi cung ứng kinh doanh nông nghiệp Australia – Việt Nam”,
“Kế hoạch hành động nhằm thúc đẩy đánh bắt bền vững”; “Kế hoạch tiếp cận thị
trường cho quả xoài, quả đào, quả xuân đào, việt quất, mận, mít, vũ sữa, chôm
chôm, chanh leo tươi..”
Ngoài việc quản lý bằng các chiến lược, kế hoạch, nhiều chương trình phục vụ
thúc đẩy XKHHNS theo từng mục tiêu khác nhau được Bộ Công Thương triển khai,
như: Diễn đàn Nông nghiệp Việt Nam-Australia (VAAF); chương trình Aus4Equality
(trao quyền xã hội và kinh tế cho nữ nông dân Việt Nam trong chuỗi giá trị nông
nghiệp; chương trình thí điểm xây dựng liên kết các loại trái cây ôn đới của Australia,
New Zealand và Việt Nam; xây dựng quy trình chiếu xạ kiểm dịch thực vật; chương
trình xây dựng năng lực an toàn sinh học thực vật; dự án thí điểm xây dựng; chương
trình phát triển sinh kế để chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp
bền vững…
Để triển khai các chương trình có hiệu quả, công tác đào tạo nguồn nhân lực
được chú trọng. Nhiều đề án đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung nguồn nhân lực trong các
hoạt động XKNS của các cơ quan QLNN, các doanh nghiệp, các hiệp hội và người
dân được thực hiện.
Các chương trình, dự án trên đều xây dựng trên tinh thần hợp tác song phương
giữa Việt Nam và hai nước Australia và New Zealand. Trong đó, với sự vượt trội về
kinh nghiệm, trình độ quản lý, công nghệ kỹ thuật cao, hai nước hỗ trợ Việt Nam để
thực hiện hiệu quả nhằm giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của HHNS cũng như
thuận lợi hoá cho việc đạt được các mục tiêu, định hướng thúc đẩy XKHHNS của Việt
Nam sang Australia và New Zealand.
81
3.2.2. Tăng cường hợp tác mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản
Để hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng nông sản nói riêng có thể tiếp cận và
xuất khẩu sang thị trường Australia và New Zealand, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực
trong việc đàm phán, ký kết hợp tác. Năm 2009, Hiệp định thương mại tự do ASEAN
– Australia – New Zealand (AANZFTA) được ký kết, cam kết đưa 91% dòng thuế về
0% vào năm 2020. AANZFTA sẽ kết thúc giai đoạn 1 vào 1/1/2018, cắt giảm 85%
dòng thuế về 0%. Nhờ có ký kết AANZFTA với nhiều ưu đãi có hiệu lực từ 2010, Việt
Nam đã có thể thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu sang cả hai thị trường Australia và New
Zealand. Năm 2015, Australia đã dành cho Việt Nam khoảng 96% dòng thuế về mức
0,5%. Việt Nam cũng tận dụng quy tắc xuất xứ để xuất khẩu sang Australia, New
Zealand nhưng thực tế hoạt động này vẫn chưa đạt được kỳ vọng, mới dừng ở mức
trung bình. Có thể thấy, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực tăng cường hợp tác nhằm mở
rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản nhưng trên thực tế, các DN xuất khẩu
hàng hoá nông sản còn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Hợp tác đã giúp hàng nông
sản Việt Nam được gỡ bỏ rất nhiều hàng rào thuế quan nhưng những hàng rào phi thuế
quan thì vẫn còn là các thách thức không nhỏ.
Bên cạnh AANZFTA, Việt Nam còn tích cực thúc đẩy ký kết Hiệp định đối tác
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình dương (CPTPP) ký kết năm 2018, Hiệp định đối
tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) ký kết tháng 11/2020. Điều này cũng mở ra cơ
hội lớn để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nói chung và nông sản nói riêng
sang thị trường Australia và New Zealand. Việt Nam cũng như hai nước đối tác đều cố
gắng thực hiện nghiêm túc các cam kết trong Hiệp định. Những cuộc họp song phương
giữa Việt Nam – Australia hay Việt Nam New Zealand nhằm tìm kiếm các biện pháp
tích cực giải quyết vấn đề chung như liên quan đến chứng nhận xuất xứ, chia sẻ các
quan điểm hợp tác phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài việc xây dựng mối quan hệ hợp tác đa phương ở trên. Chính phủ Việt
Nam cũng cố gắng thúc đẩy thêm mối quan hệ song phương để mở rộng thêm thị
trường xuất khẩu cho hàng nông sản Việt. Giữa Việt Nam và New Zealand đã thành
lập cơ chế hợp tác hiệu quả ở cấp Bộ là Ủy ban Hỗn hợp Kinh tế - Thương mại từ năm
2005, đồng chủ trì bởi Thứ trưởng Bộ Thương mại hai nước. Hiện nay, hai bên đã tổ
chức Kỳ họp lần thứ 7 vào quý IV/2020 tại New Zealand.
82
Tương tự, đối với Australia, hàng năm Việt Nam đều tổ chức họp Hội nghị
Bộ trưởng Đối tác kinh tế Việt Nam – Australia đã rà soát tình hình triển khai các
nội dung tại cuộc họp Nhóm Công tác năm trước, thảo luận các vấn đề thương
mại song phương, đa phương và các diễn đàn khu vực và quốc tế. Đồng thời, thảo
luận, đưa ra các giải phải tháo gỡ khó khăn đối với thương mại song phương; trao
đổi về tiến độ xây dựng “Chiến lược tăng cường hợp tác kinh tế Việt - Australia”
trong bối cảnh kinh tế mới. Ví dụ năm 2020 và 2021, hai nước cũng có những
cuộc họp về tăng cường hợp tác kinh tế trong điều kiện thế giới, khu vực đang
chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt
động quản lý nhà nước điện tử, năm 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ Tài chính và các Bộ ngành cơ bản của New Zealand đã ký kết thoả thuận về tạo
thuận lợi cho thông quan sản phẩm nông lâm nghiệp và thuỷ sản bằng việc sử dụng
chứng nhận điện tử. Điều này có ý nghĩa quan trọng giúp Việt Nam hội nhập sâu vào
hệ thống thương mại không chỉ của New Zealand mà còn ở phạm vi toàn cầu. Đây là
nền tảng để Việt Nam và New Zealand tiếp tục mở rộng việc trao đổi các chứng từ
hành chính, chứng từ thương mại điện tử khác, tiến tới công nhận lẫn nhau đối với các
loại chứng từ này; qua đó từng bước tháo gỡ, hướng tới đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ
tục hành chính trong thương mại song phương nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho giao
lưu hàng hóa giữa hai quốc gia. Chứng nhận điện tử giúp cho thương mại trong lĩnh
vực nông nghiệp và thực phẩm trở nên an toàn, hiệu quả, nhanh hơn và tiết kiệm chi
phí hơn giữa các quốc gia. Cơ chế trao đổi đảm bảo an ninh này sẽ giúp cho việc trao
đổi dữ liệu, giao thương giữa Việt Nam và New Zealand tránh được những rủi ro về an
ninh, hay việc làm giả, làm sai.
3.2.3. Tăng cường kiểm soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu
Australia và New Zealand là thị trường rất khó tính (hơn cả Mỹ và EU) nhất là
đối với hàng nông sản. Bản thân hai quốc gia này cũng có lợi thế so sánh trong sản
xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản sang nhiều nước trên thế giới. Vì thế, để có thể
tiếp cận với thị trường nông sản ở hai nước này, các doang nghiệp xuất khẩu của Việt
Nam gặp không ít thách thức.
Khi đánh giá về lợi thế so sánh, Australia, New Zealand và Việt Nam có có cấu
mặt hàng xuất nhập khẩu bổ sung cho nhau. Do vị trí địa lý và khí hậu trái ngược, Việt
83
Nam ở bán cầu Bắc, hai quốc gia kia lại ở bán cầu Nam nên khi cả hai phía đều phát
triển nông nghiệp thì các sản phẩm nông sản theo mùa có thể bổ sung cho nhau.. Mặc
dù Việt Nam có nhiều thế mạnh về nông sản, đặc biệt là những sản vật nhiệt đới gió
mùa nhưng số lượng mặt hàng nông sản mà Australia và New Zealand duyệt để nhập
khẩu rất ít ỏi. Ví dụ: đến năm 2017, chỉ có 4 loại hoa quả là nhãn, vải, xoài và thanh
long của Việt Nam được nhập khẩu vào Australia.
Hệ thống kiểm soát hàng rào kỹ thuật, vệ sinh an toàn của Australia có yêu
cầu/tiêu chuẩn rất cao, thực thi nghiêm khắc. Chi phí bỏ ra để tuân thủ các yêu cầu
pháp lý này lớn hơn đáng kể so với nhiều thị trường xuất khẩu khác. Không những
thế, người tiêu dùng Australia thường yêu cầu hàng hóa phải được đựng vào các
loại bao bì mới và chất lượng, có nhiều kích cỡ để sử dụng thuận tiện, bao bì có thể
tái sử dụng hoặc tiêu hủy được để bảo vệ môi trường. Khó khăn nhất là việc Chính
phủ Australia và New Zealand công nhận các giấy chứng nhận Việt Nam cấp và hỗ
trợ cho Việt Nam về kỹ thuật để xây dựng và công bố các hàng hoá đủ tiêu chuẩn
và đảm bảo chất lượng.
Australia đã xây dựng khuôn khổ chính sách về an toàn sinh học nhằm bảo vệ
nền nông nghiệp trước những rủi ro do côn trùng có hại xâm nhập và phát tán. Tiến
trình phân tích rủi ro nhập khẩu (IRA) là một phần quan trọng trong chính sách an toàn
sinh học của Úc. Trước khi cân nhắc việc cho phép nhập khẩu một sản phẩm mới, việc
phân tích rủi ro nhập khẩu được tiến hành một cách chính thức. Nếu phát hiện có nguy
cơ rủi ro, các biện pháp kiểm soát rủi ro sẽ được đề xuất để làm giảm thiểu rủi ro ở
mức có thể kiểm soát được, trong trường hợp không thể giảm thiểu nguy cơ rủi ro, sản
phẩm mới sẽ không được cấp phép nhập khẩu vào nước Australia. Trong quá trình
phân tích rủi ro nhập khẩu, Bộ Nông nghiệp Australia sử dụng các chuyên gia về khoa
học và kỹ thuật và các tư vấn gia cùng các bên có liên quan để đánh giá và đề xuất các
biện pháp kiểm dịch động thực vật. Bộ Nông nghiệp dựa trên báo cáo của các chuyên
gia sẽ quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép nhập khẩu và chịu trách nhiệm
thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro phù hợp. Theo quy định của phía Australia,
trước khi cho phép nhập khẩu mặt hàng hoa quả tươi phải tiến hành kiểm tra, khảo sát
vùng trồng, cơ sở đóng gói, cũng như làm việc với các đơn vị quản lý tại địa phương
về các nội dung liên quan đến quản lý dịch hại tại vườn trồng và tiềm năng xuất khẩu
sản phẩm. Chính vì vậy, để có thể xuất khẩu hàng nông sản, cụ thể là hoa quả sang
84
Australia, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã phải thực hiện rất
nhiều bước để nhận được cấp phép cho các nhà xuất khẩu.
• Ngày 12/9/2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nộp đơn yêu cầu nhập khẩu trái vải
tươi của Việt Nam vào Úc;
• Ngày 5/11/2003, phía Việt Nam nộp hồ sơ sửa đổi;
• Ngày 11/9/2008, phía Úc yêu cầu bổ sung, sửa đổi;
• Tháng 10/2010, phía Việt Nam nộp hồ sơ sửa đổi;
• 20/11/2011, phía Úc thông báo chính thức việc thực hiện các phân tích đối với trái vải của Việt Nam;
• Từ ngày 18-20/6/2012, đoàn chuyên gia của Úc đã sang kiểm tra khu vực trồng vải ở Lục Ngạn, Bắc
Giang và làm việc với các cơ quan có liên quan;
• Đến năm 2014, Úc đã hoàn thành báo cáo kết quả qui trình đánh giá rủi ro đối với trái vải của Việt Nam.
Trong báo cáo các chuyên gia đã kết luận rằng trái vải của Việt Nam có thể được phép nhập khẩu vào thị
trường Úc với một số điều kiện kiểm dịch nhất định;
• Ngày 17/4/2015, Úc chính thức cấp phép nhập khẩu cho trái vải tươi của Việt
Nam sau 12 năm đàm phán.
Bảng 3.1. Các bước để đưa trái vải của Việt Nam vào thị trường Australia
Nguồn: Đại sứ quán Việt Nam tại Australia, 2017
Tương tự, để xuất khẩu được nông sản sang New Zealand, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn cũng phải thực hiện các quy trình xin phép nghiêm ngặt như với
Australia. Trên thực tế, Việt Nam mất rất nhiều năm kiên trì mới có thể có được giấy
phép nhập khẩu nông sản từ hai thị trường “khó tính” này. Chính vì vậy, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn cũng hỗ trợ các DN xuất khẩu, nhà sản xuất rất nhiều
để kiểm soát và đảm bảo chất lượng hàng xuất đi.
Sau khi xin cấp phép nhập khẩu hàng nông sản, tuỳ theo yêu cầu của bên đối tác,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức hội thảo, vận động các DN nhất là
những DN Việt kiều có kinh nghiệm nhập khẩu loại nông sản được cấp phép chia sẻ
kinh nghiệm cho các vùng sản xuất về cách thức đóng gói, thực hiện bảo quản và các
biện pháp để đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu. Tất cả những biện pháp
được nghiên cứu, thực hiện thống nhất cho tất cả các nhà xuất khẩu và sản xuất để tránh
hàng hoá khi xuất khẩu bị từ chối hoặc bị giữ để xử lý lại. Bên cạnh đó, Cục Bảo vệ
thực vật cử cán bộ sang Cơ quan kiểm dịch Australia, New Zealand để nắm rõ quy trình
kiểm dịch và xây dựng tài liệu hướng dẫn DN cũng như kiểm soát chất lượng các lô
hàng trước khi rời Việt Nam. Việc này nhằm đảm bảo chất lượng hàng khi tới Australia,
New Zealand và cũng để giảm bớt các chi phí cho DN. Cán bộ kiểm dịch cũng được bố
trí đi theo các lô hàng để nắm bắt lỗi vi phạm (nếu có) và cảnh báo cho các lô hàng tiếp
85
theo, đồng thời, can thiệp kịp thời với Bộ Nông nghiệp Australia, New Zealand để hỗ
trợ DN (nếu cần). Cục Bảo vệ thực vật phối hợp với các địa phương để hướng dẫn
nông dân cách làm mới hiệu quả và tuân thủ các quy định của nhà nhập khẩu (cắt trái,
kiểm tra quả trước khi đóng thùng, kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu trước khi thu
hái…) Khuyến khích các nhà khoa học cùng nhà sản xuất nghiên cứu phương pháp
bảo quản để giữ nông sản tươi lâu.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng như chính quyền địa phương nơi có nông sản
nhận được giấy phép xuất khẩu cũng có những hỗ trợ trong việc đầu tư kho lạnh, cơ sở
đóng gói và cơ sở chiếu xạ đủ tiêu chuẩn tại vùng trồng để chế biến tại chỗ thu hoạch.
Hiện nay, trái cây của Việt Nam xuất khẩu sang Australia, New Zealand sử dụng
phương pháp xử lý chiếu xạ với cường độ tối thiểu là 400 Gy. Đây cũng là phương
pháp bảo quản ít làm ảnh hưởng đến chất lượng quả nhất.
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thường xuyên tổ chức các hội thảo về
nâng cao năng lực xuất khẩu và an toàn thực phẩm nông sản Việt Nam, quản lý hoá
chất nông nghiệp. Những hội thảo hoặc các dự án hướng dẫn nông dân thực hiện đảm
bảo an toàn thực phẩm trong những năm qua với mục tiêu giảm những cảnh báo của
các nước liên quan đến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và được chấp nhận nhập khẩu.
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang cố gắng gia tăng chất lượng và giá trị sản phẩm
nông sản, điều này thể hiện ở quá trình tái cơ cấu nâng cao giá trị nông sản. Đặc biệt,
việc sử dụng hóa chất, phân bón trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua đã gắn với
bảo vệ môi trường. Nông sản Việt Nam xuất khẩu đang phải chịu 2 hàng rào kỹ thuật
quan trọng nhất là an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Đối với an toàn thực
phẩm, hóa chất rất quan trọng trong quá trình sản xuất. Hầu hết các nước đều phải sử
dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón nhưng nếu đáp ứng được quy định về
mức dư lượng tối đa cho phép thì vẫn đảm bảo xuất khẩu. Bên cạnh việc lựa chọn kỹ
càng giống cây trồng chất lượng tốt, giá trị thương mại cao như xoài cát, thanh long
ruột đỏ, sầu riêng hạt lép, vải… thì Chính phủ khuyến khích các DN cũng như nhà sản
xuất đầu tư phát triển công nghệ thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản hiện đại nhằm
nâng cao giá trị cho nông sản xuất khẩu, tăng cường liên kết, thúc đẩy hợp tác giữa 4
nhà (nhà sản xuất, nhà khoa học, nhà DN và nhà quản lý) để phát triển sản xuất với
quy mô lớn hơn, đảm bảo chất lượng nông sản ổn định lâu dài.
86
Cục Bảo vệ thực vật có trách nhiệm kiểm tra, cấp mã số cho các cơ sở nuôi
trồng với điều kiện phải áp dụng biện pháp canh tác, quản lý sinh vật gây hại và thu
hoạch đảm bảo giảm thiểu sinh vật gây hại trên nông sản, áp dụng Thực hành sản xuất
nông nghiệp tốt (GAP). Các phương tiện vận chuyển đến cơ sở đóng gói cũng phải
đảm bảo vệ sinh. Cục Bảo vệ thực vật cũng phải kiểm tra, cấp mã số cho các cơ sở
đóng gói theo tiêu chuẩn đặt ra từ phía Bộ Nông nghiệp Autralia và New Zealand. Bao
bì đóng gói cũng phải đảm bảo hạn chế việc lây nhiễm sinh vật gây hại, kín, có ghi rõ
mã số xuất xứ. Mọi lô hàng xuất khẩu đều phải có giấy chứng nhận kiểm dịch thực
phẩm theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
3.2.4. Xây dựng hệ thống thông tin và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu hàng hoá
nông sản sang thị trường Australia và New Zealand.
Bởi Australia và New Zeland là các quốc gia có lợi thế so sánh trong sản xuất
nông nghiệp và xuất khẩu hàng hoá nông sản lớn trên thế giới nên việc tìm kiếm và
mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang khu vực này rất
khó khăn, chưa kể các DN xuất khẩu còn phải đối mặt với rất nhiều rào cản về chất
lượng sản phẩm. Tuy vậy, với đặc điểm khí hậu ngược mùa nên nông sản của Việt
Nam và Australia, New Zealand có thể bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn vẫn luôn nỗ lực trong việc tiếp cận thị trường, xây dựng
và triển khai các chương trình xúc tiến thương mại cho từng mặt hàng vào Australia và
New Zealand. Thương Vụ Việt Nam tại Australia, New Zealand đã rất nỗ lực thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang hai thị trường, cụ thể như sau:
Thứ nhất, làm việc với các cơ quan hữu quan của Australia, New Zealand như
Bộ Nông nghiệp Australia, Bộ Ngoại thương New Zealand,, Phòng Thương mại và
Công nghiệp, các hiệp hội ngành hàng, cơ quan xúc tiến thương mại... để tạo thuận lợi
cho hàng nông sản của Việt Nam thâm nhập vào hai thị trường.
Bên cạnh đó, Bộ Công thương Việt Nam còn đề nghị New Zealand hỗ trợ Việt
Nam phát triển các lĩnh vực sản xuất chế biến nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
công nghệ sạch gắn với phát triển bền vững. Điều này cũng tạo điều kiện cho phía
New Zealand dễ dàng chấp nhận nông sản Việt đã qua chế biến ở những khu tiếp nhận
công nghệ này.
Thứ hai, cung cấp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam thông tin về thị trường (nhu
cầu thị hiếu, kênh phân phối, quy định nhập khẩu hàng hóa, quy định về kiểm dịch...)
87
thông qua bản tin thị trường và sách. Trang web của Cục Xúc tiến Thương mại
(http://www.vietrade.gov.vn/) có đăng tải thông tin về hồ sơ thị trường Australia, New
Zealand, quy định nhập khẩu của hai nước này, các chương trình xúc tiến thương mại
quốc gia... . Trang web hội nhập của VCCI (http://www.trungtamwto.vn/) đăng tải
nhiều thông tin về Hiệp định AANZFTA, các văn bản thực thi của Việt Nam và tình
hình thực thi. Trang web của các hiệp hội ngành hàng (Hiệp hội da giày - LEFASO,
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản - VASEP...) đăng tải các thông tin về quy
định nhập khẩu của thị trường Australia, New Zealand, thông tin về Hiệp định
AANZFTA,v.v... .
Cổng thông tin thị trường nước ngoài của Bộ Công Thương
(http://www.vietnamexport.com/) đã tạo điều kiện hết sức thuận tiện cho Thương vụ
Việt Nam tại Australia và New Zealand cung cấp thông tin cho các DN trong nước.
Những thông tin do Thương vụ cung cấp đã và đang có tác dụng thiết thực và tích cực
cho DN. Nhiều DN đã tìm được bạn hàng nhờ các thông tin này và với sự hỗ trợ của
Thương vụ. Bên cạnh đó, Thương vụ vẫn tiếp tục cung cấp trực tiếp cho các DN
những thông tin và cơ hội xuất khẩu sang hai thị trường. Trên trang web có đầy đủ
thông tin về thị trường Australia và New Zealand (Bản tin thị trường hàng tháng; báo
cáo thực phẩm nhập khẩu vi phạm quy định; hướng dẫn xuất khẩu vào thị trường; quy
định đối với hàng nhập khẩu, quy định về kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật; thuế nhập
khẩu; danh sách nhà nhập khẩu; kênh phân phối; các hội chợ triển lãm; Hiệp định
AANZFTA và các phụ lục về thuế, quy tắc xuất xứ, hướng dẫn khai C/O...).
Thứ ba, hỗ trợ các đoàn DN Việt Nam sang hai nước này tham dự hội chợ triển
lãm, khảo sát thị trường và tìm kiếm bạn hàng, giúp các DN trong nước tìm kiếm cơ
hội xuất khẩu sang Australia và New Zealand.
Thứ tư, quảng bá các sản phẩm và các vùng miền của đất nước cho DN phía
bạn. Tại thị trường hai nước trên, Thương vụ thường trú đã tiến hành các chương trình
tiếp thị thông qua các kênh truyền thông xã hội, website, phát tờ rơi tại cửa hàng, nhà
hàng và quảng cáo tại các sự kiện thể thao, vui chơi giải trí có đông người tham dự.Ví
dụ: để quảng bá cho thương hiệu gạo Việt tại New Zealand, Thương vụ Việt Nam tại
New Zealand, Đại sứ quán Việt Nam tại New Zealand đã phối hợp với Công ty
Integrity Plus Limited tổ chức gian hàng triển lãm tại Hội chợ Go Green Expo 2018,
88
Thủ đô Wellington, New Zealand nhằm quảng bá các sản phẩm xanh, sạch của Việt
Nam tới người tiêu dùng New Zealand.
Để có thể xuất khẩu hàng hoá nông sản lâu bền, việc chú trọng xây dựng
thương hiệu, tạo hình ảnh xuất xứ tốt là hết sức quan trọng để có thể tạo dựng niềm tin
đối với người tiêu dùng, thay đổi nhận thức về việc Việt Nam chỉ cung cấp các sản
phẩm “rẻ tiền” (đánh đồng với chất lượng kém).
Các chiến dịch truyền thông đã được thực hiện một cách bài bản. Đặc biệt, các
chiến dịch truyền thông hướng vào hai đối tượng là kiều bào và người dân bản địa.
Ví dụ: Đối với kiều bào: phối hợp với Hội doanh nhân Việt Nam tại Australia tổ
chức “Ngày vải Việt Nam tại Úc” ở thành phố Melbourne, bang Victoria và tổ chức
“Tuần vải Việt Nam tại Úc” ở 3 địa điểm tập trung đông nhất kiều bào tại Bang
New South Wales là Cabramatta, Bankstown, và Marrickville. Các hoạt động thông
tin quảng bá được chia sẻ qua facebook của Đại sứ quán, du học sinh, sinh viên,
cộng đồng kiều bào... đã gây được hiệu ứng ủng hộ phong trào “Người Việt Nam
ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đối với người bản địa: thiết kế và in ấn tờ rơi, sách
mang tựa đề “Welcome Vietnamese Lychees to Australia– The tasty fruit for lovers
to enjoy the whole year round” nhằm giới thiệu và quảng bá trái vải của Việt Nam
như lịch sử, thổ nhưỡng vùng trồng, quy trình xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế,
dinh dưỡng, cách bảo quản tại nhà, cách chế biến một số món ăn đơn giản từ trái
vải theo phong cách Úc. Một phim ngắn bằng tiếng Anh giới thiệu về trái vải Việt
Nam cũng được sản xuất để quảng bá;
Thứ năm, hỗ trợ các DN Australia và New Zealand sang Việt Nam tìm kiếm đối
tác để hợp tác sản xuất, nhập khẩu hàng hóa. Ví dụ: Để đưa trái vải vào thị trường
Australia, ngay sau khi được cấp phép, thương vụ Việt Nam tại đây đã thực hiện ngay
những hoạt động truyền thông như: tổ chức hội thảo vận động các DN, đặc biệt là các
DN Việt Kiều nhập khẩu thử nghiệm vải Việt Nam. Kết quả cho thấy ngay từ đầu mùa
vụ DN Pan Asia Fresh, và Da Lat Imports & Exports đã về Việt Nam khảo sát vùng
trồng, cơ sở đóng gói, cơ sở chiếu xạ và ký hợp đồng với DN Việt Nam. Riêng Da Lat
Imports & Exports đã về Việt Nam hai lần và ở lại 3 tuần để thử nghiệm các phương
pháp bảo quản và đây cũng là DN không bị kiểm dịch Úc giữ hàng (đa số các DN bị
giữ hàng từ 3-5 ngày để xử lý lại);
89
Thứ sáu, kết nối các DN của Việt Nam với các DN của Australia và New
Zealand. Các diễn đàn hợp tác giữa Việt Nam và Australia, New Zealand diễn ra đã
tạo điều kiện cho các DN hai bên được gặp gỡ, trao đổi, thảo luận các vấn đề như kiểm
dịch hàng hoá, yêu cầu kỹ thuật … nhằm tìm ra giải pháp đưa hàng nông sản của Việt
Nam từng bước vào hai thị trường này. Bên cạnh đó, các diễn đàn, các cuộc hội thảo
giúp DN xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam có được các nguồn thông tin bổ sung
cho thông tin được cung cấp từ Thương vụ thường trú tại các nước để hiểu rõ hơn về
hai thị trường này.
Ở Việt Nam, đối với các nhà sản xuất, DN xuất khẩu hàng hoá nông sản, Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công Thương (Vụ Chính sách thương mại đa
biên, Cục Xúc tiến Thương mại, Cục Xuất nhập khẩu, Ủy ban Quốc gia về hợp tác
kinh tế quốc tế, Vụ châu Á- Thái Bình Dương) phối hợp với Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội ngành hàng, MUTRAP và sở thương mại các tỉnh,
thành phố thường xuyên tổ chức các hội thảo, diễn đàn các cuộc hội thảo về thị trường
Australia và New Zealand, Hiệp định AANZFTA và cơ hội xuất khẩu sang hai thị
trường này, tăng cường phổ biến các thông tin, cơ hội xuất khẩu sang thị trường
Australia và New Zealand. Điều này giúp các DN xuất khẩu chủ động trong việc tìm
kiếm thị trường, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu phù hợp.
3.3. Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới
3.3.1. Thống kê mô tả đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất
khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối
cảnh mới
Thực tế đánh giá đối với 8 nhân tố ảnh hướng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới theo kết
quả khảo sát hầu hết chỉ đạt từ cấp độ 3 trở lên, là mức đồng ý đối với các nhận định
đưa ra trên mức trung bình thể hiện các nhân tố có ảnh hưởng tới nhất định tới thúc
đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand. Chỉ
có duy nhất tiêu chí “Vấn đề toàn cầu” là mức nhỏ hơn 3 bởi khi các vấn đề như đại
dịch Covid – 19 hay chiến tranh Nga – Ukraina nổ ra thì xuất khẩu nông sản của Việt
Nam sang Australia và New Zealand có những ảnh hưởng trái chiều. Thậm chí, trên
thực tế, trong bối cảnh này, Việt Nam vẫn tăng cường thúc đẩy xuất khẩu được nhiều
90
hàng hoá nông sản hơn so với giai đoạn chưa xảy ra những vấn đề trên. Đánh giá cao
nhất là nhân tố “Chính sách nước xuất khẩu” với điểm trung bình là 3,72. Tiếp đó là
nhân tố “KHCN” với điểm trung bình là 3,69.
Bảng 3.2. Kết quả khảo sát về nhân tố ảnh hướng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand
TT Nhân tố ảnh hưởng N Trung bình Độ lệch chuẩn
1. 391
3.54 3,23 2,78 3,69 3,45 3,72 0.64 0.58 0.76 0.53 0.55 0.52
2. 3. 4. 5. 6. 7. 391 391 391 391 391 391 3,41 0.64
Nguồn: Phân tích dữ liệu khảo sát của tác giả
8. 391 3,53 0.53 Cơ chế, chính sách của nước nhập khẩu Nhu cầu thị trường nhập khẩu Vấn đề toàn cầu Khoa học công nghệ Vận chuyển nông sản Chính sách nước xuất khẩu Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Đặc trưng của hàng hoá nông sản xuất khẩu
3.3.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Kết quả được trình bày ở bảng 3.12 cho thấy: có 8/8 biến độc lập và 1 biến phụ
thuộc đều có hệ số Cronbach’s anpha lớn hơn 0,8 > 0,6 nên có thể kết luận các thang
đo được xây dựng khá tốt. Các thang đo này sẽ mang lại độ tin cậy cho mô hình và
giúp cho mô hình ảnh hưởng được xác định chính xác.
Bảng 3.3. Độ tin cậy của các thang đo
Số biến
Hệ số Cronbach’s
Nhận xét
MS
Thang đo
quan sát
Alpha
Cơ chế, chính sách của
CSNK
6
0,823
Sau khi loại biến CSNK5
nước nhập khẩu
Nhu cầu
thị
trường
NCTT
5
0,856
Sau khi loại biến NCTT5
nhập khẩu
VDTC Vấn đề toàn cầu
4
0,893
VCNS Vận chuyển nông sản
4
0,837
KHCN Khoa học công nghệ
4
0,822
CSXK Chính sách nước xuất
4
0,888
91
Số biến
Hệ số Cronbach’s
MS
Thang đo
Nhận xét
quan sát
Alpha
khẩu
Năng lực cạnh tranh
NLCT
của doanh nghiệp xuất
4
0,817
khẩu
Đặc trưng của hàng hoá
DTHH
4
0,849
nông sản xuất khẩu
XK
Thúc đẩy XKHHNS
3
0,816
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát của tác giả
3.3.3. Phân tích nhân tố khám phá EFA
3.3.3.1. Phân tích EFA cho các biến độc lập
Hệ số KMO của các biến độc lập trong mô hình thu được là 0,855 > 0,5. Kiểm
định Bartlett có sig = 0.000 < 0,05 là thỏa mãn điều kiện phân tích EFA. Bác bỏ H0,
vậy các biến có tương quan trong tổng thể, 8 nhân tố được chấp nhận để tiến hành
phân tích bước tiếp theo (Phụ lục 3). Tổng phương sai trích bằng 69,779% > 50% cho
biết 8 nhân tố được rút trích ra đã giải thích được 69,779% sự biến thiên của dữ liệu.
Như vậy, không có sự thay đổi về nhóm giả thuyết nghiên cứu.
Tuy nhiên, trong bảng ma trận xoay của các biến cấu thành (Phụ lục 3) thì biến
quan sát CSNK6 tải nhân tố 2 và 4, VCNS4 tải 5 và 7, NLCT4 tải 1 và 8. Có thể thấy
hiệu số tải của biến quan sát CSNK6 là 0,144 <0,3 nên phải loại bỏ. Sau khi chạy lại
EFA, hệ số KMO 0.851>0.5, sig <0.05. Tổng phương sai trích 70.333% > 50%. Các
hệ số tải lên các nhân tố đều > 0.5 (VCNS4 tải lên 2 nhân tố 4 và 6; NLCT4 tải lên 1
và 8 nhưng hiệu số đều > 0,3 được nhóm vào nhân tố có hệ số tải lớn hơn). Từ đó, mô
hình rút trích được 8 nhân tố độc lập.
3.3.3.2 Phân tích nhân tố EFA cho nhân tố phụ thuộc
New Zealand”, thấy hệ số KMO là 0.715 > 0,5 với sig = 0.00 < 0,05 nên việc phân tích
Phân tích nhân tố của biến phụ thuộc là “Thúc đẩy XKHHNS sang Australia và
nhân tố được cho là phù hợp. Tổng phương sai trích bằng 73.973 % > 50% nên có thể
đại diện cho phần biến thiên bởi nó giải thích được 73,973 % sự biến thiên của dữ liệu.
