VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ TÂM

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ TÂM

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS

Mã số: 9.22.90.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. HỒ SĨ QUÝ

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử

dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa công bố ở bất

kỳ công trình khoa học nào.

Tác giả

Lê Thị Tâm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................... 5

1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc ...................... 5 1.2. Những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Nam Bộ và Sóc Trăng ................................................................................................... 19 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những

vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ................................................. 29

Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY35

2.1. Về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc ................................................................. 35 2.2. Về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ................................................... 46 2.3. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc ở Nam Bộ ................... 56 Chương 3. BẢN SẮC VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC

TRĂNG THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................. 77

3.1. Nhận diện bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng .................. 77 3.2. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng ............................................................................................................................ 100 3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay .............................................................................................. 116 Chương 4. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIỮ GÌN

PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN

NAY ................................................................................................................... 124

4.1. Quan điểm cơ bản nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay ............................................................................................................. 124 4.2. Giải pháp về kinh tế - xã hội nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay .............................................................................................. 127 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 151

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ tiếng Việt

BSVH Bản sắc văn hóa 1

BVHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2

CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá 3

4 DTTS Dân tộc thiểu số

5 GDTX Giáo dục thường xuyên

6 LHQ Liên Hợp Quốc

7 MTTQ Mặt trận tổ quốc

8 UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

9 UBND Ủy ban nhân dân

10 VHPVT Văn hóa phi vật thể

11 XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bản sắc văn hóa dân tộc là sự tập hợp của những nét đặc thù, độc đáo của mỗi dân

tộc; tính chất thiêng liêng, cao quý của bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện ở đó. Bản sắc văn

hóa nào cũng được được hình thành trong những giai đoạn nhất định của lịch sử dân tộc, và

do vậy thường được các thế hệ đi trước lưu truyền cho các thế hệ tiếp theo. Với Việt Nam,

qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa to lớn và quan

trọng, trong đó, bản sắc văn hóa dân tộc được khơi dậy, giữ gìn và đang ngày càng phát huy

giá trị to lớn của nó đối với sự phát triển đất nước.

Thực tế nhiều quốc gia cho thấy, để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, nhân

tố thúc đẩy hoàn toàn không chỉ dựa vào yếu tố kinh tế mà cần có sự kết hợp tác động biện

chứng, hài hòa của nhiều yếu tố, trong đó văn hóa là một trong những thành phần quan

trọng thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia. Muốn phát triển bền vững, cần gắn kết chặt

chẽ, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Phát triển bền vững văn

hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[33, tr.299].

Từ góc độ triết học có thể thấy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là giữ gìn

những thế mạnh, những nét độc đáo, đặc sắc… của văn hóa, nhưng không chỉ có thế, giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc còn là giữ gìn những giá trị cốt lõi làm nên sức sống của một

dân tộc - điều tạo nên lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa dân

tộc với 54 dân tộc anh em. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng

của 54 nền văn hóa dân tộc. Với tính cách là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà

con người đã sáng tạo ra trong lịch sử lâu dài, sự khác biệt về dân cư, địa hình, khí hậu,

phương thức sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo… tạo nên những nét văn hóa

riêng biệt của mỗi địa phương.

Sóc Trăng là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có dân số và diện tích đứng

thứ 6 ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây, cộng đồng các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer đã

lựa chọn để khai hoang, lập ấp, cư trú, tồn tại và phát triển tạo ra nhiều nét độc đáo và riêng

biệt, làm giàu cho lịch sử vùng đất này.

1

Ngày nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, do không được chú ý giữ gìn đúng mức,

hoặc do không đứng vững trước sự tấn công ồ ạt của các hiện tượng văn hóa mới, nhiều nét

văn hóa của các dân tộc nơi đây đang có nguy cơ bị mai một. Làm thế nào để giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc một cách có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng

cao của sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, lành mạnh xã hội…đó là vấn đề đang được

đặt ra một cách cấp thiết ở Sóc Trăng hiện nay. Những vấn đề nêu trên, trên thực tế đã và

đang được các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân các dân tộc

quan tâm, có kế sách giải quyết. Tuy vậy, những gì làm được thực ra vẫn là quá nhỏ bé so

với đòi hỏi gay gắt, khách quan và chính đáng từ thực tế. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc trên phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng, do vậy, vẫn

đang là một vấn đề hết sức cấp thiết.

Về phương diện nghiên cứu, đối mặt với tình hình nói trên, trong những năm qua, một

số công trình lý luận về bản sắc văn hóa các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng với những vấn đề có

liên quan như đánh giá các giá trị vật chất và tinh thần, các giá trị cốt lõi và bản sắc… của

văn hóa tỉnh Sóc Trăng đã được nghiên cứu và một số đã được công bố. Tuy vậy, chưa có

một công trình khoa học nào đi sâu, nghiên cứu một cách chi tiết về bản sắc văn hóa dân tộc

ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay, nhất là từ góc độ triết học.

Xuất phát từ thực tế nêu trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay” làm luận án tiến sĩ.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

Xác định những yếu tố cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng. Nghiên cứu thực trạng và trên cơ sở đó, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm

giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong quá trình phát triển.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Tổng quan những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về văn hóa và bản sắc văn hóa,

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa về những nét đặc thù và bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng truyền thống và hiện nay.

- Hệ thống hóa, làm rõ những nội dung lý luận để xây dựng khung lý thuyết cho

nghiên cứu thực tiễn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc trăng.

2

- Nghiên cứu, xác định giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng.

- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở

tỉnh Sóc Trăng và phát hiện những vấn đề cấp bách của việc giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong quá trình phát triển hiện nay.

- Đề xuất quan điểm các giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng trong quá trình phát triển.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu của luận án là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở

tỉnh Sóc Trăng hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Thời gian: văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tỉnh Sóc Trăng được

luận án nghiên cứu chủ yếu từ khi đổi mới (cuối những năm 80) đến nay.

- Không gian nghiên cứu: các địa phương tại tỉnh Sóc Trăng.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận

- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử.

- Luận án được thực hiện trên cơ sở các chỉ dẫn lý luận và phương pháp luận về văn

hóa và con người của C.Mác - Ph.Ăngghen; tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường

lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với các Văn kiện, Nghị quyết có liên quan

trực tiếp đến văn hóa và phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

- Luận án cũng sử dụng các Báo cáo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng,

các công trình nghiên cứu ngoài triết học của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có

liên quan đến đề tài.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Phù hợp với phương pháp luận biện chứng duy vật, luận án sử dụng các phương pháp

logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp… để trình bày và phân tích, luận giải triết học về văn

hóa, bản sắc văn hóa dân tộc.

3

Bên cạnh việc nghiên cứu định tính, phân tích và khái quát lý luận, luận án cũng chú ý

sử dụng các tài liệu văn hóa học, các dữ liệu và số liệu nghiên cứu của các báo cáo chuyên

môn của các ban, ngành, đoàn thể các cấp ở Trung ương và tỉnh Sóc Trăng, các nghiên cứu

định lượng về văn hóa Sóc Trăng.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

Thứ nhất, luận án phân tích và đánh giá được thực trạng văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng trong thời gian qua.

Thứ hai, xác định được bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở

làm rõ đặc thù của văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Phát hiện được những vấn đề của việc

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng.

Thứ ba, luận án đề xuất được một số quan điểm và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Về ý nghĩa lý luận, luận án hệ thống hóa và phân tích chi tiết những nội dung và những

vấn đề của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.

Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp thêm nguồn tư liệu cho các cấp chính quyền tỉnh

Sóc Trăng những tư liệu và căn cứ khoa học để quản lý và hoạch định chính sách về văn hóa

và phát triển.

Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên

cứu, giảng dạy về vấn đề triết học, văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Luận án có 4 chương và 11 tiết:

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay

Chương 3: Bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng: Thực trạng và những

vấn đề đặt ra

Chương 4: Những quan điểm và giải pháp nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.

4

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc

Trong những thập kỷ gần đây, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, hội

nhập quốc tế, đề tài văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc đã thu hút sự quan

tâm, nghiên cứu của nhiều chuyên gia, học giả, các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức

quốc tế, và nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về đề tài này

và đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó có các công trình sau:

Việt Nam văn hóa sử cương do Quan Hải tùng thư ấn hành năm 1938, của Đào Duy

Anh là một trong những nghiên cứu sớm nhất về văn hóa Việt Nam. Trong tác phẩm, Đào

Duy Anh đã nghiên cứu và trình bày hệ thống cả hai mảng văn hóa vật chất và văn hóa tinh

thần của người Việt từ thời cổ đến hiện đại. Ngay cả cách minh định “Văn hóa tức là sinh

hoạt” ở cuốn sách này cũng cho thấy học giả Đào Duy Anh nhìn văn hóa ở thể động, không

bó buộc, không khô cứng.

Tác giả Trần Ngọc Thêm, trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (Nhà xuất bản

Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996), với cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc nhằm xác định

những đặc trưng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Không lấy văn hóa nước ngoài làm tiêu

chuẩn cho bảng giá trị của bản sắc văn hóa Việt Nam. Cuốn sách được xem xét theo các

thành tố, nhưng trong mỗi thành tố, mỗi bộ phận của thành tố lại chú trọng đến tính lịch đại

của nó. Trong tác phẩm, tác giả đã định nghĩa: “…Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá

trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,

trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”[119, tr.27].

Ở những phần sau tác giả có cái nhìn khá hệ thống, đi từ nhận thức về văn hóa (bản chất vũ

trụ, triết lý âm dương…triết lý về thời gian của vũ trụ, về nhận thức của con người), đến

phân tích văn hóa tổ chức cộng đồng trên cơ sở văn hóa tập thể (tổ chức nông thôn, quốc

gia, đô thị) và văn hóa cá nhân (tín ngưỡng, phong tục, văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn

từ), trong các phạm trù cổ truyền - hiện đại, thì hiển nhiên cái hiện đại là quan trọng.

Nhưng cái cổ truyền cũng quan trọng không kém, bởi không hiểu rõ quá khứ thì sẽ không

có cách ứng xử đúng với tương lai. Trong cuốn sách, các tác giả đã nêu và phân tích các

5

khái niệm văn hiến, văn minh về hình thái và mô hình văn hóa theo cách nhìn truyền thống

và hiện đại, những thành tố cơ bản của văn hóa, các chức năng và cấu trúc của văn hóa.v.v..

Công trình Các câu hỏi về bản sắc văn hóa của Stuart Hall và Paul Du Gay, (Nxb

SAGE, Anh năm 1996). Các tác giả phân tích, lý giải vấn đề bản sắc văn hóa của các dân

tộc, chủng tộc, giai cấp trong xã hội hiện đại đang bị suy giảm; các hình thức để nhận dạng

và phân biệt giữa hiện đại và bản sắc văn hóa của các dân tộc, chủng tộc, giai cấp trong thời

đại hiện nay.

Tác giả Jonathan Friedman trong tác phẩm Bản sắc văn hoá và quá trình toàn cầu,

(Khoa Nhân học xuất bản tại Đại học Teessude, năm 1994). Trong tác phẩm, tác giả đã

phân tích mối quan hệ giữa các quá trình toàn cầu và bản sắc của nền văn hóa; phân tích

mối quan hệ giữa toàn cầu và văn hóa các địa phương.

Tác giả Thomas L.Friedman trong tác phẩm Dân tộc và ranh giới. (Nhà xuất bản Trẻ

2014). Trong tác phẩm, vấn đề dân tộc tộc người được Thomas L.Friedman xem như là đơn

vị mang văn hóa. Thomas L.Friedman tập trung vào khía cạnh mang văn hóa, việc phân

loại người và nhóm địa phương là thành viên của một nhóm dân tộc phải phụ thuộc vào

việc họ thể hiện những đặc điểm cụ thể nào của văn hóa? nghĩa là phải có bản sắc riêng biệt.

Ngoài ra, Thomas L.Friedman còn nghiên cứu về Văn hóa tiếp xúc và thay đổi về dân tộc

và tiến hóa văn hóa.

Công trình “Chính sách ngôn ngữ, văn hóa và bản sắc trong bối cảnh Châu Á” của

Amy B. M. Tsui và James W. Tollefson (Xuất bản tại Routledge, Hoa Kỳ, 2007). Các tác

giả đã phân tích vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa của các dân tộc trong bối cảnh thay đổi

chính trị - xã hội ở Châu Á.

Tác giả Peter Wallace Preston trong tác phẩm Chính trị, bản sắc văn hoá: Công dân

và quốc gia trong một kỷ nguyên toàn cầu, (Nhà xuất bản Biddles, Anh năm 1997). Thông

qua tác phẩm, tác giả đã phân tích tổng quan về bản sắc văn hóa trong bối cảnh thay đổi về

chính trị trong kỷ nguyên toàn cầu; chỉ ra sự đa dạng của văn hóa trong một môi trường

toàn cầu đang thay đổi.

Khi chúng ta hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường, vấn đề bản sắc văn hóa

dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được đề cập trong các văn kiện, nghị quyết

của Đảng, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa

6

học, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và khoa học trên cả nước. Cho đến nay, nhiều

công trình khoa học nghiên cứu về đề tài này đã được công bố. Có thể khái quát các công

trình tiêu biểu trong số đó theo các chủ đề chính như sau:

Lý luận chung về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam:

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát

triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[24,

tr.54-55]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được

thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991), đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản

sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát

triển năm 2011). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây

dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Văn kiện Đại hội XI đã xác định: “Xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa

dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt

chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức

mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[32, tr.46-47]. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI

(tháng 5-2014), đã nhất trí ban hành nghị quyết mới về: “Xây dựng và phát triển văn hóa,

con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Tại Đại hội XII của

Đảng, khi nói về phát triển văn hóa và con người Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước

Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh việc xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tạo điều

kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ,

năng lực, kỹ năng sáng tạo; khoẻ về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công

dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật.

Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài viết Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống

bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc. (Tạp chí Triết học, số 4, năm 1998), đã chỉ ra

giá trị truyền thống là cốt lõi, là sức sống bên trong của một dân tộc cho dù có bị xâm lấn

7

bởi văn hóa ngoại lai thì văn hóa dân tộc vẫn được gìn giữ và trường tồn cùng dân tộc. Bài

viết đã kiến giải sâu sắc về giá trị văn hóa truyền thống, về bản sắc văn hóa và sức sống

mãnh liệt, trường tồn của văn hóa trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập.

Tác giả Liêu Trần Tiêu trong bài viết Giữ gìn và phát huy bản lĩnh, bản sắc dân tộc

của văn hóa. (Tạp chí Di sản Văn hóa số 01, năm 2002), đã đưa ra các khái niệm đồng

nghĩa về bản sắc văn hóa của dân tộc như: “Bản sắc dân tộc”, “Bản lĩnh dân tộc”, “Màu

sắc dân tộc”, “ Sắc thái dân tộc”,“ Bản sắc dân tộc của văn hóa”, “Bản sắc văn hóa của

dân tộc”... Bản sắc dân tộc gắn với văn hoá và thường được biểu hiện thông qua văn hóa,

nên cũng có thể coi là bản sắc dân tộc của văn hóa. Từ đó, tác giả đư ra khái niệm về bản

sắc văn hóa của dân tộc, cũng như những biểu hiện của bản sắc văn hóa của dân tộc như ý

thức về cội nguồn, sự gắn kết cộng đồng, lòng khoan dung, khả năng thích ứng, sự khiêm

nhường, giản dị.v.v..Trong bài viết, tác giả cũng dẫn chứng về lòng yêu nước của nhân dân

ta thông qua các áng văn bất hủ như Nam quốc sơn hà nam đế cư, Hịch tướng sĩ...hay thông

qua các tác phẩm của đồng chí Phạm Văn Đồng. Sự gắn kết Nhà - Làng - Nước là một cấu

trúc cần được phát huy vì đây là nguồn cội của tư tưởng cộng đồng, yêu thương, đùm bọc,

hòa hợp với nhau “nước mất, nhà tan”. Lòng nhân ái, khoan dung trọng nghĩa tình là nền

tảng của giá trị văn hóa Việt Nam, được thể hiện ở quan niệm về vai trò của con người như:

“Ở hiền gặp lành”; “Con dại cái mang”; “Phúc đức tại mẫu”... Bản sắc dân tộc còn là tư

tưởng sống nhân nghĩa, thủy chung: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

là đạo lý của người Việt Nam. Ngoài ra, bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình

thức biểu hiện độc đáo ở cách ứng xử, phong cách sinh hoạt, ăn uống, trang phục, trong

nghệ thuật kiến trúc, ca dao, dân ca.v.v..Tất cả những nét độc đáo đó tuy không kỳ vĩ, lớn

lao nhưng đều chứa đựng trí tuệ sâu sắc, tinh thần tự cường với bản lĩnh và bản sắc riêng

của dân tộc mình.

Tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong bài viết Bản sắc dân tộc và sự giao lưu hội nhập văn hóa.

(Tạp chí Cộng sản số 23, tháng 8-2002), đã phân tích bản sắc dân tộc ở nhiều góc độ khác

nhau từ phạm trù rộng, bao quát tới kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước

của một cộng đồng người. Bản sắc dân tộc còn được chú ý đến thông qua hai bình diện đời

sống tinh thần và bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc thường trùng khít với bản sắc văn hóa

dân tộc. Bởi vì, văn hóa có nội hàm rộng bao trùm các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở đâu

8

có con người là ở đó có văn hóa. Tác giả cũng khẳng định bản sắc ở cấp độ dân tộc và sắc

thái địa phương không thể là phạm trù bất biến mà là một phạm trù động, mở. Bản sắc dân

tộc lần theo dấu chân lịch sử là quá trình đối kháng và đồng hóa, tuy nhiên bên cạnh sự

đồng hóa chúng ta cũng có những yếu tố văn hóa của riêng mình thể hiện sự tự tôn, tự

cường của dân tộc. Trong bài viết tác giả nhận định các dòng chảy văn hóa như những đợt

sóng ùa vào thị trường văn hóa dân tộc là không thể cưỡng lại được! Vậy, chúng ta phải làm

thế nào để văn hóa vừa đậm đà bản sắc vừa cởi mở, giao lưu? Tác giả đã nêu lên các luận

điểm như: văn hóa Việt Nam phải gắn với chủ nghĩa Mác - Lênin; văn hóa tiên tiến là yêu

nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…Bài

viết là cơ sở khoa học để nghiên cứu sinh tiếp tục phát triển trong luận án “Giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”.

Tác giả Mai Hải Oanh trong bài viết Toàn cầu hóa kinh tế và xây dựng nền văn hóa

dân tộc. (Tạp chí Cộng sản số 690 tháng 9-2003), luận chứng: toàn cầu hóa là xu thế của thế

giới đương đại, lấy các quốc gia phát triển, các công ty xuyên quốc gia làm động lực chủ

yếu. Xu thế toàn cầu hóa như làn sóng bao trùm toàn thế giới và ảnh hưởng tới nhiều lĩnh

vực trong đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Toàn cầu hóa góp phần tạo ra sự đa dạng

của văn hóa nhân loại. Nó phản ánh sự đa dạng, đa sắc màu độc đáo của văn hóa, sự gặp gỡ

này sẽ tạo ra sự đa sắc màu của văn minh nhân loại. Nhưng mặt khác, theo tác giả, do áp lực

từ nhiều phía một số quốc gia chỉ chú ý đến vấn đề đổi mới mà có phần xem nhẹ những di

sản văn hóa truyền thống đặc biệt ở các nước xã hội chủ nghĩa, nó thông qua con đường

“diễn biến hòa bình”; “tự diễn biến về văn hóa”… sự thẩm thấu này có thể công phá mạnh

mẽ về lối sống, nhân cách rồi đến tư tưởng, chính trị. Về khía cạnh văn hóa, tác giả cho

rằng: “diễn biến hòa bình” thẩm thấu vào các giá trị xã hội, vào lối sống khiến con người

chạy theo lợi ích vật chất, khô cạn tình người, quay lưng lại với giá trị truyền thống mà quên

đi tấm “căn cước văn hóa dân tộc”. Tác giả cũng nhấn mạnh, văn hóa chịu sự chế ước của

kinh tế và chính trị. Do đó, gương mặt xã hội là sự nhất thể hóa của kinh tế - văn hóa - chính

trị. Do vậy, ở Việt Nam xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc, giữ vững độc lập dân tộc

không có nghĩa là lệ thuộc vào các dân tộc khác, cũng không có nghĩa là chúng ta“bế quan

tỏa cảng về văn hóa”. Bên cạnh quá trình kế thừa còn có vấn đề tích lũy, giữ gìn, tiếp nhận

các hệ giá trị văn hóa từ bên ngoài.

9

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm trong bài viết Đề cương văn hóa Việt Nam với sự nghiệp

xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Tạp chí Cộng sản số

690 tháng 9-2003), nhận định: Đảng ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác văn

hóa, văn nghệ. Bởi lẽ trong thời điểm đó, nhân dân ta đang sống trong ngột ngạt dưới sự cai

trị và bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp, một bộ phận trí thức lại hoang mang giao

động. Bản Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời, đã nói lên tầm vóc chính trị tư tưởng sâu sắc

của một chính đảng của giai cấp công nhân. Lần đầu tiên, Đảng ta công bố quan niệm của

mình về văn hóa theo quan điểm Mác - xít và đã có sức lan tỏa mạnh mẽ. Hơn 70 qua,

đường lối và quan điểm không ngừng được bổ sung và hoàn thiện, với sự ra đời của Nghị

quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã đi vào đời sống, tạo ra sự chuyển biến nhận thức

về vai trò của văn hóa. Nhận xét về những đóng góp của Đề cương văn hóa Việt Nam tác

giả khẳng định: cho tới nay những đóng góp của Đề cương văn hóa Việt Nam vẫn còn

nguyên giá trị, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn, vững vàng để triển khai nhiệm vụ văn

hóa trước thời cơ và thách thức hiện nay.

Tác giả Trần Quốc Vượng trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam đã đề cập đến các khái

niệm cơ bản về văn hóa, cấu trúc và diễn trình lịch sử, không gian của văn hóa Việt Nam.

Tác giả nêu lên:

Sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam cũng khẳng định sự tồn tại của tính

cách dân tộc Việt Nam và tâm lí dân tộc; giá trị tinh thần tính cách dân tộc Việt

Nam mà điển hình là tinh thần yêu nước kiên cường gắn bó với quê hương xứ

sở, cụ thể là với làng, nước, với nhà, làm tế bào chung; ý thức sâu sắc về bản

ngã, tinh thần cố kết cộng đồng; cần cù, chịu thương, chịu khó, giỏi chịu đựng

gian khổ, tình nghĩa; ứng xử linh hoạt mềm dẻo, dễ thích nghi, hội nhập…[139,

tr.15].

Tác giả Phan Ngọc trong cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam phân tích khái niệm văn

hóa và bản sắc văn hóa; cách tiếp cận một nền văn hóa cụ thể là văn hóa Việt Nam; bản sắc

văn hóa Việt Nam là gì? văn hóa Việt Nam khác văn hóa Trung Hoa, văn hóa Pháp, văn

hóa Mỹ...ở những điểm nào? Phan Ngọc định nghĩa:

10

Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một

tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này

mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất

chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện

thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa

chọn của các cá nhân hay tộc người khác[103, tr.20].

Trong cuốn sách tác giả đã phân tích, đưa ra quan điểm để bảo vệ văn hóa Việt Nam

trong quá trình giao lưu, hội nhập như: cách phát huy văn hóa trong cuộc tiếp xúc văn hóa

hiện nay, ưu thế của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn kinh tế thị trường... những phân tích

trên vô cùng quý giá, tạo cơ sở bảo vệ văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu hội nhập

và, như lời tác giả: “Hy vọng những cố gắng tìm hiểu chính mình khá nghiêm túc suốt một

đời sẽ giúp các bạn hiểu được chính các bạn”.

Tác giả Nguyễn Đình Tường trong bài viết Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền

thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa (Tạp chí Triết học, số 5 , tháng 5 -

2006), có những luận giải: trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hoá đã trở thành xu thế khách

quan, có tác động mạnh mẽ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà còn ở các lĩnh vực chính

trị, xã hội và văn hoá. Do vậy, văn hoá Việt Nam có cơ hội để hội nhập và giao lưu với các

nền văn hoá khác của thế giới, để làm giàu và khẳng định bản sắc của mình. Song, hơn lúc

nào hết, đây cũng là giai đoạn mà các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phải đối diện

với những tác động tiêu cực rất lớn. Vì vậy, đối với Việt Nam, việc nhận thức rõ hội nhập

quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống dân tộc.

Thông qua bài viết, tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm góp phần xây dựng

chiến lược giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống ở nước ta hiện nay như: tăng cường

giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng của dân tộc cho các thế hệ trẻ; giữ

gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với tăng cường giáo dục pháp

luật; xác lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế...

Ở một khía cạnh khác, tác giả Phạm Duy Đức trong cuốn Phát triển văn hóa Việt

Nam giai đoạn 2011-2020 - Những vấn đề phương pháp luận (Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 2010), đây là một trong những kết quả nghiên cứu bước đầu của đề tài khoa

11

học cấp nhà nước về Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Cuốn sách có độ

dày hơn 300 trang, nghiên cứu những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc, những quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong

những năm 2006 - 2010. Từ việc nghiên cứu những vấn đề này, các tác giả nêu lên tầm

quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là

một yêu cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội

nhập quốc tế. Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc và bản

lĩnh văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển không ngừng, đạt

tới trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, các tác giả cũng

đánh giá thực trạng văn hóa Việt Nam và thực trạng lãnh đạo, quản lý văn hóa của Đảng và

Nhà nước; chỉ rõ các mối quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội;

xây dựng văn hóa chính trị; đề xuất mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp có tính

chất đột phá để phát triển nền văn hóa dân tộc trong thập kỷ tới. Những nội dung sau, tác

giả đã nêu lên để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng

ta đã chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể. Từ đó, các tác giả nêu lên những kết quả của việc xây

dựng và phát triển văn hóa trong những năm 1986-2005, chủ trương tiếp tục xây dựng và

phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm 2006-

2010, những thành tựu lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ vừa qua cần được kế thừa và phát huy trong

giai đoạn mới, giai đoạn 2011-2020.

Cuốn sách Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc do tác giả Nguyễn Đắc Hưng sưu tầm và

biên soạn, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2010), tác giả đã giới thiệu những lễ hội,

phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa giàu bản sắc của từng dân tộc, tạo nên nét riêng

biệt của nền văn hóa Việt Nam.

Trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, của Trần Văn Giàu

(Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tái bản 2011). Tác giả đã nghiên cứu và đưa

ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống, đặc thù của dân tộc Việt Nam.

Cuốn sách được chia làm 11 chương và được tác giả luận giải cụ thể về các khái niệm giá trị

tinh thần truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng của lịch sử đối với việc phát triển các giá trị

12

truyền thống, những đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh

hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Các phạm trù được trình bày một cách

có hệ thống và khoa học với ý nghĩa giống như một “bảng giá trị tinh thần” của người

Việt Nam. Những giá trị tốt đẹp trên, theo tác giả, giá trị truyền thống đã được định hình

ngay từ thời lập quốc và phát triển độc lập, không bị các yếu tố ngoại bang đồng hóa.

Cũng trong tác phẩm này, tác giả đã nhắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Con người kết tinh

mọi giá trị truyền thống của dân tộc và sự kết hợp những giá trị cao đẹp của nhân loại. Bằng

lời văn khúc triết, mạch lạc, với nền tảng kiến thức uyên bác… tác giả đã làm sáng tỏ những

giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

hiện nay.

Tác giả Trần Thị Minh trong cuốn Phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần

của xã hội, đã luận giải sâu sắc về phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã

hội, cuốn sách được chia làm ba chương. Trong chương 1, tác giả phân tích cụ thể từng khái

niệm như: khái niệm văn hóa, khái niệm nền tảng tinh thần của xã hội. Tác giả đã định

nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra nhằm mục

đích phát triển bản thân con người và xã hội”[93, tr.22]; ở những nội dung sau, tác giả nêu

lên sự cần thiết phải phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, thực trạng

phát triển văn hóa cũng như những phương hướng và giải pháp phát triển nền văn hóa với

tư cách nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay. Cuốn sách giúp người đọc tiếp cận

một cách đầy đủ về phát triển văn hóa, với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội trong điều

kiện kinh tế thị trường đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, để giải quyết những mâu thuẫn ấy,

từng bước xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

cần phải có thời gian lâu dài và cần sự chung sức của toàn xã hội.

Tác giả Trần Quang Phúc trong cuốn Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (Nhà xuất bản

Lao Động Xã Hội, năm 2013). Đã nghiên cứu và đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá

trị truyền thống, đặc thù của dân tộc Việt Nam. Theo Trần Quang Phúc, văn hóa khắc họa

bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có một đặc thù

riêng. Từ đó, có thể khẳng định, văn hóa mang bản sắc dân tộc. Và, yếu tố dân tộc là yếu tố

quyết định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái “hồn”, là sức sống nội

sinh, là cái thẻ căn cước của mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó

13

nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của dân tộc mình trong quá trình giao

lưu và hội nhập.

Cuốn sách được chia làm ba phần: Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận về bản sắc

văn hóa dân tộc. Được tác giả nêu lên những quan điểm về bản sắc văn hóa dân tộc theo tư

tưởng Hồ Chí Minh và những suy nghĩ trong việc kế thừa, phát huy các bản sắc văn hóa

dân tộc trong thời đại mới. Trong phần thứ hai: Giữ gìn bản sắc băn hóa dân tộc. Tác giả

nêu những quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đề ra những biện pháp để giữ gìn văn hóa dân tộc trong giai

đoạn hiện nay. Phần thứ ba: Những giá trị văn hóa cần phải giữ gìn. Tác giả đi vào giới

thiệu cụ thể các phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo và các giá trị nghệ thuật trong nền

văn hóa Việt Nam cần được phát huy, lưu giữ. Từ đó, đưa ra một số biện pháp nhằm giữ

gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc ta.

Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài viết Lối sống người Việt Nam dưới tác động

của toàn cầu hoá (Tạp chí Triết học, số 12 năm 2013) khẳng định: các quan hệ mật thiết

của truyền thống xã hội nông nghiệp xưa kia không còn đậm nét, tình cảm không những ít

được quan tâm mà ngày càng bị nghèo đi, những nghĩa cử cao đẹp sẵn sàng giúp đỡ người

khác lúc sa cơ, lỡ vận ngày càng phai nhạt, đây là thực trạng đáng báo động trong xã hội ta

ngày nay.

Tác giả Vũ Ngọc Hoàng trong bài viết Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. (Tạp chí Cộng sản số 855 tháng 1-2014),

cho rằng: nói tới văn hóa là nói tới con người với nhân cách của họ. Nhưng những năm gần

đây đạo đức xã hội, nhân cách con người có nhiều mặt xuống cấp nghiêm trọng. Từ nạn

cướp của, giết người đến tham nhũng, chạy chức, chạy quyền…các hiện tượng nguy hại

trên không chỉ diễn ra ở cấp cơ sở mà còn ở cán bộ lãnh đạo cấp trung và cao cấp. Nghiêm

trọng hơn, nhân cách con người xuống cấp không chỉ ở một vài lĩnh vực mà còn diễn ra ở

những nơi đáng lí ra phải luôn được trang nghiêm, trong sạch (như nơi nắm cán cân công

lý, bảo vệ pháp luật, nơi dạy người, nơi biên soạn và tham mưu các chủ trương, chính sách

cấp chiến lược…). Từ đó, tác giả chỉ ra những nguyên nhân khiến tình trạng đạo đức xã hội

sút kém, đó là hệ giá trị đạo đức bị đảo lộn về vị trí, thang bậc, vì tiền con người ta đã vi

phạm nhân cách. Tác giả cho rằng để giảm bớt tình trạng trên trước tiên, cần tiếp tục nhận

14

thức sâu hơn tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề văn hóa, đạo đức trong đời sống xã hội. Từ

đó, xác định đặc điểm của nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, chữ “nhân” luôn đứng vị trí hàng đầu

trong thang bậc của hệ giá trị nhân cách. Ngoài ra, cũng cần bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện

hệ giá trị nhân cách con người Việt Nam mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Theo tác giả,

chúng ta cần kế thừa tối đa các giá trị truyền thống của văn hóa đạo đức Việt Nam, như

“nhân, nghĩa, lễ, trí, tín …” điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thời kỳ mới. Bài viết nêu

lên việc tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong

thời kỳ mới, nghiên cứu sinh có thể kế thừa để phân tích, làm rõ trong luận án của mình.

Tác giả Phạm Duy Đức trong bài viết Thực trạng đời sống văn hóa Việt Nam qua gần

30 năm đổi mới. (Tạp chí Cộng sản số 862, tháng 8-2014), đã nêu khá rõ: dưới sự lãnh đạo

của đảng cộng sản Việt Nam, qua gần 30 năm đổi mới lĩnh vực văn hóa đã thu được những

thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta không

chỉ có những thành tựu mà còn có những hạn chế nhất định. Tác giả nêu lên các lĩnh vực

hoạt động văn hóa đã được phát triển một cách tương đối đồng bộ, toàn diện, vấn đề xây

dựng con người như đạo đức, lối sống, phẩm chất, trí tuệ được chú trọng; môi trường văn

hóa của đất nước được quan tâm xây dựng; vấn đề giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa

dân tộc đã đạt được nhiều kết quả to lớn. Bên cạnh những thành tựu nêu trên, vẫn còn nhiều

những hạn chế, yếu kém. Văn hóa phát triển chưa tương xứng với kinh tế; đời sống văn hóa

tinh thần ở miền núi, vùng sâu, hải đảo hay của công nhân các khu công nghiệp còn gặp

nhiều khó khăn. Từ đó, tác giả nêu lên những vấn đề cần phải giải quyết trong giai đoạn

2016-2020 và những năm tiếp theo như: kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin; xây dựng hệ giá trị

con người Việt Nam; xây dựng nền văn hóa dân chủ, kỷ cương, văn minh, sáng tạo.

Tác giả Nguyễn Thị Thường trong bài viết Toàn cầu hóa từ góc nhìn văn hóa. (Tạp

chí Cộng sản số 872, tháng 6-2015), đã phân tích và đưa ra quan điểm: sự dịch chuyển biên

giới về văn hóa đã tạo ra những cảm giác lo ngại, có thể trong tương lai sẽ có một nền văn

hóa quốc tế xuyên bản sắc và nó cũng có thể thay thế bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này gây

nên sự bất an, lo lắng từ chủ thể các nền văn hóa. Từ thực tế trên, tác giả đặt ra câu hỏi, liệu

sự du nhập của văn hóa thế giới có tạo ra một bản sắc văn hóa mới và đưa đến một nền văn

hóa chung của thế giới hay không? hay lại xuất hiện những khó khăn, bất ổn và bản sắc dân

15

tộc thì lại đánh mất? Từ đó, tác giả nhấn mạnh, toàn cầu hóa được coi như là mối đe dọa,

bởi những truyền thống văn hóa cũ sẽ bị phá vỡ, những quy tắc, chuẩn mực cũ bị nghi ngờ

mất khả năng định hướng các hệ giá trị, thậm chí bị đảo ngược. Toàn cầu hóa đặt ra những

thách thức hết sức nghiêm trọng, trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Từ những vấn

đề nêu trên, tác giả khẳng định dù thái độ của con người ra sao, toàn cầu hóa vẫn diễn ra và

chúng ta vẫn phải đón nhận để tồn tại như một quy luật tất yếu. Thông qua bài viết của tác

giả về toàn cầu hóa từ góc nhìn văn hóa, giúp nghiên cứu sinh hiểu thêm về xu hướng phát

triển chung của văn hóa nhân loại như một tất yếu, chúng ta một mặt đón nhận những luồng

văn hóa mới, một mặt phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mình.

Ở một khía cạnh khác, tác giả Trần Ngọc Thêm trong tác phẩm Một số vấn đề về hệ

giá trị Việt Nam, (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015), khẳng định tinh thần

lạc quan và hài hước trong đời sống người Việt cho dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Tác

phẩm giúp nghiên cứu sinh hiểu rõ về hệ giá trị Việt Nam, là nguồn tài liệu vô cùng quý giá

cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án của mình.

Trong số các sách, tạp chí phải kể đến: tác giả Phan Xuân Sơn trong bài viết Vấn đề

văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế. (Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2016), đã chỉ ra:

quá trình hội nhập là một quá trình hai chiều: tuân thủ và sáng tạo, bị động và chủ động, và

cuối cùng là mỗi quốc gia đều góp phần sáng tạo ra, làm giàu thêm cho văn hóa hội nhập

nói chung và làm giàu thêm văn hóa dân tộc nói riêng. Giao lưu và hội nhập văn hóa giữ vai

trò hết sức quan trọng đối với văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc: không có một nền

văn hóa nào, dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu, lại có thể phát triển trong khép kín,

biệt lập, tách rời với các nền văn hóa khác. Nhưng hội nhập quốc tế trong tất cả các lĩnh vực

kể cả văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng luôn tồn tại hai mặt, tích cực và tiêu

cực. Mặt tích cực, sẽ giúp cho văn hóa mỗi dân tộc (theo nghĩa quốc gia - dân tộc) luôn phát

triển, tiếp nhận được những giá trị mới, tiến bộ của văn hóa các dân tộc khác, làm giàu thêm

cho văn hóa của dân tộc mình, quảng bá được văn hóa của mình cho các dân tộc khác. Tuy

nhiên, mặt tiêu cực chính là nguy cơ san bằng và đồng nhất các hệ giá trị, các chuẩn mực

văn hóa dân tộc, đe dọa và làm suy kiệt sự phong phú, khả năng sáng tạo của các nền văn

hóa dân tộc, dẫn đến nguy cơ tha hóa, vong bản, thậm chí thủ tiêu các giá trị văn hóa dân

tộc. Từ những vấn đề nêu trên, tác giả đã khẳng định tính tất yếu của hội nhập và Việt Nam

16

tham gia vào quá trình hội nhập với thế giới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn hóa là

đòi hỏi khách quan, cho dù đó là một quá trình phức tạp; để hội nhập thành công, văn hóa

Việt Nam cần tiếp biến những giá trị văn hóa thế giới. Nhưng tiếp biến văn hóa thế giới như

thế nào? Chúng ta thấy rằng ở cấp độ đời thường cũng như tư duy chính sách đều có tranh

luận, thậm chí gay gắt, xuất hiện các xu hướng “cấp tiến”, “bảo thủ” hay “trung dung” về

các giá trị văn hóa trong hội nhập.

Tuy chưa thật sự rõ ràng và thuyết phục, nhưng một số nghiên cứu đã bước đầu chỉ ra

“cơ chế tiếp biến” nền văn hóa thế giới; vấn đề đặt ra, không chỉ tiếp biến văn hóa nhân loại,

không chỉ “cùng lúc trở về với dân tộc nhiều hơn” mà văn hóa Việt Nam có thể đóng góp

những giá trị văn hóa đặc sắc gì vào văn hóa chung của nhân loại? Văn hóa Việt Nam có đủ

tầm vóc, bản lĩnh, tự tin để tham gia định hình những giá trị chung trong văn hóa hội nhập

của nhân loại? Và nếu chúng ta vốn có một nền văn hóa có đủ tầm vóc, đủ bản lĩnh thì

chúng ta phải làm gì để có được điều đó? chúng ta phải làm gì để có “quyền lực mềm”

trong hệ thống quyền lực toàn cầu? các nghiên cứu cũng đã nêu lên những thành tựu, những

yếu kém và thách thức trong phát triển văn hóa Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế;

các nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Tác giả Nguyễn Tiến Dũng trong cuốn Văn hóa Việt Nam thưởng thức (Nhà xuất

bản Hà Nội năm 2018), luận giải khá thuyết phục về văn hóa Việt Nam từ thời tiền sử

xuyên suốt thời gian qua các thời kỳ cổ, trung và cận đại. Tuy mỗi thời kỳ do yếu tố lịch sử

của dân tộc nền văn hóa dân tộc có những đặc trưng, cấu trúc và sắc thái riêng, song xâu

chuỗi lại tác giả giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về sự phát triển văn hóa dân tộc. Trong

lời tựa đề tác giả viết: “Văn hóa không phải là những thuật ngữ xa lạ hay trừu tượng trong

đời sống của chúng ta, nó hiện diện và có sức sống mãnh liệt tại mỗi miền quê, mỗi xóm

làng, trong câu ca tiếng hát hay trong trang phục, cách ứng xử của người dân bản xứ. Mỗi

bước chân chúng ta đi, khoảng cách địa lý như gần gũi hơn nếu chúng ta cảm nhận, chiêm

nghiệm và hiểu về mảnh đất - con người nơi đó”. Cuốn sách giúp người đọc tiếp cận toàn

diện về sự phát triển văn hóa dân tộc, về sức sống trường tồn của văn hóa, nó không phải là

điều gì to lớn, cao sang, bác học mà nó tồn tại trong mỗi con người, trong tiếng hát, câu hò,

trong lời ru của bà, của mẹ.v.v..

17

Tác giả Đặng Văn Hùng trong bài Giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong

xu thế hội nhập quốc tế. (Tạp chí Quản lý Nhà nước - Số 264, tháng 01 năm 2018). Tác giả

phân tích: Từ sau đại hội VI (1986), Đảng cộng sản Việt Nam đã có những đổi mới trong

định hướng phát triển đất nước. Thực tiễn qua hơn 30 năm đổi mới, đã chứng minh tính

đúng đắn trong quyết sách của Đảng. Thông qua bài viết, tác giả cũng chỉ ra sự cần thiết của

việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế. Thứ nhất,

xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa và bản sắc văn hóa đối với sự tồn tại,

phát triển của dân tộc, của đất nước. Thứ hai, bản sắc văn hóa Viết Nam đang đứng trước

nhiều nguy cơ, thách thức do mắt trái của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa...đòi hỏi

chúng ta cần phải chú trọng giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Cuối cùng trong

bài viết, tác giả nêu lên một số giải pháp nhằm xây dựng và giữ gìn phát huy bản sắc văn

hóa Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế. Cụ thể: Một là, rà soát, điều chỉnh, bổ sung và

quán triệt, thực hiện những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước về văn hóa một cách thiết thực. Hai là, tuyên truyền, giáo dục kết hợp

với các biện pháp mạnh, xử lý nghiêm các biểu hiện xuống cấp, suy đồi, tha hóa về đạo đức,

lối sống của cán bộ, đảng viên và người dân. Giá trị của vấn đề là để cho từng thành viên

trong tổ chức, từng người dân đều dần dần hiểu rõ về văn hóa, bản sắc văn hóa Việt Nam.

Ba là, đổi mới cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước về quản lý văn hóa và các thiết chế văn hóa

để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Tác giả Đinh Xuân Dũng trong bài viết Gìn giữ, phát huy và phát triển bản sắc văn

hóa dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. (Tạp chí Tuyên giáo ngày

02 tháng 12 năm 2019). Tác giả đã phân tích và đưa ra quan điểm: kết quả của toàn cầu hóa

là tạo ra những giá trị chung, là sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Song, toàn cầu hóa

không có nghĩa là tất cả các quốc gia, các dân tộc sẽ tiến tới một sự đồng nhất về mọi mặt,

mà ngược lại, nếu các quốc gia không tự điều chỉnh, cùng hợp tác và đấu tranh của các quốc

gia, dân tộc tham gia toàn cầu hóa. Nếu không cùng hợp tác và đấu tranh, không biệt gìn

giữ sẽ diễn ra một quá trình mà các thế lực mạnh và đen tối sẽ lái “con tàu” toàn cầu hóa về

hướng làm “tha hóa”, hoặc “đồng hóa” văn hóa, làm yếu đi các giá trị văn hóa riêng, bản

sắc riêng của từng dân tộc, sẽ thực hiện mưu đồ áp đặt văn hóa, biến các quốc gia khác

thành lệ thuộc, tự đánh mất mình. Xin lưu ý rằng, không đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ, giữ

18

gìn bản sắc văn hóa của từng dân tộc trước tác động của toàn cầu hóa, mà còn có những vấn

đề lớn hơn, sâu hơn: phát huy bản sắc dân tộc trong chính quá trình giao lưu, hợp tác văn

hóa, phát triển và tự làm giàu có mình hơn, phong phú, hiện đại hơn trong quá trình chủ

động giao lưu và tiếp nhận, “cho” và “nhận” về mặt văn hóa. Không nhận biết sâu và biện

chứng quá trình trên sẽ dẫn tới một cách nhìn phiến diện, với khuynh hướng bảo thủ cho

rằng, để đối phó với toàn cầu hóa, mỗi dân tộc trong khi mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế,

phải đóng cửa về văn hóa, “khư khư” giữ gìn, bảo vệ các bản sắc riêng của mình, không

chấp nhận cả “cho” và “nhận”, vốn là một quy luật nội tại của sự tồn tại và phát triển của

mỗi nền văn hóa dân tộc. Bài viết giúp chúng ta tiếp cận toàn diện về quá trình “cho” và

“nhận” đối với văn hóa một cách phù hợp trong bối cảnh hiện nay, nhằm giữ gìn phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc trong chính quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa.

1.2. Những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

ở Nam Bộ và Sóc Trăng

1.2.1. Những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc ở Nam Bộ

Tác giả Sơn Nam trong tác phẩm Nói về miền Nam, Cá tính miền Nam, thuần phong

mỹ tục Việt Nam, (Nhà xuất bản trẻ năm 2005), nhận định: lối sống giản dị của nhân dân

Miền Nam đang thay đổi theo xu hướng tiêu cực, nếu như trước đây trong việc lễ hỏi người

ta chỉ cần “Tặng đôi bông tai làm vật kỷ niệm” và khi không còn nghĩa vợ chồng, người ta

cũng chỉ cần trả đôi bông tai nghĩa là tình nghĩa chấm dứt, thì nay người ta tiêu xài phung

phí, tiền thách cưới, vòng vàng, tài sản…chạy theo lối sống phương tây, làm mất dần đi

thuần phong mỹ tục, mất dần đi bản sắc văn hóa dân tộc.

Tác giả Huỳnh Quốc Thắng trong đề tài Bản sắc và giao tiếp văn hóa dân tộc. (Hội

thảo khoa học Chương trình KX.03/06-10. Đề tài KX.03.14/06-10.2009), đã đề cập đến

nhiều nội dung về giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Nam Bộ. Trong đề

tài, tác giả cho rằng Nam Bộ bao gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ không chỉ là “vùng

đất mới” như nhiều người thường nói, mà nơi đây thực sự vốn là vùng đất đã hình thành từ

lâu đời. Đây từng là nơi sinh sống của các nhóm cư dân cổ đại thuộc các nền văn hóa khảo

cổ Đồng Nai, Óc Eo hoặc thuộc các thời kỳ lịch sử của vương quốc Phù Nam, Chân Lạp

với một số tộc người bản địa đến nay vẫn còn tồn tại như Khmer, Stiêng, Mạ.v.v.. trước khi

19

người Việt, người Hoa, người Khmer và các tộc người khác cùng đến đây lập nghiệp. Từ

đó, tác giả chỉ ra quá trình cộng cư dẫn đến hiện tượng tất yếu về giao tiếp văn hóa đã tạo

nên những đặc trưng về sắc thái văn hóa vùng Nam Bộ. Cuối cùng, tác giả đúc kết chính

mối quan hệ giữa một bên là bản sắc văn hóa dân tộc (tộc người) được giữ gìn theo một

mức độ, tính chất nhất định với một bên là giao tiếp văn hóa dân tộc (quốc gia) theo một

cách thức, trình độ nào đó, để tạo ra các hệ quả với những màu sắc đặc thù góp phần vào nét

đặc trưng văn hóa vùng Nam Bộ ngày nay.