Phép trích Principal Component Analysis với phép quay Varimax được thực hiện và
rút trích được 1 nhân tố phù hợp với việc đặt giả thuyết có 1 biến phụ thuộc trong mô
92
hình. (Phụ lục 3). Các hệ số trong ma trận xoay nhân tố có giá trị lần lượt là 0,869;
0,868 và 0,843 đều > 0,5 cho thấy nhân tố phụ thuộc này có liên quan đến mô hình và
đảm bảo thỏa mãn đầy đủ các điều kiện EFA. Như vậy, sau khi phân tích nhân tố, toàn
bộ nhân tố được đưa vào mô hình đều đảm bảo việc giải thích cho sự biến thiên các dữ
liệu của mô hình. Mô hình được giữ nguyên đầy đủ.
3.3.4. Phân tích hồi quy tuyến tính
3.3.4.1 Phân tích hồi quy
Phân tích hồi quy được thực hiện với 8 biến độc lập và biến phụ thuộc là thúc
đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand
(XK). Kết quả cho thấy mô hình hồi quy đưa ra tương đối phù hợp với mức ý nghĩa 0.05. Hệ số R2 điều chỉnh = 0,540 nghĩa là có khoảng 54% phương sai năng lực lãnh
đạo được giải thích bởi 8 biến độc lập. Đây không phải là con số quá cao nhưng vẫn đủ đáp ứng yêu cầu đánh giá sự phù hợp của mô hình là hệ số R2 điều chỉnh phải lớn
hơn 50%. (Phụ lục 3)
Từ kết quả phân tích hồi quy, các giả thuyết thống kê được xây dựng trong mô
hình như sau:
Bảng 3.4. Kết quả kiểm định các giả thuyết của mô hình
STT
Giả thuyết
β
Kết luận
P-value (mức ý nghĩa 5%)
1
Chấp nhận
2
Chấp nhận
0,157 0,000
3
Chấp nhận
0,143 0,000
tới
4
Chấp nhận
0,096 0,019
5
Chấp nhận
0,298 0,000
6
Chấp nhận
0,124 0,003
Cơ chế, chính sách khuyến khích nhập khẩu của Australia, New Zeland ảnh hưởng tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam Nhu cầu về hàng hoá nông sản của Australia, New Zeland t ảnh hưởng tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam Các vấn đề toàn cầu tăng ảnh hưởng không thúc đẩy tới tốt XKHHNS của Việt Nam Khoa học công nghệ phát triển ảnh hưởng thúc đẩy tích cực XKHHNS của Việt Nam Đặc điểm vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Australia, New Zeland ảnh hưởng không tốt tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam Chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản của Việt Nam ảnh hưởng
0,106 0,012
93
β
Kết luận
STT
Giả thuyết
P-value (mức ý nghĩa 5%)
Chấp nhận
7
tới
Chấp nhận
8
0,207 0,000
tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam tăng ảnh hưởng tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam Đặc điểm hàng hoá nông sản ảnh hưởng không thúc đẩy tốt XKHHNS của Việt Nam sang Australia, New Zeland.
0,088 0,042
3.3.4.2. Kết quả phân tích hồi quy
Ở đây, ta sử dụng hệ số beta của mô hình hồi quy tuyến tính đã được chuẩn hóa
(tức là loại bỏ đi độ sai lệch). Vì thế, mô hình nghiên cứu không có hằng số. Độ lớn
Beta của các biến được sắp xếp theo thứ tự như sau:
KHCN>NLCT>CSNK>NCTT>VCNS>CSXK>VDTC>DTHH.
Trong đó mức độ ảnh hưởng mạnh nhất là năng lực “Khoa học công nghệ” và
mức độ ảnh hưởng yếu nhất là “Đặc trưng hàng hoá nông sản”. Kết quả mức độ ảnh
hưởng cho thấy thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New
Zealand cần có những chiến lược tác động phù hợp tới từng nhân tố. Tác động mạnh
vào những nhân tố có mức độ tương quan lớn và có thể chưa cần có nhiều điều chỉnh
với những nhân tố có mức độ tương quan thấp.
Phương trình hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa thúc đẩy XKHHNS của Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand với các nhân tố ảnh hưởng được thể
hiện qua đẳng thức sau (Sử dụng phương trình đã được chuẩn hóa):
0,207*X7 + 0,088*X6
Y = 0,157* X1 + 0,143* X2 + 0,096*X3 + 0,298*X4 + 0,124*X5 + 0,106*X6 +
Trong đó:
Y: Thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand
X1: Cơ chế, chính sách nước nhập khẩu; X2: Nhu cầu thị trường nhập khẩu;
X3: Vấn đề toàn cầu; X4: Khoa học công nghệ; X5: Vận chuyển nông sản; X6: Chính
sách nước xuất khẩu; X7: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu; X8: Đặc
trưng hàng nông sản
94
3.3.4.3 Giải thích kết quả
H1: Cơ chế chính sách của nước nhập khẩu là nhân tố có thể tác động làm thay
đổi hoạt động thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New
Zealand. Kết quả hồi quy có hệ số β1 = 0,157, mức ý nghĩa sig = 0.0 <0.05 (tức là có
sai số 0%) nên giả thuyết được chấp nhận. Đây là hệ số lớn thứ ba trong số tất cả các
biến độc lập ảnh hưởng tới biến phụ thuộc. Điều này cho thấy khi chính sách của nước
khuyến khích nhập khẩu tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì hoạt động thúc đẩy
XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand sẽ bị thay đổi
0.157 đơn vị lệch chuẩn. Kết quả này là hợp lý vì đây là điều kiện « mở đường » cho
hàng hoá nông sản của Việt Nam có thể tiếp cận được với thị trường 2 nước. Tuy
nhiên, đây là nhân tố khó tác động từ phía chính phủ Việt Nam.
H2: Đứng trước biến «Cơ chế chính sách của nước nhập khẩu » , “nhu cầu thị
trường nhập khẩu” cũng được đánh giá là nhân tố ảnh hưởng khá tới thúc đẩy
XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand. Trên thực tế, khi
nhu cầu đối với hàng hoá nông sản của Việt Nam trên thị trường hai nước được tăng 1
đơn vị thì khả năng xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng 0,143 đơn vị độ lệch chuẩn.
H3: Vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang
thị trường Australia và New Zealand nhưng không lớn bởi nó là tác động đa chiều.
Mức độ ảnh hưởng này là nhỏ thứ hai trong số các nhân tố tác động tới thúc đẩy
XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand. Hệ số β3 = 0,096
cho biết khi những vấn đề toàn cầu tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn thì sẽ tác động làm
cho thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand tăng
0,096 đơn vị lệch chuẩn.
H4: Khoa học công nghệ có ảnh hưởng ở mức độ cao nhất trong số các biến độc
lập. Khoa học công nghệ hiện đại không chỉ giúp sản xuất hàng hoá nông sản có thể
đáp ứng yêu cầu về chất lượng mà còn giúp hàng hoá được bảo quản tốt hơn, vượt qua
được các rào cản kỹ thuật mà hai nước đặt ra. Với sự tác động của khoa học công nghệ
hiện đại tăng lên 1 đơn vị độ lệch chuẩn thì thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị
trường Australia và New Zealand sẽ tăng 0,298 đơn vị lệch chuẩn. Đây cũng là một
kết quả hợp lý.
H5: Vận chuyển hàng nông sản có ảnh hưởng tới thúc đẩy XKHHNS của Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand với mức β5 = 0,124. Điều đó có nghĩa
95
là nếu người quản lý hay các doanh nghiệp xuất khẩu có thể khắc phục các vấn đề
trong vận chuyển hàng hoá nông sản hơn 1 đơn vị lệch chuẩn thì thúc đẩy XKHHNS
của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand được tăng lên 0,124 đơn vị
lệch chuẩn. Đây là một nhân tố có ảnh hưởng ở mức trung bình đối với thúc đẩy
XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand.
H6: Chính sách nước xuất khẩu có ảnh hưởng sau biến X5. Khi chính sách
khuyến khích XKHHNS tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì thúc đẩy XKHHNS của Việt
Nam sang thị trường Australia và New Zealand tăng 0,106 đơn vị lệch chuẩn.
H7: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu có hệ số β7 = 0,207
và ảnh hưởng cùng chiều tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường
Australia và New Zealand. Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng khá mạnh. Nếu năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu tăng hơn 1 đơn vị độ lệch chuẩn thì thúc
đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand tăng thêm
0,207 đơn vị độ lệch chuẩn.
H8: Đặc trưng của hàng hoá nông sản được đánh giá có mức ảnh hưởng yếu
nhất đối với thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và New
Zealand. Hệ số β8 = 0,088 cho thấy nếu thay đổi đặc trưng hàng hoá nông sản hơn 1
đơn vị lệch chuẩn thì thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang thị trường Australia và
New Zealand sẽ tăng 0,088 đơn vị lệch chuẩn. Tuy vậy, những đặc trưng này không
thể không quan tâm và có những biện pháp để khắc phục những khó khăn phù hợp
hoặc thay đổi cơ cấu xuất khẩu.
3.4. Đánh giá chung về thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị
trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới
3.4.1. Kết quả phát triển của xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang thị
trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới
3.4.1.1. Kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu
Từ sau khi Hiệp định AANZFTA có hiệu lực vào 01/01/2010, các nước
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng đã cố gắng tranh thủ những ưu đãi của Hiệp
định để thúc đẩy hoạt động thương mại giữa các nước thành viên. Đặc biệt, Hiệp định
đối tác toàn điện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới giữa 11 nước được lý kết vào ngày 08/03/2018 giúp Việt Nam
xác định Australia và New Zealand trở thành một thị trường mục tiêu.
96
Trong suốt thời gian kể từ khi Hiệp định AANZFTA được ký kết đến nay, Việt
Nam đã tích cực tìm hiểu thị trường hai nước này để mở rộng xuất khẩu hàng hoá
nông sản, một trong những lợi thế so sánh quốc gia nhằm tìm kiếm lợi ích từ TMQT.
Rất nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đã đàm phán thành công và được phê duyệt
để đưa vào thị trường Australia và New Zealand. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá nông sản của Việt Nam sang hai nước này không có nhiều sự biến động trong giai
đoạn 2010 – 2019 và có sự tăng lên trong giai đoạn 2020 - 2022 (hình 3.1).
Kim ngạch nhập khẩu nông sản Việt Nam của New Zealand khá thấp so với
Australia và tương đối ổn định qua các năm. Năm 2010, trị giá nhập khẩu nông sản Việt
của New Zealand là 19.430 nghìn USD, tăng lên 42.818 nghìn USD vào 2017 nhưng sau
đó bắt đầu xu hướng giảm tới 2020. Năm 2018, giá trị xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt
Nam sang New Zealand giảm mạnh nhất là 8,5%, giữ ổn định vào năm 2019 và tiếp tục
giảm 7,5% vào năm 2020. Tuy nhiên, năm 2021 có một sự bứt phá mạnh mẽ. Giá trị xuất
khẩu năm 2021 đã tăng 26% so với 2020 và đạt mức 45.554 nghìn USD và tiếp tục tăng
lên 47.589 nghìn USD vào năm 2022 (cao nhất trong giai đoạn 2010 - 2022).
Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023); Đơn vị: nghìn USD
Hình 3.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia và
New Zealand giai đoạn 2010 - 2022
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia có xu hướng
tăng đều từ năm 2014. Năm 2010, trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản là 125.375 nghìn
USD. Đến năm 2014 đã lên tới 177.895 nghìn USD (tăng 1,4 lần). Giai đoạn 2014 –
2017, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm hơn 6,6% nhưng đến năm 2018 và 2019,
tốc độ tăng trưởng giảm xuống còn 1,3%/năm. Tuy vậy, năm 2020, giá trị xuất khẩu
97
hàng hoá nông sản Việt Nam sang Autralia lại tăng 9,9% so với 2019. Đây cũng đánh
dấu một thành công lớn của Việt Nam bởi 2020 là năm dịch bệnh Covid-19 đã lây lan
toàn thế giới gây khó khăn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như TMQT.
Năm 2021 tiếp tục tăng 5,4% và tăng mạnh nhất vào 2022 với tốc độ 15,5%.
Có thể thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia
cao hơn sang New Zealand là 6,2 lần vào năm 2016 và 6,7 lần vào năm 2020 và được
duy trì đến hết năm 2022. So sánh giữa hai nước, rõ ràng, thị trường Australia rộng lớn
hơn nhiều so với thị trường New Zealand. Với sự chấp nhận của thị trường, Việt Nam
có thể cố gắng khai thác thị trường Australia để trở thành một thị trường chiến lược.
Bên cạnh đó, thị trường New Zealand cũng cần được nghiên cứu để mở rộng bởi vị trí
địa lý của hai quốc gia này khá gần nhau, chi phí xuất khẩu cũng như các yêu cầu kỹ
thuật về hàng hoá nhập khẩu cũng khá tương đồng.
Xem xét kỹ hơn về tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
hai nước Australia và New Zealand (chỉ ở những sản phẩm Việt Nam xuất khẩu) cũng
thấy sự khác biệt khá nhiều giữa hai thị trường này.
Tỷ trọng nhập khẩu nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông
sản của New Zealand rất nhỏ bé. Giai đoạn 2010 – 2015, tỷ trọng này là khoảng hơn
2%. Giai đoạn 2016 – 2020, tỷ trọng này tăng lên một chút, trung bình khoảng
2,8%/năm. Giai đoạn 2020 - 2022, tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam sang New Zealand đã tăng gần 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của
nước này với các nước khác trên thế giới. Điều đó cho thấy, trên thực tế, nhu cầu nhập
khẩu nông sản của New Zealand không nhỏ (dù đây là nước có lợi thế so sánh cao về
sản xuất nông sản). Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang nước này
thấp dù đã có sự cải thiện dần bởi chúng ta chưa tìm kiếm được cơ hội thích hợp, năng
lực cạnh tranh chưa cao, chưa gây được sự chú ý của thị trường.
Bảng 3.5. Tỷ trọng nhập khẩu nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập
khẩu nông sản của Australia và New Zealand giai đoạn 2010 - 2022
Đơn vị: %
Quốc gia
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022
AUSTRALIA 4,13 4,20 4,35 4,17 4,40 4,94 5,36 5,30 5,46 5,43 5,56 5,99 6,40
NEW ZELAND 1,91 2,11 2,07 2,19 2,09 2,70 2,69 3,21 2,88 2,88 2,74 3,14 2,92
Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023)
98
Tỷ trọng nhập khẩu nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của
Australia cao hơn New Zealand. Giai đoạn 2010 – 2015, tỷ trọng này trung bình
khoảng 4,2% nhưng đã tăng lên gần 5,5%/năm trong giai đoạn 2016 – 2020. Năm
2021 và 2022, tỷ trọng nhập khẩu nông sản Việt Nam của Australia đã đạt trung bình
6,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng tương tự. Mặc dù, trị giá nhập khẩu
nông sản Việt cao gấp hơn 5 lần so với New Zealand nhưng tỷ trọng trong tổng kim
ngạch mới cao gấp đôi. Như vậy, thị trường Australia thực sự là một thị trường tiềm
năng rộng lớn. Với thuế suất bằng 0%, việc mở rộng thị trường sang quốc gia này chỉ
còn nằm ở vấn đề vượt qua được các hàng rào kỹ thuật cũng như những khó khăn
trong vận chuyển hàng tươi.
Bảng 3.6. Tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam
giai đoạn 2010 – 2022
Đơn vị: %
Quốc gia
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 AUSTRALIA 1,55 1,42 1,28 1,46 1,41 1,52 1,50 1,40 1,46 1,58 1,76 1,66 2,04 NEW ZELAND 0,24 0,30 0,21 0,25 0,22 0,27 0,24 0,27 0,26 0,28 0,26 0,29 0,33 Nguồn: Trademap.org (truy cập 5/2022)
So sánh tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam thấy một thực tế rõ
hơn về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và hai nước trên trong lĩnh vực hàng hoá
nông nghiệp. Việt Nam là quốc gia có lợi thế so sánh về hàng hoá nông sản trên thế
giới bởi những ưu đãi của đất đai và khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trị giá xuất khẩu hàng
hoá nông sản của Việt Nam sang New Zealand chỉ chiếm 1 tỷ lệ rất nhỏ trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản (với hàng hoá tương tự) ra toàn thế giới. Năm
2010, tỷ trọng này chỉ đạt 0,24%, tăng lên một chút và giữ ổn định trong những năm
tiếp theo là 0,27%. Riêng năm 2021 - 2022, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu sang
New Zealand đã tăng lên hơn 0,3%. Tỷ trọng này chỉ ra đây là một thị trường không
quan trọng của Việt Nam trong suốt thời gian qua.
Thị trường Australia tuy lớn hơn New Zealand nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam ra thế giới. Năm
2010, tỷ lệ này là 1,55% và không có sự biến động mạnh trong giai đoạn 2010 – 2019
99
dù xu hướng có giảm một chút. Năm 2020, với trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản
sang Australia tăng khiến cho tỷ trọng xuất khẩu đã tăng lên là 1,76% và tiếp tục tăng
vào năm 2022 là 2,2% nhưng mức độ cải thiện vẫn còn rất khiêm tốn.
Qua phân tích về kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang
Australia và New Zealand có thể thấy mối quan hệ thương mại của Việt Nam và hai
nước này vẫn chưa đạt được tiềm năng. Đây là hai thị trường mới và còn rất nhỏ bé dù
nhu cầu xuất nhập khẩu nông sản của cả hai bên đều rất lớn. Hiệp định AANZTFA và
CPTPP mới chỉ có tác dụng đơn giản là đưa thuế suất về 0% nhưng vẫn chưa thúc đẩy
thêm mối quan hệ hợp tác giữa các bên về thương mại để khai thác lợi thế so sánh
cũng như thu lợi ích cho quốc gia.
3.4.1.2. Mặt hàng và khối lượng hàng xuất khẩu
Theo thống kê của Trademap.org, có 10 nhóm hàng nông sản của Việt Nam
được xuất khẩu sang thị trường hai nước Australia và New Zealand. Các nhóm nông
sản khác trị giá rất nhỏ nên không được thống kê vào.
Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023); Đơn vị: nghìn USD
Hình 3.2. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang New Zealand
theo nhóm hàng giai đoạn 2010 – 2022
Nhìn vào hình 3.2, có thể thấy, nhóm hoa quả là nông sản Việt Nam được xuất
khẩu nhiều nhất sang New Zealand với xu hướng có nhiều biến động. Năm 2017, nhập
khẩu hoa quả Việt Nam của New Zealand có sự tăng trưởng mạnh nhưng những năm
tiếp theo lại giảm sút dần. Thậm chí, trị giá nhóm hàng hoa quả năm 2020 còn thấp
hơn năm 2016 và chỉ đến năm 2021 mới được cải thiện. Tiếp đến là nhóm cà phê, trà
100
và gia vị. Nhóm nông sản này cũng có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2010 – 2017
và giảm sút vào những năm còn lại và cũng chỉ tăng trở lại vào năm 2021. Trong khi
đó, nhóm ngũ cốc có giá trị không lớn vào năm 2010-2017 nhưng lại có sự tăng trưởng
mạnh mẽ từ 2018 – 2022. Mức cao nhất đạt tới 9.311 nghìn USD vào năm 2022.
Tương tự, rau và củ giữ kim ngạch xuất khẩu khá ổn định. Nhóm hạt có dầu và sản
phẩm bột xay xát, các chế phẩm từ rau và trái cây tuy kim ngạch nhỏ nhưng có xu
hướng tăng dần theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2022.
Xem xét kỹ hơn các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang New Zealand,
năm 2010, trị giá nhóm hàng hoa quả đạt 11.981 nghìn USD và tăng lên 29.143 nghìn
USD năm 2017. Tuy nhiên, con số này sụt giảm mạnh vào năm 2018 chỉ còn 25.049
nghìn USD và đến năm 2020 chỉ còn 20.428 nghìn USD và tăng lại 23.321 nghìn USD
vào năm 2021. Như vậy, mặc dù nhóm hoa quả là nhóm nông sản chủ lực của Việt
Nam sang thị trường New Zealand nhưng lại không mở rộng thêm được thị trường
mặc dù hàng năm chính phủ đều cố gắng đàm phán để tăng danh mục hoa quả được
chấp nhận nhập khẩu từ đất nước này.
Bảng 3.7. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang New Zealand
Đơn vị: nghìn USD
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
4
7
4
6
10
11
14
13
13
16
16
20
40
591
895
1017
838
1058
677
991
1163
950
1115
1193
1360
1357
11981
20562
15936
16293
17171
21614
21293
29141
25049
23965
20428
23321
22099
5276
9012
6930
8066
7767
10367
8062
8889
7732
6382
5161
7330
9263
909
723
670
807
955
891
1331
1502
2148
3764
5880
8710
9311
160
93
68
56
63
66
53
140
404
1075
751
1433
1559
24
52
33
57
53
39
90
116
132
120
127
162
164
0
0
0
1
1
2
3
4
1
6
1
14
57
0
0
4
37
42
30
22
14
67
258
328
385
372
485
698
346
472
479
895
918
1836
2694
2394
2268
2820
3367
Nhóm hàng nông sản Cây sống Rau và củ Hoa quả Cà phê, trà, gia vị Ngũ cốc Sản phẩm bột xay xát Hạt có dầu Nguyên liệu tết, bện, rau Cacao Chế phẩm từ rau và trái cây
Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023);
101
Cà phê, trà và gia vị cũng là nhóm hàng có trị giá cao nhưng xu hướng biến
động cũng tương tự như nhóm hoa quả. Từ 2018 – 2021, nhóm hàng này cũng không
được đón nhận nhiều nữa. Năm 2016, trị giá xuất khẩu cà phê, trà, gia vị của Việt Nam
sang New Zealand là 8.063 nghìn USD, đã tăng lên 8.888 nghìn USD vào năm 2018
nhưng sau đó giảm mạnh xuống còn 5.160 nghìn USD vào năm 2020. Tuy nhiên, con
số này đã được cải thiện tới 1,4 lần vào năm 2021.
Ngược lại, nhóm ngũ cốc đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ theo từng năm và đến
năm 2020 thì trị giá xuất khẩu đã tăng gấp hơn 5 lần so với 2016 và 1,56 lần so với
2019. Năm 2021 đã tăng 1,48 lần so với 2020. Nhóm chế phẩm từ rau và trái cây cũng
tăng gấp 3,07 lần trong giai đoạn 2016 – 2021. Nhóm sản phẩm bột, xay xát cũng tăng
trưởng tới 27 lần trong giai đoạn này mặc dù trị giá xuất khẩu khá nhỏ bé. Năm 2021
đạt 1.432 nghìn USD. Nhóm rau và củ cũng có sự phát triển khá đều đặn nhưng không
tăng mạnh mẽ. Những nhóm nông sản còn lại giá trị rất thấp và sự biến động không
nhiều theo xu hướng giảm dần.
Như vậy, có thể thấy thị trường New Zealand mới chỉ dành cho Việt Nam
những ưu đãi về thuế theo đúng cam kết trong Hiệp định AANZFTA hay CPTPP
nhưng việc đón nhận và mở rộng thị trường cho nông sản Việt Nam thì vẫn còn hạn
chế. New Zealand đưa ra rất nhiều những yêu cầu ngặt nghèo về kỹ thuật, điều kiện
bao bì, bảo quản, vận chuyển… và cũng khó khăn trong việc xin phép đưa một hàng
hoá cụ thể vào thị trường trong nước.
Thị trường Australia có phản ứng khác với New Zeland đối với hàng hoá nông
sản nhập khẩu từ Việt Nam. Mặc dù hoa quả cũng là nhóm hàng hoá có kim ngạch
nhập khẩu là lớn nhất nhưng xu hướng gần như không có sự biến động về trị giá trong
suốt giai đoạn 2016 – 2022 dù giai đoạn 2010 – 2015 có sự tăng trưởng. Năm 2016, trị
giá xuất khẩu hoa quả của Việt Nam sang Australia là 133.434 nghìn USD và tăng lên
9,2% vào năm 2017 (là 145.709 nghìn USD). Từ 2018 – 2022, trị giá xuất khẩu lại
quay về con số ổn định khoảng 135.000 nghìn USD, thậm chí còn giảm nhẹ vào năm
2021 - 2022. Giá trị nhập khẩu đối với hàng cà phê, trà và gia vị (nhóm có kim ngạch
lớn thứ hai) cũng như vậy. Tuy nhiên, nhóm này có xu hướng giảm nhẹ từng năm.
Năm 2016, trị giá xuất khẩu cà phê, trà, gia vị của Việt Nam sang Australia là 52.330
nghìn USD thì đến năm 2020 chỉ còn 39.511 nghìn USD nhưng lại tăng lên mạnh vào
102
2022 lên 65.964 nghìn USD. Như vậy, hai nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ chốt
của Việt Nam lại có xu hướng giữ ổn định hoặc giảm dần trị giá.
Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023); Đơn vị: nghìn USD
Hình 3.3. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia
theo nhóm hàng giai đoạn 2010 – 2022
Trong khi đó, các nhóm hàng khác lại có xu hướng tăng lên. Nhóm chế phẩm từ
rau và trái cây thì có sự tăng trưởng mạnh mẽ về trị giá xuất khẩu trong những năm gần
đây. Năm 2016, Việt Nam đã xuất khẩu nhóm hàng này với kim ngạch 7.241 nghìn USD.
Đến năm 2021, con số này đã tăng 6 lần lên 43.766 nghìn USD. Ngũ cốc cũng tăng 4 lần.
Rau và củ tăng 2 lần. Đặc biệt, nhóm sản phẩm bột, xay xát còn tăng tới 21,2 lần.
Sự giống nhau giữa hai thị trường nhập khẩu nông sản Việt Nam là Australia và
New Zealand là tỷ lệ trị giá nhập khẩu giữa các nhóm hàng. Hoa quả luôn là nhóm
hàng có trị giá nhập khẩu cao nhất. Sau đó tới cà phê, trà, gia vị. Tiếp đến là ngũ cốc,
chế phẩm từ rau và trái cây, rau củ rồi tới các nhóm hàng khác. Tuy nhiên xu hướng
biến động trị giá theo từng năm trong giai đoạn 2016-2021 là khác nhau. Riêng nhóm
cây sống thì trị giá xuất khẩu sang Australia cao hơn hẳn New Zealand. Trong khi
New Zealand gần như không quan tâm đến nhóm nông sản này thì ở Australia nhóm
này thậm chí còn tăng gấp 2 lần từ 2016 đến 2021. Trị giá nhập khẩu nhóm cây sống
của Australia cao gấp 135 lần New Zealand vào năm 2016 và thậm chí cao gấp 226 lần
vào năm 2021.
103
Bảng 3.8. Trị giá xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia
Đơn vị: nghìn USD
2011
2013
2010
2014
2012
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
688
429
1099
1362
1947
1543
1891
2537
3211
3415
4714
4296
2883
984
1287
1975
1331
2184
2199
1954
2593
2669
3296
3609
4070
4379
98249
83315
103621
100144 116313 126496 133435 145709 135580 134980 136115 131225 130678
45669
38256
40758
30112
41258
49192
52331
48233
49202
42042
40462
39510
65964
4728
5821
5102
4675
4755
5336
6287
6442
7489
11676
18718
25638
29969
280
287
218
132
181
264
250
740
1996
2585
4894
5304
5337
225
622
357
155
177
237
291
284
369
510
709
409
559
144
163
79
28
86
128
155
144
128
190
343
399
397
17
23
59
9
2
440
544
948
1463
1423
1384
1896
1749
6001
6196
4016
4003
4253
5883
7239
10204
16369
21287
32371
43766
54294
Nhóm hàng nông sản Cây sống Rau và củ Hoa quả Cà phê, trà, gia vị Ngũ cốc Sản phẩm bột xay xát Hạt có dầu Nguyên liệu tết, bện, rau Cacao Chế phẩm từ rau và trái cây Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023)
Xét riêng năm 2021 để thấy được tỷ trọng nhập khẩu từng nhóm hàng nông sản
Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của Australia và New Zealand
như sau:
Có thể thấy, giá trị nhập khẩu nông sản Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của cả hai nước. Tỷ trọng cao nhất là nhóm hàng
chủ lực hoa quả. Trong đó, tổng giai đoạn 2010 - 2022, hoa quả Việt Nam đã chiếm
15,8% thị phần hoa quả nhập khẩu cùng loại của Australia. Đây cũng là một nỗ lực rất
lớn của Chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản sang thị trường
này khi thành công trong việc xin cấp phép cho những sản phẩm đặc sản như vải, sầu
riêng, thanh long đỏ, nhãn, xoài được qua biên giới. Trong khi đó, nhóm hoa quả Việt
Nam chỉ chiếm tỷ lệ 6,83% thị trường nhập khẩu hoa quả của New Zealand giai đoạn
2010 - 2022. Nhóm trà, cà phê và gia vị cũng chỉ chiếm 6,85% thị trường nhập khẩu
của Australia và 6,57% thị trường nhập khẩu của New Zealand. Riêng ở Australia,
nhóm ngũ cốc của Việt Nam cũng chiếm được thị phần tới 5,03% tương ứng với giá trị
104
tuyệt đối nhập khẩu. Còn New Zealand thì chỉ nhập 1,17% nhóm hàng này cho thị
trường (cao nhất trong các nhóm hàng).
Bảng 3.9. Tỷ trọng nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
nông sản của Việt Nam, Australia và New Zealand giai đoạn 2010 – 2022
Đơn vị: %
MS
Nhóm nông sản
Trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của các nước
AUS 2,90 0,97 15,80 6,85 5,03 1,53 0,14 2,26 0,11 1,82
NZ 0,12 1,33 6,83 6,57 1,17 0,91 0,11 0,62 0,06 0,65
06 07 08 '09 10 11 12 14 18 20
Cây sống Rau và củ Hoa quả Cà phê, trà, gia vị Ngũ cốc Sản phẩm bột xay xát Hạt có dầu Nguyên liệu tết, bện, rau Cacao Chế phẩm từ rau và trái cây
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam NZ AUS 0,02 3,89 0,19 0,46 0,53 3,11 0,19 1,13 0,10 0,36 0,05 0,20 0,08 0,34 0,03 0,92 0,58 3,73 2,83 0,26 Nguồn: Trademap.org (truy cập 7/2023);
Tỷ lệ thấp nhất là nhóm cacao và chế phẩm từ cacao. Đây cũng không phải là
thế mạnh của Việt Nam. Tỷ trọng nhập khẩu nhóm hàng này chỉ chiếm 0,11% trên thị
trường nhập khẩu của Australia và 0,06% thị trường nhập khẩu của New Zealand.
Nếu so sánh tỷ trọng giá trị xuất khẩu hàng hoá nông sản sang hai nước
Australia và New Zealand trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam theo từng nhóm hàng cũng sẽ thấy thực tế đây là hai thị trường rất nhỏ bé của
Việt Nam. Hoa quả là nhóm hàng hoá chủ lực nhưng tỷ trọng xuất khẩu sang Australia
chỉ chiếm 3,11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hoa quả cùng loại của Việt Nam.
Con số này ở New Zealand là 0,53%. Như vậy, Việt Nam có năng lực xuất khẩu lớn
hơn nhiều nhưng một phần hai quốc gia này vốn không phải là đối tác lâu dài, phần
khác vì nhiều yếu tố như yêu cầu kỹ thuật, sự khó khăn của vận chuyển dẫn đến chi
phí giá thành cao, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường. Tương tự, nhóm chủ lực
thứ hai là cà phê, trà và gia vị cũng chỉ có 1,13% xuất khẩu sang Australia và 0,19%
xuất khẩu sang New Zealand. Nếu xét về tương quan thì tỷ trọng trị giá nhập khẩu
nông sản Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của hai nước trên còn
105
cao hơn tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam trong tổng kim ngạch
xuất khẩu ra thế giới. Bài toán đặt ra là làm thế nào để thay đổi thị trường tiềm năng
này nhất là khi các Hiệp định thương mại được ký kết và các quốc gia đang dành cho
nhau những sự quan tâm hơn. Nông sản Việt Nam có thể vượt qua hàng rào kỹ thuật ở
nhiều nước khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản thì cũng sẽ có những giải pháp để tiến
vào thị trường hai nước kia.
Vấn đề ở chỗ, hai quốc gia Australia và New Zealand đều là nước xuất khẩu
hàng hoá nông sản lớn trên thế giới. Nhiều nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam lại
trùng với nhóm hàng xuất khẩu của hai nước này. Ví dụ: Australia cũng có trồng quả
vải nên quả vải Việt Nam không hoàn toàn là đặc sản nhưng vì thời điểm thu hoạch
khác nhau nên việc nhập khẩu chỉ mang tính bổ sung và trị giá không cao. Hay nói
cách khác, những nông sản xuất khẩu là thế mạnh của Việt Nam lại không phải sản
phẩm có nhu cầu nhập khẩu cao của Australia và New Zealand.
3.4.1.3. Chất lượng hàng nông sản
Australia và New Zealand là những thị trường khó tính với nhiều quy định nhập
khẩu nghiêm ngặt khiến hàng hóa của Việt Nam dù có ưu đãi thuế quan cũng khó có
thể tiếp cận được. Đây cũng là những quốc giá có quy định về kiểm dịch và vệ sinh an
toàn sản phẩm nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Ngoài ra Australia và New Zealand
cũng duy trì nhiều quy định về các biện pháp kỹ thuật như các yêu cầu về dán nhãn sản
phẩm, quy cách tiêu chuẩn sản phẩm…khá khắt khe gây nhiều khó khăn cho các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam khi tiếp cận thị trường này.