Trong tác phẩm Văn hóa Khmer Nam Bộ nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam,

(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật Hà Nội, năm 2013). Tác giả Phạm Phương Hạnh

đã chỉ ra ảnh hưởng của Phật giáo đối với người Khmer Nam Bộ, người Khmer ở Nam Bộ

luôn gắn bó mật thiết với ngôi chùa, là nơi rèn luyện đạo đức và nhân cách con người, cũng

là nơi giáo dục cho thanh niên người Khmer đạo lý làm người. Chùa cũng là nơi đồng bào

Khmer tâm niệm“sống là nơi gửi thân, chết là nơi gửi xác”, và cũng là nơi tập trung những

gì tinh túy nhất của đồng bào Khmer, từ kiến trúc, nghệ thuật cho đến triết lý sống của một

tộc người.

Các tác giả Đoàn Trung Dũng, Võ Văn Chỉ trong bài viết Bảo tồn và phát huy các giá

trị văn hóa Khmer Tây Nam Bộ trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. (Tạp chí dân tộc, số

167 năm 2014). Bài viết được các tác giả chia làm ba phần, trong phần một, giới thiệu khái

quát về các giá trị văn hóa người Khmer vùng Tây Nam Bộ như: nhà ở, chùa chiền, trang

phục và về văn hóa phi vật thể; phần hai và ba, các tác giả nêu lên tác động của toàn cầu hóa

đối với việc bảo tồn các giá trị văn hóa Khmer vùng Tây Nam Bộ, cũng như chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa Khmer ở

Tây Nam Bộ, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong đó, tác giả nêu rõ những năm

qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát huy và bảo tồn các giá trị

văn hóa của người Khmer vùng Tây Nam Bộ, tạo chuyển biến sâu sắc trong lĩnh vực văn

hóa, tư tưởng và trở thành phong trào yêu nước sâu rộng trong nhân dân, tạo động lực thúc

đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, giữ vững quốc phòng an ninh, góp phần

chăm lo tốt đời sống đồng cho bào Khmer.

Tuy nhiên, để làm tốt các vấn đề trên theo tác giả, Đảng và Nhà nước cần có những

chủ trương, chính sách như: thực hiện tốt công tác tuyên truyền trong cộng đồng người

20

Khmer về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của mình; đào tạo nhân lực

nòng cốt đối với công tác bảo tồn, phát huy văn hoá dân tộc Khmer; đối với ngành giáo dục,

cần tiếp tục đẩy mạnh việc đưa chương trình dạy song ngữ (tiếng Việt - tiếng Khmer) vào

tất cả các trường nơi có đồng bào dân tộc Khmer sinh sống; gắn giữ gìn, phát huy văn hoá

dân tộc Khmer với phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa phát triển

văn hoá và kinh tế; hài hoà giữa giữ gìn và phát huy; Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện

cơ chế, chính sách, chú trọng xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho việc bảo tồn và nâng

cao đời sống văn hóa cho đồng bào Khmer.

Luận án tiến sĩ Triết học Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người

Khmer trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay của tác giả Nguyễn Tiến Dũng (Học viện

Khoa học xã hội năm 2015), trong luận án, tác giả nhấn mạnh việc giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc là nhu cầu sống còn của một nền văn hóa, nhất là các nền văn hóa có bề

dày truyền thống, có những nét đặc sắc trong so sánh với các nền văn hóa khác. Theo tác

giả, bản sắc, một mặt có khả năng tự duy trì trong cộng đồng của nó, nhưng mặt khác, lại có

sự biến đổi theo thời gian và mang hơi thở thời đại. Đây là điều tương đối phức tạp với các

kế sách vĩ mô. Việc tiếp thu và chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại luôn là điều cần thiết.

Tuy nhiên, cũng cần tránh tình trạng lóa mắt hoặc tự ti trước văn hóa của các quốc gia khác,

chúng ta cần bảo tồn những mặt tích cực của bản sắc văn hóa dân tộc làm cho bản sắc dân

tộc ngày càng toàn vẹn. Tác giả cũng chỉ ra, cộng đồng người Khmer Nam Bộ là một bộ

phận cấu thành của quốc gia Việt Nam. Do đó, cũng không tránh khỏi sự “xâm lấn” của các

luồng văn hóa khác. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Khmer trong bối

cảnh toàn cầu hóa, theo tác giả cần giải quyết một số vấn đề sau: thứ nhất, Nam Bộ là vùng

văn hóa - kinh tế có ý nghĩa chiến lược về nhiều mặt, đặc biệt về các mặt kinh tế nông

nghiệp, văn hóa dân tộc và an ninh quốc gia. Do đó, an ninh vùng Nam Bộ phải được bảo

đảm một cách tuyệt đối, toàn diện; thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hóa gắn liền với hội nhập và

phát triển, do vậy cần xác định rõ những mặt nào được phát huy, những mặt nào không thể

phát huy thì có thể bảo tồn; thứ ba, văn hóa không thể biệt lập với chính trị, kinh tế… do đó,

việc gắn kết giữa kinh tế với văn hóa, văn hóa với quốc phòng, an ninh là một yêu cầu thiết

yếu; thứ tư, người Khmer Nam Bộ không đơn thuần là một cộng đồng người với cái riêng

tách biệt khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Qua lịch sử với nhiều thế kỷ khai hoang,

21

tạo dựng cuộc sống, phát triển nét đặc thù của mình, văn hóa Khmer đã trở thành một bộ

phận không thể thiếu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Tác giả Nguyễn Văn Sĩ trong bài viết Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Khmer Nam

Bộ (Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2016), đã chỉ ra: Đồng bào Khmer sống tập trung tại

các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang, chiếm khoảng 7,22% dân

số vùng Tây Nam Bộ. Trong đó, trên 90% người Khmer là tín đồ Phật giáo Nam tông, do

vậy Phật giáo Nam tông có ảnh hưởng rất sâu sắc trong đời sống văn hóa tinh thần của

đồng bào. Trong bài viết, tác giả nêu lên: Đồng bào Khmer Nam Bộ có một kho tàng văn

hóa phong phú, đa dạng và rất độc đáo, như: ngôn ngữ, chữ viết, văn học dân gian, lễ hội,

kiến trúc, văn hóa ẩm thực, nghệ thuật tạo hình,... Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện

nay, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của người Khmer Nam Bộ là yêu cầu cấp

bách. Để làm tốt công tác giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Khmer Nam Bộ, chính quyền

các địa phương đã tổ chức tốt ngày hội Văn hoá, Thể thao và Du lịch vùng đồng bào dân

tộc Khmer Nam Bộ; lễ hội dân gian; tổ chức trưng bày triển lãm Văn hóa dân tộc. Tại các

địa phương: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu…chính quyền đã quan tâm, tạo

điều kiện đẩy mạnh các loại hình nghệ thuật của người Khmer Nam Bộ, trong đó đặc biệt

đầu tư cho các đoàn nghệ thuật Khmer, xây dựng chương trình phục vụ bà con nhân dịp tết.

Bài viết cũng đưa ra một số giải pháp tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Khmer

Nam Bộ.

Nhóm tác giả Ngô Văn Lệ (Chủ biên), Phan An; Phan Thị Yến Tuyết; Nguyễn Văn

Tiệp; Phan Văn Dốp; Trần Thị Thảo, trong đề tài cấp nhà nước Đặc trưng tín ngưỡng tôn

giáo và sinh hoạt văn hóa của các cộng đồng cư dân Nam Bộ. Đề tài gồm nhiều chương,

trong chương 1 của đề tài, các tác giả đã giới thiệu cơ sở lý luận và tổng quan về vùng đất,

con người Nam Bộ. Trong chương 2 và chương 3, các tác giả khái quát và luận giải về tín

ngưỡng tôn giáo và đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo của cư dân Nam Bộ về sinh hoạt văn hóa

và đặc trưng sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ, đây là một vùng văn hóa có những

khác biệt so với các vùng văn hóa ở Việt Nam, sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ thể

hiện rõ tính quy luật của văn hóa Việt Nam - thống nhất trong đa dạng, bị chi phối bởi môi

trường tự nhiên. Trong chương cuối Tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân

Nam Bộ trong quá trình phát triển, các tác giả trình bày về tiến trình phát triển của tín

22

ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ. Đây chính là nguồn tài liệu vô

cùng quý giá giúp nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án của mình.

Tác giả Sơn Nam trong cuốn Giới thiệu Sài Gòn xưa, tiếp cận với Đồng bằng sông

Cửu Long (Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2018), đã miêu tả tâm trạng của những người

Việt khi tìm đến định cư ở một vùng đất mới, đó là tâm trạng của những người nghèo, thất

thế…lưu lạc đến “xứ sở lạ lùng”, muốn cất một căn chòi để được an cư, lạc nghiệp, ra sức

khai hoang, mở cõi, còn tương lai thì như thế nào thì chưa rõ. Thông qua tác phẩm, nghiên

cứu sinh biết thêm về nguồn gốc, cuộc sống khó khăn khi đến vùng đất mới của người Việt

- Họ cùng với đồng bào Hoa, Khmer… chính là chủ nhân của bản sắc văn hóa dân tộc tại

Sóc Trăng hiện nay.

Tác giả Sơn Nam trong tác phẩm Đình miễu & lễ hội dân gian miền Nam (Nhà xuất

bản Trẻ, năm 2018), đã khẳng định: Miền Nam làm lai rai cũng đủ ăn, về cách hành xử, hễ

người ta ăn ở có “điệu nghệ” thì không cô độc và luôn gặp bạn tri âm, nơi làm ruộng mỗi

năm một mùa, người dân quá rảnh rang để ăn uống, đờn ca vọng cổ. Điều này chứng tỏ sự

khác biệt trong giao tiếp ở vùng đất mới, cũng như sự ưu đãi của thiên nhiên trong mưu sinh

đã tạo ra một nét văn hóa độc đáo của cư dân nơi đây.

1.2.2. Những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc ở Sóc Trăng

Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc từ lâu đã trở thành sự quan tâm hàng đầu của

đảng, nhà nước ta và các học giả. Do đó, gìn bản sắc văn hóa là lĩnh vực đã có rất nhiều

công trình nghiên cứu và đã đưa vào thực hiện. Tại Sóc Trăng, đã có nhiều công trình lớn

nghiên cứu như: Bộ lịch sử Việt Nam Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ; Khảo Cứu Về

tỉnh Sóc Trăng của Hội Nghiên cứu Đông Dương - Trung Quốc; Phủ Biên Tạp Lục của Lê

Quý Đôn; Gia Định thành thông chí; Nam Kỳ Lục Tỉnh Địa Dư Chí; Chuyên Khảo về tỉnh

Sóc Trăng (Monographie de la Province de Sóc Trăng).v.v..

Thông qua đề tài cấp tỉnh Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ trên

địa bàn tỉnh Sóc Trăng, do Sơn Lương làm chủ nhiệm đề tài, năm 2005. Đề tài gồm hai

phần. Trong phần thứ 1, Khái quát về người Khmer Sóc Trăng, các tác giả nêu lên đặc điểm

về dân cư cũng như kinh tế - xã hội văn hóa vật chất, nghệ thuật, âm nhạc, các loại hình dàn

nhạc, nghệ thuật múa (múa Rom vong, Rom leo, ADay, múa trong lễ cưới...), nghệ thuật

23

sân khấu (Dù Kê, Rô Băm) của người Khmer Sóc Trăng. Phần thứ 2, Sự hình thành và phát

triển của nghệ thuật sân khấu Dù Kê Sóc Trăng. Trong chương 1 và chương 2 các tác giả

đã nêu lên sơ lược quá trình hình thành nghệ thuật sân khấu Dù Kê Sóc Trăng, từ giai đoạn

đầu 1920 đến sau những năm 1975. Chương 3, Các đặc điểm trong nghệ thuật sân khấu Dù

Kê Nam Bộ, các tác giả đã nêu lên đặc điểm về nghi thức cúng tổ Dù Kê tại Sóc Trăng, nghi

thức cúng tổ Dù Kê tại gia đình, nghi thức cúng tổ Dù Kê tại điểm diễn. Chương 4, Một số

đặc điểm trong nghệ thuật sân khấu Dù Kê. Phần này, tác giả đã nêu lên hình thức biểu

diễn, hóa trang, vũ đạo, sân khấu cảnh trí, âm nhạc... Chương 5, Cơ sở nền tảng, sự giao lưu

và ảnh hưởng từ các loại hình nghệ thuật khác. Trong đó, phải kể đến sự giao lưu và ảnh

hưởng từ yếu tố nghệ thuật của người Hoa, giao lưu và ảnh hưởng từ yếu tố nghệ thuật của

người Kinh đến nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer... Đề tài cũng nêu lên những giải pháp

giữ gìn, phát huy các giá trị của nghệ thuật sân khấu Rô Băm trong giai đoạn hiện nay.

Thông qua Tập ca cổ Sóc Trăng - Tình vẫn đẹp, do Sở Văn hóa Thông tin biên tập và

phát hành năm 2005. Tập ca cổ là chủ đề hàm chứa nội dung xuyên suốt về: Tình Đảng -

Tình Dân -Tình đồng đội - Tình Đoàn kết - Tình yêu quê hương - tình yêu đôi lứa luôn và

“Vẫn đẹp” như người và đất Sóc Trăng. Tập ca cổ Sóc Trăng - Tình vẫn đẹp bao gồm nhiều

bài hát như: Về Sóc Trăng của tác giả Trường Giang Thủy, bài hát có nhiều giai điệu Lý cái

mơn, Vọng cổ, Lý Ba tri với nội dung ca ngợi miền quê yêu dấu, Sóc Trăng trong tôi là nỗi

nhớ, lắng đọng trong tim sâu nặng ân tình, gần ba thế kỷ Kinh, Hoa, Khmer đã tạo dựng

giữ gìn... Bài hát, Hẹn với Sóc Trăng của tác giả Phạm Võ Đức Trung. Bài hát, Điều ước

dưới đêm trăng của tác giả Trịnh Biên. Bài hát, Kỷ niệm một mùa hè của tác giả Nguyễn

Thị Xuân Thu... Tất cả các ca khúc đều nói lên tình yêu đối với quê hương, ca ngợi vẻ đẹp

của cảnh vật cũng như con người Sóc Trăng với tấm lòng chịu thương, chịu khó vất vả

quanh năm... Về Sóc Trăng lắng nghe tình yêu Kinh, Hoa, Khmer hẹn hò giữa ngày hội vui

Óoc Om Boc, mỗi xóm thôn, mỗi dòng sông đều đong đầy chiến tích...Hay một Long Phú

chín năm lừng lẫy chiến công đầu, một Hòa Tú anh hùng chói lọi...Có thể nói, thông qua

Tập ca cổ Sóc Trăng - Tình vẫn đẹp, đã truyền cảm hứng về tình đoàn kết, tình yêu quê

hương qua từng câu hò, điệu lý, khơi dậy niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ mai sau.

Cuốn sách Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Hoa tỉnh Sóc Trăng

(1930-1975), do Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Sóc Trăng soạn thảo năm 2005. Cuốn sách có độ

24

dày 220 trang, được chia làm 4 chương. Chương 1, Đồng bào Hoa cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân giai đoạn (1930 -1945). Chương 2, Đồng bào Hoa tham gia kháng chiến

chống thực dân Pháp (9/1945 đến tháng 7/ 1954). Chương 3, Đồng bào Hoa trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ (20/7/1954 đến 30/4/1975). Chương 4, Kết luận và những kinh

nghiệm. Cuốn sách ghi lại những trang sử hào hùng của đồng bào người Hoa tại Sóc Trăng,

ghi nhận tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất vượt qua mọi âm mưu thâm

độc của kẻ thù xâm lược, làm thất bại âm mưu “Ấp chiến lược”, “Chiến tranh đặc

biệt”.v.v.. góp phần chiến thắng Mậu Thân 1968, cũng như đứng vững ở vùng địch và vùng

tranh chấp. Đồng bào người Hoa liên tục đấu tranh, góp phần thắng lợi trong cuộc tổng tiến

công và giải phóng Sóc Trăng (1/1973 - 30/4/1975). Cuốn sách giúp cho Đảng bộ tỉnh rút ra

được những bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận, cũng như trong quá trình xây

dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.

Thông qua đề tài cấp tỉnh Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Rô Băm của dân tộc Khmer

Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, do Sơn Ngọc Hoàng chủ nhiệm năm 2008, đã làm

sáng tỏ diện mạo, khái lược lịch sử, sự hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu Rô

Băm Sóc Trăng, cũng như đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Rô Băm Sóc Trăng, đánh giá

chính xác sự đóng góp của nghệ thuật sân khấu Rô Băm của người Khmer vào kho tàng

nghệ thuật sân khấu chung của cả nước. Đề tài cũng nêu lên giải pháp giữ gìn, phát huy các

giá trị của nghệ thuật sân khấu Dù Kê trong giai đoạn hiện nay.

Tư liệu lịch sử Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Sóc Trăng, (Sở giáo dục - Đào tạo Sóc

Trăng biên soạn năm 2009), ghi lại những di tích lịch sử, đình, chùa và những địa danh nổi

tiếng như Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng, Đình Hoà Tú, Đền thờ Bác - Cù Lao Dung… được

công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia, ngoài ra còn có các di tích khác được tỉnh

công nhận như: chùa Đất Sét, Đình thần Mỹ Xuyên, chiến thắng Xẻo Me… những tư liệu

lịch sử cùng với các di tích lịch sử, văn hóa đã góp phần tạo nên một diện mạo văn hóa

phong phú, giàu bản sắc tại tỉnh Sóc Trăng.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy lễ hội Óoc Om Boc và Đua ghe ngo

Sóc Trăng, do Sở Văn hóa - thể thao du lịch và Viện văn hóa Việt Nam tổ chức năm 2009.

Hội thảo khoa học đã tập hợp nhiều bài viết có chất lượng về công tác Bảo tồn và phát huy

lễ hội Óoc Om Boc và Đua ghe ngo Sóc Trăng, do tập thể các nhà khoa học: Phan An, Phan

25

Thị Yến Tuyết, Trịnh Công Lý, Sơn Lương... gửi tới Hội thảo. Trong số đó, có các bài viết:

“Phát huy và định hướng phát triển bền vững lễ hội Óoc Om Boc và Đua ghe ngo Sóc

Trăng”, “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội lễ hội Óoc Om Boc tiếp

cận sinh thái văn hóa”, “Đôi nét về đời sống sinh hoạt, văn hóa và lễ hội Óoc Om Boc và

Đua ghe ngo Sóc Trăng”.v.v... Hội thảo là những luận cứ khoa học cho việc nâng lễ hội

thành “Festival Óoc Om Boc và Đua ghe ngo Sóc Trăng”. Mang bản sắc, thương hiệu Sóc

Trăng với quy mô, tầm vóc trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Tác giả Trần Việt Hùng trong tác phẩm Lịch sử địa phương Sóc Trăng, (Nhà xuất

bản Giáo dục Việt Nam ấn hành năm 2010), khẳng định, khi thực dân Pháp xâm lược nước

ta nhân dân Sóc Trăng cùng với nhân dân Nam Kỳ kiên cường chống giặc ngoại xâm, thể

hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ quê hương khi bị kẻ thù xâm lược của nhân dân Sóc Trăng.

Tác giả Nguyễn Quốc Ngữ - người có nhiều nghiên cứu về bản sắc văn hóa Khmer,

trong bài viết Giữ gìn bản sắc văn hóa Khmer trong trường học (tạp chí Giáo dục và Thời

đại 2013). Tác giả cho rằng, Sóc Trăng là một trong những tỉnh có đông đồng bào dân tộc

nhất ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Do tính đặc thù đó, ngoài việc nâng cao chất lượng giáo

dục, các địa phương trên còn phải quan tâm tới việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa,

bản sắc dân tộc. Trong bài viết, tác giả nhận thấy những năm gần đây, các trường phổ thông

dân tộc nội trú ở Sóc Trăng rất được quan tâm như khu ở nội trú cho học sinh, căng tin,

phòng truyền thống... thông qua bài viết, tác giả ghi nhận sự quan tâm của chính quyền địa

phương, cũng như ngành giáo dục đã phối hợp với trường Trung cấp Nghệ thuật tỉnh Sóc

Trăng và các nghệ nhân đã mở lớp đào tạo cho giáo viên và mỗi trường một đội học sinh sử

dụng các loại nhạc cụ trên để dạy và tập huấn lại cho các em học sinh trong trường. Kết quả,

đến nay, hầu hết học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú ở Sóc Trăng đều biết sử

dụng các loại nhạc cụ và thường xuyên biểu diễn, phục vụ vào các dịp lễ hội… ngành giáo

dục cũng chọn những tác phẩm, bài hát, những điệu múa cơ bản, đặc trưng của dân tộc

Khmer, các trò chơi dân gian, các phong tục tập quán để dạy cho học sinh dân tộc. Bên cạnh

đó, các trường còn tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, giải trí vào các dịp lễ, hội của đồng

bào dân tộc để tuyên truyền giáo dục học sinh hiểu về những truyền thống văn hóa đặc

trưng. Việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong vùng đồng bào dân tộc

đã góp phần làm cho bộ mặt giáo dục ở các địa phương trên địa bàn tỉnh có nhiều khởi sắc.

26

Thông qua đề tài cấp tỉnh Báo cáo tổng hợp vai trò của đình, chùa trong đời sống của

người Kinh ở tỉnh Sóc Trăng, mã số12/HĐ-SKHCN-QLKHCN ngày 27/5/2011, do Lê

Ngọc Thạch chủ nhiệm, năm 2014. Nhóm tác giả nêu lên khái quát nguồn gốc lịch sử và

quá trình xây dựng đình, chùa người Kinh ở Sóc Trăng. Trong đề tài, các tác giả cũng

nghiên cứu nguồn gốc lịch sử đình, chùa của người Kinh tỉnh Sóc Trăng. Các tác giả nhận

định đình, chùa của người Kinh phản ánh sự phức hợp văn hóa của các dân tộc Kinh - Hoa -

Khmer tại vùng đất Sóc Trăng. Đề tài cũng chỉ ra, đình, chùa người Kinh ở Sóc Trăng phản

ánh tinh thần hài hòa của các tôn giáo Nho - Phật - Đạo. Thông qua đó, đề tài nghiên cứu

quá trình xây dựng đình, chùa người Kinh ở Sóc Trăng cũng như nghiên cứu và làm sáng tỏ

nghệ thuật kiến trúc đình, chùa và các thiết chế tổ chức đình, chùa, lễ hội. Trong đề tài, các

tác giả cũng làm sáng tỏ vai trò của đình, chùa trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng, kinh tế,

xã hội của người Kinh ở tỉnh Sóc Trăng và mối quan hệ giữa đình, chùa với hệ thống quản

lý. Khai thác các giá trị của đình, chùa người Kinh trong phát triển du lịch ở tỉnh Sóc Trăng.

Cuối cùng trong đề tài, nhóm tác giả đưa ra những phương hướng, giải pháp cũng như

những kết luận và kiến nghị đối với chính quyền địa phương. Cụ thể, cần phải giữ gìn và

phát huy những mặt tích cực, đồng thời ngăn ngừa những mặt tiêu cực trong hoạt động tôn

giáo, tín ngưỡng nói chung và sinh hoạt đình, chùa nói riêng. Thông qua đó, vừa giữ gìn,

vừa phát huy được các giá trị của đình, chùa trong văn hóa, tâm linh người dân Sóc Trăng.

Tuần lễ Văn hóa Campuchia tại Việt Nam diễn ra từ ngày 8 đến ngày 14 tháng 11

năm 2015, với các hoạt động tập trung chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Sóc

Trăng, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam phối hợp Bộ Văn hóa Nghệ thuật

Vương quốc Campuchia tổ chức nhằm giới thiệu những nét độc đáo, cổ truyền của nghệ

thuật Campuchia trên đất nước Việt Nam, qua đó góp phần tăng cường sự đoàn kết, hữu

nghị truyền thống giữa Việt Nam - Campuchia. Mặc dù hoạt động chỉ nằm trong các hoạt

động của Tuần lễ Văn hóa Campuchia tại Việt Nam và không có văn bản ghi nhớ về hợp

tác văn hóa giữa Việt Nam - Campuchia cũng như giữa Campuchia với Sóc Trăng. Song,

hoạt động góp phần tăng cường sự đoàn kết, hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam -

Campuchia. Sự kiện cũng cho thấy tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc nói chung và ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng.

27

Tác giả Lâm Nhân, Trần Văn Út trong cuốn Văn hóa phi vật thể các dân tộc tỉnh Sóc

Trăng, (Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015). Quyển sách gồm 8

chương, chương 1, các tác giả nêu lên Cơ sở lý luận và tổng quan địa bàn nghiên cứu tỉnh

Sóc Trăng như: điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.

Trong chương 2, các tác giả đề cập tới Ngữ văn truyền miệng và nghệ thuật trình diễn dân

gian các dân tộc tỉnh Sóc Trăng. Trong phần này, có các nội dung chính về nghệ thuật trình

diễn dân gian, về hạt nhân văn hóa trong nghệ thuật trình diễn dân gian. Trong chương 3,

Tập quán xã hội các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng, các tác giả nghiên cứu về tập quán xã hội

của người Kinh, người Hoa và người Khmer tỉnh Sóc Trăng. Chương 4, các tác giả đề cập

tới Tín ngưỡng, tôn giáo các dân tộc tỉnh Sóc Trăng. Cụ thể, các tác giả nghiên cứu về tín

ngưỡng các tộc người tỉnh Sóc Trăng, các thiết chế, tôn giáo tại địa phương cũng như

mức độ đáp ứng của các tôn giáo cũng như nhu cầu của người dân trên địa bàn tỉnh Sóc

Trăng. Trong chương 5, Nghi lễ vòng đời của các dân tộc tỉnh Sóc Trăng. Các tác giả đã

nghiên cứu về các nghi lễ chủ yếu như: nghi lễ sinh nở, cưới hỏi, cũng như mức độ, địa

điểm thực hành nghi lễ vòng đời của người dân trên địa bàn tỉnh. Trong chương 6, Lễ hội

truyền thống các dân tộc tinh Sóc Trăng. Trong phần này, các tác giả chủ yếu nghiên cứu

về lễ hội của người Kinh, người Hoa và người Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Trong

chương 7, Nghi thức dân gian và các lễ hội thủ công truyền thống, các tác giả nghiên cứu

về nghi thức dân gian và nghề cổ truyền tại Sóc Trăng. Cuối cùng, chương 8, các tác giả đã

nêu lên Những kiến nghị và giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị vật thể, phi vật thể tại

tỉnh Sóc Trăng. Quyển sách là những tư liệu quan trọng cho nghiên cứu sinh tham khảo

trong luận án của mình.

Tác giả Trần Minh Thương trong tác phẩm Văn hóa dân gian phi vật thể của người

Khmer Sóc Trăng (Nhà xuất bản Mỹ Thuật ấn hành năm 2016), khẳng định, Phật giáo đã ăn

sâu vào trong tiềm thức của mỗi người Khmer Sóc Trăng, Phật giáo cũng đã trở thành giá

đỡ về mặt tinh thần, giúp đồng bào Khmer thoát khỏi nỗi đau về thể xác. Tác giả chỉ ra ý

nghĩa lớn nhất của việc đi tu báo hiếu không phải để người tu trở thành Phật mà để thành

người…việc đi tu là để người thanh niên có đủ đạo đức, sau khi xuất tu trở thành công dân

sống có ích cho xã hội.

28

Tác giả Phan Thuận trong bài viết Sóc Trăng thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục

trong cộng đồng Phật giáo Nam tông Khmer (Tạp chí Cộng sản tháng 2 năm 2017), đã chỉ

ra: tín đồ phật tử Phật giáo Nam Tông chiếm một tỷ lệ khá cao so với tổng số lượng tín đồ

các tôn giáo khác trên toàn tỉnh Sóc Trăng, các tín đồ cũng có những nét sinh hoạt văn hóa

khác hơn so với các tín đồ phật tử Phật giáo Nam Tông ở khu vực đồng bằng sông Cửu

Long. Thông qua bài viết, tác giả đã chỉ ra: những năm qua Sóc Trăng đã quan tâm, xây

dựng và phát triển tốt những chính sách về văn hóa, giáo dục trong cộng đồng phật giáo

Nam Tông và đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Nhờ vậy, đã góp phần nâng

cao trình độ học vấn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong đồng bào Khmer. Điều

đó đã tạo nên một sắc thái văn hóa đặc trưng của Sóc Trăng trong bối cảnh toàn cầu hóa về

văn hóa, nhất là khi các giá trị văn hóa truyền thống ngày càng bị lu mờ, quên lãng đáng

báo động.

Cuốn sách Nghi lễ trong gia đình ở Sóc Trăng, của các tác giả Trần Minh Thương và

Bùi Túy Phượng. (Nhà xuất bản Mỹ Thuật ấn hành). Cuốn sách nằm trong dự án: “Công bố

và phổ biến tài sản văn hóa – văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam”. Nghi lễ trong gia

đình chính là một hình thức biểu hiện của văn hóa phi vật thể, cùng với văn học dân gian,

trò chơi dân gian, nghi lễ trong gia đình có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nét đặc sắc

của văn hóa dân gian Sóc Trăng. Nghiên cứu nghi lễ trong gia đình kinh, Hoa, Khmer Sóc

Trăng như: nghi lễ vòng đời, nuôi dạy con cái, cưới xin, tang ma, cầu an, lễ tết, lao động sản

xuất, văn hóa ẩm thực, nghệ thuật kiến trúc, thờ cúng thần linh...sẽ chỉ ra được những bản

sắc văn hóa của đồng bào. Nghi lễ trong gia đình ở Sóc Trăng được hình thành từ rất lâu, nó

thể hiện khát vọng chinh phục vùng đất mới cũng như thế giới quan, nhân sinh quan của

đồng bào các dân tộc nơi đây.

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và

những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án

1.3.1. Đánh giá kết quả đạt được của các công trình đã nghiên cứu

Có thể nói, khi nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc. Tác giả nhận thấy nguồn tư liệu vô cùng phong phú. Các chuyên gia, nhà

khoa học đã có những công trình nghiên cứu công phu, sâu sắc và có giá trị khoa học cao.

29

Với mạch logic này, chúng tôi kế thừa làm tư liệu quý giá để phát triển luận án của mình

bao gồm:

Những công trình nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa các dân tộc. Các tác giả đã

phân tích, lý giải vấn đề bản sắc văn hóa của các dân tộc, trong xã hội hiện đại đang bị suy

giảm. Một số tác giả còn nghiên cứu bản sắc văn hóa với cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc

nhằm xác định những đặc trưng của bản sắc văn hóa Việt Nam, không lấy văn hóa nước

ngoài làm tiêu chuẩn. Nhiều tác giả nghiên cứu bản sắc dân tộc ở phạm trù rộng, tĩnh. Các

tác giả khẳng định, dòng chảy văn hóa như những đợt sóng không ngừng, vì vậy chúng ta

cần “gạn đục khơi trong” giữ lại những gì tinh túy cho dân tộc. Nói đến bản sắc văn hóa là

nói đến cái mặt bất biến của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử. Do đó, các tác

giả chỉ rõ, giá trị truyền thống là cốt lõi, là sức sống bên trong của một dân tộc cho dù có bị

xâm lấn bởi văn hóa ngoại lai thì văn hóa dân tộc vẫn được gìn giữ và trường tồn cùng dân

tộc. Ngoài ra, một số tác giả còn nghiên cứu sự xuống cấp về đạo đức, sự đảo lộn các giá trị

đạo đức. Từ đó, các tác giả chỉ ra nguyên nhân cũng như những giải pháp làm giảm sự

xuống cấp về đạo đức trong giai đoạn hiện nay.