Số hàng nông sản của Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào Australia có sự biến
động theo từng năm. Năm 2016, có 15 lô hàng bị từ chối nhưng đến 2017 đã tăng lên
là 27 lô. Năm 2018 giảm chỉ còn 20 lô và giảm mạnh vào năm 2019 với 5 lô. Tuy
nhiên, số hàng nông sản bị từ chối nhập khẩu vào Australia năm 2020 lại tăng mạnh
lên 26 lô. Trung bình số hàng nông sản của Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào
Australia chiếm khoảng 11,54% trong tổng số nông sản xuất khẩu của Việt Nam vào
những nước lớn. Hai nhóm hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam vào Australia là rau
củ và hoa quả cũng là nhóm hàng bị từ chối nhiều trong các năm.
106
Bảng 3.10. Số lô hàng nông sản của Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào Australia
và một số nước nhập khẩu lớn giai đoạn 2010 - 2020
2016-2020
2010-2015
NB Mỹ TQ AUS EU NB Mỹ TQ 0 0 124 13 14 0
0 74 112
0 7 12
0 39 99
0 23 11
0 30 17
0 2 12
EU 0 43 29
AUS 0 4 7
24
12
99
28
17
14
19
16
58
1
1
47
10
3
2
6
5
9
105
2
1
4
1
0
7
4
0
1
9
1
38
1
0
7
2
0
1
32
1
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1
0
1
0
1
1
0
22
0
1
129
12
23
34
31
4
7
66
19
31
378 168 147 44 93 330 269 71
Nhóm nông sản Cây sống Rau và củ Hoa quả Cà phê, trà, gia vị Ngũ cốc Sản phẩm bột xay xát Hạt có dầu Nguyên liệu tết, bện, rau Cacao Chế phẩm từ rau và trái cây 63 81 Tổng Nguồn: https://tii.unido.org/rejection-data/data-explorer
Số lượng hàng nông sản mà Việt Nam xuất khẩu sang các nước lớn như
Australia, Trung Quốc, Eu-28, Nhật Bản, Mỹ bị từ chối khá nhiều. Tuy nhiên, tổng số
lượng hàng hoá nông sản bị từ chối giai đoạn 2010 – 2015 và giai đoạn 2016 – 2020
lại không có sự khác biệt. Tổng số nông sản bị từ chối vào Australia là thấp nhất trong
số các quốc gia còn lại (chỉ 137/1644 trường hợp) tương ứng với số lượng ít ỏi mà
Việt Nam xuất khẩu sang nước này so với tổng số nông sản được xuất khẩu. Số trường
hợp bị từ chối nhiều nhất là vào Hoa Kỳ (708 trường hợp), sau đó là Trung Quốc (437
trường hợp). Giai đoạn 2010 – 2015, tổng số nông sản bị từ chối vào Australia của
Việt Nam là 44 nhưng giai đoạn 2016 – 2020 là 93 (tăng lên gấp đôi). Những nhóm
hàng chủ lực như rau và củ, hoa quả, cà phê, trà, gia vị hay ngũ cốc đều có số lượng từ
chối rất lớn. Điều này cho thấy chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu khắt khe của những nước lớn.
Nguyên nhân chính khiến các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam bị từ chối
bởi hải quan Australia và các nước nhập khẩu lớn trong giai đoạn 2016-2021 là do vi
phạm các quy định về ghi nhãn và sản phẩm bị nhiễm khuẩn, thậm chí dư lượng thuốc
trừ sâu lớn, hay có các chất gây ô nhiễm. Một số nguyên nhân khác cũng khiến hàng bị
107
trả về như: thiếu tài liệu minh chứng trong hồ sơ, nhiễm tạp chất, dư lượng phụ gia
20
18
14
12
11
10
9
8
7
6
0
40
60
80
100
120
20
Phụ gia
Thiếu tài liệu
Nhiễm khuẩn
Nhiễm kim loại nặng
Điều kiện/kiểm soát vệ sinh Ghi nhãn
Độc tốc nấm mốc
Chất gây ô nhiễm khác
Khác
Dư lượng thuốc trừ sâu
Chất gây ô nhiễm vi sinh
Bao bì
Dư lượng thuốc thú y
thực phẩm và thức ăn chăn nuôi…
Nguồn: https://tii.unido.org/rejection-data/data-explorer
Hình 3.4. Lý do các nhóm hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam bị từ chối
Theo số liệu WITS của Ngân hàng Thế Giới điều tra mức độ sử dụng các biện
pháp phi thuế quan (NTM) của 75 quốc gia thì Australia có tỷ lệ tần suất sử dụng các
biện pháp NTM năm 2015 là 61.80%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình 43.04%
của 75 nước được điều tra. Trong đó, tỷ lệ tần suất các biện pháp NTM được Australia
sử dụng nhiều nhất năm 2015 là các yêu cầu về kiểm tra hàng hóa, ghi nhãn, thử
nghiệm, yêu cầu đăng ký đối với nhà nhập khẩu vì lý do kỹ thuật…(Bảng 3.10). Các
sản phẩm có tỷ lệ tần suất bị áp dụng các biện pháp NTM nhiều nhất năm 2015 là dệt
may, động, thực vật, thực phẩm, phương tiện giao thông… (Bảng 3.10).
Có thể thấy, hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Australia thường gặp phải
những rào cản như yêu cầu kiểm tra, yêu cầu ghi nhãn, yêu cầu thử nghiệp, yêu cầu truy
xuất thông tin làm cho hàng bị ách tắc không thông quan. Sau đó, rất nhiều hàng nông
sản tươi bị hỏng và phải loại bỏ lô hàng gây thiệt hại rất nhiều cho các nhà xuất khẩu.
108
Bảng 3.11. Các biện pháp phi thuế quan của Australia có tỷ lệ tần suất áp dụng
cao nhất năm 2015
Tỷ lệ tần suất Biện pháp NTM
46.03% Yêu cầu kiểm tra
38.28% Yêu cầu ghi nhãn
19.19% Yêu cầu thử nghiệm
14.99% Yêu cầu đăng ký đối với nhà nhập khẩu vì lý do kỹ thuật
14.77% Phí thay đổi
9.50% Yêu cầu về chất lượng và hoạt động của sản phẩm
8.04% Yêu cầu đăng ký sản phẩm
5.73% Yêu cầu truy xuất thông tin
Nguồn: WITS, Ngân hàng Thế giới, truy cập tháng 2/2023
Bảng 3.11 cho thấy trong số các sản phẩm nhập khẩu vào Australia có tỷ lệ tần
suất bị áp dụng các biện pháp phi thuế quan cao nhất năm 2015 có thực phẩm (chiếm
93,66%), thực vật (chiếm 93,37%). Điều này cho thấy hàng nông sản Việt Nam gặp rất
nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường về mặt “chất lượng sản phẩm”.
Người Australia và New Zealand không chỉ đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm
nông sản như độ tươi ngon, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng chất phụ gia
thực phẩm mà còn đòi hỏi cả bao bì mới và chất lượng, có nhiều kích cỡ để sử dụng
thuận tiện, bao bì có thể tái sử dụng hoặc tiêu hủy được để bảo vệ môi trường.
Sau 12 năm đàm phán để có thể đưa quả vải vào thị trường Australia thì năm
2015, chuyến hàng 3 tấn đầu tiên đã cập cảng. Năm 2016, khoảng 32 tấn vải đã được
nhập khẩu sang Australia. Tuy nhiên, có 10 tấn đã bị huỷ do không đáp ứng được điều
kiện về xử lý lạnh trên đường vận chuyển.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Australia, trong tháng 12/2017, Việt Nam có
3/36 trường hợp vi phạm khi xuất khẩu hàng thực phẩm vào Australia, nâng tổng số
trường hợp vi phạm năm 2017 lên con số 39. Những lô hàng thực phẩm bị phát hiện vi
phạm được xác định có nguy cơ cao hoặc trung bình cho sức khỏe cộng đồng. Theo
đó, những lô hàng này sẽ không được phép bán tại Australia, đồng thời nhà nhập khẩu
phải hủy hoặc tái xuất về nước xuất xứ dưới sự giám sát của các cơ quan chức năng
109
Australia. Đáng chú ý, các lô hàng tiếp theo sẽ bị kiểm tra 100% cho đến khi đạt tiêu
chuẩn quy định.
Bảng 3.12. Các sản phẩm nhập khẩu vào Australia có tỷ lệ tần suất bị áp dụng
các biện pháp NTM cao nhất năm 2015
Lĩnh vực Tỷ lệ tần suất NTM
99.09% 95.72% 93.66% 93.37% 89.06% 84.01% Dệt may Động vật Thực phẩm Thực vật Phương tiện giao thông Máy móc và thiết bị điện tử
68.09% 50.00% 42.26% 25.56% Giày dép Nhiên liệu Hóa chất Da Nguồn: WITS, Ngân hàng Thế giới, truy cập tháng 2/2019
Để ít ảnh hưởng đến chất lượng nông sản tươi xuất khẩu sang Australia và New
Zealand, Việt Nam chọn hình thức chiếu xạ nhưng ở phía Bắc hiện nay mới chỉ có 1
trung tâm chiếu xạ đặt ở Hà Nội nên khi thực hiện công đoạn này mất khá nhiều thời
gian và chi phí, có thể gây hỏng nông sản trong quá trình sơ chế. Trong khi nông sản
Việt Nam được đánh giá là thơm ngon hơn hàng hoá cùng loại của Trung Quốc thì
việc không được chấp nhận thông quan thường nằm ở vấn đề bảo quản.
Bảng 3.13. Các hình thức xử lý hoa quả tươi theo yêu cầu của Australia
Xử lý lạnh từ 0,990C trở xuống trong vòng 17 ngày, hoặc từ 1,380C trở xuống trong vòng 20 ngày;
- Xử lý nhiệt hơi từ 470C trở lên (nhiệt độ bên trong trái cây) trong
vòng 15 phút, hoặc từ 460C trở lên trong vòng 20 phút;
- Xử lý chiếu xạ với cường độ tối thiểu là 400 Gy.
Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Australia
Cho đến nay, số hàng nông sản của Việt Nam bị trả về vẫn còn khá nhiều bởi
khi kiểm tra vẫn còn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và kháng sinh do DN xuất khẩu
chỉ biết được phép xuất khẩu loại hàng hoá gì mà không tìm hiểu kỹ những quy định
110
chi tiết. Trong khi đó, Australia và New Zealand đều là những nước có quy định
nghiêm ngặt nhất thế giới. Chất lượng nông sản tươi Việt Nam xuất khẩu sang
Australia va New Zealand có thể vẫn đảm bảo khi đóng hàng nhưng do những phức
tạp trong thủ tục thông quan, việc kéo dài thời gian làm biến chất. Chi phí xuất khẩu
để đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lượng mà hai quốc gia này đặt ra cũng rất lớn
làm giảm tính cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Các DN xuất khẩu hàng hoá
nông sản còn phải đối mặt với việc khi thu mua nông sản từ phía các hộ gia đình chất
lượng không đồng đều. Chính vì vậy, để tăng cường xuất khẩu hàng hoá nông sản và
vượt qua hàng rào kỹ thuật, các DN xuất khẩu sang Autralia và New Zealand đang có
xu hướng giảm nông sản tươi và tăng nông sản chế biến.
3.4.2. Những thành tựu đạt được
Thứ nhất, trong những năm qua, Việt Nam đã mở rộng được mặt hàng nông sản
xuất khẩu sang Australia và New Zealand, đặc biệt là nhóm hàng hoa quả, cà phê, trà
và gia vị. Từ việc chỉ có 4 mặt hàng hoa quả (xoài, vải, thanh long và nhãn) được cấp
phép vào thị trường Australia năm 2017 thì đến nay đã có thêm nhiều mặt hàng khác
của Việt Nam tiếp cận được thị trường này như dừa, sầu riêng, chôm chôm, sấu,
gừng… Đây là những dấu hiệu tốt cho thấy khả năng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản Việt Nam sang Australia và New Zealand vẫn còn nhiều cơ hội cả về chiều
rộng và chiều sâu. Việc đa dạng hoá sản phẩm giúp cho các thương hiệu nông sản Việt
Nam dần trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng ở châu Đại dương. Với cơ cấu
mặt hàng xuất nhập khẩu bổ sung cho nhau như hoa quả Việt Nam thường ngược mùa
với hai nước trên nên việc nhập khẩu hoa quả của Việt Nam được chú ý hơn. Hoa quả
cũng là nhóm hàng có tỷ trọng nhập khẩu lớn nhất từ cả Australia và New Zealand.
Thứ hai, Australia và New Zealand đã dành nhiều ưu đãi cho Việt Nam trong việc
thực hiện cam kết của các Hiệp định AANZFTA, CPTPP, RCEP… để mở rộng thương
mại hai chiều giữa hai bên. Hai nước còn có những thoả thuận, mở các diễn đàn hợp tác
Công thương giữa hai bên nhằm tạo cơ hội cho Việt Nam được tìm hiểu, kinh doanh và
xuất khẩu hàng hoá nông sản sang thị trường của họ. Australia và New Zealand cũng tạo
điều kiện để các DN Việt Nam tham gia các hội chợ triển lãm để quảng bá sản phẩm
xanh, sạch của Việt Nam tới người tiêu dùng nội địa. Ngoài ra, New Zealand còn đồng ý
hỗ trợ các cơ quan Việt Nam đào tạo, tư vấn trong các lĩnh vực mua sắm công, hải quan,
tạo điều kiện thông qua nông sản qua chứng nhận điện tử.
111
Thứ ba, Nhà nước đã quan tâm hỗ trợ các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản
sang Australia và New Zealand với nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt, thương vụ
Việt Nam tại hai quốc gia trên đã thực hiện rất nhiều chương trỉnh xúc tiến thương mại
để giúp các DN xuất khẩu có thể tiếp cận và phân phối hàng hoá sang thị trường
Australia và New Zealand.
Thứ tư, các mặt hàng chế biến nông sản Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh mẽ
về kim ngạch nhập khẩu của Australia và New Zealand trong những năm gần đây.
Điều này giúp tăng giá trị của các sản phẩm nông sản, đồng thời có thể đáp ứng dễ
dàng hơn các yêu cầu kỹ thuật mà hàng tươi khó thực hiện.
3.4.3. Những hạn chế và nguyên nhân
3.4.3.1. Những hạn chế
Thứ nhất, chưa có những chính sách riêng nhằm thúc đẩy hàng nông sản sang
thị trường Australia và New Zealand. Hiện nay, Chính phủ chỉ đưa ra những chính
sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung ra thị trường nước
ngoài (Đề án thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đến năm 2030 được ban hành theo
Quyết định số 174/QĐ-TTg ngày 05/02/2021) nên chính sách hỗ trợ DN xuất khẩu còn
rất chung chung. Trong đó, việc hỗ trợ cho DN hiểu được các Hiệp định thương mại tự
do, đặc biệt liên quan đến Australia và New Zealand còn khá mờ nhạt. Điều này dẫn
đến những lúng túng của DN xuất khẩu hàng hoá nông sản khi chưa hiểu được hết các
yêu cầu khắt khe mà hai thị trường này đặt ra khi đã quá quen với các thị trường
truyền thống dễ tính.
Thứ hai, mặc dù Việt Nam đã ký kết các Hiệp định tự do hoá thương mại với
Australia và New Zealand cũng như thúc đẩy những cam kết song phương về hợp tác
và hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá nông sản giữa hai bên nhưng trên thực tế, Việt Nam gặp
rất nhiều khó khăn để được cấp phép đưa hàng hoá vào hai thị trường này. Kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia và New Zealand gần như không
có sự tăng trưởng trong suốt giai đoạn 2016 – 2020, thậm chí còn có phần giảm nhẹ.
Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu sang hai thị trường này trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam ra thế giới rất nhỏ. Tương tự, tỷ trọng hàng
nông sản nhập khẩu từ Việt Nam ở Australia và New Zealand cũng rất nhỏ trong tổng
kim ngạch nhập khẩu nông sản của hai nước. Như vậy, mặc dù hai bên dành cho nhau
112
nhiều ưu đãi về điều kiện thương mại nhưng lợi ích thực tế mang lại cho các DN, quốc
gia từ việc này còn rất hạn chế.
Thứ ba, việc kiểm soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu sang
Australia và New Zealand còn thiếu chặt chẽ. Rất nhiều lô hàng khi kiểm dịch bị giữ
lại với những lỗi như dư lượng thuốc bảo vệ thực vật lớn hơn mức cho phép, còn sót
quả non, chưa chọn lọc cẩn thận hàng không đủ tiêu chuẩn về kích thước, hình thức,
mẫu mã, chưa đảm bảo những yêu cầu kỹ thuật cơ bản như hoa quả không cắt sát
cuống, còn sót lại lá cây… Nhiều lô hàng sau khi thực hiện bảo quản theo hình thức
đông lạnh nhanh hay chiếu xạ nhưng khi bị kiểm dịch giữ lại lâu ngày bị hỏng và
không thể tiêu thụ được. Cơ sở chiếu xạ ở Hà Nội cũng xa với nhiều vùng nông sản
nên khi vận chuyển hàng để đóng gói, bảo quản thì gặp những rủi ro khác tới chất
lượng của nông sản xuất khẩu.
Thứ tư, việc xây dựng hệ thống thông tin và xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nông
sản sang Australia và New Zealand vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những vấn đề
khi xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam ra thế giới nói chung và sang châu Đại
dương nói riêng là phần lớn không có chỉ dẫn địa lý, thương hiệu nông sản nên ít được
người tiêu dùng biết đến hoặc xuất hiện trong các siêu thị của các nước nhưng với
thương hiệu khác. Đa phần mặt hàng nông sản Việt Nam khi xuất khẩu không hề mang
một nhãn mác cụ thể. Nhiều nhà xuất khẩu nước ngoài mượn danh đặc sản của Việt
Nam để trục lợi khiến nông sản Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề. Hiện nay,
Việt Nam chưa được biết đến như một nguồn cung cấp hàng nông sản tốt ở Australia
và New Zealand. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến xuất khẩu còn phân tán, không
theo chiến lược phát triển chung, chưa tạo lập được khuôn khổ pháp lý cho hoạt động
xúc tiến xuất khẩu. Cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động này còn thiếu và yếu, đặc
biệt là trình độ của lực lượng cán bộ xúc tiến xuất khẩu còn yếu và thiếu, chưa chuyên
nghiệp. Các thông tin thương mại tại Australia và New Zealand còn chưa tập trung và
việc phổ biến tới các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản trong nước vẫn còn chưa đầy
đủ. Các kênh phân phối hàng nông sản Việt Nam ở Australia và New Zealand còn khá
hạn chế, chưa có sự liên kết với các nhà phân phối lớn ở thị trường nước sở tại. Bên
cạnh đó, việc phát triển các kênh bán hàng hiện đại còn khá mờ nhạt.
113
3.4.3.2. Những nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, chi phí, thủ tục hành chính để xin cấp C/O còn phức tạp, mất thời
gian. Hiện nước ta chưa có đầu mối thống nhất về giải thích cam kết, hướng dẫn FTA.
Việc giải thích, hướng dẫn áp dụng FTA vẫn còn tản mạn, chưa có sự nhất quán. Việc
vận dụng cùng một quy định trong FTA, chẳng hạn việc áp dụng tiêu chí xuất xứ
không giống nhau giữa các địa phương. Thời gian thông quan và kiểm soát kỹ thuật,
xếp hàng tại cảng của Việt Nam mất 8 ngày, trong khi đó Thái Lan chỉ mất 4 ngày,
Malaysia mất 3 ngày và Singapore mất 2 ngày. Thời gian chuẩn bị chứng từ xuất khẩu
của Việt Nam mất 12 ngày, còn của Thái Lan, Malaysia và Singapore chỉ mất 8 ngày,
4 ngày và 2 ngày.
Thứ hai, Nhà nước chưa có sự quan tâm và phân chia chính sách thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản cho từng thị trường khác nhau. Việc quy hoạch các vùng canh
tác vẫn còn chưa thực hiện được đồng bộ và kiểm soát chặt chẽ. Công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách, quy định về xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia
và New Zealand chưa được thực hiện một cách đầy đủ và thống nhất. Nhiều người sản
xuất chưa xác định được phương pháp tiến hành phù hợp. Nhà nước cũng chưa xác
định rõ vị trí của thị trường xuất khẩu Australia và New Zealand trong chiến lược thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam.
Thứ ba, chính sách thương mại và thuế của Australia và New Zealand khá minh
bạch, nhưng hàng rào phi thuế quan (các quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực
phẩm, SPS, TBT...) lại rất nghiêm ngặt. Tất cả các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu phải
tuân thủ theo các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm do Bộ Y tế đưa ra. Hàng nông
sản phải tuân thủ các quy định về SPS. Sản phẩm công nghiệp cần tuân thủ theo các quy
định về hàng rào kỹ thuật. Nhìn chung các mặt hàng nhập khẩu đều phải tuân thủ theo
các quy định về bao gói, nhãn mác. Khi phát hiện ra trường hợp hàng hoá Việt Nam vi
phạm, mọi thông tin đều thông báo rộng rãi trên các trang web của Chính phủ bao gồm
cả tên nhà cung cấp và nước cung cấp. Điều này đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh hàng
nông sản của Việt Nam khi muốn tiếp tục xâm nhập thị trường hai nước trên.
Thứ tư, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được một hệ thống các cơ quan quản lý
và chứng nhận chất lượng đạt chuẩn từ trung ương tới địa phương, hiện đang xây dựng
tiêu chuẩn cho hàng hóa và hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế. Năng lực của các cơ quan
quan quản lý chất lượng còn yếu. Máy móc thiết bị kiểm tra còn lạc hậu nên kết quả
114
kiểm tra trong một số trường hợp chưa chính xác. Công tác quản lý chất lượng hàng
hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm còn lỏng lẻo từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm.
Dẫn tới hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm của Australia và New Zealand. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho
hàng xuất khẩu nước ta khó đáp ứng yêu cầu về SPS, TBT theo Hiệp định AANZFTA
để có thể tận dụng ưu đãi. Trong khâu sản xuất, nhiều nơi, nhiều vùng áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật chưa tốt, vẫn còn lạm dụng yếu tố đầu vào như phân bón, vật tư,
thuốc trừ sâu, đặc biệt là tài nguyên nước. Điều này đã làm cho giá thành sản xuất, lợi
nhuận cho bà con nông dân không được như kỳ vọng, chất lượng chưa đảm bảo.
Thứ năm, hiện nay, xu hướng áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào
sản xuất và chế biến hàng nông sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng của mặt hàng này
đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Trong khi đó, các DN Việt Nam với hạn chế về
vốn và công nghệ nên khó theo kịp với trình độ thế giới. Điều đó hạn chế khả năng
thâm nhập và chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu sang Australia và New Zealand
với đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm.
Thứ sáu, các DN còn khá thụ động trong việc làm quen với các thủ tục
chứng nhận xuất xứ, kiểm dịch, chưa nắm được những quy định về bao bì, mẫu mã
và lựa chọn sản phẩm xuất khẩu. Dù đã được các chuyên gia và cơ quan quản lý
cảnh báo, khuyến nghị nhiều năm qua, nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu của DN vẫn
đơn điệu. Điều này làm cho DN giảm sút năng lực cạnh tranh do không nâng cao
năng lực của mình thông qua tận dụng ưu đãi FTA. Hơn nữa, nhóm hàng này gặp
khó khăn trong việc vượt qua rào cản kỹ thuật của thị trường Australia và New
Zealand, một số lô hàng xuất khẩu vẫn còn vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực
phẩm của Australia và New Zealand.
Thứ bảy, công tác xúc tiến xuất khẩu và hệ thống phân phối hàng nông sản còn
kém hiệu quả. Các hoạt động xúc tiến chủ yếu vẫn tập trung vào việc khảo sát chung
chung và tham gia hội chợ triển lãm mà không chú trọng và đẩy mạnh việc tiếp cận
trực tiếp với các đầu mối tiêu thụ, các nhà sản suất và chế biến lớn, các siêu thị. Tại
hầu hết các thị trường tại Australia và New Zealand, Việt Nam vẫn chưa có một
chương trình quảng bá, quảng cáo hàng nông sản mang tính hệ thống và liên tục.
115
Tiểu kết chương 3
Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New
Zealand trong bối cảnh mới được chương 3 nghiên cứu thực tiễn với việc tổng hợp số
liệu thứ cấp theo hai nội dung chính là thực trạng xuất khẩu và thực trạng thúc đẩy
xuất khẩu của chính phủ trong giai đoạn 2016 – 2021.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam sang Australia và New Zealand tuy gần như không có sự thay đổi nhưng giá trị
cũng như tỷ trọng còn rất bé, chưa xứng với tiềm năng của cả hai bên. Các hoạt động
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang châu Đại dương đã đạt
những thành tựu nhất định nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế. Những nội dung thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản bao gồm: xây dựng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản sang thị trường Australia và New Zealand; tăng cường hợp tác mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hoá nông sản; xây dựng hệ thống thông tin; tăng cường kiểm
soát và đảm bảo chất lượng hàng nông sản xuất khẩu và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu hàng
hoá nông sản sang thị trường Australia và New Zealand đều đã được thực hiện thời
gian qua. Tuy nhiên, cũng từ đây, chuyên đề chỉ ra nhiều vấn đề mà Việt Nam phải đối
mặt khi xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand. Đây chính là cơ
sở để các nhà quản lý Nhà nước xem xét và xác định các giải pháp hữu hiệu nhằm thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zealand, khắc
phục được các hạn chế, đồng thời nâng cao vai trò Nhà nước.
116
Chương 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG AUSTRALIA VÀ NEW ZEALAND
TRONG BỐI CẢNH MỚI
4.1. Những cơ hội và thách thức ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam sang Austrailia và New Zealand trong bối cảnh mới
Những cơ hội thúc đẩy phát triển XKHHNS của Việt Nam sang thị trường
Austrailia và New Zealand trong bối cảnh mới như sau:
4.1.1. Những cơ hội thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam
sang Australia và New Zealand
4.1.1.1. Toàn cầu hoá được gia tăng
Thứ nhất, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu
rộng. Biên giới của các quốc gia trở nên bị xoá mờ một cách tương đối trong kinh tế.
Kéo theo đó là xu thế tự do hóa thương mại diễn ra mạnh mẽ ở quy mô khu vực và thế
giới. Các quốc gia đã tự tìm hướng giải quyết bằng cách đàm phán ký kết FTA song
phương và đa phương ngày càng nhiều. Việc cắt giảm các hàng rào thương mại thông
qua các FTA được ký kết trong khu vực cũng như trên toàn cầu sẽ tháo bỏ các rào cản
thương mại truyền thống giúp cho hoạt động thương mại được mở rộng hơn. Tại châu
Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, các liên kết kinh tế đang được củng cố và phát
triển trên cả chiều rộng và chiều sâu sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho các quốc gia trong
khu vực mở rộng hợp tác kinh tế và TMQT. Toàn cầu hoá khiến cho nền kinh tế các
nước phụ thuộc vào nhau nhiều hơn [86].
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát triển năng động với vị trí địa kinh
tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đây cũng là khu vực động
lực cho tăng trưởng thương mại toàn cầu. Các liên kết kinh tế đang được phát triển tại
khu vực này, tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho các quốc gia trong khu vực tiếp tục
mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại. ASEAN trở thành Cộng đồng, giữ
vững vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh
tế trong khu vực. Hiệp định thương mại tự do AANZFTA giữa ASEAN và Australia,
New Zealand tạo ra những ưu đãi về thuế quan cho hàng hoá các nước ASEAN trong
đó có Việt Nam tiếp cận với thị trường châu Đại dương [94]. Ngoài ra, CPTPP đã
117
được ký kết vào ngày 09/03/2018. Đây được coi là một hiệp định thương mại tự do
tiêu chuẩn cao, ngoài việc đề cập đến các lĩnh vực truyền thống thì Hiệp định còn giải
quyết những vấn đề phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính
phủ,... Điều này sẽ là động lực quan trọng trong việc thúc đẩy trao đổi thương mại
trong khu vực và phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Đây là cơ hội thúc đẩy
phát triển xuất khẩu hàng hóa của nước ta sang Australia, New Zealand.
Thứ hai, thương mại toàn cầu được dự báo tăng trưởng ổn định. Giai đoạn
2010- 2015 khi cả thế giới phải đối mặt với suy thoái kinh tế, thương mại quốc tế có
xu hướng giảm khoảng 3% so với giai đoạn trước đó nhưng vẫn đạt tăng trưởng dương
với mức trung bình khoảng hơn 3%/năm. Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế
giới từ sau 2015, tăng trưởng thương mại toàn cầu dao động ở mức 3,69%- 5,17% năm
cho tới năm 2020. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của các nền kinh tế đang phát triển
và thị trường mới nổi dao động ở mức 3,50% - 6,26%/năm. Do cú sốc của đại dịch
Covid 19 cùng lúc với các vấn đề chính trị (chiến tranh) giữa các quốc gia, thương mại
toàn cầu có sự sụt giảm tạm thời trong giai đoạn 2020 – 2022. Tuy nhiên, dự báo từ
năm 2024, sau khi các vấn đề được kiểm soát thì thương mại toàn cầu sẽ trở lại mức
tăng trưởng cũ. Nhìn chung, nhờ có toàn cầu hoá, khối lượng của thương mại toàn cầu
hiện nay lớn hơn khoảng 43 lần so với khối lượng được ghi nhận trong những ngày
đầu của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) được ký kết vào năm
1947 và có hiệu lực cho đến khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập
vào năm 1995. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho phát triển xuất khẩu hàng hóa của các
nước đang phát triển sang thị trường các nước phát triển.
4.1.1.2. Quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Austrailia và New Zealand
đang được đẩy mạnh
Thứ nhất, định hướng phát triển TMQT của Australia và New Zealand hướng
về châu Á và cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Hiệp định thiết lập khu
vực tự do thương mại Asean – Australia – New Zealand (AANZFTA) được ký kết
ngày 27/02/2009, tạo thành một khuôn khổ pháp lý ổn định, thuận lợi cho hoạt động
thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN và hai nước Australia, New Zealand. Có
hiệu lực từ năm 2010 với cam kết cắt giảm thuế quan cao nhất lên đến 0%, Hiệp định
AANZFTA được coi là động lực quan trọng thúc đẩy thương mại đa phương giữa các
quốc gia ASEAN với Australia, New Zealand [69]. Hiệp định cũng góp phần tạo dựng
118
mối quan hệ hợp tác kinh tế tốt đẹp giữa Việt Nam và hai nước trên. Đến năm 2020,
AANZFTA đã chốt các cam kết cắt giảm thuế quan cuối cùng. Hai nước hàng năm có
nhu cầu nhập khẩu một khối lượng hàng hóa lớn từ các nước ASEAN phục vụ nhu cầu
phát triển sản xuất và tiêu dùng. Đây là cơ hội thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang hai thị trường này [72].
Tháng 2/2023, nội dung đàm phán nâng cấp Hiệp định AANZFTA được hoàn
tất nhằm tạo thuận lợi hơn cho hoạt động thương mại trong việc khai thác thị trường
ASEAN, Australia và New Zealand so với hiệp định đã có. Thỏa thuận mới được thiết
kế để phản ứng nhanh hơn, thích ứng hơn và linh hoạt hơn trước các tình huống khẩn
cấp như các đại dịch hoặc thiên tai trong tương lai. Bên cạnh đó, trước sự tăng trưởng
mạnh mẽ của thương mại số, hiệp định nâng cấp cũng sẽ đưa ra các quy tắc thương
mại điện tử chặt chẽ hơn nhằm tăng cường bảo vệ người tiêu dùng và việc sử dụng hóa
đơn điện tử rộng rãi hơn, đồng thời loại bỏ các rào cản không cần thiết đối với việc
trao đổi thông tin kinh doanh xuyên biên giới. Việc nâng cấp cũng đưa ra một khuôn
khổ hợp tác về các vấn đề thương mại bền vững, bao gồm môi trường, tiêu chuẩn lao
động và trao quyền kinh tế cho phụ nữ.
New Zealand luôn chú trọng phát triển các thỏa thuận thương mại cả song phương
lẫn đa phương. Quan hệ với các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đóng
vai trò đặc biệt quan trọng đối với New Zealand. Năm 2014, Bộ Ngoại giao và Thương
mại của New Zealand đã đề ra phương hướng chiến lược trong hợp tác kinh tế và thương
mại của New Zealand chỉ rõ: “Chính phủ New Zealand mong muốn thắt chặt mối quan hệ
chính trị với các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm củng cố an ninh
cũng như tăng cường các quan hệ thương mại và đầu tư.” [128].
Ngoài Hiệp định AANZFTA đã ký kết và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định
CPTPP, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, gồm 11 nước thành viên
trong đó có Việt Nam, Australia và New Zealand được ký kết ngày 08 tháng 3 năm
2018 tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn và hứa hẹn mức độ mở cửa tự do
thương mại còn mạnh mẽ hơn WTO do đó sẽ có tác động thúc đẩy trao đổi thương mại
mạnh mẽ giữa các quốc gia tham gia hiệp định.