Chúng tôi nhận thấy hầu hết các chuyên gia, các nhà khoa học đều khẳng định các giá

trị của văn hóa đối với sự phát triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời kỳ cách mạng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Nhiều tác giả cho rằng, toàn cầu hóa vừa là thời cơ cũng

vừa là thách thức cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta mở cửa

đón nhận đồng thời kế thừa, phát huy văn hóa nội sinh. Toàn cầu hóa cũng là xu thế của thế

giới đương đại góp phần tạo ra sự đa dạng về văn hóa. Do đó, chúng ta không nên “bế quan

tỏa cảng” mà cần kế thừa, tiếp thu tích lũy hệ giá trị bên ngoài.

Toàn cầu hóa về kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế thế giới đang diễn ra ở mọi

quốc gia, tình hình đó đặt nền văn hóa của mỗi dân tộc trước những biến động lớn. Nhiều

tác giả nêu lên những mặt tiêu cực như: sự bất công, phi lý trong đời sống giữa các quốc

gia, giữa các tầng lớp xã hội trong một quốc gia, nguy cơ thất nghiệp… toàn cầu hóa là một

thách thức đối với suy nghĩ… chứ không phải là một việc, một giá trị đơn thuần. Qua đó,

tác giả cũng khẳng định sự kế thừa, hội nhập và giữ gìn bản sắc văn hóa là hai mặt của tính

hiện đại. Chưa bao giờ môi trường văn hóa ở Việt Nam lại phong phú và đa dạng, lại năng

động và tích cực, có nhiều cơ hội và thách thức…như hiện nay.

30

Bên cạnh đó, nhiều tác giả cho rằng, giữ gìn không đồng nghĩa với giữ lại tất cả

những gì của quá khứ mà cái gì hợp lý thì nên giữ, những gì tốt đẹp thì chúng ta nên hội

nhập. Nhiều tác giả đưa ra quan điểm muốn giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam thì việc giữ

gìn phải được thực hiện thường xuyên, đồng bộ và cần có sự quan tâm của mọi cấp, mọi

ngành, địa phương. Từ những luận điểm nêu trên có thể nhận thấy, bản sắc văn hóa dân tộc

Sóc Trăng có những điểm chung của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, đời

sống tinh thần của xã hội có mối quan hệ biện chứng với đời sống vật chất, do các điều kiện

tồn tại xã hội như: phương thức sản xuất vật chất, các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên - hoàn

cảnh địa lý và dân cư...đã hình thành nên bản sắc văn hóa có những nét đặc thù, làm phong

phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Ngoài ra, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nhu cầu bức thiết

cũng được thể hiện rõ nét trong các bài báo, các luận án, các cuộc hội thảo chuyên sâu về

văn hóa. Nhiều ý kiến đã luận giải khá thuyết phục về bản sắc văn hóa Việt Nam từ thời tiền

sử xuyên suốt thời gian qua các thời kỳ cổ, trung và cận đại. Tuy mỗi thời kỳ do yếu tố lịch

sử của dân tộc nền văn hóa dân tộc có những đặc trưng, cấu trúc và sắc thái riêng biệt, song

xâu chuỗi lại các tác giả giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về sự phát triển văn hóa dân

tộc. Có những bài viết đã kiến giải sâu sắc về giá trị văn hóa truyền thống, về bản sắc văn

hóa và sức sống mãnh liệt của văn hóa trong hoàn cảnh đất nước ngày càng hội nhập.

Những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt

Nam nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Các công trình nghiên cứu đã ghi nhận, thời

gian qua, Sóc Trăng đã quan tâm, xây dựng và phát triển tốt những chính sách về văn hóa,

giáo dục trong cộng đồng phật giáo Nam tông và đồng bào Khmer cũng như các dân tộc

chủ yếu trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng khác như dân tộc Kinh và dân tộc Hoa. Những công

trình nghiên cứu cũng đã đề cập đến nhiều nội dung về giữ gìn và phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống Sóc Trăng. Ngoài ra, một số đề tài còn nghiên cứu về đặc trưng tín

ngưỡng tôn giáo, tình yêu quê hương, tinh thần đấu tranh bất khuất bảo vệ quê hương, bảo

vệ Tổ quốc của nhân dân Sóc Trăng. Một số đề tài cũng nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa

của các cộng đồng cư dân Sóc Trăng, các tác giả đã làm sáng tỏ về tiến trình phát triển của

tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Sóc Trăng.

31

Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu một số hội thảo, hội nghị, cũng như các văn bản

liên quan đến giải pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở Nam Bộ nói chung và Sóc Trăng

nói riêng. Các văn bản đều khẳng định: “Bản sắc văn hóa tạo nên sự khác biệt giữa các

quốc gia và các nhóm dân tộc. Gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa góp phần tạo thêm sức

mạnh cho quốc gia, dân tộc”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW), “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người

Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.v.v..

Tuy nhiên, các nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay không nhiều. Chủ yếu chỉ nghiên cứu về văn hóa

về bản sắc dân tộc nói chung, về bản sắc văn hóa Việt Nam cũng như vai trò của toàn cầu

hóa tới văn hóa, về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Nam Bộ cũng như những

giải pháp mang tính chiến lược chứ chưa có tính cụ thể. Hơn nữa, các tác giả nghiên cứu,

phân tích,… phần đông ở góc độ văn hóa, văn hóa học, dân tộc, dân tộc học hay những

nghiên cứu liên ngành chứ ít có nghiên cứu nào thật sự chuyên sâu về góc độ triết học, các

học giả nghiên cứu về Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng từ góc độ

triết học lại càng không có.

Ngoài ra, các nghiên cứu về văn hóa, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng của các tác giả cũng chưa làm sáng tỏ về tinh thần yêu quê hương, đất nước của

cộng đồng dân tộc Sóc Trăng, ý thức cố kết cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa trong văn hóa

Sóc Trăng, lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa Sóc Trăng, tinh

thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử của cộng đồng dân tộc Sóc Trăng, tinh thần

lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa trong văn hóa Sóc Trăng... cũng như thực trạng của

việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng, hay nêu ra những vấn đề

đặt ra, những nguyên nhân trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng hiện nay và những giải pháp nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở

tỉnh Sóc Trăng hiện nay. Đây chính là vấn đề còn bỏ ngỏ mà chúng tôi cần nghiên cứu, làm

sáng tỏ và đưa ra những giải pháp về vấn đề: “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”.

32

1.3.2. Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả, luận án tiếp tục triển khai,

nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau:

Thứ nhất, làm rõ các khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa, giữ gìn, phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc.

Thứ hai, thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng

và những vấn đề đặt ra.

Thứ ba, những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay (thuộc vùng Tây Nam Bộ Việt Nam), thấy

được những điểm chung trong cộng đồng văn hóa Việt Nam và cũng làm sáng tỏ sự

khác biệt bản sắc văn hóa các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay. Từ đó, tác giả đưa

ra những giải pháp nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng

hiện nay.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Khi nghiên cứu những tài liệu liên quan đến luận án, chúng tôi nhận thấy những tài

liệu liên quan đến luận án là vô cùng phong phú, đa dạng giúp ích rất nhiều khi tác giả thực

hiện luận án của mình.

Đã có rất nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu về văn hóa, giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc. Một số tác giả với cách tiếp cận văn hóa, bản sắc văn hóa dưới dạng hệ

thống - cấu trúc nhằm xác định những đặc trưng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Không lấy

văn hóa nước ngoài làm tiêu chuẩn cho bảng giá trị của bản sắc văn hóa Việt Nam. Một số

tác giả lại đề cập bản sắc văn hóa dưới dạng tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới, hoặc phát triển văn hóa với tư cách nền

tảng tinh thần của xã hội, đã luận giải sâu sắc về phát triển văn hóa với tư cách nền tảng

tinh thần của xã hội... Ngoài ra, đã có những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc ở Nam Bộ nói chung và những công trình nghiên cứu về giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng nói riêng. Như: Đặc trưng tín ngưỡng tôn

giáo và sinh hoạt văn hóa của các cộng đồng cư dân Nam Bộ; Giữ gìn và phát huy giá trị

văn hóa Khmer Nam Bộ; Tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cư dân Nam Bộ

trong quá trình phát triển... Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Rô Băm của dân tộc Khmer Nam

33

Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng; Văn hóa phi vật thể các dân tộc tỉnh Sóc Trăng; Báo cáo

tổng hợp vai trò của đình, chùa trong đời sống của người Kinh ở tỉnh Sóc Trăng...Tuy

nhiên, những nghiên cứu trên chỉ xoay quanh các khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa, giá

trị truyền thống, toàn cầu hóa kinh tế và xây dựng nền văn hóa dân tộc…chứ chưa làm sáng

tỏ về Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng hiện nay từ góc độ triết học.

Do vậy, khi nghiên cứu đề tài Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng

hiện nay chúng tôi nỗ lực làm sáng tỏ Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc

Trăng hiện nay dưới hệ quy chiếu của các nguyên lý, quy luật và các phạm trù triết học về

một vùng văn hóa cụ thể của đất nước. Từ đó thấy được những thành tố chính tạo nên một

vùng văn hóa là gì? những thành tố chính tạo nên sự khác biệt nét văn hóa là gì? nhận diện

bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng là gì? cũng như những giải pháp cho

vấn đề nghiên cứu sinh đang nghiên cứu.

Về mặt lý luận, chúng tôi không tham vọng xây dựng một hệ thống lý luận văn hóa,

bản sắc văn hóa hoàn thiện hay có những sáng tạo nhảy vọt mà chỉ học hỏi, kế thừa các học

giả đi trước những quan điểm, những khái niệm…phù hợp coi đó là công cụ thiết yếu cho

nghiên cứu của mình. Từ việc tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam tới các quan điểm của

Đảng về văn hóa cũng như tồn tại xã hội của vùng đất Sóc Trăng dẫn đến sự phong phú, đa

dạng trong nét đặc thù và bản sắc văn hóa nơi đây. Từ đó cũng thấy được, ngoài những yếu

tố tốt đẹp, được coi là bản sắc riêng cần được giữ gìn, phát huy và trân trọng góp phần làm

phong phú nền văn hóa Sóc Trăng. Ngoài ra, cũng cần nhìn nhận bản sắc văn hóa đang dần

bị phai mờ, biến dạng bởi những yếu tố văn hóa ngoại lai. Chúng ta cần tỉnh táo để “gạn

đục khơi trong”, sao cho văn hóa vừa có tính dân tộc khoa học và đại chúng, góp phần làm

cho văn hóa Sóc Trăng nói riêng cũng như văn hóa Việt Nam nói chung vừa phong phú, đa

dạng vừa đậm đà bản sắc dân tộc.

34

Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc

2.1.1. Về văn hóa

Ở phương Đông thời kỳ cổ đại, từ “văn hóa” đã có mặt trong đời sống ngôn ngữ

Trung Quốc từ rất sớm. Theo Hán tự thì Văn: đẹp; Hóa: trở thành, biến cải. Văn hóa: làm

cho cái gì đó trở nên có giá trị.

Ở phương Tây cổ đại, thuật ngữ Cultural được tìm thấy trong tác phẩm của Ciceron

(106-43Tr.CN), Philosophiae est anima coluerunt - triết học là gieo trồng linh hồn “Cần

phải rèn luyện và vun xới trí tuệ như người nông dân vun xới đất đai”. Về sau, từ này

chuyển nghĩa nói về tính chất khai trí, tính chất có giáo dục, có học vấn của bản thân con

người. Như vậy, trong quan niệm của phương Tây cổ đại, văn hóa là sự giáo dục làm phong

phú tinh thần, trí tuệ của con người.

Định nghĩa của Edward Burrwett Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy, xuất bản ở

Luân Đôn năm 1871, được xem là định nghĩa đầu tiên có tính kinh điển về văn hóa: “Văn

hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng,

nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con

người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã hội” (Huyền Giang dịch, trong Văn hóa

nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội năm 2001, tr.13). Trong định nghĩa trên,

khái niệm văn hóa đã được mở rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống con người và xã hội,

nó hàm chứa một phức thể các thành tựu, các giá trị mà con người với tư cách là thành viên

của xã hội đạt được, bao trùm trên nhiều lĩnh vực.

Trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, quan niệm về “văn hóa” không chỉ là mối

quan hệ với tự nhiên của con người mà còn là bản chất lao động xã hội của mỗi cá nhân,

“hành vi lịch sử đầu tiên”. Văn hóa là khái niệm phản ánh tổng thể, sự thể hiện ra và sự phát

huy những năng lực bản chất người, trong tất cả các dạng thứ tồn tại hoạt động của con

người và là sự phản ánh tổng thể các hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá

35

trình thực tiễn - lịch sử - xã hội của mình. Ph.Ăngghen viết: “Mỗi bước tiến lên trên con

đường văn hoá lại là một bước tiến tới tự do”[85, tr.164]. Nói văn hóa là nói tới con người,

nói tới việc phát huy “những năng lực bản chất” của con người nhằm hoàn thiện con người

và hoàn thiện xã hội.

Năm 1982, UNESCO - tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên Hợp Quốc, đã

tổ chức Hội nghị các quốc gia UNESCO ở Mexico về chính sách văn hóa và công bố

“Tuyên ngôn” trong đó văn hóa đã được thống nhất định nghĩa như sau:

Văn hóa là tổng thể những nét đặc thù về tinh thần và vật chất, về trí tuệ và xúc

cảm quy định tính cách của một xã hội hay của một nhóm xã hội. Văn hóa bao

gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của (tồn tại

- being) người, những hệ thống giá trị, những truyền thống và tín ngưỡng. Văn

hóa đem lại cho con người khả năng suy xét (Reflect-phản tư) về bản thân.

Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt - con người,

có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà

con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án

chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm kiếm

không mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt

qua cả giới hạn của bản thân [147].

Ngày nay, tất cả các quốc gia thuộc Liên Hợp Quốc đều tán đồng và lấy định nghĩa

này làm cơ sở để thảo luận và quyết định những vấn đề về văn hóa. Theo định nghĩa, khái

niệm văn hóa được đề cập tới theo ba cấp độ khác nhau. Ở mức đơn giản nhất, văn hóa

được xem là văn học và nghệ thuật. Phức tạp hơn, ngoài văn học và nghệ thuật, văn hóa còn

bao gồm cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin

của con người, tức là hệ thống các giá trị tinh thần của con người hay một nhóm người

trong xã hội. Ở phạm vi bao quát nhất, văn hóa bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần

của một xã hội hay một nhóm xã hội. Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng

biệt. Văn hóa là tổng thể nói chung, những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo ra - văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.

Ở Việt Nam, cũng đã có nhiều định nghĩa cho khái niệm văn hóa được đề xuất. Ngay

từ đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa:

36

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và

phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.

Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của

nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi

hỏi của sự sinh tồn [90, tr.431].

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu bao hàm toàn bộ những sản

phẩm vật chất và tinh thần được sáng tạo ra bởi con người, nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự

sinh tồn và mục đích cuộc sống của con người - được sống xứng đáng với danh hiệu và vị

thế của con người.

Nhận thức về vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng, ngay từ đầu năm 1943,

Đảng Cộng sản Đông Dương đã công bố Đề cương văn hóa Việt Nam. Trong phần đầu của

Đề cương, Đảng ta nêu rõ: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị,

văn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà

còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh

hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”[21, tr.363]. Đề cương

văn hóa của Đảng năm 1943 đã đưa ra ba nguyên tắc vận động cách mạng trên mặt trận văn

hóa: “Dân tộc hóa”; “Đại chúng hóa” và “Khoa học hóa”. Ba nguyên tắc đó gắn bó một

cách mật thiết với nhau và tác động biện chứng, tạo nên một nền văn hóa mới với những

phẩm chất mới của con người Việt Nam.

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định văn hoá - tư tưởng là

một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất

và cách mạng khoa học kỹ thuật. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội năm 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011 đều xác định nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, do vậy, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là sự

hòa hợp hữu cơ bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em. Trong nền văn hóa đa dân tộc của

đất nước, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng của mình. Những bản sắc văn hóa riêng

37

đó ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam

thống nhất và củng cố sự thống nhất quốc gia dân tộc. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

của tất cả các dân tộc anh em sẽ phát huy sức sáng tạo phong phú, sức mạnh tổng hợp của

các cộng đồng dân tộc trên đất nước ta, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong tính thống nhất

của nền văn hóa Việt Nam, củng cố sự thống nhất dân tộc, đồng thời tạo cơ sở để thực hiện

bình đẳng dân tộc ở nước ta. Chủ trương của Đảng ta về giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa riêng của các dân tộc, trên đất nước ta là nhất quán: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ

nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo

đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy

những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước” [31, tr.232].