Như vậy, cả Australia và New Zealand đều có định hướng chiến lược về phát
triển quan hệ kinh tế và thương mại với các quốc gia châu Á, trong đó ASEAN là một
119
đối tác quan trọng trên thực tế và trong các chiến lược lâu dài của cả hai quốc gia. Việt
Nam nằm trong khối các quốc gia ASEAN được coi là trung tâm của Đông Á - khu
vực kinh tế phát triển năng động nhất châu Á-Thái Bình Dương, là một nền kinh tế
được đánh giá là trong nhóm các nền kinh tế năng động nhất trong khu vực. Tận dụng
được vị trí địa lý và nắm bắt xu thế phát triển thương mại của khu vực cũng như của
thế giới, quan hệ thương mại song phương Việt - Australia, Việt Nam - New Zealand
chắc chắc sẽ được tăng cường và phát triển trong giai đoạn tới, đặc biệt xuất khẩu của
Việt Nam sang hai thị trường này sẽ được thúc đẩy phát triển nhờ vào những tác động
tích cực từ việc thực thi Hiệp định AANZFTA.
Thứ hai, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Australia và New
Zealand từ năm 2009. Việt Nam với Australia và New Zealand đang thực hiện Chương
trình hành động nhằm cụ thể hóa các lĩnh vực hợp tác. Bên cạnh đó, Hiệp định
AANZFTA đang được thực thi, Việt Nam với Australia và New Zealand tăng cường
hợp tác để triển khai Hiệp định.
Australia và New Zealand là hai quốc gia phát triển, Việt Nam là quốc gia đang
phát triển. Quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam với Australia và New
Zealand là quan hệ hợp tác kinh tế giữa quốc gia đang phát triển với hai quốc gia phát
triển. Nền kinh tế của Việt Nam và hai nước mang tính bổ sung cho nhau. Australia và
New Zealand có nhu cầu nhập khẩu lớn những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất
khẩu như may mặc, da giày, thủy sản, đồ gỗ... Trong đó, rất nhiều mặt hàng nông sản
của Việt Nam đã được cấp phép vào thị trường hai nước thông qua các đàm phán song
phương. Như vậy, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang hai thị trường này sẽ được
đẩy mạnh trong những năm tới [121].
New Zealand là đối tác thương mại lớn thứ 31 của Việt Nam, kim ngạch thương
mại song phương kể từ khi ký FTA giữa ASEAN với New Zealand và Australia năm
2009 đã tăng tới 227,6%. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 14 của New
Zealand, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của New Zealand. Trong đó, Việt
Nam là nhà xuất khẩu đứng thứ 16 vào thị trường New Zealand, tăng 3 bậc so với năm
2015 và là nhà nhập khẩu đứng 19 của New Zealand [57].
Trong khi đó, Australia hiện là đối tác lớn nhất của Việt Nam ở Nam bán cầu.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, sau hơn 6 năm thực thi Hiệp định thương mại tự
do ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA), kim ngạch xuất nhập khẩu giữa
120
Việt Nam và Australia tăng trung bình gần 5%/năm. Hiện Australia là bạn hàng xuất
khẩu lớn thứ 8 và bạn hàng nhập khẩu thứ 12 của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt
Nam là bạn hàng thứ 14 của Australia về nhập khẩu lẫn xuất khẩu. Như vậy là khá nhỏ
nhưng tốc độ tăng trưởng khá cao ở mức 3,1% [125].
4.1.1.3. Nhu cầu của thị trường nông sản Australia và New Zealand cao
Sự thiết hụt nguồn cung một số mặt hàng nông sản ở hai nước Australia và New
Zeand là cơ hội để thúc đẩy nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang.
Sản lượng gạo của Australia duy trì biến động cao do sự thay đổi của nguồn nước
và giá các loại cây trồng thay thế. Theo số liệu của Bộ Khoa học, Kinh tế Tài nguyên và
nông nghiệp Australia (ABARES) và Cơ quan Thống kê Australia (ABS), sản lượng
gạo niên vụ 2019 – 2020 đạt khoảng 57 nghìn tấn. Trong điều kiện thời tiết bình thường,
niên vụ 2020 – 2021 được dự đoán sẽ khoảng 266 nghìn tấn. Mức sản lượng này đang
thấp hơn nhiều so với mức trung bình 10 năm từ 2009 – 2019 là 629 nghìn tấn. Sự thay
đổi nguồn nước và lợi nhuận tương đối thấp khi trồng lúa khiến cho loại cây này ngày
càng ít được gieo trồng ở Australia gây ra sự thiếu thốn nguồn cung. Người dân
Australia tiêu thụ khoảng 300 nghìn tấn gạo mỗi năm trong đó nhập khẩu chiếm khoảng
một nửa (173 nghìn tấn trong giai đoạn 2009 – 2019) [67]. Hầu hết gạo nhập khẩu vào
Australia có xuất xứ từ các nước châu Á. Tuy nhiên, sự giảm sút nguồn cung trong nước
thời gian qua càng đẩy nhu cầu nhập khẩu gạo gia tăng. Điều này tạo cơ hội lớn cho
Việt Nam xuất khẩu sang Australia bởi tiềm năng tăng cường hoạt động thương mại gạo
của Việt Nam đang ngày càng được củng cố.
Tập trung phân tích sâu với mặt hàng rau quả càng thấy rõ hơn tiềm năng,
lợi thế của hàng hóa Việt Nam tại thị trường này. Mặc dù Australia là một nước
nông nghiệp nhưng trái cây Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này là trái mùa
nên có khả năng tiêu thụ với giá cao. Nhu cầu tiêu dùng rau quả tại Australia đã
tăng lên trong giai đoạn 2010-2015 và sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn tới. Cụ thể,
nhu cầu tiêu dùng rau bình quân đầu người của Australia đã tăng từ 96 kg năm
2011 lên 107 kg vào năm 2016 và dự báo sẽ tăng lên 114 kg vào năm 2021. Sản
lượng rau quả của Australia sản xuất trong nước đáp ứng 90% nhu cầu tiêu dùng
và xuất khẩu, 10% là nhập khẩu [105].
121
4.1.1.4. Việt Nam đã và đang ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản
xuất để tăng năng suất và chất lượng nông sản
Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, máy móc và giải pháp tự
động hóa chính là cơ sở giúp nâng cao giá trị cho mặt hàng nông sản Việt Nam phục
vụ xuất khẩu, qua đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp quốc gia.
Theo các chuyên gia kinh tế, có đến 90% nông sản của Việt Nam vẫn được xuất khẩu
dưới dạng thô hoặc với hàm lượng chế biến thấp, chất lượng và giá trị thấp. Chất
lượng của hàng nông sản Việt Nam thấp, công nghệ chế biến lạc hậu, mẫu mã chưa
hấp dẫn, giá thành sản xuất cao dẫn đến cạnh tranh kém, bị ép giá trên thị trường.
Trong đó, tổn thất sau thu hoạch vẫn ở mức cao, 14% đối với lúa gạo, 25 – 30% với
chăn nuôi, rau củ quả [48]. Sau một giai đoạn dài cạnh tranh bằng giá thành, nông sản
Việt Nam đã bắt đầu hụt hơi trong cuộc đua với các đối thủ nước ngoài vì chưa đáp
ứng được các yêu cầu về chất lượng, mẫu mã. Nỗ lực tăng năng suất dựa trên phương
thức canh tác cũ đã đến giới hạn, cộng với áp lực chi phí sản xuất tăng do phụ thuộc
vào nguồn vật tư nhập khẩu và quá trình đô thị hóa, buộc ngành nông nghiệp và chế
biến nông sản phải chuyển hướng sang đầu tư công nghệ tiên tiến mới đạt được cả hai
mục tiêu là tăng năng suất và chất lượng [47].
Với mục tiêu nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản Việt Nam,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định 1003 về nâng cao giá trị
gia tăng hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch. Xác định
đến năm 2020, giá trị gia tăng các ngành hàng nông, lâm, thủy sản phải tăng bình quân
20% và giảm tổn thất sau thu hoạch 50% so với trước đây. Bên cạnh đó là các giải pháp
về tổ chức sản xuất theo hướng tăng cường liên kết sản xuất nguyên liệu, chế biến tiêu
thụ, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng an toàn thực phẩm
và hạ giá thành sản phẩm. Việt Nam cũng đầu tư những cơ sở chiếu xạ hay cấp đông
nhanh để phục vụ cho việc đóng gói bảo quản hàng nông sản xuất khẩu không làm ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm và có thể vượt qua được các hàng rào kỹ thuật của những
nước nhập khẩu khó tính như Australia và New Zealand.
122
4.1.2. Những thách thức ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hoá nông sản của
Việt Nam sang Australia và New Zealand
Bên cạnh những cơ hội, còn có những thách thức ảnh hưởng tới phát triển xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Australia và New Zealand. Có thể kể ra một số
thách thức chính như sau:
4.1.2.1. Dịch bệnh Covid – 19 kéo dài trên toàn thế giới gây khó khăn cho sản
xuất và TMQT.
Đại dịch Covid-19 đã tác động nặng nề đến nền kinh tế, xã hội của các quốc gia
trên toàn thế giới. Trong đó, ngành dịch vụ vận tải và ngành thương mại là một trong
số những ngành chịu ảnh hưởng nặng nền nhất. Rất nhiều chuỗi cung ứng bị sụp đổ.
Điều này khiến cho các nước trong khu vực AANZFTA cố gắng đi đến những thoả
thuận tạo điều kiện thuận lợi hơn như tái khẳng định cam kết mở cửa thị trường
thương mại và đầu tư nhằm củng cố tính đàn hồi và bền vững để duy trì luồng chu
chuyển hàng hoá và dịch vụ giữa các bên.
Mặc dù nông sản thuộc nhóm hàng hoá thiết yếu nhưng tình hình dịch bệnh
Covid – 19 kéo dài trên khắp thế giới khiến cho sản xuất và vận chuyển hàng hoá bị
ngừng trệ khá nhiều. Sản xuất khó khăn hơn và đặc biệt cùng với những lệnh dãn cách
xã hội ở nhiều vùng trên thế giới, các lệnh hạn chế di chuyển giữa các quốc gia khiến
cho hàng hoá từ nơi nuôi trồng, tới nơi sơ chế, đóng gói, bảo quản… đều không thể
được thực hiện như thời điểm trước 2020. Sang tới 2021, thế giới phải đối mặt tới 4
làn sóng lây nhiễm và ngày càng phức tạp hơn với những biến thể mới. Ở Việt Nam,
các vùng sản xuất cũng trở thành vùng dịch làm cho sản xuất nhiều lúc bị đình trệ.
Nhiều hãng vận chuyển đóng cửa, các chuyến bay giữa các quốc gia không được phép
hoạt động. Nông sản là hàng hoá đặc biệt, có hạn sử dụng ngắn, rất dễ hỏng nên đây là
điều khó khăn lớn cho các nhà xuất khẩu muốn đưa hàng nông sản ra nước ngoài.
Thêm vào đó, khoảng cách địa lý giữa châu Đại dương và Việt Nam khá xa cũng là
một trở ngại không nhỏ. Hiện nay, thế giới chưa dự đoán được tình hình dịch bệnh sẽ
diễn biến như thế nào nên thời gian tới Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong sản
xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản đi các nước nói chung và sang Australia và New
Zealand nói riêng.
123
4.1.2.2. Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực
Việt Nam nằm ở châu Á - Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế năng
động nhất thế giới và là động lực của tăng trưởng kinh tế thế giới hậu khủng hoảng
giai đoạn 2018 - 2015. Các cường quốc kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn
Độ... . Australia và New Zealand cũng nằm trong khu vực này, sẽ là thách thức cho
Việt Nam trong phát triển xuất khẩu hàng hóa sang thị trường hai nước vì phải cạnh
tranh xuất khẩu với Trung Quốc và các nước ASEAN.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có sự tương đồng với các quốc gia
ASEAN khác cũng như với các cường quốc xuất khẩu châu Á là Trung Quốc và Ấn
Độ. Mặc dù có Hiệp định AANZFTA, Australia và New Zealand đã, đang tiếp tục đàm
phán ký kết FTA song phương với từng quốc gia trong khối ASEAN. Cụ thể, hai nước
đã ký FTA với Singapore, Thái Lan và Malaysia, đang đàm phán FTA với Indonesia.
Đặc biệt, các FTA ký sau này đều là các FTA thế hệ mới không chỉ điều chỉnh hệ
thống thuế xuất nhập khẩu mà còn tác động đến dòng vốn FDI. Do đó, đây sẽ là thách
thức ảnh hưởng tới phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Australia và New Zealand.
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu, rộng vào kinh tế khu vực và thế giới,
nên sự cạnh tranh với các đối tác trên cả ba cấp độ quốc gia, DN và sản phẩm sẽ ngày
càng gay gắt trong cả lĩnh vực thu hút đầu tư lẫn mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy
nhiên, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của DN và sản phẩm còn thấp hơn so với
nhiều nước trong khu vực. Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia do Diễn đàn
Kinh tế Thế giới (WEF) công bố cho năm 2014-2015, Việt Nam ở mức rất thấp và ít
có cải thiện từ nhiều năm nay. Đặc biệt, năng lực cạnh tranh xuất khẩu của DN Việt
Nam còn thấp, nhất là năng lực tài chính và năng lực quản trị DN. Trong thời gian qua
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam tăng nhưng khả năng cạnh
tranh của các mặt hàng chậm được cải thiện, mức độ chế biến của hàng xuất khẩu
thấp, chưa có những ngành hàng mũi nhọn có khả năng cạnh tranh cao, giá trị gia tăng
lớn. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã đến gần giới hạn
tối đa về sản lượng trong khi các mặt hàng mới chưa xuất hiện rõ. Để gia tăng kim
ngạch xuất khẩu trong giai đoạn tới, Việt Nam phải tăng đầu tư cho nghiên cứu triển
khai để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển mặt hàng nông sản mới.
124
So với các quốc gia ASEAN khác, Việt Nam đang tụt lại trong cuộc đua thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Australia và New Zealand. FDI của hai nước này
vào Việt Nam đang giảm dần trong khi các DN FDI có vai trò lớn trong việc thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá giữa hai bên [89].
4.1.2.3. Chi phí xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New
Zealand còn cao
Hàng nông sản của Việt Nam chỉ có chi phí sản xuất thấp khi được canh tác
theo cách thức cũ, chất lượng và năng suất lao động thấp nhưng khi thay đổi phương
thức sản xuất “sạch” để đáp ứng yêu cầu về chất lượng như dư lượng chất bảo vệ thực
vật ở mức độ cho phép, không sử dụng chất bảo quản, thực hiện chiếu xạ hay bảo quản
cấp đông nhanh, đầu tư bao bì theo yêu cầu của bên nhập khẩu… thì chi phí sản xuất
bị đội lên rất lớn làm mất lợi thế cạnh tranh so với nông sản của Ấn Độ, Trung Quốc
hoặc Thái Lan [76].
Ví dụ: Khu vực trồng vải xuất khẩu nằm ở phía Bắc trong khi đó cơ sở đóng gói
và cơ sở chiếu xạ được công nhận đều nằm ở phía Nam làm tăng chi phí vận chuyển,
gây hao hụt trong quá trình vận chuyển, chưa kể trái vải là loại trái cây không bảo quản
được lâu, dễ hư hỏng. Hạn chế này đã được khắc phục trong năm 2016 khi một trung
tâm chiếu xạ được đưa vào hoạt động tại Hà Nội nhưng việc vận chuyển vải từ Bắc
Giang ra Hà Nội để thực hiện chiếu xạ cũng mất nhiều thời gian và chi phí thực hiện.
Giá chiếu xạ ở Việt Nam khá cao. Giá chiếu xạ của Thái Lan khoảng 0,3 USD/kg trong
khi của Việt Nam từ 0,5- 0,8 USD/kg [56].
Kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp
hàng hoá xuất khẩu yếu kém nên đẩy giá thành sản phẩm và chi phí gián tiếp tăng cao
hơn so với các nước trong khu vực. Ví dụ: Đối với vận tải đường biển, cước vận
chuyển một container 40 feet xuất khẩu đi Mỹ là 3.000 USD, cao gấp 1,5 lần so với
Trung Quốc (2.000 USD) và 1,2 lần so với Thái Lan (2.500 USD) [5]. Chi phí vận tải
đường bộ cũng là một gánh nặng đối với DN do địa hình phức tạp, hệ thống hạ tầng
giao thông kém phát triển, phương tiện vận tải kém chất lượng, phí cầu đường. Theo
tính toán của các chuyên gia, nếu cải thiện được những vấn đề này thì DN có thể hạ
giá thành vận chuyển ít nhất là 30%. Giá vận chuyển bằng hàng không cao hơn các
nước khác, ví dụ vận chuyển vải từ Thái Lan có giá là 1,6 USD/kg thì vận chuyển từ
Việt Nam là 2,6 USD/kg (đây là giá đã được giảm 20%).
125
Thêm vào đó, các lô hàng nông sản của Việt Nam khi làm thủ tục thông quan ở
Australia và New Zealand đều bị giữ lại vài ngày để xử lý dẫn đến chi phí lưu kho, bãi,
kiểm dịch, chi phí hao hụt vì hỏng cũng phát sinh khá nhiều.
4.1.2.4. Có quá nhiều rào cản xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và
New Zealand
Toàn cầu hóa và quốc tế hóa sẽ tiếp tục tiến triển, nhưng cục diện thế giới đa
cực, đa trung tâm sẽ ngày càng rõ nét và sẽ có những điều chỉnh theo các tâm trục và
lĩnh vực khác nhau, chủ nghĩa khu vực sẽ tăng lên. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa
kiềm chế lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt hơn. Hợp tác thương mại giữa các nước cũng sẽ
không nằm ngoài xu thế này. Các Hiệp định thương mại tự do được ký kết đồng nghĩa
với việc Việt Nam nói riêng và các nước xuất khẩu khác nói chung sẽ tìm cách mở
rộng thị trường sang các nước thành viên. Đối với lĩnh vực nông sản, bản thân các
nước châu Đại dương cũng là những nước mạnh về xuất khẩu và cũng mong muốn
khai thác ưu đãi của các Hiệp định để xâm nhập thị trường nước khác. Họ một mặt giữ
mối quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam đề xâm nhập thị trường nhưng mặt khác
biện cách để hạn chế hàng Việt Nam sang nước họ mà không vi phạm cam kết Hiệp
định. Rào cản thương mại sẽ được Australia và New Zealand dựng lên nhiều hơn và
tinh vi hơn bởi nó không còn là thuế. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, nếu
không nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm sẽ khó lòng vượt qua được
hàng rào bảo hộ khắt khe của những nước này.
Các điều kiện để hàng nông sản Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường
Australia và NewZeland bao gồm: các sản phẩm nông sản phải có mã số vùng trồng,
đóng gói tại các cơ sở được cấp phép; các sản phẩm phải đảm bảo dư lượng thuốc bảo
vệ thực vật theo quy định của Bộ Nông nghiệp của hai nước. Đặc biệt, một số hoa quả
tươi khi xuất khẩu phải qua chiếu xạ để hạn chế dịch bệnh với các công đoạn nghiêm
ngặt về quy trình, liều lượng, quy cách đóng gói… Như vậy, những rào cản đặt ra đối
với nông sản Việt Nam không chỉ là chất lượng sản phẩm mà còn ở bao bì, nhãn mác,
bảo quản, quy trình quản lý chất lượng như ISO 9001, ISO 22000, HACCP, GLOBAL,
GAP… và rất nhiều các thủ tục khác trong trong thông quan, thậm chí còn cao hơn
những quy định của EU hay Hoa Kỳ. Các loại nông sản của Việt Nam muốn nhập khẩu
vào hai nước này phải đáp ứng các tiêu chuẩn và được sự đồng ý của cơ quan chức năng
[95]. Tuy nhiên, việc hợp tác giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam với châu Đại
126
dương còn chậm. Nếu tiến trình hợp tác không đẩy nhanh sẽ là thách thức khả năng xuất
khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường hai nước này [76].
Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế xanh, sản phẩm tiết kiệm năng lượng
và thân thiện với môi trường sẽ tiếp tục gia tăng. Các nước phát triển như Australia và
New Zealand càng dựa vào đó để đưa ra các rào cản thương mại và vì thế sẽ tác động
mạnh đến thương mại thế giới.
4.2. Quan điểm, định hướng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam
sang Australia và New Zealand trong bối cảnh mới
4.2.1. Quan điểm phát triển xuất khẩu hàng hóa nông sản của Việt Nam
sang Australia và New Zealand giai đoạn 2021-2030
Một là, phát triển xuất khẩu hàng hóa sang Australia và New Zealand phải dựa
trên cơ sở khai thác tốt lợi thế so sánh của Việt Nam trong quan hệ hợp tác kinh tế
thương mại với Australia và New Zealand, góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam, phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Australia và
New Zealand trên cơ sở thực hiện hiệu quả Hiệp định AANZFTA.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang Australia và New Zealand theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng.
Bốn là, tích cực và chủ động tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị khu
vực và toàn cầu. Chú trọng xây dựng và phát triển thương hiệu cho hàng hóa và DN
Việt Nam trên thị trường Australia và New Zealand.
Năm là, củng cố quan hệ đối tác toàn diện với Australia và New Zealand, tiến
tới xây dựng và phát triển quan hệ đối tác chiến lược với hai nước này để phát triển thị
trường xuất khẩu hàng hóa, kết hợp hài hòa giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài
của quốc gia.
4.2.2. Định hướng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam
sang Australia và New Zealand giai đoạn 2021 – 2030
Từ phân tích bối cảnh thuận lợi và khó khăn cho xuất khẩu hàng hoá nông sản
của Việt Nam sang Australia và New Zealand, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá
nông sản đến năm 2030 cần dựa vào một số quan điểm sau:
127
Thứ nhất, xác định rõ vai trò quyết định của Nhà nước đến thành công của hoạt
động xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New
Zealand. Trong thời kỳ mới, vai trò của Nhà nước kiến tạo là hỗ trợ, định hướng, tạo
động lực tốt nhất cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước
cũng cần đẩy mạnh đàm phán các hợp tác, mở rộng danh mục sản phẩm nông sản
được chấp nhận vào thị trường hai nước trên và triển khai các hoạt động xúc tiến
thương mại một cách đồng bộ. Chính phủ cũng tăng cường đầu tư cho công tác quy
hoạch và tổ chức sản xuất theo hướng tập trung, chuyên môn hoá đi đôi với ứng dụng
rộng rãi tiến bộ khoa học công nghệ.
Thứ hai, các chính sách và giải pháp cần hướng đến việc nâng cao chất lượng
cho nông sản xuất khẩu. Đây là vấn đề cốt lõi cần quan tâm hàng đầu mà các Bộ, Ban,
Ngành có liên quan cần thực hiện trong thời gian tới. Trong đó, cần có sự đầu tư đồng
bộ nhằm nâng cao chất lượng từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ nông sản. Nâng cao
chấp lượng cho nông sản xuất khẩu phải bắt đầu từ việc đổi mới cách thức sản xuất
sang sản xuất hữu cơ xanh, chấm dứt việc canh tác sử dụng nhiều hoá chất độc hại,
chất bảo vệ thực vật, xây dựng các quy trình sản xuất đảm bảo loại bỏ dư lượng chất
độc hại trước khi thu hoạch và tiến hành xuất khẩu.
Thứ ba, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nông sản dựa trên cơ sở khai thác một
cách có hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng và từng địa phương. Hướng tới sản
xuất và xuất khẩu những nông sản có giá trị kinh tế cao và phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng hai nước Australia và New Zealand. Những mặt hàng đặc sản của Việt
Nam như vải, nhãn, thanh long, xoài, sầu riêng, chôm chôm, cà phê, gạo… cần được
tập trung mở rộng thị trường. Bổ sung thêm danh mục các hàng nông sản khác để tiếp
cận thị trường như gừng, sấu. Bên cạnh đó, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng nông
sản chế biến, gia tăng giá trị nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand.
Thứ tư, cần đẩy mạnh ứng dụng KHCN mới vào sản xuất và chế biến nông sản,
tăng cường việc quảng bá nhằm xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam trên thị
trường Australia và New Zealand. Đặc biệt, chất lượng, mẫu mã nông sản phải được
đặc việt quan tâm. Có chiến lược đầu tư dài hạn, đổi mới công nghệ, thiết bị đóng gói,
bao bì, mẫu mã sản phẩm.
Thứ năm, các chính sách và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông
sản phải phù hợp với các cam kết của của Việt Nam với các tổ chức, hiệp định như
128
APEC, WTO, các hiệp định thương mại song phương và đa phương, các tổ chức quốc
tế và thông lệ quốc tế mà Việt Nam tham gia. Bên cạnh đó, cần khai thác và tận dụng
tốt các Hiệp định thương mại song phương, đa phương mà Việt Nam đang và sẽ tham
gia với hai quốc gia châu Đại Dương.
4.2.3. Mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand đến năm 2030
Thực tế, xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New
Zealand vẫn còn ở mức độ khá thấp. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản sang hai
nước này rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Việt Nam cũng
không phải là đối tác nhập khẩu nông sản lớn của châu Đại dương. Các phân tích về
thuận lợi cho thấy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New
Zealand chưa đạt được tiềm năng. Vì vậy, mục tiêu thúc đẩy nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand được xác định như sau:
4.2.3.1. Mục tiêu chung
Về sản xuất nông nghiệp: Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so
sánh; áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài,
đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai,
nguồn nước, lao động và nguồn vốn; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân, ngư
dân, diêm dân và người làm rừng.
Về xuất khẩu hàng hóa: đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; tích cực và chủ động
tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng và phát
triển hàng hóa có giá trị gia tăng cao, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước.
4.2.3.2. Một số mục tiêu cụ thể
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hóa: Mục tiêu thị trường xuất khẩu đến năm
2025 sang châu Đại dương sẽ được mở rộng là khoảng 4% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trên toàn thế giới. Trong đó, tăng trưởng xuất khẩu ở cả Australia và
New Zealand đều cố gắng tăng khoảng 20% – 30% so với giai đoạn 2016 – 2020.
Về kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản: Mục tiêu đến năm 2025, kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia đạt 300 triệu USD, trong đó nhóm hàng
hoa quả là 140 triệu USD, nhóm cà phê, trà, gia vị là 50 triệu USD, nhóm ngũ cốc là
129
20 triệu USD, các chế phẩm từ rau, trái cây là 40 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu
sang New Zealand đạt 45 triệu USD. Trong đó, nhóm hàng hoa quả là 25 triệu USD,
nhóm cà phê, trà và gia vị là 5 triệu USD, ngũ cốc đạt 7 triệu USD, chế phẩm từ rau,
trái cây là 3,5 triệu USD.
Bên cạnh đó, các Hiệp hội ngành hàng cũng đề xuất một số mục tiêu cụ thể cho
các mặt hàng có lợi thế so sánh cao tại thị trường châu Đại dương như: hoa quả (vải, xoài,
thanh long, nhãn, chôm chôm, sầu riêng); cà phê, hồ tiêu, hạt điều, sấu, gừng, gạo…
Về cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu: Tiếp tục mở rộng thêm danh mục nhóm
hàng hoa quả có được cấp phép xuất khẩu sang Australia và New Zealand. Tăng tỷ
trọng cơ cấu hàng chế biến sâu lên 20% - 30% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về kênh phân phối: Đẩy mạnh tiêu thụ hàng nông sản qua các kênh phân phối
hiện đại, tăng việc áp dụng giao dịch nông sản qua hình thức hợp đồng nông sản. Tỷ
trọng hàng nông sản cung cấp qua kênh hệ thống phân phối như trung tâm thương mại,
siêu thị, cửa hàng tiện ích đạt 30%.
4.3. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang
thị trường Australia và New Zealand trong bối cảnh mới
4.3.1. Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang thị
trường Australia và New Zealand
4.3.1.1 Hoàn thiện chính sách hỗ trợ DN xuất khẩu hàng nông sản sang
Australia và New Zealand
Thứ nhất, hỗ trợ, hướng dẫn các DN trong việc tiếp cận và giành được ưu đãi
theo các Hiệp định thương mại tự do.
Để tận dụng được những ưu đãi từ các FTA nói chung, AANZFTA nói riêng,
cần có sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng và các DN trong quá
trình triển khai Hiệp định. Tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong việc tận dụng ưu đãi
từ Hiệp định để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Australia và New Zealand.
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về Hiệp định AANZFTA đến các
hiệp hội ngành hàng, cộng đồng DN để họ nắm được nội dung Hiệp định, những cam kết
về thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, yêu cầu về SPS, TBT, những ưu đãi và cách
thức được hưởng ưu đãi từ Hiệp định đối với hàng xuất khẩu sang Australia và New
Zealand. Đưa thông tin và các hướng dẫn cụ thể về cách thức để được hưởng ưu đãi từ
130
Hiệp định đến DN. Tăng cường hoạt động quảng bá về những lợi ích thiết thực mà Hiệp
định AANZFTA mang lại cho Việt Nam nói chung và các DN Việt Nam nói riêng.
Phát hành các cẩm nang/bảng hướng dẫn các DN cách thức để tính toán hưởng
lợi khi xuất khẩu hàng hóa sang Australia và New Zealand theo AANZFTA mà quan
trọng là cách tính cộng gộp xuất xứ trong C/O của các lô hàng xuất khẩu cũng như
cách phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để giải quyết các vấn đề phát
sinh nếu có.
Tổ chức các hội thảo tổng kết và phổ biến kinh nghiệm trong hoạt động xuất
khẩu hàng hóa sang Australia và New Zealand cho DN: Chỉ ra những lợi ích cụ thể cũng
như những vướng mắc có thể gặp trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang hai nước;
Phổ biến kinh nghiệm về tận dụng ưu đãi của các nước ASEAN trong Hiệp định
AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Australia và New Zealand.
Khi có những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực thi Hiệp định
AANZFTA (ký kết và thực hiện Nghị định thư sửa đổi Hiệp định lần thứ nhất, thực
hiện biểu thuế theo Nghị định thư sửa đổi, thực hiện quy tắc xuất xứ theo Nghị định
thư sửa đổi...) cần tổ chức các cuộc hội thảo để thông tin đến các hiệp hội ngành hàng
và cộng đồng DN những thông tin mới về Hiệp định và cách thức để tận dụng ưu đãi
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Định kỳ khoảng hai năm nên tổ chức hội thảo đánh giá
tác động của Hiệp định AANZFTA đối với xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nắm bắt
phản hồi của DN về những khó khăn, rào cản gặp phải trong quá trình xuất khẩu hàng
hóa sang Australia và New Zealand. Từ đó đưa ra các biện pháp tháo gỡ khó khăn và
tận dụng lợi thế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang hai thị trường này.
Các trang web hội nhập của VCCI (http://www.trungtamwwto.vn/) và trang web
thị trường nước ngoài của Bộ Công Thương (http://www.vietnamexport.com/) cần bổ
sung thêm phần: phân tích lợi ích của các FTA (trong đó có AANZFTA), các chuyên
gia tư vấn tận dụng ưu đãi (địa chỉ, số điện thoại, cơ quan công tác...), các đường link tới
các cơ quan chức năng liên quan đến thực thi Hiệp định, thường xuyên cập nhật thông
tin mới về Hiệp định (nếu có những điều chỉnh về biểu thuế HS mới, quy tắc xuất xứ...)
để DN nắm được thông tin, tránh bị động trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang các
nước tham gia Hiệp định. Đưa lên trang web của Bộ Công Thương các FTA, EPA mà
Việt Nam đang đàm phán, đã ký kết và có giá trị hiệu lực (Nội dung Hiệp định, các phụ
lục, các văn bản thực thi, những lợi ích mà hiệp định mang lại, cùng với những hướng
131
dẫn cụ thể cho DN về những ưu đãi được hưởng theo Hiệp định và những điều kiện cụ
thể để được hưởng ưu đãi, quy tắc xuất xứ C/O...)
Thương vụ Việt Nam tại Australia và New Zealand cần tích cực hơn nữa trong
việc hỗ trợ các DN tìm kiếm bạn hàng và các cơ hội xuất khẩu hàng hóa sang hai thị
trường; Trợ giúp DN trong việc giải quyết các vướng mắc đối với những lô hàng vi
phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của Australia và New Zealand; Làm tốt
hơn nữa công tác thông tin và hướng dẫn thị trường cho DN xuất khẩu Việt Nam; Tiếp
tục triển khai, hỗ trợ tổ chức thị trường cho các mặt hàng có tiềm năng và các mặt
hàng bị sụt giảm; Tích cực tham gia thúc đẩy hợp tác nâng cao năng lực kiểm dịch
động thực vật, sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, tăng cường liên kết trong sản xuất nông sản xuất khẩu.
Nhà nước cần thực hiện các chính sách thúc đẩy hợp tác giữa nông dân với
nông dân, nông dân với nhà khoa học, DN, nhà quản lý (hợp tác 4 nhà) để phát triển
sản xuất quy mô lớn, đảm bảo chất lượng nông sản ổn định lâu dài. Thêm vào đó, Nhà
nước cần hỗ trợ nông dân, DN trong việc rút ngắn thời gian, chi phí thực hiện các thủ
tục kiểm tra chuyên ngành, kiểm dịch thực vật; nghiên cứu và thông tin chính xác về
nhu cầu thị trường để tổ chức sản xuất hợp lý và tổ chức xúc tiến thương mại, quảng
bá mặt hàng nông sản đạt hiệu quả; đồng thời có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các
hành vi gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, bán phá giá vì lợi ích riêng.
Thứ ba, xây dựng các phòng thí nghiệm có chất lượng quốc tế. Những phòng
thí nghiệm này sẽ giúp việc kiểm tra tiêu chuẩn hàng nông sản trước khi xuất khẩu một
cách dễ dàng, nhanh chóng. Khi những phòng thí nghiệm này được các nước công
nhận thì đồng nghĩa với việc họ sẽ không giữ hàng Việt Nam ở nơi thông quan để làm
công việc kiểm dịch chất lượng, giảm tình trạng hàng hoá bị phạt hay trả về. Các cơ sở
chứng nhận chất lượng được đầu tư đúng tiêu chuẩn sẽ làm tăng độ tin cậy của các
giấy chứng nhận GMP Việt Nam khi đưa hàng hoá ra nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường các dịch vụ hỗ trợ DN xuất khẩu. Hệ thống phân phối yếu
kém, hệ thống logistic chậm phát triển và thiếu các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh là những
nguyên nhân dẫn đến giảm giá trị của hàng nông sản xuất khẩu. Tại Việt Nam hoạt động
dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá nông sản vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực.
Từ các khâu như vận chuyển, xếp dỡ, kiểm định, công nhận xuất xứ, thủ tục hải quan...
còn yếu và mất nhiều thời gian, công sức, gây cản trở lớn cho việc xuất khẩu. Vì vậy,
132
trong thời gian tới Nhà nước cần hỗ trợ phát triển nhanh các DN kinh doanh dịch vụ
logistic để giảm chi phí kinh doanh và nâng cao hiệu quả cho cả người sản xuất và DN
xuất khẩu; Rà soát và xây dựng những Trung tâm kiểm định chất lượng đạt tiêu chuẩn
quốc tế đủ điều kiện cấp Chứng chỉ chất lượng cho DN.
4.3.1.2. Hoàn thiện chính sách sản phẩm nông sản xuất khẩu sang Australia và
New Zealand
Những năm qua, Việt Nam có một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực sang
thị trường Australia và New Zealand như hoa quả, gạo, cà phê, trà, gia vị, hạt điều…
nhưng kim ngạch còn thấp và chất lượng hàng xuất khẩu còn bất cập. Nguyên nhân chủ
yếu là do: Quy mô sản xuất còn nhỏ, phân tán; sự liên kết giữa DN, nhà khoa học và
người nông dân còn lỏng lẻo; ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển..
Chính phủ cần có chính sách cụ thể để phát triển các nhóm hàng xuất khẩu chủ
lực sang Australia và New Zealand, cụ thể:
Thứ nhất, tập trung nghiên cứu kỹ thị trường nông sản ở châu Đại dương, tìm
hiểu các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam đã có mặt trên thị trường hai nước về giá
cả, chất lượng… đánh giá so sánh và và tìm cơ hội đối với từng mặt hàng cụ thể.
Đối với mặt hàng đã được phép vào thị trường Australia và New Zealand, tìm
hiểu những hạn chế khi xuất khẩu và nguyên nhân để tìm cách tháo gỡ. Đối với mặt
hàng chưa được cấp phép nhưng thị trường có nhu cầu, cần nhanh chóng lập hồ sơ yêu
cầu nhập khẩu cấp Bộ, tạo điều kiện cho Bộ Nông nghiệp của Australia và New
Zealand thực hiện phân tích, đánh giá đối với loại nông sản xin phép để đẩy nhanh
việc cấp phép nhập khẩu.
Thứ hai, hoàn thiện công tác quy hoạch vùng sản xuất và chế biến nông sản
xuất khẩu và thực hiện nghiêm các quy hoạch đã được duyệt.
Do công tác quy hoạch không tốt nên những năm qua ở Việt Nam luôn xuất
hiện tình trạng khi giá của mặt hàng nông sản nào đó lên cao, thì nông dân lại đổ xô đi
gieo trồng và ngược lại, quy hoạch sản xuất không phù hợp với quy hoạch chế biến và
tiêu thụ. Hoặc khi ngành chức năng đã xây dựng quy hoạch trên cơ sở khảo sát, phân
tích dựa trên tiềm năng của từng vùng sinh thái, xin ý kiến của các địa phương, chuyên
gia nhưng khi triển khai vào thực tế lại bị phá vỡ (cây cà phê, quy hoạch đến năm 2020
chỉ 500 nghìn ha nhưng đến nay đã đạt hơn 600 nghìn ha; cây cao su vượt 400 nghìn
ha so với quy hoạch đến năm 2020; hay quy hoạch cây mắc-ca đến năm 2020 chỉ đạt
133
khoảng 10 nghìn ha thì ở nhiều địa phương nông dân đã tập trung trồng loại cây này,
diện tích lên đến hàng nghìn ha).
Vì vậy, cần phải hoàn thiện công tác quy hoạch theo hướng rà soát và điều
chỉnh các quy định hiện đã không còn phù hợp, xác định rõ ngành sản xuất có lợi thế
so sánh để phát triển, gắn kết quy hoạch sản xuất, chế biến với tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu. Quy hoạch phải căn cứ vào các nghiên cứu thị trường, phân tích dựa trên
yêu cầu sản xuất để phối hợp cùng các bộ ngành xây dựng định hướng thông qua quy
hoạch sản xuất và quy hoạch tiêu thụ. Ở tầm lớn hơn, quy hoạch không chỉ nằm ở
phạm vi quốc gia mà còn toàn cầu. Quy hoạch sản xuất dựa trên lợi thế so sánh và phù
hợp với khả năng phát triển thị trường xuất khẩu chung. Tuy nhiên, đối với thị trường
Australia và New Zealand, cần tính toán những vùng sản xuất những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược đặc biệt là các sản phẩm được cấp phép nhập khẩu. Quy hoạch sẽ đảm
bảo điều kiện canh tác được tốt nhất, áp dụng các phương thức canh tác mới phù hợp
với yêu cầu kỹ thuật của Australia và New Zealand trong gieo trồng.
Thực hiện trồng chuyên canh các nông sản mũi nhọn xuất khẩu tại các địa
phương có lợi thế để tăng năng suất cây trồng, đảm bảo chất lượng, sản phẩm có sự
đồng nhất cao.
Sau khi quy hoạch, cần tăng cường công tác kiểm tra để phát hiện và xử lý
nghiêm các trường hợp phá vỡ quy hoạch. Chỉ có như vậy mới giải quyết được vấn đề
mất cân đối cung cầu và tạo được các vùng, khu vực trồng trọt tập trung, quy mô lớn
để tăng chất lượng và hạ giá thành nông sản xuất khẩu. việc chỉ đạo thực thi đúng các
quy hoạch sản xuất nông sản đang là nhiệm vụ nan giải.
Thứ ba, đầu tư nghiên cứu tạo. và chuyển giao giống nông sản đáp ứng yêu cầu
của đối tác. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần tập trung thực hiện rà soát,
đánh giá lại toàn bộ hệ thống cung cấp giống cây. Đẩy mạng công tác nghiên cứu,
nhân giống tại các trường, viện nghiên cứu. Qua đó có thể loại bỏ các giống cây kém
chất lượng, cho năng suất thấp. Nghiên cứu và nhân giống các loại nông sản có chất
lượng tốt, có năng suất cao và tiến hành chuyển giao cho các địa phương có điều kiện
khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, bảo tồn và phát triển
các loại giống cây trồng truyền thống, đặc chủng mà chỉ có ở Việt Nam, xây dựng các
loại nông sản này thành mặt hàng mũi nhọn, đặc thù riêng của Việt Nam như vải thiều
Lục Ngạn, nhãn lồng Hưng Yên, thanh long Bình thuận, xoài xát Hoà Lộc – Cái Bè,
134
gạo thơm Hải Hậu, vú sữa Lò Rèn, gạo Nàng hương – Long An, chôm chôm tróc Long
Thành, sầu riêng Cái Mơn…
Để thực hiện điều này, chính phủ cần phải có sự đầu tư thoả đáng cho nghiên
cứu khoa học từ ngân sách nhà nước trong thời gian đầu, sau đó mới để các cơ sở
nghiên cứu chuyển đổi hình thức hoạt động theo hướng tự chủ (bán kết quả nghiên cứu
cho thị trường).
Tiến hành nghiên cứu, thành lập quỹ đầu tư dành cho nghiên cứu cải tạo giống
cây trồng, nguồn vốn thành lập quỹ được cấp một phần từ ngân sách nhà nước, trích tỷ
lệ % từ lợi nhuận sau thuế của các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản và một phần nhỏ
từ thu nhập hàng năm của người sản xuất.
Thứ tư, lựa chọn sản phẩm xuất khẩu phù hợp. Đối với các loại hoa quả xuất
khẩu sang Australia và New Zealand, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam cần định hướng cho DN xuất khẩu lựa chọn loại sản phẩm thu hoạch trái mùa với
các nước này để thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng. Đối với những sản phẩm
chế biến cần lựa chọn loại nông sản được ưa chuộng trên thị trường và đa dạng hoá các
hình thức chế biến, nhất là những sản phẩm mang tính độc đáo, đặc sản để nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
4.3.1.3. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ về tín dụng
Theo cam kết trong các Hiệp định tự do hoá thương mại mà Việt Nam đã ký
kết thì những khoản hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu hàng hoá nông sản phải chấm dứt.
Nhưng điều này sẽ dẫn đến những khó khăn nhất định cho các DN xuất khẩu hàng hoá
nông sản nói chung trong quá trình kinh doanh đặc biệt là đối với những DN xuất khẩu
hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand bởi họ phải đối mặt với nhiều chi
phí phát sinh. Để giải quyết vấn đề này, cần thực hiện những biện pháp sau:
Thứ nhất, chuyển đổi hình thức hỗ trợ tín dụng bởi Quỹ hỗ trợ xuất khẩu sang
cho các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất thấp (có sự bảo lãnh của ngân hàng
phát triển). Đối với các ngân hàng thương mại hay tổ chức tín dụng hỗ trợ cho các DN
xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand, cần đơn giản hoá thủ tục
vay vốn, hình thức thế chấp và đảm bảo tiền vay. Chính phủ cần đưa ra những quy
định cụ thể, phù hợp với thực tế hơn về đánh giá, định giá tài sản. Mở rộng đối tượng
được tham gia vay vốn, bao gồm việc mở rộng phạm vi cho vay vốn tái canh, cho vay
tái canh cho cả các hình thức tái canh cuốn chiếu, nới lỏng các yêu cầu về quy trình kỹ
135
thuật, hoặc tăng cường sự phối hợp giữa các ban ngành để giúp nông dân đáp ứng các
yêu cầu này. Các địa phương cũng cần tiếp tục tích cực thực hiện công tác quy hoạch,
xác minh và chứng nhận các diện tích tái canh cà phê, làm cơ sở cho vay tái canh.
NHNN, kết hợp với các ban ngành liên quan, cần nghiên cứu mở rộng chương trình
cho vay vốn tín dụng tái canh đối với các nông sản xuất khẩu. Hạn mức cho vay tối đa
cũng cần được nâng lên sao cho phù hợp với thực tế. Mở rộng địa bàn, đối tượng vay
đặc biệt là với các xã có điều kiện khó khăn hơn mức trung bình. Chú ý: Các chính
sách tín dụng ưu đãi đều phải đi kèm với các điều kiện theo hướng khuyến khích sản
xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản chất lượng, hiệu quả (với các DN đáp ứng được
yêu cầu nhập khẩu của Australia và New Zealand) và không phải áp dụng với mọi DN
sản xuất nông sản. Chính sách ưu đãi tín dụng cũng chỉ dành cho DN hoạt động hiệu
quả những mặt hàng là lợi thế so sánh của Việt Nam đã xuất khẩu hoặc có tiềm năng
xuất khẩu sang Australia và New Zealand (không phân biệt DN thuộc thành phần nào).
Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi tín dụng cũng dành cho các DN sản xuất nông sản chế
biến sâu, chế biến tinh, những DN có đầu tư cho nông nghiệp, có hợp đồng tiêu thụ
nông sản lâu dài với nông dân.
Vận động các cơ sở tín dụng cho vay linh hoạt hơn đối với các hộ tái canh từng
phần, tái canh kết hợp với trồng xen. Đẩy mạnh truyền thông, thông tin về gói tín dụng
thông qua tờ rơi, hệ thống phát thanh, truyền hình... Ngoài ra, chính phủ cũng cần điều
tiết về tỉ giá hối đoái linh hoạt theo hướng thị trường hơn, nhưng Nhà nước vẫn cần
can thiệp vào thị trường hối đoái khi cần thiết nhằm hạn chế những biến động bất lợi
của tỷ giá hối đoái. Trước mắt, Nhà nước có thể điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo hướng
giảm nhẹ giá đồng Việt Nam nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng
nông sản xuất khẩu Việt Nam trong khi vẫn duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy
nhiên, trong điều kiện lạm phát có xu hướng gia tăng do giá một số mặt hàng tăng
mạnh như xăng dầu, sắt thép, xi măng..., do đó cần hết sức thận trọng khi điều chỉnh tỷ
giá hối đoái, phá giá đồng tiền Việt Nam
Thứ hai, chuyển đổi hình thức thưởng xuất khẩu trực tiếp sang hình thức trợ cấp
giảm chi phí tiếp thị, cước phí vận tải (hình thức được WTO chấp nhận). Ngoài ra,
chính phủ cũng cần có chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến khích các hộ, DN sản xuất
nông sản xuất khẩu sang Australia và New Zealand có điều kiện về đất đai, xây dựng
sân phơi, kho chứa và đặc biệt là những điểm xử lý bảo quản nông sản (chiếu xạ, cấp
136
đông nhanh…) đáp ứng yêu cầu của các đối tác mà không làm tăng chi phí sản xuất
làm giảm năng lực cạnh tranh về giá trên thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn cũng cần nghiên cứu để đề nghị ngân sách hỗ trợ kinh
phí hoàn thiện quy trình thâm canh thực hành nông nghiệp tốt (GAP), xây dựng
thương hiệu, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường xuất khẩu. Đồng thời, hỗ trợ
cây giống cho tái canh và trồng mới nông sản hàng năm. Nhà nước cũng cần phát huy
vai trò quan trọng của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia trong việc hỗ trợ đổi mới cách
thức canh tác, ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất.
Thứ ba, Nhà nước cũng cần điều chỉnh chính sách bảo hiểm tín dụng, bảo lãnh
tín dụng đối với các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung và sang Australia và
New Zealand nói riêng nhằm đảm bảo cho hoạt động của họ được an toàn. Khuyến
khích các DN, hiệp hội xuất khẩu hàng hoá nông sản thành lập quỹ bảo hiểm ngành
hàng. Trong đó, Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần tiền quỹ, phần còn lại do các DN tham
gia đóng góp để hỗ trợ hiệu quả cho DN khi có rủi ro về thị trường hoặc các rủi ro
trong quá trình sản xuất. Đưa ra chính sách bắt buộc các DN kinh doanh nông sản xuất
khẩu nói chung và sang Australia và New Zealand nói riêng phải tham gia bảo hiểm
nông nghiệp. Bảo hiểm nông nghiệp cũng là giải pháp thay thế cho chính sách bù lỗ
xuất khẩu hàng hoá nông sản trước đây.
4.3.2. Thúc đẩy các hợp tác kinh tế quốc tế đa phương và song phương trong
lĩnh vực nông nghiệp để tháo gỡ khó khăn xuất khẩu hàng hoá nông sản với
Australia và New Zealand
Tiến hành rà soát, đàm phán và ký mới hay điều chỉnh, bổ sung các hiệp định
đã ký với các nước về sự phù hợp và công nhận lẫn nhau về chất lượng sản phẩm và
quy trình thủ tục kiểm tra, tạo điều kiện lưu thông thuận lợi, ổn định cho hàng nông
sản của Việt Nam.
Chính phủ cần xem xét đề xuất sớm chấp nhận cơ chế tự chứng nhận xuất xứ do
AANZFTA đưa ra để giúp thúc đẩy xuất khẩu, tạo thuận lợi hoá thương mại cho việc
xuất hàng sang Australia và New Zealand nhằm giảm bớt các chi phí xuất khẩu, thời
gian đi lại xin cấp C/O. Đối với những lô hàng xuất khẩu có trị giá nhỏ, DN rất ngại
đến các tổ chức xin cấp C/O. Áp dụng cơ chế này sẽ tăng tỷ lệ tận dụng C/O trong xuất
khẩu hàng hóa sang Australia và New Zealand cao hơn.
137
Bộ Công thương chỉ đạo các cơ quan thương vụ ở nước ngoài nắm tình hình
điều chỉnh về các chính sách của Australia và New Zealand đối với hàng nông sản
nhập khẩu và phản ánh kịp thời về Bộ để có hướng giải quyết, liên hệ với các cơ quan
hữu quan, các hiệp hội ngành hàng và DN để có biện pháp xử lý, đáp ứng yêu cầu của
nước bạn nhằm ngăn chặn giảm sút kim ngạch xuất khẩu sang hai nước.
Các cơ quan chức năng Chính phủ cần tiếp tục đàm phán với Australia và New
Zealand để đẩy nhanh việc cấp giấy phép nhập khẩu cũng như giảm nhẹ các quy định
nhập khẩu đối với trái vải Việt Nam; Mở cửa thị trường cho các loại trái cây tươi khác
của Việt Nam như thanh long, xoài, nhãn, chôm chôm,...; Xem xét lại các quy định về
kiểm dịch và giữ hàng khi thông quan. Trong khi chờ xem xét dỡ bỏ việc kiểm dịch nêu
trên, nên có thỏa thuận song phương về việc thống nhất phương pháp kiểm dịch virus.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng cần thường xuyên đánh giá tác động của Hiệp
định AANZFTA trong việc thúc đẩy trao đổi thương mại của Việt Nam với các đối tác
trong khu vực nói chung và với châu Đại dương nói riêng. Từ đó, đưa ra các đề xuất
cùng với Australia và New Zealand hài hòa hóa các tiêu chuẩn, tháo dỡ các rào cản và
tăng cường hơn nữa tự do hóa thương mại giữa hai bên.
Để thúc đẩy xuất khẩu sang hai thị trường đầy tiềm năng này, thời gian tới, Bộ
Công thương cần phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sớm hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá nông sản. Đồng
thời, tìm cách ký kết các hợp tác công nhận các giấy chứng nhận Việt Nam cấp và hỗ
trợ cho Việt Nam về kỹ thuật để xây dựng và công bố các vùng sạch bệnh, hỗ trợ trong
khâu kiểm bệnh, kiểm dịch. Yêu cầu Australia và New Zealand chủ động hỗ trợ các cơ
quan Việt Nam đào tạo và tư vấn trong các lĩnh vực như mua sắm công và hải quan,
hỗ trợ phát triển các lĩnh vực sản xuất chế biến nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
công nghệ sạch gắn với phát triển bền vững. Các cơ chế hợp tác giữa hai nước như Ủy
ban Thương mại Hỗn hợp cần phải hướng tới việc hỗ trợ thiết thực cho các DN xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang châu Đại dương.
Thúc đẩy Việt Nam và Australia, New Zealand mở rộng trao đổi các chứng từ
hành chính, chứng từ thương mại điện tử, tiến tới công nhận lẫn nhau đối với các loại
chứng từ này; qua đó từng bước tháo gỡ, hướng tới đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục
hành chính trong thương mại song phương nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho giao lưu
hàng hóa giữa hai bên.
138
4.3.3. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng nông sản xuất khẩu sang thị
trường Australia và New Zealand
4.3.3.1. Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với các
tiêu chuẩn quốc tế
Hiện nay, rào cản lớn nhất của xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand là từ các tiêu chuẩn chất lượng. Hàng năm, Cục Bảo vệ thực
vật nhận được nhiều cảnh báo của các nước nhập khẩu; trong đó liên quan đến dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật của Việt Nam bị vượt quá mức giới hạn cho phép.
Nông sản Việt Nam xuất khẩu đang phải chịu 2 hàng rào kỹ thuật quan trọng nhất
là an toàn thực phẩm và kiểm địch động thực vật. Đối với an toàn thực phẩm, hóa
chất rất quan trọng trong quá trình sản xuất. Hầu hết các nước đều phải sử dụng hóa
chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón nhưng nếu đáp ứng được quy định về mức dư
lượng tối đa cho phép thì vẫn đảm bảo xuất khẩu. Nguyên nhân là do Việt Nam sự
thiếu đồng bộ trong khung pháp lý, sự non kém về xây dựng các tiêu chuẩn trong
việc đặt ra các biện pháp kiểm tra kĩ thuật đã làm ảnh hưởng đến tính khả thi và
hiệu quả sử dụng các biện pháp này. Do vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần
hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá phù hợp với các
tiêu chuẩn quốc tế như: Tiêu chuẩn Codex hàng thực phẩm, tiêu chuẩn ISO (9000,
14000), HACCP, Global GAP... Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần chú trọng ký kết
các thoả thuận song phương với Australia và New Zealand công nhận lẫn nhau về
kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn VSATTP.
Thành lập Ban liên ngành về hàng rào kỹ thuật trong thương mại, có nhiệm vụ
tư vấn cho Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan quản lý Nhà nước khác trong
việc phối hợp với các biện pháp bảo vệ sức khỏe con người, môi trường. Song song
với đó, cần hoàn thiện hệ thống văn bản về kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn của Việt Nam
theo xu hướng chung của thế giới, liên quan đến cơ chế thực thi, tham mưu giải quyết
tranh chấp về các rào cản kỹ thuật giữa các nước thành viên với Việt Nam. Bổ sung và
tăng cường giám sát thực hiện chính sách liên quan đến thương mại nông sản theo cam
kết của Việt Nam khi thực hiện các Hiệp định AANZFTA, CPTPP… để vượt qua
những rào cản phi thuế quan ở thị trường Australia và New Zealand.
Cần phổ biến rộng rãi thông tin về rào cản kỹ thuật của Australia và New
Zealand cho DN và người dân. Ngoài các tiêu chuẩn chất lượng quốc gia của các nước
139
sở tại, các DN cũng cần lưu ý đến tiêu chuẩn kỹ thuật của các tổ chức tư nhân. Về
nguồn cung cấp thông tin, theo các FTA, các nước đều phải minh bạch hóa các quy
định về các biện pháp kỹ thuật và thiết lập cơ quan trả lời và cung cấp các văn bản có
liên quan, Trang thông tin của WTO, Văn phòng TBT Việt Nam, Phòng Thương mại
của Việt Nam đặt tại các quốc gia sở tại, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
Bộ Khoa học và công nghệ, hoặc qua các trang web: http://www.tbtvn.org,
www.wto.org, ...Đối với người nông dân sản xuất, cần phổ biến những cam kết của
Việt Nam trong thương mại hàng nông sản để nông dân được biết và hướng dẫn họ
cách thức sản xuất mới cho phù hợp với những quy định và cam kết để sản xuất hiệu
quả, đúng tiêu chuẩn.
Nhà nước cần hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và đào tạo, tập huấn cho các DN sản
xuất, chế biến hàng nông sản xuất khẩu hàng hoá nông sản áp dụng các tiêu chuẩn chất
lượng tiến tiến như ISO, HACCP hay Global GAP.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của Việt Nam cần chủ động thiết lập quan
hệ hợp tác với các cơ quan chức năng của Australia và New Zealand để giải quyết sự
khác biệt trong các tiêu chuẩn áp dụng cho hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai nước
(đặc biệt là các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kiểm dịch động thực vật) cũng như
ký kết các văn bản cần thiết nhằm xuất khẩu hàng hóa Việt Nam, nhất là nông sản
sang hai thị trường này.
4.3.3.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng nông sản xuất khẩu
Xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý và chứng nhận chất lượng đạt tiêu
chuẩn từ Trung ương đến địa phương hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế. Cần chú trọng
nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý chất lượng thông qua đào tạo nguồn nhân
lực và nâng cấp, trang bị máy móc hiện đại để có kết quả kiểm tra chính xác, tương
thích với yêu cầu của Australia và New Zealand. Tận dụng tối đa chương trình hỗ trợ
về tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự phù hợp (STRACAP) nằm
trong các hỗ trợ của Australia và New Zealand cam kết giúp các nước ASEAN trong
Hiệp định để nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn các
DN đáp ứng hàng rào kỹ thuật và kiểm định, kiểm dịch của Australia và New Zealand.
Việt Nam thuộc nhóm CLMV được hưởng ưu đãi hơn so với các nước ASEAN-6, nên
chúng ta tận dụng cơ hội này để nâng cao năng lực cho các cơ quan chức năng và DN
trong việc đáp ứng tiêu chuẩn SPS, TBT theo AANZFTA.
140
Việc kiểm tra, giám sát chất lượng nông sản xuất khẩu sang Australia và New
Zealand cần phải thực hiện chặt chẽ theo quy định của pháp luật và các tiêu chuẩn
quốc tế. Kiên quyết không cấp phép đầu tư cho những dự án nằm ngoài vùng quy
hoạch cũng như không cấp phép xuất khẩu cho những DN vi phạm về quy trình sản
xuất, không đảm bảo các yêu cầu kiểm dịch và chất lượng theo tiêu chuẩn. Cần xử lý
nghiêm những trường hợp vi phạm. Biện pháp xử lý là xử phạt hành chính, cưỡng chế,
truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ hậu quả gây ra.
Tăng cường công tác kiểm tra, chứng nhận VSATTP trong xuất khẩu. Đơn giản
quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian kiểm dịch, thời gian thẩm tra Giấy chứng nhận
VSATTP. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực cạnh
tranh của DN, tập trung đến các quy định và thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu
hàng nông sản, từ sản xuất, chế biến, nhập khẩu nguyên liệu, đến xuất khẩu.
Cần có quy trình kiểm tra chất lượng hàng nông sản theo chuỗi từ khâu gieo
trồng, sơ chế, chế biến, bảo quản, đóng gói đến khi tiêu thụ. Điều này không những
nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn đảm bảo VSATTP cho hàng nông sản, đáp ứng
yêu cầu rào cản kỹ thuật mà Australia, New Zealand đặt ra. Điều kiện để thực hiện
việc kiểm tra theo chuỗi là cần phải có quy trình rõ ràng trong liên kết sản xuất, bảo
quản chế biến và xuất khẩu. Các quy định về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, là cơ sở
cho việc kiểm tra, cần phải được liệt kê rõ ràng và chi tiết.
Đối với kiểm tra hải quan, để giảm tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu bị kiểm tra, cần
phải thực hiện một số biện pháp sau: chỉ kiểm tra khi nước nhập khẩu có yêu cầu hoặc
danh mục đảm bảo an ninh quốc gia thay vì kiểm tra hầu như tất cả như hiện nay. Các
cơ quan quản lý nhà nước phải nhanh chóng ban hành tiêu chuẩn trong nước phù hợp
với thông lệ quốc tế, ký với các nước để công nhận lẫn nhau để đảm bảo cho giấy
chứng nhận xuất xứ tự do có giá trị trong thực tiễn.
Cần đẩy mạnh hợp tác giữa Nhà nước và DN, người dân trong quá trình kiểm
tra, giám sát. Kết hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong xác định đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP hay tiêu chuẩn
khác. Tuy nhiên, để kiểm soát tốt hơn chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn trên thì
cần có sự tham gia của chính quyền địa phương.
Kiểm tra các thủ tục hành chính trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá
nông sản. Kịp thời bổ sung, sửa đổi và bãi bỏ các quy định hành chính gây phiền hà khó
141
khăn, đảm bảo tối đa hóa các thuận lợi và sự phù hợp cho DN và người sản xuất. Thực
hiện việc xã hội hóa ở một số lĩnh vực dịch vụ công như kiểm tra chất lượng, kiểm
nghiệm, kiểm dịch, cấp phép cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nông sản.
Thiết lập cơ chế giám sát đột xuất đối với những mặt hàng/DN thường xuyên vi
phạm tiêu chuẩn nhập khẩu của Australia, New Zealand để tìm biện pháp giải quyết triệt
để, tránh gây ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung.
4.3.3.3. Tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế
biến hàng nông sản xuất khẩu
Thứ nhất, tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào trong
nông nghiệp. Trước hết, cần hình thành các trung tâm nghiên cứu, chọn giống quốc gia
để nghiên cứu và nhân giống các loại cây có chất lượng tốt, năng suất cao và chuyển
giao cho các địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp. Bên cạnh đó, cần
nghiên cứu, bảo tồn và phát triển các loại giống cây truyền thống, đặc chủng mà chỉ
riêng có ở Việt Nam và xây dựng các loại nông sản này thành những mặt hàng mũi
nhọn, đặc thù riêng của Việt Nam như: Vải thiều-Lục Ngạn, Nhãn lồng - Hưng Yên,
Gạo Nàng hương - Long An, ...
Thứ hai, thúc đẩy mối liên hết, chuyển giao công nghệ sản xuất nông sản hiện
đại cho nông dân. Thúc đẩy mối liên kết giữa các chủ thể trong quá trình sản xuất và
xuất khẩu hàng hoá nông sản như: Nhà nước, nhà khoa học, DN và nông dân để thúc
đẩy việc nghiên cứu, triển khai các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất.
Khuyến khích các viện, trường đại học nghiên cứu công nghệ mới, nhanh chóng
chuyển giao các quy trình tiên tiến trong sản xuất giống, thương phẩm và chế biến.
Phát triển công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch, nghiên
cứu sản xuất các loại máy móc, thiết bị, công cụ phục vụ sản xuất và chế biến nông
sản. Chấn chỉnh tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các viện nghiên
cứu, các trung tâm, tổ chức, sự nghiệp khoa học. Tình trạng sản xuất nông nghiệp
manh mún làm tăng rủi ro, ngăn cản quá trình áp dụng công nghệ tiên tiến, khó bảo
quản hàng hóa, tăng chi phí sản xuất, gây phức tạp cho quản lý chất lượng, an toàn
thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh. Vì vậy, chính sách đất đai, dồn điền đổi thửa cần phải
được hoàn thiện, tạo điều kiện cho việc áp dụng công nghệ vào sản xuất, chế biến và
xuất khẩu hàng hoá nông sản. Khi mối quan hệ chặt chẽ giữa DN và hợp tác xã được
thiết lập, DN phải đưa các cán bộ kỹ thuật xuống giúp nông dân sản xuất, cho họ vay
142
tiền để ứng dụng kỹ thuật. Các nhà khoa học sẽ cung cấp những kỹ thuật mới nhất cho
DN và hợp tác xã. Như vậy, những công nghệ tạo ra từ liên kết này không chỉ phục vụ
cho một DN mà có thể được chuyển giao cho các hộ sản xuất, các địa phương, do đó
hiệu quả nghiên cứu sẽ được nhân lên gấp nhiều lần.
Cần có cơ chế chính sách thúc đẩy mối liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất
khẩu hàng hoá nông sản với các nội dung chính: Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu
khoa học công nghệ để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh
cao. Phối hợp xây dựng hệ thống dịch vụ kiểm dịch động thực vật xuất khẩu theo tiêu
chuẩn quốc tế. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác công nghệ với nước ngoài thông qua
xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết giữa DN, viện, trường ở
trong và ngoài nước. Khuyến khích các DN có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư cho năng
lực nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam, thông qua các chương trình hỗ trợ về đào tạo,
tài chính và thủ tục kinh doanh. Xây dựng và thực thi các chính sách ưu đãi đặc biệt cho
các công ty xuyên và đa quốc gia có công nghệ nguồn, tiên tiến, hiện đại thiết lập cơ sở
tại Việt Nam về sản xuất, nghiên cứu, thiết kế. Nghiên cứu đề xuất hợp tác, chuyển giao
công nghệ bảo quản hiện đại của các nước tiến tiến cho nông sản xuất khẩu ở Việt Nam
như công nghệ CAS của Nhật Bản (bảo quản hệ thống tế bào còn sống bằng đông lạnh
nhanh) để bảo quản nông sản tươi khi xuất khẩu, công nghệ Juran của Israel…
Thứ ba, chuyển đổi sang phương thức sản xuất nông nghiệp sạch theo tiêu
chuẩn GAP. Cần phải nhanh chóng mở rộng các hình thức sản xuất sạch, phát triển
nền nông nghiệp hữu cơ thông qua ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, các chất kích thích tăng trưởng. Phương pháp sản xuất sạch
không những giúp bảo vệ được môi trường sống mà còn giảm được chi phí sản xuất do
giảm chi phí về phân bón và thuốc trừ sâu, tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm giá
thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường
trong và ngoài nước. Đồng thời, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới vào bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch; kết hợp các biện pháp vật lý,
sinh học và hóa học vào bảo quản nông sản, trong đó, chú trọng biện pháp bảo quản
vật lý và sinh học, thay thế biện pháp bảo quản hóa hóa.
143
4.3.4. Xây dựng hệ thống thông tin xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nông sản
sang thị trường Australia và New Zealand
4.3.4.1. Tăng cường xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu hàng nông sản
Việt Nam
Một trong những vấn đề khi xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam ra thế
giới nói chung và sang châu Đại dương nói riêng là phần lớn không có chỉ dẫn địa lý,
thương hiệu nông sản nên ít được người tiêu dùng biết đến hoặc xuất hiện trong các
siêu thị của các nước nhưng với thương hiệu khác. Đa phần mặt hàng nông sản Việt
Nam khi xuất khẩu không hề mang một nhãn mác cụ thể. Nhiều nhà xuất khẩu nước
ngoài mượn danh đặc sản của Việt Nam để trục lợi khiến nông sản Việt Nam phải đối
mặt với nhiều vấn đề. Ví dụ: Thái Lan đang mở chiến dịch trên nhiều phương diện để
chứng minh cho người tiêu dùng thế giới thấy Xoài cát Hoà Lộc- cái Bè là một đặc sản
của Thái Lan, Đài Loan cũng làm tương tự với trái Thanh Long- Bình Thuận, hay
Trung Quốc mua trái cây của Việt Nam về dán nhãn “made in China”... Đây chính là
các tài sản vô cùng quý giá mà các DN và các cơ quan hữu quan tìm cách xúc tiến
đăng ký và bảo vệ thương hiệu.