Khi bàn về văn hóa, Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa mang tính chất thao

tác luận, khác với những định nghĩa trước đó, theo ông đều mang tính tinh thần luận: Không

có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là

một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ đó

biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc

người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác

nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người

tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ

khúc xạ ở một tộc người khác. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định văn hóa: “Là

một đề tài bao la như con người và sự sống” [38, tr.10].

Trong cuốn Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng văn hóa, Vũ Khiêu đã đưa ra

quan niệm: “Văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng của con người, của xã hội… văn hóa

là trạng thái con người ngày càng tách rời khỏi giới động vật để khẳng định những đặc tính

của con người”[68, tr.8]. Trong cuốn Về văn hóa và văn minh Hồ Sĩ Quý nhận định: “Văn

hóa là biểu hiện của phương thức sống của con người, là tổng hòa mọi giá trị người”[107,

tr.32]. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa

khác về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần

do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa

con người với môi trường tự nhiên và xã hội”[120, tr.10]. Định nghĩa này đã nêu bật 4 đặc

trưng quan trọng của văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh.

38

Qua các định nghĩa vừa dẫn có thể thấy, văn hóa là hoạt động sáng tạo của con người

mà bản thân hoạt động đó cũng như sản phẩm của nó thể hiện và thúc đẩy sự phát triển

những năng lực bản chất người của con người, hoàn thiện xã hội theo hướng chân, thiện,

mỹ. Và do đó, văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng của con người, của xã hội, tạo ra

những giá trị nhằm thúc đẩy đời sống xã hội.

Như vậy, văn hóa là vấn đề đã được nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới và ở Việt Nam.

Về mặt lý luận, cho đến nay đã có nhiều định nghĩa về khái niệm văn hóa đã được đề xuất.

Xuất phát từ góc độ tiếp cận của đề tài luận án và trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những

nội dung cơ bản, xuyên suốt qua các định nghĩa văn hóa đã được phổ biến và sử dụng rộng

rãi trong và ngoài nước, chúng tôi đồng thuận quan niệm: Văn hoá là toàn bộ những giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, xã hội -

lịch sử của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.

2.1.2. Về bản sắc văn hóa

Cụm từ “Bản sắc” có nguồn gốc từ Hán - Việt, với nội dung chính là cái gốc, cái căn

bản, cái cốt lõi… còn hình thức chính là sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó

ra ngoài. Trong tổng thể các giá trị văn hóa truyền thống sẽ có những giá trị cốt lõi, ổn định,

tinh túy nhất làm căn cứ so sánh văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác, đó chính là

cái riêng không thể hòa lẫn của mỗi dân tộc.

Bản sắc văn hóa là những nét đặc trưng, độc đáo và cơ bản nhất để nhận diện một

nền văn hoá và để phân biệt nền văn hoá này với một nền văn hoá khác. Có thể hiểu bản sắc

văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng, bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn

tại, phát triển trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản

sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc

thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn.

Trong văn kiện trình Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh nhiệm vụ làm cho văn

hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội

sinh quan trọng của phát triển bền vững. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều

kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ,

năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công

39

dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhiệm vụ đặt ra cho phát triển văn hóa là tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ giá trị

mới của con người và văn hóa Việt Nam, trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao tính văn hóa trong

mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân cũng như năng lực hội

nhập văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Theo tác giả Phan Ngọc: “Nói đến bản sắc văn hóa là nói đến cái mặt bất biến của

văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử… Nói đến bản sắc văn hóa là nói đến cái phần

ổn định trong văn hóa, nhưng cái phần ổn định này không phải là một vật, mà là một quan

hệ, cho nên không thể nhìn thấy nó bằng mắt được”[104, tr.136].

Đối với Trần Đình Hượu, ông không sử dụng thuật ngữ “Bản sắc văn hóa” như số

đông các nhà nghiên cứu. Thay vào đó, ông sử dụng cụm từ “Đặc sắc dân tộc của văn

hóa”, ông cho rằng:

Văn hóa ... phải trải qua một thời gian lâu dài để bản lĩnh sáng tạo được nâng

cao... khi con người tích lũy được tri thức về nó, làm chủ nó,... tức là khi tạo ra

được “cái vốn” văn hóa riêng thì mới bắt đầu có thể nói đến đặc sắc dân tộc của

văn hóa... cho đến thời cận, hiện đại, văn hóa phát triển có quy mô thế giới, văn

hóa các dân tộc thâm nhập vào nhau. Cho nên tìm dáng vẻ dân tộc trong văn hóa

hiện đại... là khó[66, tr.235-236].

Không có một khái niệm cụ thể được đưa ra để lý giải nội hàm của cụm từ “Đặc sắc

văn hóa”. Ông viết, đặc sắc dân tộc của văn hóa làm cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét

độc đáo, phân biệt với các dân tộc khác… Đặc sắc văn hóa một dân tộc là bằng chứng về

bản lĩnh sáng tạo của dân tộc đó. Sáng tạo chịu sự quy định của những điều kiện sống

(hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh lịch sử…). Tất cả bản lĩnh sáng tạo là ở chỗ thích ứng với

những điều kiện đó, tìm ra cách chế ngự, khắc phục khó khăn, lợi dụng thuận lợi để phát

triển.v.v..

Chúng tôi có cái nhìn đồng nhất với Trần Đình Hượu về cụm từ “Đặc sắc dân tộc của

văn hóa” như khái niệm đồng nghĩa với “Bản sắc văn hóa dân tộc”. Bởi vì “Đặc sắc dân

tộc của văn hóa” làm cho mỗi dân tộc có những nét đặc thù, riêng biệt, riêng lẻ nhất định

40

của một cộng đồng, mà cộng đồng người ấy dễ dàng nhận ra nhau thông qua những sinh

hoạt vật chất hoặc tinh thần hàng ngày. Đặc sắc văn hóa của một dân tộc chịu sự quy định

của tồn tại xã hội (phương thức sản xuất vật chất, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên,

hoàn cảnh địa lý, chủng tộc và mật độ dân cư.v.v..).

Theo Trần Văn Bính trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá là yếu tố

mang sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc đó vượt qua những thử thách của lịch sử, bởi

vì: “Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc

sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của

dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán

so với bản thân mình trong quá trình phát triển”[7, tr.77-78]. Chính vì vậy, việc giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng và có

những giải pháp cụ thể trong quá trình phát triển.

2.1.3. Về bản sắc văn hóa dân tộc

Bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành do sự hội tụ của nhiều nhân tố, nếu xét từ

góc độ tồn tại xã hội đó là điều kiện địa lý tự nhiên khác biệt, khí hậu, lịch sử đấu tranh bảo

vệ Tổ quốc, hoặc do nguồn gốc chủng tộc mà tạo nên những đặc trưng về tâm lý. Mặt khác,

bản sắc văn hóa dân tộc có thể hình thành do phương thức hoạt động kinh tế, đặc điểm dân

cư.v.v..

Bản sắc văn hóa dân tộc của các tộc người, là những nét đặc thù, độc đáo phản ánh

đời sống của các cộng đồng tộc người; là biểu hiện cụ thể, sinh động, phong phú, đa dạng

của vản sắc văn hóa dân tộc - quốc gia, bao gồm: Bản sắc văn hóa vật thể; Bản sắc văn hóa

phi vật thể; Bản sắc văn hóa dân tộc - quốc gia. Trong từ điển Tiếng Việt “bản sắc” ở đây là

màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính bản sắc dân tộc. Trong các công trình

nghiên cứu của giới khoa học, các cụm từ “Bản sắc văn hóa dân tộc” và “Bản sắc dân tộc

của văn hóa” được sử dụng như những khái niệm đồng nghĩa. Bản sắc văn hóa dân tộc là

những cái thuộc về bản chất, cốt yếu và cái sắc thái đặc thù, riêng biệt, đã hình thành bền

vững trong tồn tại xã hội và ý thức xã hội của một dân tộc. Vì vậy, có thể hiểu: Bản sắc văn

hóa dân tộc là những giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, cô đọng nhất, bền vững nhất,

nó thể hiện đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, bản lĩnh tâm hồn, lối sống, tư duy và cả

41

những khát vọng của dân tộc đó, là sắc thái cội nguồn, phẩm chất riêng biệt của mỗi dân

tộc và làm cho dân tộc này không thể lẫn với dân tộc khác.

Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta quan tâm từ rất sớm. Tại đại hội VI

của Đảng, sau khi tổng hợp nhiều bài tham luận của các đại biểu dự đại hội, Đảng ta đã

chính thức đưa vào Nghị quyết Xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm

đà bản sắc dân tộc. Tư tưởng về xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc luôn

được Đảng ta chú trọng trong đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Bước sang đại hội

VII, vấn đề xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc một lần nữa lại được Đảng ta

quan tâm, kiên trì với quan điểm Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta tiếp tục quan điểm Xây dựng một

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng xác định, đó là một trong mười nội

dung quan trọng mà đảng và nhân dân ta phải tập trung xây dựng. Quan điểm này cũng

được Đảng ta duy trì xuyên suốt trong các kỳ đại hội Đảng tiếp theo. Điều đó thể hiện sự

quan tâm của đảng ta trong lĩnh vực văn hóa, quyết tâm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, xứng tầm với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta.

Tác giả cuốn Về bản lĩnh văn hóa Việt Nam, Hồ Sỹ Vịnh lý giải: “Bản sắc văn hóa

dân tộc là một phạm trù rộng, bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt nhiều đặc điểm của

một dân tộc để tạo nên một bộ mặt, hình dáng, cốt cách của dân tộc ấy không đồng nhất với

các dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới”[137, tr.289]. Tác giả Phạm Duy Đức cũng

đề xuất một quan niệm tương tự rằng, bản sắc văn hóa dân tộc là: “Các giá trị đặc trưng tiêu

biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là

dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác”[41, tr.167]. Hà

Văn Tấn quan niệm: “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị văn hóa mà mỗi dân

tộc chấp nhận”[115, tr.153]. Có thể khẳng định, bản sắc văn hóa của dân tộc không phải là

một yếu tố cấu thành một nền văn hóa, mà nó là phạm trù khẳng định về chất, chất lượng

của một nền văn hóa.

Trong cuốn sách Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, Ngô Đức Thịnh đã đề

xuất quan niệm: “Bản sắc văn hóa dân tộc là một tổng thể các đặc trưng của văn hóa, được

hình thành, tồn tại, phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc, các đặc trưng văn

hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn”[122, tr.29]. Hồ Bá Thâm

42

nhận định: “Bản sắc văn hóa dân tộc, đó là một kiểu tổ hợp, kết hợp những phẩm chất,

những giá trị văn hóa nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh hồn, sức sống bền vững của dân

tộc có những nét ưu trội hơn một số dân tộc khác, mang tính ổn định trong quá trình lịch sử

đấu tranh của dân tộc đó”[118, tr.19]. Theo Hoàng Thịnh, nói tới bản sắc văn hóa dân tộc

chính là nói tới yếu tố đặc sắc, yếu tố bền vững của một nền văn hóa một dân tộc, bản lĩnh,

tâm hồn, lối sống, cách tư duy và cả những khát vọng của dân tộc ấy. Có thể coi “Bản sắc

dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc

trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp cho dân tộc đó giữ vững tính duy nhất, thống nhất và

nhất quán của bản thân mình trong quá trình phát triển”[124, tr.56].

Trong cuốn sách Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, khi bàn về vấn đề

“Bản sắc dân tộc trong văn hóa” Hoàng Trinh đã nêu ra một quan niệm, bản sắc dân tộc

trong văn hóa là: “Tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở

một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy

nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của bản thân mình trong quá trình phát triển…”[133,

tr.18-19].

Ở Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện qua quá trình dựng nước và giữ

nước, khi Tổ quốc bị xâm lăng nó được thể hiện qua câu nói khẳng khái của Nguyễn Trung

trực: “Chừng nào đất này hết cỏ thì mới hết người đánh tây”. Hay thông qua tác phẩm Lục

Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu, qua sự hy sinh anh dũng của biết bao chiến sĩ cách mạng yêu

nước. Tác phẩm Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã nói lên bản sắc của con dân Việt Nam,

bản lĩnh của dân tộc Việt Nam: “Nước chúng ta/Nước những người chưa bao giờ

khuất/Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Phẩm chất, lý

tưởng còn được thể hiện trong bài thơ Trăng trối của Tố Hữu: “Đường cách mạng, từ khi tôi

đã hiểu/Dấn thân vô là phải chịu tù đày/Là gươm kề tận cổ, súng kề tai...”. Hay ý chí chiến

đấu kiên cường của cả một dân tộc trong bài thơ Tâm sự của Tố Hữu: “Bạn hỏi vì sao đất

nước này/Ngày đêm khói lửa vẫn hăng say/Tóc tang lòng vẫn không cay đắng/Gánh nặng

đường xa chẳng chuyển lay?/Có lẽ nghìn năm đã dạn dày/Anh hùng xưa để giống hôm

nay/...”. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam không chỉ thể hiện qua tình yêu Tổ quốc, ý chí

sắt đá, mà còn được thể hiện qua những câu thơ đầy lãng mạn của nhà thơ Nguyễn Bính:

“...Van em em hãy giữ nguyên quê mùa/Như hôm em đi lễ chùa/Cứ ăn mặc thế cho vừa

43

lòng anh!/Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u mình với chúng mình chân quê...”. Bản

sắc văn hóa dân tộc Việt Nam còn được thể hiện qua câu chuyện tình của nhà thơ Giang

Nam – bài thơ Quê Hương: “Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường/Yêu quê hương qua

từng trang sách nhỏ/“Ai bảo chăn trâu là khổ?”/Tôi mơ màng nghe chim hót trên

cao”.v.v..Do vậy, khi nghiên cứu về lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam,

chính người Pháp và người Mỹ cũng thấy rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc đáng nể,

không thể suy luận tường minh bằng khoa học, rõ ràng, có gì khác so với các dân tộc Á

Đông mà chính người Mỹ cũng phải tìm hiểu thông qua các nhà xã hội học, thông qua trắc

nghiệm tâm lý.

Nhà văn Sơn Nam lại dùng thuật ngữ “quốc hồn”, “quốc túy”, để nói về bản sắc văn

hóa dân tộc. Trong cuốn Đình miễu và lễ hội dân gian Miền Nam tác giả cho rằng: “ …Dân

tộc tính là tính chất đặc biệt của dân tộc. Dân tộc ta có gì khác, trong thói ăn nết ở cách xây

dựng nhà cửa, trong nếp suy tư?”[100, tr.268].

Như vậy, có thể thấy, bản sắc văn hóa dân tộc nói chung không phải là một đối tượng

vật chất địa hình, đất đai, sông suối…của mỗi nước đều khác nhau, nhưng tự chúng không

thể tạo thành bản sắc dân tộc. Nói tới bản sắc dân tộc, cũng tức là bản sắc văn hóa của dân

tộc là nói đến con người, đến một cộng đồng dân tộc ổn định, hình thành nhân dân một

nước. Mỗi dân tộc tạo ra bản sắc văn hóa của mình trên cơ sở những điều kiện, hoàn cảnh

địa lý, dân cư… và lịch sử của dân tộc mình. Chính vì có được bản sắc văn hóa của dân tộc

mà dân tộc ta không bị đồng hóa với văn hoá Trung Hoa, quân nhà Minh... sau này là thực

dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược.

Từ sự phân tích, kế thừa một số cách hiểu, cách lý giải khái niệm bản sắc văn hóa dân

tộc nêu trên, chúng tôi có thể đưa ra quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc như sau: Bản sắc

văn hóa dân tộc là tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, đặc trưng, tiêu biểu,

phản ánh tính chất, tính cách, phẩm chất của mỗi dân tộc, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt

văn hoá của dân tộc này với dân tộc khác. Những giá trị đó tiềm ẩn trong tâm thức, trong

cốt cách của con người và được thể hiện ra trong mọi mặt đời sống, trong mọi hoạt động và

quan hệ của con người và trong di sản văn hóa của mỗi dân tộc.