Để mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu vào các thị trường cao
cấp như Australia, New Zealand và để tránh tình trạng bị đánh cắp thương hiệu buộc
các nhà sản xuất phải chuộc lại hoặc kiện tụng kéo dài tốn kém cho DN, nhà nước cần
hỗ trợ các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam nghiên cứu, lập chiến lược xây
dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu cho hàng nông sản xuất khẩu, phối hợp với các cơ
quan có thẩm quyền để được hướng dẫn chi tiết về các thủ tục cần thiết đăng ký chỉ
dẫn địa lý, thương hiệu nông sản xuất khẩu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng thương hiệu nổi tiếng góp
phần tạo dựng uy tín DN, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản và
DN Việt Nam trên thị trường thế giới. Để đạt được mục tiêu đó, trước hết các DN phải
đăng ký hoàn tất thủ tục về sở hữu công nghiệp và bản quyền nhãn mác hàng hoá nông
sản không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các thị trường trên thế giới. Tránh tình trạng để
đến khi sản phẩm được khách hàng ưa chuộng rồi mới làm sẽ dẫn tới phức tạp, thậm
chí thiệt hại như trường hợp cà phê Trung Nguyên hay kẹo dừa Bến Tre...
144
4.3.4.2. Thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại cho nông sản Việt Nam ở
thị trường Australia và New Zealand
Tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam
trên thị trường thế giới (đặc biệt là tại những thị trường mới) thông qua các hoạt động
xúc tiến xuất khẩu là vấn đề chiến lược trong điều kiện sản phẩm của Việt Nam đã
xuất hiện tại Australia, New Zealand nhưng Việt Nam vẫn chưa được biết đến như một
nguồn cung cấp hàng xuất khẩu.
Thứ nhất, thành lập và phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại. Nhà nước
cần nghiên cứu để tổ chức các cơ sở xúc tiến thương mại của Nhà nước, các ngành
hàng, các địa phương như Cục xúc tiến thương mại của Bộ Công thương, các tổ chức
xúc tiến thương mại của các hiệp hội ngành nghề, và của cả DN,. Thời gian qua hoạt
động xúc tiến thương mại đã tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và
mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng và thị trường mới cho các mặt hàng nông sản.
Tuy nhiên, hoạt động xúc tiến xuất khẩu vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực cung cấp thông tin
về thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến xuất khẩu
còn phân tán, không theo chiến lược phát triển chung, chưa tạo lập được khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động này
còn thiếu và yếu, đặc biệt là trình độ của lực lượng cán bộ xúc tiến xuất khẩu còn yếu
và thiếu, chưa chuyên nghiệp.
Chính vì vậy, cần tạo nên một hệ thống xúc tiến xuất khẩu mang tầm quốc gia
và Cục xúc tiến thương mại phải là đầu mối hợp tác, trao đổi xử lý thông tin với các tổ
chức xúc tiến thương mại khác để tạo nên sức mạnh tổng thể trong hoạt động xúc tiến
xuất khẩu. Các biện pháp nhằm quảng bá hình ảnh hàng nông sản của Việt Nam cần
tập trung trong thời gian tới: Thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm nhằm
tuyên truyền, giới thiệu hàng nông sản Việt Nam với người tiêu dùng nước ngoài; Lập
các văn phòng đại diện ở nước ngoài; Quảng bá hàng nông sản thông qua các công ty
du lịch; Ứng dụng thông tin qua việc xây dựng những website chuyên đề;...
Các tổ chức xúc tiến thương mại phải là cầu nối giữa các DN với các nhà quản
lý và người tiêu dùng; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu cho các DN, tạo
môi trường kinh doanh quốc tế bình đẳng; giúp DN xuất khẩu mở rộng thị trường, tận
dụng những cơ hội và hạn chế rủi ro trên thị trường quốc tế...
145
Cần phải có những chính sách và giải pháp để hoạt động xúc tiến xuất khẩu
chuyển sang hướng tích cực hơn, chủ động hơn, không chỉ dừng lại ở tìm kiếm, duy trì
và mở rộng thị trường để bán những hàng nông sản hiện có mà phải quan tâm đến việc
nghiên cứu thị trường, phát hiện, xác định lợi thế cạnh tranh để sản xuất ra những sản
phẩm độc đáo tạo ra nhu cầu tiêu dùng mới của khách hàng. Từng bước đưa hoạt động
xúc tiến xuất khẩu mang tính chuyên môn hoá cao.
Trong thời gian qua các hiệp hội chuyên về hàng nông sản của Việt Nam đã có
nhiều cố gắng trong hoạt động và giúp đỡ các DN trong kinh doanh hàng nông sản
xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn chung vai trò của các hiệp hội ngành hàng chưa phát huy
được vai trò chủ thể thứ ba, bên cạnh Nhà nước và DN để điều tiết hoạt động của
ngành, cung cấp thông tin và bảo vệ quyền lợi cho DN trên thị trường thế giới. Chính
vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần cải thiện môi trường pháp lý cho phép các
hiệp hội được phát triển và thực hiện những chức năng của mình.
Thực hiện các cam kết hội nhập WTO, vai trò chỉ huy của hiệp hội là chính, còn
Nhà nước, bộ ngành chỉ ban hành chính sách, không thể can thiệp trực tiếp vào kinh
doanh của các ngành. Do đó, để ngành cạnh tranh và phát triển được, Nhà nước cần
giao cho các hiệp hội nghiên cứu và thực hiện một số chương trình, đề án có tính chất
dịch vụ công như thiết lập các công cụ hỗ trợ thị trường, hỗ trợ DN, đào tạo nguồn
nhân lực, chuyển giao công nghệ, cấp chứng chỉ nghề nghiệp, xuất xứ hàng hoá, các
chứng từ TMQT, đăng ký kinh doanh, đăng ký tên thương mại... Ngoài ra, Nhà nước
có thể chỉ định một số hiệp hội tiến hành những dự án với mục đích phát triển công
nghệ, sản phẩm và thị trường mới.
Để tiến hành các hoạt động tìm kiếm thị trường, khách hàng cho các DN, Nhà
nước chỉ nên tập trung vào việc hướng dẫn và cung cấp thông tin định hướng về tình
hình kinh tế, dự báo các xu hướng phát triển thị trường, còn các hiệp hội ngành hàng
có trách nhiệm hỗ trợ DN thông qua các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Chính vì vậy,
Nhà nước nên có chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cho các hiệp hội ngành hàng,
bao gồm nâng cao trình độ nguồn nhân lực; nâng cao năng lực cung cấp thông tin và
tư vấn; hỗ trợ thiết lập mạng lưới quan hệ giữa các hiệp hội của Việt Nam với những
tổ chức tương tự ở nước ngoài...
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin thị trường. Nhà
nước cần thiết lập và duy trì một kênh phân thông tin với các hiệp hội thường xuyên,
146
nhanh chóng, hiệu quả, trong đó đặc biệt chú ý cung cấp cho các hiệp hội những thông
tin về kinh tế, định hướng chính sách, các dự án đầu tư của Nhà nước và lộ trình thực
hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Thành lập một bộ phận chuyên trách làm công
tác thông tin thương mại ở thị trường Australia và New Zealand. Bộ phận này cần trang
bị kỹ thuật hiện đại, nhằm chủ động và độc lập trong việc cung cấp thông tin thương
mại. Các cơ quan chức năng cần có những nghiên cứu dự báo về thị trường sâu sắc hơn
để đưa ra những khuyến nghị kịp thời để hỗ trợ cho người sản xuất. Cần đa dạng hóa
nguồn cung cấp thông tin thương mại có thể thu được từ nhiều nguồn. Tăng cường vai
trò của các tùy viên thương mại ở các nước trong việc cung cấp thông tin thị trường của
nước sở tại. Đồng thời, đây cũng là một kênh để DN trong nước quảng bá sản phẩm ra
thị trường nước ngoài. Tăng cường năng lực cho các đơn vị đầu mối phát triển thương
mại trong Bộ ngành có mạng lưới theo dõi diễn biến thương mại ở các vùng hàng hóa và
thị trường trọng điểm, nâng cao chất lượng tham mưu hỗ trợ cho Bộ ngành và Chính
phủ trong điều hành thị trường, đảm bảo cân đối cung cầu và phát triển thương mại
trong dài hạn. Điều chỉnh lại chương trình xúc tiến thương mại theo hướng tăng cường
sự tham gia của các Hiệp hội, DN trong việc triển khai các hoạt động.
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động tiếp thị sản phẩm ở thị trường Australia và New
Zealand. Thương vụ Việt Nam tại hai nước này cần hỗ trợ xây dựng các trung tâm tiếp
thị nông sản ở các khu vực khác nhau trong thị trường hai nước. Các hoạt động tiếp thị
hướng tới từng đối tượng khác hàng khác nhau. Tổ chức cho các DN xuất khẩu hàng
hoá nông sản Việt Nam tham gia hội chợ, triển lãm, hội nghị hội thảo ở châu Đại
dương, phối hợp tổ chức các hoạt động giao dịch thương mại nhằm nâng cao hiệu quả
xúc tiến thương mại. Nhà nước đứng ra tổ chức hoặc tạo điều kiện cho các DN tham
gia vào các hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm; thành lập các trung
tâm giao dịch nông sản ở các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung. Tổ chức
đoàn DN nước ngoài vào Việt Nam giao dịch mua hàng, phối hợp chặt chẽ với tham
tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài, tăng cường tuyên truyền quảng bá để vận
động DN nước ngoài đến làm việc với DN Việt Nam. Đồng thời, mời truyền thông hai
nước nhập khẩu tham gia các mô hình sản xuất, chế biến gián tiếp quảng bá sản phẩm
nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
147
4.3.4.3. Hoàn thiện và mở rộng các kênh phân phối hàng nông sản xuất khẩu
Việt Nam cần phải thay đổi cách tiếp cận thị trường xuất khẩu hàng hoá nông
sản theo tư duy mới, không phụ thuộc quá nhiều vào các nhà nhập khẩu nông sản của
các nước. Các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam cần phải từng bước xây
dựng hệ thống phân phối sản phẩm nông sản tại các thị trường theo thứ tự ưu tiên là thị
trường truyền thống, thị trường tiềm năng. Tuy nhiên, đây là một thử thách rất lớn đối
với các DN xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam. Với tiềm lực tài chính còn
hạn chế như hiện nay sự định hướng của Nhà nước thông qua các cơ chế, chính sách
khuyến khích các DN kinh doanh xuất khâủ nông sản liên kết lại để tạo nên sức mạnh
tài chính là cần thiết, từ đó mới có thể tiến hành xây dựng hệ thống phân phối tại các
nước xuất khẩu. Trong thời gian tới, nhà nước cần tập trung phát triển một số nhà phân
phối lớn, đủ năng lực cạnh tranh ở thị trường Australia và New Zealans. Nhà nước
cũng cần đưa ra các chính sách hỗ trợ DN xuất khẩu hàng hoá nông sản thông qua các
hình thức như: Hỗ trợ khảo sát thị trường nước ngoài, hỗ trợ tiền thuê văn phòng, cửa
hàng giới thiệu sản phẩm... từ nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, để thực thi chính
sách này hiệu quả, tránh lợi dụng cơ chế để trục lợi của ngân sách, thì Nhà nước cần
phải xây dựng một số tiêu chí cụ thể và phải thường xuyên kiểm tra, giám sát thực
hiện để kịp thời phát hiện, xử lý ngay những tiêu cực có thể xảy ra.
Phát triển thị trường xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế phụ
thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận và nắm bắt kịp thời, đầy đủ thông tin về mọi diễn
biến trên thị trường thế giới. Phát triển thương mại điện tử là giải pháp quan trọng giúp
các DN tăng khả năng tiếp cận với nguồn thông tin phong phú trên mạng toàn cầu
trong khoảng thời gian ngắn và liên tục. Thương mại điện tử còn làm tăng độ linh hoạt
và giảm bớt những chi phí không cần thiết trong các hoạt động kinh tế, cơ hội tìm
kiếm đối tác, là phương tiện hữu ích để xúc tiến thương mại, là môi trường tốt để kết
nối cung- cầu nhanh nhất với chi phí nhỏ nhất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng website để cập nhật thông
tin nhanh chóng cho các DN và người tiêu dùng; Mỗi hiệp hội các ngành hàng cũng có
trang web riêng giới thiệu về sản phẩm và DN tham gia sản xuất ngành hàng đó cũng
như thông tin về giá cả, thị trường... Trong thời gian tới, nhằm tạo điều kiện cho các
DN thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua ứng dụng thương mại điện tử, Nhà
nước cần tạo hành lang pháp lý và đảm bảo thực thi các quyết định về các vấn đề cơ
148
bản có liên quan, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, hỗ trợ DN trong các giao dịch
quốc tế đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực có các kỹ năng giao tiếp qua internet.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản thông
qua các sàn giao dịch quốc tế, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần phải phổ biến
những quy định quốc tế và thực hiện những hỗ trợ ban đầu cho khâu sản xuất, thu
gom, chế biến, phát triển hệ thống logistic, nâng cao kỹ năng giao dịch... để hàng nông
sản đáp ứng được quy chuẩn theo chuẩn mực của sàn giao dịch quốc tế.
4.3.5. Phòng ngừa rủi ro và xử lý các vấn đề vướng mắc cản trở đến thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand
Trước hết, cần đánh giá đo lường giá trị của rủi ro. Các DN cần phải được
hướng dẫn xác định rủi ro bởi các tiêu chí khả năng xảy ra và mức độ ảnh hưởng.
Ngoài ra có thể bổ sung thêm thời điểm rủi ro và % xảy ra rủi ro. Trong xuất khẩu
hàng hoá nông sản, có khoảng 11 rủi ro khác nhau là: Rủi ro từ thảm họa tự nhiên; Rủi
ro về biến động giá; Rủi ro do quy định của nước nhập khẩu; Rủi ro do chính sách của
nước xuất khẩu (ở đây là Việt Nam); Rủi ro thiếu hụt vốn; Rủi ro thiếu trình độ quản
lý chuyên môn nghiệp vụ; Rủi ro thông tin; Rủi ro lựa chọn đối tác, đàm phán và ký
kết hợp đồng; Rủi ro thanh toán; Rủi ro cung ứng nông sản đầu vào; Rủi ro vận
chuyển/bảo quản. Vì thế, đo lường rủi ro rất quan trọng nhất là đối với mặt hàng nông
sản đang sản xuất phân tán ở Việt Nam.
Bảng 4.1. Chiến lược kiểm soát rủi ro trong xuất khẩu hàng nông sản
Nguồn: Goosens & Cooke (2001)
149
Với mỗi loại rủi ro, cần có chiến lược phòng ngừa khác nhau. Có 8 rủi ro cần
tránh né, 2 rủi ro cần sử dụng chiến lược chuyển giao và 1 rủi ro cần chiến lược giảm
nhẹ. Việc xác định đúng chiến lược sẽ là cơ sở cho việc đề ra những mục tiêu khi sử
dụng các biện pháp phòng ngừa vừa xử lý các vấn đề vướng mắc. Việc xác định chiến
lược kiểm đối với từng rủi ro trong mỗi DN có thể là khác nhau nếu DN lựa chọn mức
điểm được cho tính là cao khác nhau.
Sau khi xác định được chiến lược kiểm soát rủi ro, DN sẽ lựa chọn các biện
pháp phù hợp với chiến lược và nguồn lực thực tế của mình. Đối với nhóm rủi ro có
khả năng xảy ra và mức độ ảnh hưởng ở mức cao chiến lược phù hợp để lựa chọn là né
tránh. Nghĩa là các biện pháp mà DN sử dụng để kiểm soát rủi ro là chủ động tác động
vào nguy cơ xảy ra rủi ro để né tránh rủi ro đó. Đối với nhóm rủi ro có khả năng xảy ra
cao nhưng mức độ ảnh hưởng thấp thì chiến lược được đề xuất là Giảm nhẹ. Nghĩa là
các biện pháp sẽ hướng tới: giảm khả năng xảy ra của rủi ro; giảm thiểu tổn thất. Đối
với nhóm rủi ro có khả năng xảy ra thấp và mức độ ảnh hưởng cao thì chiến lược được
đề xuất là chuyển giao, nghĩa là DN chấp nhận bỏ chi phí để chuyển giao 1 phần hoặc
toàn bộ rủi ro sang cho chủ thể khác. Đối với rủi ro do thảm hoạ thiên nhiên thì biện
pháp đề xuất là mua bảo hiểm; còn đối với rủi ro do trình độ quản lý, chuyên môn
nghiệp vụ DN có thể bỏ chi phí ra thuê ngoài. Đối với rủi ro có khả năng xảy ra và
mức độ ảnh hưởng thấp thì DN nên sử dụng chiến lược chấp nhận và có biện pháp lập
quỹ dự phòng nếu rủi ro đó xảy ra.
Ngoài ra để các biện pháp kiểm soát rủi ro được thực hiện một các có hiệu quả,
DN cũng cần lưu ý một số nội dung sau:
Một là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động kiểm soát rủi ro.
Trong DN xuất khẩu hàng hoá nông sản, đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ các cán bộ ngoại
thương là những người trực tiếp thực thi các hoạt động kiểm soát rủi ro. Nhưng bên
cạnh đó, các phòng ban như hành chính, kế toán, bán hàng... cũng có những tác động
không nhỏ lên các khâu kiểm soát rủi ro bởi kiểm soát rủi ro là một quy trình mang
tính hệ thống nhằm nhận diện, đánh giá và xử lý các rủi ro một cách hiệu quả. Bởi vậy,
nâng cao nhận thức và kiến thức của các cán bộ trực tiếp và gián tiếp liên quan tới hoạt
động kiểm soát rủi ro là điều vô cùng quan trọng và phải được thực hiện đầu tiên.
Những kiến thức và nhận thức cần phải xây dựng cho các cán bộ là về nông sản và
xuất khẩu, về rủi ro và kiểm soát rủi ro, về các nguồn lực của DN trong kiểm soát rủi
150
ro. Bên cạnh đó, nhận thức và kiến thức của cán bộ cần được xây dựng thành một hệ
thống kiểm soát rủi ro. Tùy thuộc vào quy mô DN, đối với các DN lớn phải thành lập
phòng chuyên trách để kiểm soát rủi ro trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông sản
với một đội ngũ chuyên nghiệp có mối liên hệ khăng khít với các phòng ban hành
chính, bộ phận sản xuất để tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin, song với DN nhỏ chỉ
cần phân công một số nhân viên kiêm nhiệm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc.
Hai là, đáp ứng nhu cầu của khách hàng và đa dạng hóa các chuỗi cung ứng nông
sản xuất khẩu. Cùng với đó là rào cản chống bán phá giá, môi trường, rào cản kỹ thuật
tại các thị trường hội nhập mà hàng hóa nước ta phải đối mặt. Sự phát sinh tranh chấp
thương mại nhưng năng lực giải quyết còn thấp là một trong những thách thức lớn, đặc
biệt là trong bối cảnh nhận thức về luật pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và kinh
nghiệm đối phó của các DN và hiệp hội DN, ngành hàng chưa đầy đủ. Trong bối cảnh
nêu trên, việc tìm hiểu kỹ nhu cầu của khách hàng để đáp ứng đúng là một yêu cầu tất
yếu đối với DN xuất khẩu hàng hoá nông sản. Bên cạnh đó, việc tham gia vào nhiều
chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu khác nhau cũng được xem là lối mở cho các DN
nhằm giảm thiểu những rủi ro trong xuất khẩu. Do đó, các DN cần phải thay đổi mạnh
mẽ thói quen thương mại, giảm giá thành và tiếp cận tiêu chuẩn chất lượng của các
nước. DN xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam cần phải tổ chức sản xuất, kinh doanh
theo chuỗi cung ứng. Trong đó, mỗi khâu đều phải có tiêu chuẩn phòng ngừa rủi ro, có
thiết bị, chuyên gia để khi nông sản thực phẩm xuất sang các nước đáp ứng được quy
trình, tiêu chuẩn của nước đó. Đồng thời khai thác nhiều hơn những chuỗi cung ứng có
giá trị và phù hợp với nguồn lực của DN để kiểm soát rủi ro được hiệu quả hơn.
151
Tiểu kết chương 4
Từ các quan điểm, định hướng cũng như mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá nông sản sang hai thị trường này trong giai đoạn 2021 – 2030, có thể thấy,
muốn thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia và New
Zealand hiệu quả, phần lớn dựa vào vai trò Nhà nước trong nhiều khía cạnh khác
nhau, thống nhất và đồng bộ. Đặc biệt, hiện nay, hoạt động thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá nông sản cần những biện pháp đổi mới phù hợp với hoàn cảnh tự do hoá
thương mại với các rào cản phi thuế quan. Toàn bộ chương 4 đã mang lại một cái
nhìn tổng quát về hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông
sản Việt Nam sang Australia và New Zealand trong giai đoạn tới bao gồm: Hoàn
thiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Australia
và New Zealand; Thúc đẩy các hợp tác kinh tế quốc tế đa phương và song phương
trong lĩnh vực nông nghiệp để tháo gỡ khó khăn xuất khẩu hàng hoá nông sản với
Australia và New Zealand; Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng nông sản xuất
khẩu sang thị trường Australia và New Zealand; Xây dựng hệ thống thông tin xúc
tiến xuất khẩu hàng hoá nông sản sang thị trường Australia và New Zealand.
Trong mỗi giải pháp đều có những khuyến nghị hành động cụ thể.
152
KẾT LUẬN
Bối cảnh quốc tế mới đang hình thành nên những xu hướng tác động lớn tới
xuất khẩu nói chung và XKHHNS của Việt Nam nói riêng. Toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế trở nên sâu rộng hơn khiến cho các quốc gia trở nên phụ thuộc vào nhau nhiều
hơn và các mối quan hệ kinh tế quốc tế hướng tới tự do hoá thương mại cũng được đẩy
mạnh nhằm mang lại lợi ích cho các bên tham gia, đồng thời sử dụng hiệu quả hơn
nguồn lực ngày càng khan hiếm của thế giới. Các FTA thế hệ mới ra đời đặt ra nhiều
yêu cầu cho các hàng hoá nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên, khoa học công nghệ hiện đại
cũng giúp các quốc gia nâng cao chất lượng NSXK cũng như hình thành nên những
cách thức sản xuất mới. Ngoài ra, các vấn đề toàn cầu cũng khiến cho xuất khẩu nông
sản chịu nhiều tác động trái chiều.
Trong bối cảnh đó, mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Australia và
New Zealand có cơ hội phát triển bởi sự ra đời của Hiệp định thương mại tự do
ASEAN – Australia, New Zealand (AANZFTA) Nhờ đó đến nay, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang hai thị trường này tăng trưởng không ngừng, trung bình
4,7%/năm. Do vị trí địa lý khác nhau nên Australia, New Zealand và Việt Nam có cơ
cấu mặt hàng xuất nhập khẩu bổ sung cho nhau. Do Australia, New Zealand ở bán cầu
Nam, Việt Nam lại ở bán cầu Bắc, điều kiện khí hậu trái ngược nhau nên các sản phẩm
theo mùa sẽ làm xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm lẫn nhau. Tuy nhiên, Việt Nam
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức với các yêu cầu cao về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ
sinh an toàn thực phẩm. Australia và New Zealand là thị trường có tính bảo hộ rất cao
với hàng rào phi thuế quan (đặc biệt là các rào cản kỹ thuật) rất nghiêm ngặt với những
quy định chặt chẽ (nhiều khi đến mức “không tưởng” đối với hàng xuất khẩu Việt
Nam) về nguồn gốc xuất xứ, vệ sinh, an toàn thực phẩm, kiểm dịch động vật, tiêu
chuẩn kỹ thuật đối với thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn
bảo vệ môi trường v..v…Các rào cản này đang thực sự gây khó khăn cho các DN Việt
Nam. Thách thức nữa đến từ nhận biết kém và thiếu cập nhật của các tổ chức kinh tế
thuộc chuỗi giá trị của hàng nông sản Việt Nam trong việc nhận diện thị trường đang
ngày càng mang tính “siêu quốc gia” này.
Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu với căn cứ lý luận và
thực tiễn, luận án đã hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu và đạt được mục tiêu sau:
153
Về lý luận, luận án đã xây dựng khung lý thuyết riêng về thúc đẩy xuất khẩu
hàng nông sản trong khu vực mậu dịch tự do với hệ thống lý luận chi tiết về khái niệm,
nội dung thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong khu vực mậu dịch của chính phủ và
các vấn đề liên quan. Đặc biệt, luận án xây dựng mô hình đánh giá về các nhân tố ảnh
hưởng tới thúc đẩy XKHHNS cũng như hệ thống các tiêu chí đánh giá về phát triển
XKHHNS của các quốc gia.
Về thực tiễn, luận án tìm hiểu thực tế bối cảnh mới và phân tích thực trạng thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của của Chính phủ Việt Nam sang Australia và New
Zealand cũng như kết quả của hành động đó trong giai đoạn 2016 – 2021. Các hoạt
động thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang châu Đại dương đã đạt
những thành tựu nhất định nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra: kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt
Nam sang Australia và New Zealand tuy gần như không có sự thay đổi nhưng giá trị
cũng như tỷ trọng còn rất bé, chưa xứng với tiềm năng của cả hai bên. Điều này đặt ra
vấn đề cần xem xét và xác định các giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zealand, khắc phục được các hạn
chế, đồng thời nâng cao vai trò Nhà nước.
Với định hướng nắm bắt cơ hội bối cảnh mậu dịch tự do diễn ra giữa hai bên, hệ
thống các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang
Australia và New Zealand trong giai đoạn tới bao gồm: Hoàn thiện các chính sách thúc
đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Australia và New Zealand; Thúc đẩy các
hợp tác kinh tế quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực nông nghiệp để tháo
gỡ khó khăn xuất khẩu hàng hoá nông sản với Australia và New Zealand; Tăng cường
kiểm soát chất lượng hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường Australia và New
Zealand; Xây dựng hệ thống thông tin xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nông sản sang thị
trường Australia và New Zealand và phòng ngừa rủi ro, xử lý các vấn đề vướng mắc
cản trở đến thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia và New Zealand.
Trong mỗi giải pháp đều có những khuyến nghị hành động cụ thể.
Các giải pháp đều có mối quan hệ thống nhất, biện chứng và cần phải được tiến
hành đồng bộ. Đây không chỉ là cơ sở thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt
Nam sang Australia và New Zealand mà còn là những gợi ý có giá trị nhất định cho
việc xuất khẩu hàng hoá nông sản sang các thị trường khác nhất là các quốc gia phát
triển với những rào cản kỹ thuật chất lượng cao.
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Như Bình (2004), Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế,
tài liệu tham khảo tại Viện Đại học Mở Hà Nội, khoa Luật, Nhà xuất bản Tư pháp.
2. Đặng Vũ Thanh Bình (2005), Xuất khẩu nông sản vào thị trường Nhật Bản, Tạp chí
Thương mại số 20/2005
3. Bộ Công thương, (2011), Chính sách thương mại nhằm phát triển bền vững ở Việt
Nam thời kỳ 2011-2020, Hội thảo khoa học quốc gia.
4. Bộ Công Thương (2015), 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang Úc
(2011-2015) và tiềm năng xuất khẩu.
5. Bộ Công Thương (2015), Tận dụng ưu đãi trong hiệp định thương mại tự do Asean –
Úc – Niu di lân để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
6. Bộ kế hoạch và đầu tư (2017), Báo cáo đầu tư của Australia tại Việt Nam, Quý I năm 2017.
7. Bộ kế hoạch và đầu tư (2017), Báo cáo đầu tư của New Zealand tại Việt Nam, Quý I
năm 2017.
8. Bộ Ngoại giao và thương mại Australia (2021), Australia và Việt Nam – Chiến lược
tăng cường hợp tác kinh tế, CanPrint Communications Pty Ltd.
9. Nguyễn Thị Sinh Chi, 2013, Luận án tiến sĩ: Tiềm năng của chè Việt Nam trên thị
trường quốc tế”, Đại học Thái Nguyên.
10. Chính phủ (2018), Nghị định 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn ban hành ngày 17 tháng 4 năm 2018.
11. Nguyễn Đình Cung và Trần Toàn Thắng (2017), Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam – EU: Tác động thể chế và điều chỉnh chính sách ở Việt Nam, Ciem
12. Nguyễn Hồng Cử (2011), Phát triển nông sản XK theo hướng bền vững ở Tây
Nguyên, LATS kinh tế, trường Đại học Đà Nẵng
13. Nguyễn Thị Phương Dung (2019), Hoàn thiện chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy
xuất khẩu cà phê vùng Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ trường Đại học Thương mại
14. Nguyễn Thị Định (2014), “Quan hệ hợp tác Australia- ASEAN 40 năm nhìn lại
(1974-2014)”, Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 11 (176), tr.14-22.
155
15. Nguyễn Thị Đường (2012), “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam
vào thị trường Trung Quốc,” Luận án tiến sĩ Viện Nghiên cứu Thương mại.
16. Nguyễn Thanh Hà (2003), Những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam sang các nước khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong giai đoạn
2010, Luận án tiến sỹ tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
17. Đỗ Thu Hằng (2016), Phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Khoa học Xã hội.
18. Trịnh Thị Ái Hoa (2007), Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam, lý luận và thực
tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr 112, Hà Nội.
19. Hà Văn Hội (2013), “Hiệp định thương mại tự do: Cơ hội, thách thức đối với thương
mại quốc tế Việt Nam”, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, Số 7 (207),
tr.58-72
20. Hội đồng QG chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách Khoa VN (2005), Từ điển Bách khoa
Việt Nam, NXB Từ điển Bách Khoa
21. Dương Văn Hùng (2010), Thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường EU của các doanh
nghiệp giày dép trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ Kinh tế và Quản lý thương mại,
Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội
22. Phạm Thu Hương (2004), Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy hoạt động xúc tiến
thương mại quốc tế của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế
quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
23. Phùng Thị Vân Kiều (2018), “Quan hệ thương mại Việt-Úc trong bối cảnh hội nhập”,
Tạp chí Nghiên cứu thương mại, số 32 (4/2018), tr 41-53.
24. Lê Huy Khôi (2013), Giải pháp nâng cao GTGT cho mặt hàng cà phê trong chuỗi giá
trị cà phê toàn cầu, LATS kinh tế, Viện Nghiên cứu Thương mại.
25. Krugman, Paul E. và Obstfeld, Maurice (1996), Kinh tế học quốc tế: Lý thuyết và
chính sách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Ngô Thị Tuyết Lan (2007), Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản
Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Luận án tiến sĩ.
27. Nguyễn Thị Phong Lan (2017), Quản lý nhà nước đối với xuất khẩu nông sản của Việt
Nam trong hội nhập quốc tế, LATS kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
156
28. Nguyễn Thị Phong Lan (2014), Xuất khẩu nông sản chế biến của Thái Lan và bài học
cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85) – 2014.
29. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh và Nguyễn Võ Định (1999), Phát huy lợi
thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
30. Nguyễn Đình Long (2001), Báo cáo khoa học về “Nghiên cứu những giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất
khẩu nông sản trong thời gian tới: cà phê, gạo, cao su, chè, điều, Bộ NN&PTNT.
31. Bùi Xuân Lưu, Bùi Hữu Khải (2006), Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản
Lao động, Hà Nội.
32. Ngô Thị Tuyết Mai (2007), Nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản XK
chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ.
33. Trần Thị Mai Thanh (2012), Thực trạng và xu hướng Hiệp định Thương mại tự do
(FTA) trong khu vực ASEAN, Master Thesis: Economics and international economic
relations, University of Economics and Business-VNU.
34. Nguyễn Anh Minh, (2006), Nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung
Quốc giai đoạn từ 1978 đến nay và gợi ý vận dụng đối với Việt Nam, Luận án tiến sĩ
35. Nguyễn Anh Minh (2005), "Những bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện chính sách
thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc thời kỳ cải cách và mở cửa kinh tế", Tạp chí
Kinh tế và phát triển số 100, Hà Nội.
36. MUTRAP (2009), Đánh giá tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam.
37. MUTRAP (2010), Báo cáo đánh giá tác động của hiệp định thương mại tự do đối với
kinh tế Việt Nam.
38. MUTRAP (2010), Báo cáo đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do
ASEAN- Trung Quốc: Phân tích định tính và định lượng.
39. MUTRAP (2011), Đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương
mại tự do của Việt Nam
40. MUTRAP (2011), Tác động của cam kết mở cửa thị trường trong WTO và các Hiệp
định khu vực thương mại tự do (FTA) đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt
157
Nam và các biện pháp hoàn thiện cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Bộ công
thương giai đoạn 2011-2015
41. MUTRAP (2012), Hiệp định thương mại tự do và một số khái niệm cơ bản, Hà Nội.
42. Ngô Thị Mỹ (2016), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu một số hàng
hoá nông sản của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Đại học Thái Nguyên.
43. Đỗ Thị Hoà Nhã (2017), Các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản Việt Nam vào
thị trường EU, luận án tiến sĩ Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, ĐH
Thái Nguyên
44. Nguyễn Thị Nhiễu, (2003), Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, Luận án tiến sĩ
45. Phạm Hoàng Ngân, Phạm Thị Tước, Phạm Quang Diệu (2005), Triển vọng thương
mại nông sản Việt Nam trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Úc – Niudilân, Báo
cáo khoa học IAE, Mispa
46. Nguyễn Văn Ngọc (2006), Từ điển Kinh tế học, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
47. Nhóm nghiên cứu Trung tâm WTO và hội nhập VCCI (2019), Báo cáo Nghiên cứu:
Cơ hội thị trường Australia cho Việt Nam từ CPTPP và các FTA liên quan,
https://trungtamwto.vn/file/18428/Nghien%20cuu%20Co%20hoi%20thi%20truong%
20Aus%20tu%20CPTPP.pdf
48. Nguyễn Hà Phương (2019), Tác động của Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Úc
– New Zealand đến quan hệ thương mại của Việt Nam với Úc và New Zealand, Luận
án tiến sĩ Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Quốc hội (2019), Luật Thương mại số 17/VBHN-VPQH ban hành ngày 05 tháng 7
năm 2019.
50. Nguyễn Minh Sơn (2010), “Các giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Luận án Đại học Kinh tế quốc dân
51. Nguyễn Phú Thái, (2004), Vai trò của ngoại thương đối với phát triển kinh tế Trung
Quốc từ khi cải cách mở cửa, Luận án tiến sĩ kinh tế.
52. Võ Trí Thành (2007), Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU, Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung Ương, NXB Tài chính, Hà Nội.
158
53. Vũ Đình Thắng (2006), Giáo trình Kinh tế Nông nghiệp, NXB Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
54. Từ Thanh Thuỷ (2003), Hoàn thiện chính sách ngoại thương Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với khu vực và thế giới, Luận án tiến
sỹ kinh tế, Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà Nội
55. Lê Quang Thuận (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối
với kinh tế Việt Nam, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/cac-hiep-dinh-
thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-tac-dong-doi-voi-kinh-te-viet-nam-309171.html
56. Thương vụ Việt Nam Tại Australia (2016) “Thị trường thuỷ sản của Úc và các giải pháp
xúc tiến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này”, báo cáo nghiên cứu.
57. Thương vụ Việt Nam tại New Zealand (2018), Bản Tin Thương vụ số 1- Quý 2/2018.
58. Lê Minh Tiến (2017), Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và thực hiện hội
nhập của Việt Nam, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Luật Hà Nội.
59. Lê Minh Tiến (2011), “Quy tắc xuất xứ hàng hóa của Khu vực thương mại tự do
ASEAN”, Tạp chí Luật học, (09), tr. 65-72.
60. Trịnh Thị Thanh Thủy (2018) “Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam- Niu Di Lân:
Thực trạng và giải pháp” Tạp chí Nghiên cứu thương mại, số 34 (8/2018), tr 6-18.
61. Tổng cục Hải quan (2023), Báo cáo xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. Tài liệu
nội bộ
62. Phan Thu Trang (2020), Kiểm soát rủi ro trong xuất khẩu nông sản của các doanh
nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Thương mại.
63. Bùi Đức Tuân (2010), "Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chế biến thủy sản
Việt Nam”. Luận án tiến sĩ.
64. Nguyễn Văn Tuấn, Trần Hòe, (2008), Giáo trình thương mại quốc tế - phần 1, NXB
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
65. Nguyễn Thị Tú (2004), Giải pháp đẩy mạnh hàng xuất khẩu nông sản Việt Nam vào
thị trường Mỹ, Tạp chí Thương mại, số 1+2, năm 2004
66. Vidavong Heuangmisouk (2018), Phát triển xuất khẩu nông sản của nước CHDCND
Lào trong điều kiện hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN.
159
67. VCCI (2020), Cơ hội xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Australia,
https://trungtamwto.vn/chuyen-de/16403-co-hoi-xuat-khau-gao-viet-nam-sang-thi-
truong-australia.
Tài liệu Tiếng Anh
68. Adam Smith (1922), Inquiry into the nature and causes of the wealth of nations,
Edited with an introduction, notes, marginal summary and an enlarged index by
Edwin Cannan. - 3. ed. - London : Methuen & co.
69. Agreement Establishing the ASEAN Australia-New Zealand Free Trade Area
(AANZFTA) Economic Co-operation (Hiệp định thành lập Chương trình hợp tác kinh
tế của AANZFTA)
70. Anthony L, Smith (2005), Southeast Asia and New Zealand: A History of Regional
and Bilateral Relations, ISEAS, Singapore
71. ASEAN (2009), Agreement establishing the ASEAN-Australia-New Zealand and
Free trade area.
72. Australia Government (2012), White Paper - Australia in the Asian Century,
Australia.
73. Australia National University (2011), Australia - Thailand Trade: Has the FTA Made
a Diference?, Australia.
74. D. Begg, S. Fischer, R. Dornbusch - Kinh tế học, Nhà xuất bản Thống kê (2007)
75. Bergstrand, Jeffrey H (1985), The Gravity Equation in International Trade: Some
Microeconomic Foundations and Empirical Evidence, The Review of Economics and
Statistics, MIT Press, vol, 67(3), pp.474-81.
76. BrenalynA, Peji (2009), ASEAN-Australia-New Zealand Free Trade Agreement: An
Overview Paper, ILS Discussion Paper Series 04-2009.
77. Bela Balassa, Marcus Norland (1989), Reveal Comparative Advantage in Japan and
United States, Journal of International Economic integration, pp.8-22.
78. Christian Helmers, Jean-Michel Pasteels (2006), Assessing Bilateral Trade Potential
at the Commodity Level: An Operational Approach, Market Analysis Section (MAS),
International Trade Center, Geneva, Switzerland.
160
79. Christian Volpe Martincus, Jerónimo Carballo (2010), IDB WORKING PAPER
SERIES No. IDB-WP-202
80. Cletus Couphlin, Geoffrey E. Wood (2005), An Introduction to Non – Tariff Barriers
to Trade.
81. David Ricardo (1817), On the Principles of Political Economy and Taxation, John
Murray Publisher, Albemarle-Street, London.
82. The Danish Government (2014), Government Strategy on Export Promotion and
Economic Diplomacy
83. Daljit Singh (2011), ASEAN’s perspective of New Zealand’s place in Asia, 2011
series, Asia-New Zealand Foundation.
84. Department of Commerce Ministry of Commerce and Industry Government of India
(2018), Agriculture Export Policy
85. Dominick Salvatore (2004), International economics, Fordham University, United
State.
86. Dominique Bruhn (2014), Global Value Chains and Deep Preferential Trade
Agreements: Promoting Trade at the Cost of Domestic Policy Autonomy? Available
at SSRN 2464136.
87. Eric Osei-Assibey (2015), Export Promotion in Ghana, Submitted to the African
Center for Economic Transformation.
88. FAO (2016), Fao Statistics, website: http://faostat3.fao.org/download/P/PP/E, truy
cập ngày 12/5/2016.
89. Faridi, Muhammad Zahir (2012), Contribution of agricultural export to economic
growth in Pakistan, Pakistan Journal of Commerce an Social Sciences, 6(1), pp.133-146
90. Filippini C. and Molini V. (2003), The determinants of East Asian trade flows: a gravity
equation approach, Journal of Asian Economics, Vol. 14, Issue 5, pp. 695-711
91. Fugazza, M. (2004), Export performance and its determinants: supply and demand
constraints, Policy Issues in International Trade and Commodities Study Series No. 26
92. Jeffrey J. Reimer, Gary W. Williams, Rebekka M. Dudensing, and Harry M. Kaiser
(2017), Agricultural Export Promotion Programs to Create Positive Economic
161
Impacts, Reports 285197, Texas A&M University, Agribusiness, Food, and
Consumer Economics Research Center.
93. James Kember (2008), Vietnam - New Zealand cooperation at multilateral
regulations: ASEAN, East Asian Summit and the United Nations, International
research journal, no.2, pp.11-18.
94. Jemma Bailey và Patricia Ranald (2005), Submission to the Asia Trade Task Force
on the Australia–ASEAN–New Zealand Free Trade Agreement from the Australia
Fair Trade & Investment Network (AFTINET), Public Interest Advocacy Centre,
Australia.
95. Joint Standing Committee on Foreign Affairs, Defence and Trade -Ủy ban Thường
vụ chung về ngoại giao, quốc phòng và thương mại Úc (1998), Australia and
ASEAN: Managing Change, Houses of Parliament, Australia.
96. John Baylis, Stave Smith, Patricia Owens (2020), The Globalization of World
Politics: An Introduction to International Relations, Eighth Edition, Oxford
University Press, UK
97. Junning Cai, PingSun Leung (2009), Assessment of comparative advantage in
aquaculture: Framework and application on selected species in developing
countries, FAO Fisheries and Aquaculture technical paper, No 528, Rome.
98. Gani, A. and Prasad, B. C. (2006), Institutional Quality and Trade in Pacific
Island Countries, Asia-Pacific Research and Training Network on Trade
Working Paper Series, No. 20
99. Goossens J. & Cooke M. (2001), Procedures guide for structured expert judgement.
Brussels-Luxemburg: European commission.
100. Guillermo Donoso (2016), Chilean agricultural export promotion experience to
advance agricultural trade: legal, regulatory and operational frameworks and impact
assessment, Catholic University of Santiago, Chile.
101. Hallak, J. C. (2006), Product quality and the direction of trade, Journal of
International Economics, Vol. 68, Issue 1, pp. 238-265
102. Hatab, Abu, Romstad and Huo (2010), “Determinants of Egyptian Agricultural
Exports: A Gravity Model Approach”, Modern Economy 1, pp. 134-143.
162
103. Hayakawa, K. et al (2015), Trade Creation Effects of Regional Trade Agreements:
Tariff Reduction versus Non-tariff Barrier Removal, ERIA Discussion Paper Series
104. Imbriani, C. et al (2013), Product Quality and Exporting: Evidence from Italian
Manufacturing Firms [online], Workshop paper, Università della Calabria, from:
http://www.ecostat.unical.it/rd2013/Papers/Imbriani_Moroni_Renna.pdf
105. Kim, Kunmin; Nguyen, Anh Tru (2015), Enhancement of Trade and Investment in
Agriculture Between Australia and Vietnam: Opportunities and Challenges, Asian
Journal of Agriculture and Development, Volume 15, Issue 2, P95-108. doi:
10.22004/ag.econ.280967
106. Krugman, Maurice Obstfeld (2011), International Economics: Theory & Policy,
ninth edition, Pearson, United States of America.
107. Liesel Anna, (2001), Social significance of export promotion organization in
Turkey's garment industry, Economic doctoral thesis.
108. Leamer, Edward E. (1995), "The Heckscher-Ohlin Model in Theory and
Practice," Princeton Studies in International Economic
109. Liu, X. and Chouinard, H. H. (2013), The Effects of Product Quality on Net Trade,
School of Economic Sciences, Working Paper Series
110. Martin Khor (2005), Bilateral and regional free trade agreements: Some critical
elements and development implications, Third World Network
111. Martinez-Zarzoso, I. and Marquez-Ramos, L. (2004), Economic geography,
Technological differences, Trade and Income: New empirical evidence [online],
Universidad Jaume I, Castellón (Spain), from:
http://www.etsg.org/ETSG2004/Papers/Ramos.PDF
112. Mendonca, T. G. et al (2014), Institutions and bilateral agricultural trade, Procedia
Economics and Finance , Vol. 14, pp. 164-172
113. Michael G. Plummer, David Cheong, Shintaro Hamanaka (2010), Methodology for
Impact Assessment of Free Trade Agreements, Asian Development Bank,
Philippines.
163
114. Ministry of Trade and Industry and Singapore Customs (2005), Free Trade
Agreements (Trade in Goods), Standards, Productivity and Innovation Board,
Singapore.
115. Min Xu , Jeanne M. David & Suk Hi Kim (2018), The Fourth Industrial Revolution:
Opportunities and Challenges, International Journal of Financial Research, Vol. 9,
No. 2; 2018, p.90-95
116. Miroslav N. Jovanovic (2016) The economics of International Integration 2nd
edition.
117. Misa Okabe (2015), Impact of Free Trade Agreements on Trade in East Asia, ERIA
Discussion Paper Series.
118. Mnd, Amir Hossain (2015), “Impact of International Relations in Trade and
Development from Bangladesh Perspective”, Scholedge International Journal of
Multidisciplinary&Allied Studies, Vol.02, Issue 12, pp29-42
119. Mukherji, I, N, (2007), Asia-Pacific trade agreement: Implications of exchange
of trade preferences for member and prospective member countries, UNESCAP.
120. Maria Rosaria Agostino, Francesco Aiello and Paola Cardamone (2007), Analysing
the Impact of Trade Preferences in Gravity Models, Does Aggregation Matter?,
TRADEAG - Agricultural Trade Agreement, Italy
121. MUTRAP (2010), Impact assessment of free trade agreement on Vietnam’s
economy.
122. New Zealand Ministry of Foreign Affairs and Trade- Bộ Ngoại giao và Thương mại
NewZealand (2009), Agreement establishing the ASEAN-Australia- New Zealand
Free trade area (and associated instruments) National Interest analysis.
123. New Zealand Ministry of Foreign Affairs and Trade-Bộ Ngoại giao và Thương mại
NewZealand (2009), The Agreement Establishing the ASEAN- Australia- New
Zealand Free Trade Area, Printlink, Wellington.
124. OECD (2013) Interconnected economies: benefiting from global value chains, Paris
125. Office of Development Effectiveness (2015), Evaluation of the Australia-Vietnam
country strategy 2010-15, Government Department of Foreign Affairs and Trade
(DFAT), Australia.
164
126. Okabe, M. (2015), Impact of Free Trade Agreements on Trade in East Asia, ERIA
Discussion Paper Series
127. OPEC (2015), Review of developments in the world economy, Vienna, Austria.
128. Paige Mc Clamalian, Alexander Chandra, Ruben Hattari and Damon Vis-Dunbar
(2014), Talking advantadge of ASEAN’s free trade agreements, A guide for small
and mudium-sized enterprises, January 2014.
129. Paul A. Samuelson, Wiliam D. Norhalls (2007), Kinh tế học, Nhà xuất bản Tài
chính
130. Porter, M.E. (1990, 1998) The Competitive Advantage of Nations, Free Press, New
York, 1990.
131. Pol Antràs (2020), Conceptual Aspects of Global Value Chains, The World Bank
Economic Review, Volume 34, Issue 3, October 2020, Pages 551–574,
https://doi.org/10.1093/wber/lhaa006
132. Pol Antràs, Davin Chor (2021), Global Value Chains, National Bureau of Economic
Research, Working Paper 28549, DOI 10.3386/w28549.
133. Poddar, T. (2004), Domestic Competition Spurs Exports: The Indian Example, IMF
Working Paper
134. Rahman, M., M. (2009), Australia’s Global Trade Potential: Evidence from the
Gravity Model Analysis, University of Southern Queensland, Australia
135. Rey Santella (2018), New Zealand Exporter Guide, New Zealand Export Market
Guide 201
136. Richard Baldwin (2011), Trade and industrialisation after globalisation’s 2nd
unbundling: how building and joining a supply chain are different and why it
matters (NBER Working Paper Series 17716)
137. Robert Scollay và Ray Trewin (2006), Australia and New Zealand Bilateral
CEPs/FTA with the, ASEAN countries and their Implication on the AANZFTA,
REPSF Project No. 05/003.
138. Sanjuan Lopez, A.I, Dawson, P.J. (2010), Agricultural export and economic growth
in developing countries: A panel co-intergration approach, Journal of Agricultural
Economics, 61(3), pp. 565-583.
165
139. Sayeeda Bano, Yoshiaki Takahashi, Frank Scrimgeour (2013), ASEAN-New
Zealand Trade Relations and Trade Potential: Evidence and Analysis, Journal of
Economic Integration, Vol.28 No.1, March 2013, 144~182
140. Sevela M. (2002), “Gravity type model of Czech agricultural export”, Agriculltural
Economics 48, pp. 463-466
141. Shahar Hameiri, Lee Jones (2013), The Politics and Governance of Non-Traditional
Security, International, Studies Quarterly, Volume 57, Issue 3, September 2013,
Pages 462–473, https://doi.org/10.1111/isqu.12014, Published: 12 September 2013
142. Shiro Armstrong (2015), The economic impact of the Australia–United States free
trade agreement, AJRC Working paper, Úc-Japan Research Centre, Crawford
School of Public Policy, The Australia National University.
143. Spring Singapore (2005), Free Trade Agreements (Trade In Goods) Guide for SME,
Standards, Productivity and Innovation Board.
144. Steven M, Suranovic (2007), The Theory of Comparative Advantage – Overview,
International Economics Study Center.
145. Stevens, C., Irfan, I., Massa, I. and Kennan, J. (2015), The Impact of Free Trade
Agreements between Developed and Developing Countries on Economic
Development in Developing Countries: A Rapid Evidence Assessment, Overseas
Development Institute, London.
146. Strielkowski W. , Tcukanova O. , Zarubina Z. (2017), Globalization and economic
integration : the role of modern management, Polish Journal of Management
Studies, Vol. 15, No. 1, p.255--261
147. Trần Văn Thọ (2002), AFTA in the Dynamic Perspective of Asian Trade, The
Philippine Tariff Commission's website at Philippine tax. Journal of the Korean
Economy, Vol. 3, No. 1.
148. Thai Do Tri (2006), A Gravity Model for Trade between Vietnam and twentythree
European countries, PhD thesis
149. Thato Tseuoa, Yusman Syaukat (2012), The impact of the Australia and New
Zealand free trade agreement on the beef industry in Indonesia, Internatioanl
Society for Southeast Asia Agricultural Sciences, Vol. 18, No. 2, pp. 70-82.
166
150. Tukhliev N , Abdullayev R, Gulnora G, Batirova N, Uktam J (2020), Contemporary
trends in international economic integration: challenges and prospects, International
Journal Of Psychosocial Rehabilitation, Eissn: 1475-7192, DOI:
10.37200/IJPR/V24I2/PR200336
151. UN (2017), The World Economic Situation and Prospects 2018.
152. UNCTAD (2013), Key Statistics and trends in trade policy.
153. UNCTAD &WTO (2008), A Practical Guide to Trade Policy Analysis, A joint
UNCTAD – WTO publication123]
154. Utku Utkulu and Dilek Seymen (2004), Revealed Comparative Advantage and
Competitiveness: Evidence for Turkey vis-à-vis the EU/15, the European Trade
Study Group 6th Annual Conference, ETSG 2004, Nottingham
155. Urriola Nadia Nora (2018), Impact of agricultural export on economic growth of
Peru the case of avocado and grapes”, Russian Journal of Agricultural and Socio –
Economic Sciences, 75(3), pp 231-240
156. Vernon, Raymond (1966). "International Investment and International Trade in the
Product Cycle". Quarterly Journal of Economics. 80 (2): 190 207.
doi:10.2307/1880689. JSTOR 1880689.
157. Vildan Serin, Abdulkadir Civan (2008), Revealed Comparative Advantage and
Competitiveness: A Case Study for Turkey towards the EU, Journal of Economic
and Social Research, (2), pp.25-41.
158. Viner, J. (1950), The Customs Union Issue, New York, Carnegie Endowment for
International Peace.
159. Wei G., Huang J. and Yang J. (2012), “The impacts of food safety standards on
China‟tea export”, China Economic Review 21(2), pp. 253-264
160. WTO (1947), The General Agreement on Tariffs and Trade.
161. WTO (1994), The General Agreement on Tariffs and Trade.
162. WTO (1995), The General Agreement on Trade in Services.
163. WTO (2017), Report on G20 Trade Measures.
164. WTO (2018), Trade statistics and outlook: Strong trade growth in 2018 rests
on policy choices, 820 Press release.
167
165. WTO Secretariat (2017), Recent development in regional trade agreements
166. WTO (2015), website: http://www.wto.org/english/
thewto_e/whatis_e/tif_e/org6_e.htm, truy cập ngày 18/1/2015.
167. World Bank, (2016), World Bank Integrated Trade Solution (WITS), website:
http://wits.worldbank.org/ WITS/, ngày truy cập: 24/4/2015.
168. Yang S. and Zarzoso M. I. (2014), “A panel data Analysis of Trade creation and
trade diversion effects: The case of ASEAN - China free trade area”, China
Economic Review 29, pp. 138-151.
169. Xiangkang Yin, Xiangshuo Yin (2005), Can developing countries benefit from
export promotion? Journal of Economic Studies 32(January):60-80 · February 2005
170. Zhang-Yue Zhou, Yan-Rui Wu and Wei Si (2007), Evolving Patterns of
Agricultural Trade between Australia and China, Australasian Agribusiness Review
- Vol.15 - 2007 Paper 3
171. Zhang, T. and Han, L. (2008), The Impact of Non-t riff B rriers on Chin ’s Textile
and Clothing Exports and Relevant Strategies, Asian Social Science, Vol. 4, No. 1
Trang web
172. ADB (2018), Free Trade Agreements, https://aric.adb.org/fta-country (truy cập
ngày 6/9/2018)
173. Australia Embassy Vietnam (2018), Overview of Australia’s Aid Program to
Vietnam, http://vietnam.embassy.gove.au/hnoi/cooperation.hml (truy cập ngày
7/12/2018).
174. Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam (2016), Việt Nam-New Zealand phấn đấu
đưa kim ngạch thương mại lên 1,7 tỷ USD, http://vov.vn/chinh-tri/viet- namnew-
zealand-phan-dau-dua-kim-ngach-thuong-mai-len-17-ty-usd- 574430.vov (truy cập
ngày 16/12/2017).
175. https://vietnambiz.vn/khu-vuc-mau-dich-tu-do-free-trade-area-la-gi-dac-diem-va-vi-
du-20200509172520513.htm
176. http://rtais.wto.org/UI/PublicAllRTAList.aspx, truy cập ngày 21/6/2016.
177. https://www.trademap.org/
https://www.gso.gov.vn
168
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. PHIẾU KHẢO SÁT
(Dùng cho khảo sát chính thức)
Mã số: ……………
Đối tượng khảo sát: Các cấp lãnh đạo, cán bộ làm việc ở Phòng xuất nhập khẩu
hàng nông – lâm – thuỷ sản, Bộ công thương Việt Nam; Cục xúc tiến thương mại – Bộ
Công thương; Các chuyên gia nghiên cứu về xuất khẩu hàng hoá nông sản; các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zealand.
Kính gửi ông/bà!
Tôi là Hoàng Mộng Long – Nghiên cứu sinh của Học viện Khoa học Xã hội –
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Hiện tại, tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu “Thúc đẩy xuất khẩu nông sản của
Việt Nam sang Australia và New Zealand trong bối cảnh mới” và mong muốn tìm
hiểu thực tiễn vấn đề để phục vụ cho luận án của mình. Kính mong anh/chị dành chút
thời gian để trả lời cho tôi một số câu hỏi dưới đây.
Cũng xin lưu ý rằng những câu trả lời của ông/bà là cơ sở để tôi đánh giá vấn đề
nghiên cứu nên rất mong nhận được câu trả lời chi tiết và trung thực của ông/bà. Mọi
thông tin liên quan sẽ chỉ phục vụ duy nhất cho mục đích nghiên cứu đề tài và sẽ được
bảo mật hoàn toàn.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của các ông/bà!
1
Câu hỏi 1:
Anh chị vui lòng cho biết một số thông tin sau bằng cách lựa chọn và điền những
thông tin chính xác:
1.1. Nơi làm việc: ………………………………………………………………
1.2. Thâm niên công tác:
dưới 3 năm Từ 3 – 5 năm Từ 5 – 10 năm Trên 10 năm
Câu hỏi 2: Khảo sát về nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zeland
Ông/bà vui lòng cho biết mức độ đồng ý với các nhận định dưới đây theo thang điểm
từ 1 đến 5
Cấp độ Trung bình Chi tiết
≥ 4.5 Rất đồng ý 5
4.0 – 4.5 Khá đồng ý 4
3.0 – 4.0 Trung lập, Không có ý kiến 3
2.0 – 3.0 Ít đồng ý 2
< 2.0 Không đồng ý 1
2.1. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của cơ chế, chính sách nhập khẩu hàng
hoá nông sản của Australia và New Zeland tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông
sản của Việt Nam như thế nào?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
lộ trình đầy đủ các cam kết 1.1
1.2
1.3
Australia và New Zeland đang thực hiện theo đúng trong AANZFTA, tạo điều kiện cho hàng hoá nông sản của Việt Nam sang thị trường hai nước Australia và New Zeland đưa ra nhiều quy định nhập khẩu nghiêm ngặt gây khó khăn cho hàng hoá nông sản Việt Nam khi tiếp cận thị trường. Australia và New Zeland có cơ chế bảo hộ cho nền nông nghiệp trong nước làm hạn chế tiếp cận thị trường của Việt Nam
2
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
1.4
1.5
1.6
Cơ chế cấp phép nông sản đông lạnh và chế biến ít ràng buộc hơn nông sản tươi tác động tới cơ cấu xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia và New Zeland Australia và New Zeland có cơ chế chậm chạp trong kiểm dịch thông quan khiến hàng hoá nông sản của Việt Nam gặp khó khăn khi xuất khẩu Australia và New Zeland có cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công bằng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá nông sản
2.2. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của nhu cầu thị trường Australia và New
Zeland tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
Nhu cầu đối với một số sản phẩm hoa quả tươi của Việt Nam ngày càng tăng ở Australia và New Zeland giúp Việt Nam thuận lợi tiếp cận thị trường Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá nông sản Việt Nam trong cộng đồng người Việt ở Australia và New Zeland lớn làm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam. Danh mục hàng hoá nông sản của Việt Nam và Australia, New Zeland có sự bù trừ làm tăng cơ hội xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang hai nước. Nhu cầu về nhập khẩu hàng hoá nông sản của Australia, New Zeland lớn có ảnh hưởng tích cực tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Các hoạt động tích cực giao lưu, gặp gỡ giữa Australia, New Zeland và Việt Nam làm tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam của hai nước
3
2.3. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của cách mạng khoa học công nghệ tới
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
Nội dung STT
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
3.1
3.2
3.3
3.4
Ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại giúp hàng hoá nông sản của Việt Nam có thể vượt qua rào cản kỹ thuật để xuất khẩu sang Australia, New Zeland Chuyển đổi số giúp các doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Australia, New Zeland Thương mại điện tử phát triển làm tăng khả năng tiếp cận thị trường hàng hoá nông sản của Việt Nam tại Australia, New Zeland Công nghệ hiện đại giúp Việt Nam thay đổi cơ cấu hàng hoá nông sản làm tăng cơ hội xuất khẩu sang Australia, New Zeland
2.4. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của các vấn đề toàn cầu tới thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 4 2
4.1
4.2
4.3
4.4
Đại dịch Covid 19 có ảnh hưởng tới nhu cầu và vận chuyển hàng hoá nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Australia, New Zeland Chiến tranh Nga – Ukraina có ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia, New Zeland Suy thoái kinh tế có ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia, New Zeland Biến đổi khí hậu có ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hoá nông sản Việt Nam sang Australia, New Zeland
4
2.5. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của vận chuyển tới thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
TT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
5.1
5.2
5.3
5.4
Khoảng cách xa giữa Việt Nam và Australia, New Zeland gây khó khăn trong vận chuyển hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam Khoảng cách xa giữa Việt Nam và Australia, New Zeland gây khó khăn trong bảo quản hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam Chi phí vận chuyển cao gây khó khăn trong tiếp cận thị trường Australia, New Zeland của hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam Vị trí địa lý thuận lợi cho vận chuyển bằng đường biển giúp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland
2.6. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của chính sách xuất khẩu tới thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
6.1
6.2
6.3
6.4
Chính phủ Việt Nam tích cực thực hiện AANZFTA để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia, New Zeland Chính phủ Việt Nam tích cực đàm phán để đưa từng sản phẩm nông sản tiếp cận thị trường Australia, New Zeland Chính phủ Việt Nam có chủ trương đẩy mạnh xúc tiến thương mại để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia, New Zeland Chính phủ Việt Nam tích cực hỗ trợ, giải quyết các vấn đề của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá nông sản sang Australia, New Zeland
5
2.7. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
xuất khẩu tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
7.1
7.2
7.3
7.4
Chi phí sản xuất nhất là hàng nông sản chế biến cao gây khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland Đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất nông sản còn hạn chế gây khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland Các doanh nghiệp xuất khẩu khó khăn trong việc thu mua hàng hoá nông sản đạt chất lượng làm hạn chế thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland Thiếu kinh nghiệm tiếp cận thị trường và các thông tin xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp xuất khẩu gây khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland
2.8. Ông/bà đánh giá về sự ảnh hưởng của đặc trưng riêng của nông sản tới thúc
đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam như thế nào?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
8.1
8.2
Hàng nông sản có hạn sử dụng ngắn, khó bảo quản gây khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ gây khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland
8.3 Chất lượng hàng hoá nông sản không ổn định và
6
STT Nội dung Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
8.4
không đồng đều gây khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland Chất lượng và số lượng hàng hoá nông sản phụ thuộc vào thời tiết làm giảm tính ổn định cho thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland
2.9. Ông/bà đánh giá như thế nào về hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland?
STT Nội dung
Điểm số đánh giá (1-5) 5 3 1 2 4
9.1
9.2
9.3
Xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland còn hạn chế về số lượng, chưa xứng với tiềm năng Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland còn gặp nhiều khó khăn Hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland còn nhiều hạn chế
Cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
7
PHỤ LỤC 2: THU THẬP DỮ LIỆU SƠ CẤP
2.1. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên lý luận về các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy XKHHNS được trình
Vấn đề toàn cầu
Vận chuyển
KHCN
Chính sách nước XK
NLCT của DNXK
Nhu cầu nhập khẩu
bày ở chương 2, mô hình nghiên cứu được xây dựng như sau:
Thúc đẩy XKHHNS
Đặc thù hàng hoá nông sản
Chính sách nước NK
Hình PL1: Mô hình nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nông sản
Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đặt ra là:
H1: Cơ chế, chính sách khuyến khích nhập khẩu của Australia, New Zeland ảnh
hưởng tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam
H2: Nhu cầu về hàng hoá nông sản của Australia, New Zeland tăng ảnh hưởng
tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam
H3: Các vấn đề toàn cầu tăng ảnh hưởng không tốt tới thúc đẩy XKHHNS của
Việt Nam
H4: Khoa học công nghệ phát triển ảnh hưởng tích cực tới thúc đẩy XKHHNS
của Việt Nam
H5: Đặc điểm vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Australia, New Zeland
ảnh hưởng không tốt tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam
8
H6: Chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản của Việt Nam ảnh hưởng tích
cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam
H7: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam
tăng ảnh hưởng tích cực tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam
H8: Đặc điểm hàng hoá nông sản ảnh hưởng không tốt tới thúc đẩy XKHHNS
của Việt Nam sang Australia, New Zeland.
2.2. Thiết kế bảng hỏi
2.2.1 Mục tiêu lập bảng hỏi
Bảng hỏi được lập nhằm lấy ý kiến xác thực của những người làm việc tại các
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nông
sản của Việt Nam sang Australia, New Zeland. Từ đó có thể thấy được xu hướng ảnh
hưởng, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố để tìm kiếm giải pháp phù hợp nhằm thúc
đẩy XKHHNS của Việt Nam sang Australia, New Zeland trong thời gian tới.
2.2.2 Cơ sở xây dựng câu hỏi
Bảng hỏi được xây dựng dựa trên việc đánh giá các biến số là các chỉ tiêu biểu
hiện các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang
Australia, New Zeland được nêu ra ở khung lý thuyết của chương 2 trong luận án.
2.2.3 Cấu trúc bảng hỏi
Nội dung của bảng hỏi được chia làm 2 phần:
Phần I: Thông tin chung về người được phỏng vấn bao gồm những đặc điểm về
nơi làm việc, thâm niên công tác... Phần này phân loại đối tượng nghiên cứu.
Phần II: Nội dung chính của bảng hỏi tập chung đánh giá về sự ảnh hưởng của
các nhân tố tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang Australia, New Zeland.
Trong nghiên cứu này loại thang đo được lựa chọn sử dụng là thang đo Likert -
thang đo thường được sử dụng để đo mức độ quan điểm. Mỗi điểm trong thang đo sẽ
chỉ ra mức độ đồng thuận của người trả lời với quan điểm được nghiên cứu đưa ra đối
với câu hỏi đánh giá. Quan điểm của người trả lời sẽ biến động từ mức 1 đến mức 5
như sau:
9
Bảng PL2.1. Thang đo mức độ đánh giá của đáp viên về các nhân tố ảnh hưởng
tới thúc đẩy thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang Australia, New Zeland
Cấp độ Trung bình Chi tiết
≥ 4.5 Rất đồng ý 5
4.0 – 4.5 Khá đồng ý 4
3.0 – 4.0 Trung lập, Không có ý kiến 3
2.0 – 3.0 Ít đồng ý 2
< 2.0 Không đồng ý 1
Mỗi thang đo tương ứng với một biến độc lập. Dựa vào kết quả trả lời của các
đáp viên, luận án có thể đánh giá về mức độ biểu hiện của các nhân tố ảnh hưởng (biến
độc lập) đến thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam sang Australia, New Zeland (biến phụ
thuộc). Trong đó, có 8 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc. Tổng số lượng biến quan sát
cho biến độc lập là 33 và có 3 biến quan sát cho biến phụ thuộc.
2.3. Chọn mẫu
2.3.1. Đối tượng khảo sát
Đối tượng khảo sát là các cấp lãnh đạo, cán bộ làm việc ở Phòng xuất nhập
khẩu hàng nông – lâm – thuỷ sản, Bộ công thương Việt Nam; Cục xúc tiến thương
mại – Bộ Công thương; Các chuyên gia nghiên cứu về xuất khẩu hàng hoá nông
sản; các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nông sản của Việt Nam sang Australia
và New Zealand.
2.3.2 Kích cỡ mẫu
Hiện nay, việc xác định kích thước mẫu bao nhiêu là phù hợp vẫn chưa được
xác định rõ ràng. Theo Hair và ctg (1998) (được trích dẫn bởi Nguyễn Đình Thọ,
2012) cho rằng kích thước mẫu tối thiểu phải là 50, và tỷ lệ quan sát phải là 5:1, nghĩa
là mỗi biến đo lường cần có tối thiểu 5 quan sát. Trong khi Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc (2005) thì cho rằng tỷ lệ đó là 4 hay 5. Trong đề tài có tất cả 36
biến quan sát, vì vậy số mẫu tối thiểu cần thiết là 36 * 5 = 180 mẫu. Một cách xác định
kích cỡ của mẫu nghiên cứu khác khi mẫu tổng lớn và không rõ số lượng chính xác là
công thức:
10
Trong đó: n: kích cỡ mẫu; z là giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa
chọn (với độ tin cậy là 95% thì z là 1,96); p là ước tính tỷ lệ % của tổng thể, q = 1-p
(thường tỷ lệ p và q ước tính 50%/50% là khả năng lớn nhất có thể xảy ra của tổng
thể, e là sai số cho phép (5%).
Với công thức ở trên thì mẫu khảo sát sẽ được tính là n= 385. Như vậy, để đảm
bảo độ tin cậy của dữ liệu, tác giả đã lựa chọn thu thập 400 mẫu. Chỉ có 391 mẫu thu
về sau khi làm sạch có thể sử dụng cho nghiên cứu. Phiếu khảo sát bổ sung được lấy
theo nguyên tắc ngẫu nhiên.
Bảng PL2.2: Mô tả mẫu khảo sát
Số lượng khảo sát Đơn vị
Nguồn: Thống kê số bảng hỏi thực hiện khảo sát (2022)
Phiếu phát đi 20 12 368 400 Phiếu thu về 17 10 364 391 Cơ quan quản lý Nhà nước Chuyên gia Doanh nghiệp xuất khẩu Tổng số
2.3.3 Phương pháp chọn mẫu
Mẫu điều tra được chọn theo phương pháp lấy mẫu phi ngẫu nhiên, thuận tiện
kết hợp với phương pháp lấy mẫu chia phần. Tác giả lựa chọn và tiến hành phỏng vấn
theo đối tượng khảo sát đã xác định.
Chọn mẫu phi ngẫu nhiên (hay chọn mẫu phi xác suất) là phương pháp chọn
mẫu mà các đơn vị trong tổng thể chung không có khả năng ngang nhau để được chọn
vào mẫu nghiên cứu. Do hạn chế của việc nghiên cứu là đối tượng nghiên cứu khá
rộng nên việc chọn mẫu phải thực hiện phi ngẫu nhiên đối với người đại diện doanh
nghiệp xuất khẩu và phỏng vấn xác suất đối với những người làm việc ở các cơ quan
quản lý Nhà nước.
Đối với việc nghiên cứu của luận án, tác giả lựa chọn việc chọn mẫu thuận tiện,
có nghĩa là lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi hay dựa trên tính dễ tiếp cận của đối tượng, ở
những nơi mà nhân viên điều tra có nhiều khả năng gặp được đối tượng như tại các cơ
quan, đơn vị ở tỉnh, các huyện, thành phố để xin thực hiện cuộc phỏng vấn. Nếu người
được phỏng vấn không đồng ý thì sẽ chuyển sang đối tượng khác. Lấy mẫu thuận tiện
thường được dùng trong nghiên cứu khám phá, để xác định ý nghĩa thực tiễn của vấn
đề nghiên cứu.
11
PHỤ LỤC 3: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG VỀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI
THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM
SANG AUSTRALIA, NEW ZELAND
3.1. Đánh giá thang đo
Để xây dựng được thang đo chính thức phù hợp, trước hết, cần thực hiện đánh
giá độ tin cậy của các thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Anpha của bảng hỏi. Việc
kiểm định hệ số tin cậy của thang đo đóng một vai trò rất quan trọng tới tính chính xác
và phù hợp của kết quả nghiên cứu. Nó một mặt giúp loại bỏ các biến quan sát không
đủ độ tin cậy, mặt khác giúp nghiên cứu điều chỉnh và phát triển thang đo chính thức.
Thang đo được chấp nhận khi hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha từ 0,5 trở lên và sẽ loại
những biến có hệ số tương quan biến tổng thấp hơn 0,3 làm cho hệ số Cronbach’s
Alpha không đạt yêu cầu.
3.1.1. Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Cơ chế, chính sách của nước
nhập khẩu”
của nước nhập khẩu” có hệ số Cronbach’s Alpha là 0,793 > 0,6 là hệ số được chấp nhận.
Với 6 biến quan sát, theo kiểm định ban đầu, biến độc lập “Cơ chế, chính sách
Nhưng các hệ số tương quan biến tổng lại chưa đáp ứng được mức độ tin cậy. Biến
quan sát là CSNK5 có hệ số tương quan biến tổng lần lượt là 0.213 < 0.3 là chưa đạt
yêu cầu. Điều này cho thấy, biến quan sát tác giả đưa ra chưa đại diện được cho biến
độc lập để có thể phân tích nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy XKHHNS của Việt Nam
sang Australia, New Zeland. Vì vậy, cần phải loại bỏ các biến quan sát này ra khỏi mô
hình nghiên cứu.
Nhìn vào cột “Cronbach's Alpha if Item Deleted”, có thể thấy, việc loại bỏ biến
quan sát CSNK5 sẽ khiến cho hệ số Cronbach’s Anpha của biến “Cơ chế, chính sách
của nước nhập khẩu” tăng lên tới 0.823. Điều này khẳng định việc loại bỏ biến quan
sát này khỏi nghiên cứu là đúng đắn và có thể thực hiện các bước phân tích tiếp theo.
12
Bảng PL3.1: Độ tin cậy cho thang đo “Cơ chế, chính sách của nước nhập
khẩu”
Độ tin cậy thống kê
Cronbach's Alpha
Biến quan sát
,793
6
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
CSNK1 CSNK 2 CSNK 3 CSNK 4 CSNK 5
15,07 15,21 15,05 15,13 14,90
12,468 12,910 12,752 13,122 16,705
,676 ,656 ,601 ,604 ,213
,728 ,734 ,747 ,747 ,823
CSNK 6
14,71
13,835
,513
,769
3.1.2 Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Nhu cầu của thị trường nhập khẩu”
Với 5 biến quan sát, thang đo “Nhu cầu của thị trường nhập khẩu” có hệ số
Cronbach’s Alpha chung là 0,775 > 0,6 nên vẫn được coi là hệ số tốt. Tuy nhiên biến
quan sát NC5 chỉ có hệ số là 0,223 < 0,3 không đảm bảo độ tin cậy nên phải loại bỏ biến
này và chạy lại. Lúc này hệ số Cronbach’s anpha chung lên 0,856 là hoàn toàn phù hợp
để thực hiện các phân tích tiếp theo.
Bảng PL3.2: Độ tin cậy cho thang đo “Nhu cầu của thị trường nhập khẩu”
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
13,42 13,54 13,49 13,58 13,90
9,281 10,009 9,704 10,214 11,536
,692 ,645 ,645 ,647 ,223
,681 ,703 ,700 ,705 ,856
NCTT1 NCTT2 NCTT3 QLNL4 QLNL5 3.1.3 Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Vấn đề toàn cầu”
Quan sát bảng PL2.4, có thể thấy thang đo “Vấn đề toàn cầu” có hệ số
Cronbach’s Alpha là 0,893 là hệ số tốt. Các hệ số tương quan biến tổng đều lớn hơn
0,3 nên đạt yêu cầu để thực hiện phân tích tiếp theo.
13
Bảng PL3.3: Độ tin cậy cho thang đo “Vấn đề toàn cầu”
Độ tin cậy thống kê
Cronbach's Alpha
Biến quan sát
,893
4
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
KHCN1 KHCN 2 KHCN 3 KHCN 4
10,23 10,18 10,92 10,49
,759 ,843 ,721 ,746
,865 ,831 ,879 ,869
7,611 7,042 8,649 8,145
3.1.4. Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Khoa học công nghệ”
Bảng PL3.4: Độ tin cậy cho thang đo “Khoa học công nghệ”
Độ tin cậy thống kê
Cronbach's Alpha
Biến quan sát
.837
4
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
VDTC1 VDTC 2 VDTC 3 VDTC 4
8,80 8,82 8,84 8,98
8,169 8,044 7,618 8,228
,712 ,634 ,685 ,652
,778 ,810 ,788 ,802
Thang đo “Khoa học công nghệ” có hệ số Cronbach’s Alpha là 0,837 > 0.6 là hệ
số có độ tin cậy cao. Các hệ số tương quan biến tổng dù không cao hơn các biến độc
lập ở trên nhưng cũng đều lớn hơn 0,3 nên đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, nếu loại bỏ các
biến quan sát trong thang đo đều chỉ làm cho hệ số Cronbach’s Alpha thấp hơn cũ.
Chính vì vậy, mọi biến số đều được giữ lại để thực hiện phân tích tiếp theo.
3.1.5. Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Vận chuyển nông sản”
Thang đo “Phát triển người khác” có hệ số Cronbach’s Alpha là 0,888 là một hệ
số cao, hệ số này hơn 0,6 nên mức độ tin cậy đủ cho yêu cầu của việc nghiên cứu.
14
Bảng PL3.5: Độ tin cậy cho thang đo “Vận chuyển nông sản”
Độ tin cậy thống kê
Cronbach's Alpha
Biến quan sát
.888
4
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
VCNS 1 VCNS 2 VCNS 3 VCNS 4
9,52 9,38 9,43 9,34
10,691 10,794 12,452 11,550
,759 ,790 ,725 ,759
,857 ,843 ,869 ,855
3.1.6. Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Chính sách nước xuất khẩu”
Với 4 biến quan sát, thang đo “Chính sách nước xuất khẩu” có hệ số Cronbach’s
Alpha là 0.822 là hệ số rất tốt. Các hệ số tương quan biến tổng mặc dù không quá cao
nhưng đều lớn hơn 0,3 nên đạt yêu cầu. Chính vì vậy, mọi biến số đều được giữ lại để
thực hiện phân tích tiếp theo.
Bảng PL3.6: Độ tin cậy cho thang đo “Chính sách nước xuất khẩu”
Độ tin cậy thống kê
Cronbach's Alpha
Biến quan sát
.822
4
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
CSXK1 CSXK 2 CSXK 3 CSXK 4
11.64 11.64 11.68 11.86
15.127 14.804 14.518 13.627
.725 .683 .688 .745
.845 .854 .853 .839
3.1.7 Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp xuất khẩu”
Thang đo “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu” có hệ số
Cronbach’s Alpha là 0.817 là hệ số thể hiện mức tin cậy cao của biến nghiên cứu. Các
hệ số tương quan biến tổng dù không cao như các biến quan sát ở trên nhưng đều lớn
hơn 0,3 nên đạt yêu cầu. Chính vì vậy, cả 4 biến quan dát đều được giữ lại để thực
hiện phân tích tiếp theo.
15
Bảng PL3.7: Độ tin cậy cho thang đo “Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp xuất khẩu”
Độ tin cậy thống kê
Biến quan sát
Cronbach's Alpha
.817
4
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
NLCT1 NLCT 2 NLCT 3 NLCT 4
9,44 9,55 8,99 8,99
7,962 8,113 7,922 8,002
,658 ,576 ,672 ,645
,760 ,799 ,753 ,766
3.1.8 Kiểm tra độ tin cậy cho biến độc lập “Đặc trưng của hàng hoá nông sản
xuất khẩu”
Thang đo “Đặc trưng của hàng hoá nông sản xuất khẩu” có hệ số Cronbach’s
Alpha là 0.893 là một hệ số cao. Các hệ số tương quan biến tổng đều lớn hơn 0,3 nên đạt
yêu cầu. Chính vì vậy, mọi biến số đều được giữ lại để thực hiện phân tích tiếp theo.
Bảng PL3.8: Độ tin cậy cho thang đo “Đặc trưng của hàng hoá nông sản XK”
Độ tin cậy thống kê
Cronbach's Alpha
Biến quan sát
.849
4
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Giá trị trung bình nếu loại bỏ biến quan sát
Giá trị phương sai nếu loại bỏ biến quan sát
Biến quan sát điều chỉnh Tổng giá trị điều chỉnh
Hệ số Cronbach's Alpha nếu loại bỏ biến quan sát
11,05 11,16 11,30 11,20
10,023 10,404 9,447 9,312
,683 ,639 ,688 ,741
,810 ,828 ,808 ,784
DTHH1 DTHH 2 DTHH 3 DTHH 4
3.1.9 Kiểm tra độ tin cậy cho biến phụ thuộc “Thúc đẩy XKHHNS”
Với việc phân tích 3 biến quan sát, thang đo “Thúc đẩy XKHHNS” có hệ số
Cronbach’s Alpha là 0.816 là hệ số tốt với mức độ tin cậy cao. Hệ sô tương quan biến
tổng thấp nhấp là 0.652 > 0.3 là đạt yêu cầu. Nếu loại bỏ biến quan sát này, hệ số
Cronbach’s Alpha hạ từ 0.808 xuống còn 0.784 là không nên. Các hệ số khác cũng có
16
tình trạng tương tự. Chính vì vậy, mọi biến số đều được giữ lại để thực hiện phân tích
tiếp theo.
Bảng PL3.9: Độ tin cậy cho thang đo “Thúc đẩy XKHHNS”
Độ tin cậy thống kê
Biến quan sát
Cronbach's Alpha
.816
3
Tổng thống kê theo từng biến quan sát
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Corrected Item- Total Correlation
Cronbach's Alpha if Item Deleted
6,34 6,33 6,66
4,345 3,609 4,426
,688 ,652 ,690
,732 ,784 ,733
XK1 XK2 XK3
Kết luận lại, sau khi kiểm định thang đo, có thể thấy các thang đo được lựa chọn
tốt, chỉ cần điều chỉnh một chút về số lượng biến quan sát và biến độc lập. Cụ thể, mô
hình nghiên cứu còn lại 33 biến quan sát (loại bỏ 2 biến quan sát là CSNK5 và NCTT5)
và 8 biến độc lập để đạt được mức tin cậy tốt nhất.
3.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA
3.2.1. Phân tích EFA cho các biến độc lập
Hệ số KMO của các biến độc lập trong mô hình thu được là 0,855 > 0,5. Kiểm
định Bartlett có sig = 0.000 < 0,05 là thỏa mãn điều kiện phân tích EFA. Bác bỏ H0,
vậy các biến có tương quan trong tổng thể, 8 nhân tố được chấp nhận để tiến hành
phân tích bước tiếp theo.
Bảng PL3.10. Hệ số KMO của biến độc lập trong mô hình
Hệ số KMO và kiểm định Bartlett's Hệ số KMO về sự phù hợp của mẫu
Kiểm định Bartlett's cho tổng thể
Khoảng Chi- Bình phương Bậc tự do Mức ý nghĩa
0.855 1.018E4 703 0,000
Nguồn: Phân tích kết quả khảo sát
Bảng PL3.11 cho thấy khi tổ hợp thang đo được phân tích thì có 8 nhân tố được
rút ra ứng với 8 biến độc lập. Tổng phương sai trích bằng 69,779% > 50% cho biết 8
nhân tố được rút trích ra đã giải thích được 69,779% sự biến thiên của dữ liệu. Như
vậy, không có sự thay đổi về nhóm giả thuyết nghiên cứu.
17
Bảng PL3.11: Phương sai trích của các biến độc lập trong mô hình
Giải thích phương sai tổng thể
Giá trị riêng ban đầu
Truyền tải bình phương trích của tổng
Truyền tải bình phương xoay của tổng
Biến thành phần
Tổng
Tích lũy % Tổng
Tích lũy % Tổng
Tích lũy %
% của phương sai
% của phương sai
% của phương sai
8,572
25,974
25,974 8,572
25,974
25,974
3,111
1
9,429
9,429
8,987
2,966
8,987
34,962 2,966
2
34,962
3,070
9,303
18,732
8,065
2,661
8,065
43,026 2,661
3
43,026
3,022
9,157
27,888
7,093
2,341
7,093
50,119 2,341
4
50,119
2,975
9,014
36,903
5,941
1,960
5,941
56,060 1,960
5
56,060
2,771
8,396
45,299
5,459
1,801
5,459
61,519 1,801
6
61,519
2,761
8,367
53,666
4,362
1,439
4,362
65,880 1,439
7
65,880
2,710
8,213
61,879
1,287
3,899
8
9
,831
2,517
72,296
10
,801
2,427
74,723
11
,698
2,114
76,837
12
,656
1,987
78,824
13
,550
1,666
80,490
14
,535
1,620
82,110
15
,507
1,537
83,647
16
,471
1,427
85,074
17
,436
1,320
86,395
18
,404
1,225
87,620
19
,400
1,211
88,830
20
,374
1,132
89,963
21
,359
1,088
91,051
22
,332
1,006
92,057
23
,973
,321
93,030
24
,890
,294
93,920
25
,857
,283
94,777
26
,832
,274
95,609
27
,787
,260
96,396
28
,737
,243
97,133
29
,718
,237
97,851
30
,616
,203
98,467
31
,599
,198
99,066
32
,553
,183
99,619
33
,126
,381
100,000
3,899
69,779 1,287
69,779
2,607
7,900
69,779
18
Bảng PL3.12: Kết quả EFA của các biến độc lập trong mô hình
Ma trận xoay của các biến cấu thành
Các biến cấu thành
1
2
3
4
5
6
7
8
VDTC2
,845
VDTC 4 ,838
VDTC 3 ,809
VDTC 1 ,761
NCTT1
,871
,819
,804
,791
,820
,813
,813
,755
,807
,806
,763
,731
,605
,461
,827
,749
,730
,717
,801
,791
,773
,767
,791
,764
,310
,755
,719
,792
NLCT3
,739
NLCT2
,732
NCTT 3 NCTT 2 NCTT 4 CSXK4 CSXK 2 CSXK 1 CSXK 3 CSNK2 CSNK 1 CSNK 4 CSNK 3 CSNK 6 DTHH4 DTHH 3 DTHH 2 DTHH 1 KHCN3 KHCN 4 KHCN 2 KHCN 1 VCNS2 VCNS 3 VCNS 4 VCNS 1 NLCT1
NLCT4
,696
,328
19
Việc giải thích các nhân tố được thực hiện trên cơ sở nhận ra các biến quan sát có
hệ số truyển tải lớn ở cùng một nhân tố. Kết quả phân tích EFA thể hiện trong ma trận
nhân tố sau khi xoay trong bảng PL3.12. Biến quan sát CSNK6 tải nhân tố 2 và 4,
VCNS4 tải 5 và 7, NLCT4 tải 1 và 8. Có thể thấy hiệu số tải của biến quan sát CSNK6
là 0,144 <0,3 nên phải loại bỏ. Sau khi chạy lại EFA, hệ số KMO 0.851>0.5, sig <0.05.
Tổng phương sai trích 70.333% > 50%. Các hệ số tải lên các nhân tố đều > 0.5 (VCNS4
tải lên 2 nhân tố 4 và 6; NLCT4 tải lên 1 và 8 nhưng hiệu số đều > 0,3 được nhóm vào
nhân tố có hệ số tải lớn hơn). Từ đó, mô hình rút trích được 8 nhân tố độc lập.
Bảng PL3.13 Hệ số KMO của biến độc lập trong mô hình chạy lại lần 2
Hệ số KMO và kiểm định Bartlett's
Hệ số KMO về sự phù hợp của mẫu
Kiểm định Bartlett's cho tổng thể
0.851 6,982E3 496 0,000
Khoảng Chi- Bình phương Bậc tự do Mức ý nghĩa
Bảng PL3.14: Phương sai trích của các biến độc lập trong mô hình chạy lại lần 2
Giải thích phương sai tổng thể
Giá trị riêng ban đầu
Giá trị riêng ban đầu
Giá trị riêng ban đầu
Bién thành phần
% của phương sai
% của phương sai
% của phương sai
% của phương sai
% của phương sai
% của phương sai
% của phương sai
% of Variance
Cumulative %
8,424 2,848 2,533 2,231 1,956 1,791 1,437 1,287
26,325 8,899 7,917 6,973 6,111 5,596 4,490 4,021
26,325 35,224 43,142 50,114 56,226 61,822 66,312 70,333
3,110 3,022 2,886 2,771 2,760 2,711 2,645 2,601
9,719 9,445 9,020 8,658 8,626 8,472 8,264 8,129
9,719 19,164 28,184 36,842 45,468 53,940 62,204 70,333
26,325 8,899 7,917 6,973 6,111 5,596 4,490 4,021
8,424 2,848 2,533 2,231 1,956 1,791 1,437 1,287
1 2 3 4 5 6 7 8 9
2,587
,828
10
2,303
,737
11
2,080
,666
12
2,020
,646
13
1,706
,546
14
1,658
,530
15
1,576
,504
16
1,385
,443
17
1,348
,431
18
1,262
,404
26,325 35,224 43,142 50,114 56,226 61,822 66,312 70,333 72,920 75,223 77,303 79,323 81,029 82,686 84,263 85,647 86,995 88,257
20
19
,399
1,248
20
,361
1,129
21
,339
1,058
22
,328
1,026
23
,303
,947
24
,283
,884
25
,277
,866
26
,813
,260
27
,771
,247
28
,741
,237
29
,635
,203
30
,630
,202
31
,602
,193
32
,393
,126
89,505 90,634 91,692 92,718 93,665 94,550 95,415 96,228 96,999 97,740 98,375 99,005 99,607 100,000 Extraction Method: Principal Component Analysis.
Bảng PL3.15. Kết quả EFA của các biến độc lập trong mô hình
Ma trận xoay của các biến cấu thành
Biến cấu thành
1
2
3
4
5
6
7
8
VDTC2
,844
KHCN4
,838
VDTC 3
,810
VDTC 1
,761
CSXK4
,822
CSXK 1
,815
CSXK 2
,814
CSXK 3
,755
NCTT1
,857
NCTT 2
,823
NCTT 3
,814
NCTT 4
,811
DTHH4
,827
DTHH 3
,748
DTHH 2
,731
DTHH 1
,718
KHCN3
,801
KHCN 4
,791
KHCN 2
,772
KHCN 1
,767
21
VCNS2
,791
VCNS 3
,764
VCNS 4
,310
,755
VCNS 1
,721
CSNK2
,837
CSNK L1
,798
CSNK 4
,781
CSNK 3
,728
NLCT1
,795
NLCT 3
,739
NLCT 2
,734
NLCT 4
,329
,695
3.2.2 Phân tích nhân tố EFA cho nhân tố phụ thuộc
New Zealand”, bảng PL3.16 cho thấy hệ số KMO là 0.715 > 0,5 với sig = 0.00 < 0,05
Phân tích nhân tố của biến phụ thuộc là “Thúc đẩy XKHHNS sang Australia và
nên việc phân tích nhân tố được cho là phù hợp.
Bảng PL3.16. Hệ số KMO của biến phụ thuộc trong mô hình
Hệ số KMO và Kiểm định Bartlett's
Hệ số KMO về sự phù hợp của mẫu
,718
Kiểm định Bartlett's cho tổng thể
460.705
df
3
Sig.
.000
Bảng PL3.17: Phương sai trích của biến phụ thuộc trong mô hình
Giải thích phương sai tổng thể
Giá trị riêng ban đầu
Truyền tải bình phương trích của tổng
Biến thành phần
Tổng % của phương sai Tích lũy %
Tổng
% của phương sai
Tích lũy %
1
2,219
73,973
73,973
2
,426
14,202
88,175
3
,355
11,825
100,000
2,219
73,973
73,973
Phương pháp trích: Phân tích hợp phần chủ yếu
Tổng phương sai trích bằng 73.973 % > 50% nên có thể đại diện cho phần biến
thiên bởi nó giải thích được 73,973 % sự biến thiên của dữ liệu. Phép trích Principal
22
Component Analysis với phép quay Varimax được thực hiện và rút trích được 1 nhân
tố phù hợp với việc đặt giả thuyết có 1 biến phụ thuộc trong mô hình.
Bảng PL3.18: Kết quả EFA của biến phụ thuộc trong mô hình
Component Matrixa
Biến thành phần
1
,869 ,868 ,843
XK3 XK1 XK2
Các hệ số trong ma trận xoay nhân tố có giá trị lần lượt là 0,869; 0,868 và 0,843
đều > 0,5 cho thấy nhân tố phụ thuộc này có liên quan đến mô hình và đảm bảo thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện EFA.
Như vậy, sau khi phân tích nhân tố, toàn bộ nhân tố được đưa vào mô hình đều
đảm bảo việc giải thích cho sự biến thiên các dữ liệu của mô hình. Mô hình được giữ
nguyên đầy đủ.
3.3 Kiểm định hệ số tương quan của mô hình
Sau khi thực hiện phân tích nhân tố, có 8 nhân tố độc lập (với 33 biến quan sát) và
1 nhân tố độc lập (với 3 biến quan sát) được đưa vào kiểm định mô hình. Giá trị nhân tố là
trung bình của các biến quan sát thành phần thuộc nhân tố đó. Phân tích tương quan
Pearson được sử dụng để xem xét sự phù hợp khi đưa các thành phần vào mô hình hồi
quy. Kết quả của phân tích hồi quy sẽ sử dụng để kiểm định các giả thuyết.
Kiểm định hệ số tương quan dùng để kiểm tra mối liên hệ tuyến tính giữa các
biến độc lập và biến phụ thuộc. Hệ số tương quan (r) cho biết mức độ chặt chẽ của mối
liên hệ tuyến tính, r càng gần 1 thì mức độ chặt chẽ càng cao và r = 0 chỉ ra rằng các
biến không có mối liên hệ tuyến tính.
Việc kiểm định được thực hiện 2 phía (2 - tailed). Hệ số tương quan giữa các
biến với chính nó là 1, giữa các biến với nhau đều > 0. Theo ma trận tương quan, hệ số
tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc đều có ý nghĩa ở mức 0.01. Các hệ
số tương ứng là:
- Biến “Cơ chế, chính sách nước nhập khẩu” và biến phụ thuộc có hệ số tương
quan là 0.368. Đây là mức tương quan trung bình.
23
- Biến “Nhu cầu thị trường nhập khẩu” và biến phụ thuộc có hệ số tương quan
là 0.270. Đây là nhân tố có mức tương quan với biến phụ thuộc thấp.
- Biến “Vấn đề toàn cầu” và biến phụ thuộc có hệ số tương quan là 0.444.
- Biến “KHCN” có mức tương quan mạnh nhất với biến phụ thuộc là 0,541.
- Biến “Vận chuyển hàng nông sản” và biến phụ thuộc có mức tương quan là 0.417.
- Biến “Chính sách nước xuất khẩu” và biến phụ thuộc có mức tương quan là
0.475. Đây là mức độ tương quan khá cao.
- Biến “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu” có mức tương quan
với biến phụ thuộc mạnh thứ hai là 0.513.
- Biến “Đặc trưng hàng hoá nông sản” và biến phụ thuộc có mức tương quan là 0.465.
XK
CSNK NCTT
VDTC KHCN VCNS CSXK NLCT DTHH
XK
quan
,368**
,270**
,444**
,541**
,417**
,475**
,513**
,465**
1
Tương Pearson
,000
,000
,000
,000
,000
,000
,000
,000
400
400
400
400
400
400
400
400
400
Mức ý nghĩa. (2- phía) N
CSNK Tương
quan
,368**
1
,073
,191**
,195**
,184**
,257**
,256**
,245**
,145
,000
,000
,000
,000
,000
,000
,000
400
400
400
400
400
400
400
400
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
NCTT Tương
quan
,270**
,073
,135**
,134**
,123*
,098
,081
,223**
1
,145
,007
,007
,014
,051
,105
,000
,000
400
400
400
400
400
400
400
400
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
VDTC Tương
quan
,444**
,191**
,135**
1
,309**
,430**
,354**
,392**
,391**
,000
,007
,000
,000
,000
,000
,000
,000
400
400
400
400
400
400
400
400
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
KHCN Tương
quan
,541**
,195**
,134**
,309**
1
,261**
,399**
,311**
,277**
,000
,007
,000
,000
,000
,000
,000
,000
400
400
400
400
400
400
400
400
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
VCNS Tương
quan
,417**
,184**
,123*
,430**
,261**
1
,225**
,301**
,475**
,000
,014
,000
,000
,000
,000
,000
,000
400
400
400
400
400
400
400
400
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
CSXK Tương
quan
,475**
,257**
,098
,354**
,399**
,225**
1
,476**
,399**
,000
,000
,051
,000
,000
,000
,000
,000
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía)
Bảng PL3.19 Ma trận tương quan giữa các biến của mô hình
24
XK
CSNK NCTT
VDTC KHCN VCNS CSXK NLCT DTHH
N
400
400
400
400
400
400
400
400
400
NLCT Tương
quan
,513**
,256**
,081
,392**
,311**
,301**
,476**
1
,413**
,000
,000
,105
,000
,000
,000
,000
,000
Pearson Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
400
400
400
400
400
400
400
400
DTHH Tương
quan
,465**
,245**
,223**
,391**
,277**
,475**
,399**
,413**
1
Pearson
,000
,000
,000
,000
,000
,000
,000
,000
Mức ý nghĩa. (2- phía) N
400
400
400
400
400
400
400
400
400
**. Tương quan ở mức ý nghĩa 0.01 (2 phía).
*. Tương quan ở mức ý nghĩa 0.05 (2 phía).
Ngoài ra, bảng ma trận cũng chỉ ra các biến độc lập cũng có những tương quan
nhất định tới nhau. Điều đó có nghĩa là khi thực hiện biến độc lập này có thể ảnh
hưởng đến biến độc lập khác, từ đó cũng làm thay đổi khả năng thúc đẩy XKHHNS.
Bảng ma PL3.19 thấy các giả thuyết không bị bác bỏ và có thể đưa vào mô hình
để giải thích cho biến phụ thuộc. Ở đây mức độ tương quan chỉ thể hiện sự tồn tại của
các mối quan hệ và khẳng định hay bác bỏ giả thuyết chứ chưa hoàn toàn chỉ rõ mức
độ ảnh hưởng của các biến độc lập tới biến phụ thuộc.
3.4. Phân tích hồi quy tuyến tính
3.4.1 Phân tích hồi quy
Phân tích hồi quy được thực hiện với 8 biến độc lập bao gồm: cơ chế, chính
sách nước nhập khẩu (CSNK), Nhu cầu thị trường nhập khẩu (NCTT), Vấn đề toàn
cầu (VDTC), Khoa học công nghệ (KHCN), Vận chuyển nông sản (VCNS), Chính
sách nước xuất khẩu (CSXK), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
(NLCT) và Đặc trưng hàng nông sản (DTHH). Biến phụ thuộc là thúc đẩy xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Australia và New Zealand (XK).
Giá trị của các biến độc lập được tính trung bình dựa trên các biến quan sát
thành phần của các biến độc lập đó. Giá trị của biến phụ thuộc là giá trị trung bình của
các biến quan sát về thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường
Australia và New Zealand. Phân tích được thực hiện bằng phương pháp Enter. Các
biến được đưa vào cùng một lúc để đánh giá sự phù hợp. Kết quả phân tích hồi quy
như sau:
25
Bảng PL3.20. Đánh giá sự phù hợp của mô hình
Nhập/xóa biến
Model
Biến được nhập
Biến bị xóa
Phương pháp
1
. Enter
CSNK, NCTT, KHCN, VDTC, VCNS, CSXK, NLCT, DTHH
a. Tất cả các biến độc lập được nhập. b. Biến phụ thuộc: XK
Mẫu tổng thể
Model
R
R Bình phương R bình phương điều chỉnh Ước lượng độ lệch chuẩn
1
,741a
,549
,540
,65951
a. Dự đoán: (Biến độc lập), CSNK, NCTT, KHCN, VDTC, VCNS, CSXK, NLCT, DTHH
b. Biến phụ thuộc: XK
Kết quả tại bảng PL3.20 cho thấy mô hình hồi quy đưa ra tương đối phù hợp với mức ý nghĩa 0.05. Hệ số R2 điều chỉnh = 0,540 nghĩa là có khoảng 54% phương
sai năng lực lãnh đạo được giải thích bởi 8 biến độc lập. Đây không phải là con số quá cao nhưng vẫn đủ đáp ứng yêu cầu đánh giá sự phù hợp của mô hình là hệ số R2 điều
chỉnh phải lớn hơn 50%.
Bảng PL3.21: Kết quả hồi quy mô hình
Hệ số
Hệ số chưa chuẩn hóa
Hệ số chuẩn hóa
Thống kê cộng tuyến
t
Ý nghĩa
Mẫu
B
Lệch chuẩn
Beta
Chấp nhận
VIF
1
(Constant)
-,900 ,212
-4,240 ,000
,177 ,164 ,102 ,315 ,156 ,094 ,219 ,084
,041 ,040 ,043 ,041 ,051 ,037 ,044 ,041
,157 ,143 ,096 ,298 ,124 ,106 ,207 ,088
4,361 4,087 2,357 7,761 3,028 2,531 4,975 2,042
,000 ,000 ,019 ,000 ,003 ,012 ,000 ,042
,890 ,941 ,695 ,782 ,693 ,654 ,669 ,625
1,124 1,062 1,440 1,279 1,444 1,530 1,495 1,600
CSNK NCTT VDTC KHCN VCNS CSXK NLCT DTHH
26