Có thể xem bản sắc văn hóa dân tộc là một phạm trù lịch sử và có tính mở, nghĩa là có

sinh thành, vận động, biến đổi và phát triển. Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc

44

không chỉ do sự “vun trồng” nội bộ, mà còn bằng sự tiếp biến các giá trị văn hóa từ bên

ngoài dân tộc. Trong lịch sử, không hề có nền văn hóa nào hoàn toàn bản địa. Các nền văn

hóa đều có sự vay mượn của nhau, bổ sung cho nhau. Những cái vay mượn đó được hấp

thụ và biến hóa trên cơ sở cái vốn có của một dân tộc trong cuộc sống hiện thực sao cho phù

hợp với tồn tại xã hội, địa lí, dân cư… từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đó hình thành bản

sắc văn hóa dân tộc.

Nền văn hóa dân tộc là nguồn vốn quý báu, thiêng liêng của một dân tộc. Vậy, giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cái gì? Đó chính là: chủ nghĩa yêu nước, ý thức độc lập

tự chủ; tinh thần đoàn kết; tinh thần lạc quan, nhân nghĩa; tinh thần cần cù, sáng tạo, chịu

đựng gian khó; tinh thần khoan dung, tiếp nhận có chọn lọc trong giao thoa văn hóa. Từ

những giá trị quý báu đó, trải qua biến thiên của lịch sử, sau hàng ngàn năm đấu tranh để

tồn tại và phát triển đang được nhân dân ta kế thừa, giữ gìn, phát huy và phát triển trong

điều kiện lịch sử mới. Tuy nhiên, giữ gìn không có nghĩa là chúng ta đóng cửa mà chúng ta

cần mở cửa tiếp nhận những gía trị văn hóa tốt đẹp từ bên ngoài, bổ sung vào nền văn hóa

của dân tộc.

Khi nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi

tiếp cận cả hai khái niệm, đó là khái niệm dân tộc tộc người (Kinh, Hoa, Khmer, Chăm…),

và khái niệm dân tộc quốc gia (Việt Nam, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc…). Khái niệm

dân tộc tộc người dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt

chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh

hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng

bộ lạc; có sự kế thừa và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc, bộ tộc

và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng đó. Khái niệm dân tộc

quốc gia dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững, hợp thành nhân dân của một

quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn

hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là

một vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với mỗi dân tộc. Như vậy, có thể thấy bản sắc văn hóa

dân tộc làm cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo, riêng biệt phân biệt với các dân

45

tộc khác. Theo nghĩa này, có thể nói, còn bản sắc văn hóa dân tộc là dân tộc còn; mất bản

sắc văn hóa dân tộc là mất dân tộc.

2.2. Về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

2.2.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa: quan niệm cơ bản

Trong điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng hiện nay, việc

giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều đó

không chỉ là ý thức, trách nhiệm mà còn là lòng tự tôn dân tộc, bởi “Như nước đại Việt ta từ

trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Tuy nhiên, chúng ta cần suy xét cái gì nên giữ gìn,

cái gì nên phát huy cho phù hợp với xu thế thời đại và dân tộc. Tại Hội nghị cán bộ văn hóa

ngày 30-10-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nói khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục

cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra...”, với hàm ý những bản sắc nào tốt,

phù hợp với dân tộc thì nên giữ lại, còn những gì tồn tại đã lâu, thành cái riêng, cái bản sắc

nhưng không phù hợp, không có giá trị thì nên loại bỏ.

Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu đó là sự bảo tồn, lưu giữ những giá trị văn

hóa của dân tộc, kịp thời ngăn chặn ảnh hưởng xấu từ những yếu tố phản văn hóa, không

phù hợp, có hại cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Còn phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc được hiểu là sự thể hiện, làm cho những tinh hoa văn hóa ấy được sống động, phát

triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát

triển văn hóa, giảm nghèo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy còn là sự tiếp thu các giá

trị văn hóa của các quốc gia khác làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Ở một góc độ khác, có thể hiểu giữ gìn có nghĩa là nghiên cứu, khai thác cái vốn có

nhưng không phải phục cổ, máy móc; không những chỉ bảo vệ nhằm ngăn chặn sự xâm hại

từ nhiều phía, mà còn phải bảo tồn để nuôi dưỡng, vun đắp cho nó mãi mãi trường tồn.

Còn phát huy, tức là cái tốt, cái đẹp được chọn lọc, trau chuốt, nâng cao, nhân rộng, cải

tiến. Và, kế thừa, phát huy cũng đồng nghĩa với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc cái tốt đẹp

từ dân tộc khác, cải biến cho phù hợp với dân tộc mình. Như vậy, giữ gìn, phát huy không

được khô cứng, bảo thủ, bất biến mà phải linh hoạt, nhạy bén có kế thừa, có chọn lọc.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam chính là những giá trị bền vững, những tinh hoa

của cộng đồng 54 dân tộc anh em, được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng

nước và giữ nước. Trong đó, hệ giá trị tinh thần cốt lõi được vun đắp cho các thế hệ mai

46

sau, được thể hiện trong Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa

VIII (1998). Chính là:

Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức

cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan

dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh

tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong

các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Từ Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII chúng tôi

xác định: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng

đồng gắn kết cá nhân -gia đình-làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa

tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị

trong lối sống” chính là giá trị tổng quát, là cái chung của mọi cộng đồng các dân tộc Việt

Nam. Còn: “Các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” chính là giá trị riêng biệt,

được thể hiện cụ thể trong từng cá nhân, cộng đồng, địa phương riêng lẻ.

Tỉnh Sóc Trăng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, là vùng thổ nhưỡng có độ màu mỡ cao.

Sóc Trăng cũng có hệ thống kênh rạch, tiếp giáp biển và rừng ngập mặn ven biển. Với

những đặc điểm điều kiện tự nhiên đó, các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng đã có mối quan hệ gắn

bó máu thịt, cùng trải qua bao thăng trầm biến cố và phát triển của lịch sử, phải thường

xuyên chống kẻ thù xâm lược và thiên nhiên khắc nghiệt, quá trình sống xen kẽ đã dẫn đến

sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người. Điều đó, đã tạo nên những bản sắc văn

hóa riêng biệt và độc đáo của những con người nơi đây. Đó là: Tinh thần yêu quê hương,

đất nước; ý thức cố kết cộng đồng; Lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý; Tinh

thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử; Tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý

nghĩa. Việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng sẽ góp phần phát triển

kinh tế đất nước nói chung, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,

văn minh”.

Ngày nay văn hóa, xã hội có mối quan hệ biện chứng đối với kinh tế, an ninh, chính

trị của mỗi quốc gia. Có thể thấy khi xã hội không công bằng sẽ đe dọa đến sự phát triển

kinh tế, châm ngòi nổ cho các xung đột về an ninh, chính trị. Văn hóa chính là hành trang

của mỗi người, dân tộc, quốc gia, khu vực, con người không ngừng tạo ra các giá trị văn

47

hóa, biến đổi văn hóa phù hợp với từng hoàn cảnh, từng thời đại để phát triển xã hội. Trong

thế kỷ XXI, cùng với những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là sự phát triển

mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin… sự phát triển mất cân bằng, thiếu

hài hòa càng làm cho loài người nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết vai trò, vị trí của văn hóa

trong mọi hoạt động sáng tạo của con người.

Văn hóa có vai trò thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị của đất nước.

Vai trò của văn hóa thực chất là nhằm nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng và tố chất văn hóa

khoa học của toàn dân tộc, tạo ra động lực tinh thần, trí tuệ và tư tưởng cho phát triển kinh

tế, tiến bộ xã hội. Giá trị này của văn hóa ngày càng nổi bật trong xây dựng hiện đại hóa đất

nước hiện nay. Nhận thức sâu sắc bản chất và vai trò của văn hóa trong phát triển và tiến bộ

xã hội, ngay từ những năm 1943 Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

đặc biệt quan tâm đến vai trò của văn hóa trong xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Xây

dựng: “Nền văn hóa mới góp phần trực tiếp vào sự phát triển nhân cách, tạo ra đời sống tinh

thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ và sáng

tạo”[29, tr.225].

Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu thành văn

hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người: văn hóa trong sản xuất, văn

hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt

gia đình, ngoài xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế… Nói cách khác, hàm

lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao

nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu. Văn hóa là

hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực

của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm

cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, bền lâu. Có thể khẳng định, chính các giá trị văn

hóa sẽ giúp cho sự trường tồn của một dân tộc ở mọi khía cạnh.

Trong vài thập kỷ trước đây, có một số quốc gia cho rằng: chỉ cần tăng trưởng kinh tế

với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử dụng khoa học công

nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết quả cho thấy, các quốc gia đó

đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, nhưng khi cơ sở hạ tầng thay đổi đã vấp

phải sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng, sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về

48

đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và về văn hóa ngày càng tăng. Cần phải thấy được vai trò của

cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Đây là quan niệm phát triển nhanh, bằng

cách hy sinh các giá trị văn hóa - xã hội cho sự phát triển và, trên thực tế quan niệm đó đã bị

phá sản.

Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mô hình: tăng trưởng kinh tế, cùng với việc

phát triển tài nguyên con người, bảo vệ môi trường sinh thái, các giá trị cốt lõi của một dân

tộc. Mô hình này, tuy tăng trưởng kinh tế chậm, nhưng lại bền vững, ổn định. Đây là quan

niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, được các nhà khoa học, các chính

khách dần thừa nhận. Từ đó, cho rằng: phát triển là một quá trình nội sinh và tự hướng tâm

của sự tiến hóa toàn cục, đặc thù cho mỗi xã hội. Vì vậy, ở đây có sự tương đồng về nghĩa

và khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa. Văn hóa bao trùm tất cả các

phương diện của hoạt động xã hội.

Lịch sử Việt Nam hàng ngàn năm qua, từng chứng kiến vận mệnh của dân tộc nhiều lần đối

diện với sóng gió tưởng chừng không thểvượt qua. Thù trong, giặc ngoài mưu toan xâm

lược dân tộc, không chỉ bằng bạo lực mà còn bằng cả vũ khí đồng hóa ồ ạt, dai dẳng. Chính

trong những thời điểm thăng trầm nhất của lịch sử, văn hóa Việt Nam vẫn giữ sức sống

mãnh liệt và không ngừng phát triển. Thông qua quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc

ta đã tôi luyện, chắt lọc được những di sản văn hóa cao quý, bao gồm di sản văn hóa tinh

thần và di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa tinh thần của dân tộc ta là những giá trị văn

hóa bắt nguồn từ tinh thần nhân bản Việt Nam. Đó là nguồn năng lượng nuôi dưỡng tinh

thần, rèn luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách người Việt Nam qua bao thế hệ. Đó là lòng

yêu nước và chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, lòng nhân ái, khoan dung, biểu hiện ở

lòng vị tha,“Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”; “Thương người như thể

thương thân”; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; Em là con gái đồng chiêm/Gieo mạ cấy

lúa, lại thêm trồng màu/Ươm tơ, dệt vải nhuộm màu/May áo bền chắc theo trâu cày bừa;

Muốn no thì phải chăm làm/Một hột thóc vàng, chín hột mồ hôi…, tình cảm cộng đồng sâu

sắc và đức tính cần cù lao động sản xuất, tinh thần tôn sư trọng đạo từ ngàn xưa của dân tộc

ta.v.v..

Bản sắc văn hóa dân tộc giúp con người nhận ra vẻ đẹp tinh thần sâu xa của dân tộc.

Nó thể hiện tầm cao và chiều sâu của mỗi dân tộc, là yếu tố để cho thế giới hiểu rõ bản chất

49

của dân tộc mình. Khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc, tìm ra cội nguồn truyền thống

không tách rời quá trình hiện đại hóa, quốc tế hóa. Sự phát triển khoa học công nghệ ngày

càng cao, sự bùng nổ thông tin càng lan tỏa bao nhiêu thì sự gắn bó giữa truyền thống với

hiện đại, dân tộc với quốc tế càng sâu sắc và chặt chẽ bấy nhiêu. Chúng ta có một nền văn

hóa giàu bản sắc, nên đã lưu giữ và phát huy được sức mạnh của truyền thống và chính sức

mạnh truyền thống là sức mạnh bảo vệ được văn hóa dân tộc, trên cơ sở đó, đã chọn lọc và

tiếp nhận nhiều giá trị văn hóa nhân loại.

Trong mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa, quan điểm duy vật biện chứng đã luận

giải một cách khoa học rằng, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với

nhau. Kinh tế là tiền đề vật chất quyết định sự nảy sinh và vận động của văn hóa. Nội dung,

bản chất, tính chất của văn hóa bị quy định bởi những phương thức sản xuất nhất định.

Phương thức sản xuất vật chất kinh tế thay đổi tất yếu kéo theo sự thay đổi của phương thức

sản xuất tinh thần văn hóa cũng thay đổi. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Lịch sử tư tưởng

chứng minh cái gì, nếu không phải chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo

sản xuất vật chất”[83, tr.625].

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa chính là mấu

chốt của chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam. Kinh tế chính là cơ sở, điều kiện cho

sự hình thành, phát triển văn hóa, muốn tiến lên Chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế

và văn hóa. Đảng ta luôn luôn khẳng định phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa,

gắn với tiến bộ, công bằng xã hội, là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất,

cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nền tảng

đó đã giúp cho nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm

lược, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ

quốc. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, trong quá trình lãnh đạo cách mạng,

Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về văn hóa, được thể hiện thông qua các

chỉ thị, nghị quyết, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa

XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển

50

bền vững đất nước”, … góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo

đức, lối sống và nhân cách của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Những năm gần đây, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, về bản sắc văn

hóa. Điều đó vừa phản ánh vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, vừa cho thấy một

“khoảng trống” về văn hóa trong khi những chuyển biến kinh tế - xã hội quá nhanh, đã tạo

ra những “thiếu hụt văn hóa” trong đời sống ở rất nhiều lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực

tưởng như đã định hình.

Mỗi dân tộc trên thế giới, không phân biệt chủng tộc, màu da, thể chế chính trị đều có

những hệ thống giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của riêng mình. Các dân tộc trên thế

giới khi nhắc đến giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc mình, họ luôn tự hào về

các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể được hình thành từ các thế hệ ông cha…Điều đó minh

chứng cho sự trường tồn của văn hóa, của lòng tự hào với quá khứ của nhân dân các dân tộc

trên thế giới. Lòng tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc sẽ tạo nên vị thế của văn hóa quốc gia

trong dòng chảy của văn hóa các dân tộc trên bình diện quốc tế. Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên

suốt gắn kết quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, mất văn hóa là mất luôn nguồn

cội. Do vậy, ngày nay các quốc gia đang nỗ lực giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân

tộc mình, khẳng định “vị thế” dân tộc từ đó, thông qua nghệ thuật, những bài hát ca ngợi vẻ

đẹp của quê hương, đất nước, thông qua ẩm thực, điện ảnh, âm nhạc, thời trang…làm bàn

đạp quảng bá hình ảnh của dân tộc họ ra khắp thế giới, mỗi công dân là một sứ giả văn hóa,

(ở châu Á, Hàn Quốc chính là một ví dụ điển hình). Nếu như người đông Á thường xem

cần cù, yêu lao động là giá trị hàng đầu của sự làm người, thì người Mỹ lại coi tinh thần tự

lực cánh sinh mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù cũng được coi trọng nhưng chỉ đứng thứ

ba sau tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân.

Một số học giả quan niệm rằng, sự phát triển của các giá trị, và sự hội nhập của chúng,

tạo ra một nền văn hóa đặc sắc và phong phú trong lịch sử và vì thế phụ thuộc vào kinh

nghiệm và sức sáng tạo của nhiều thế hệ. Truyền thống văn hóa phản ánh thành tựu con

người tích tập được trong quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất

của cuộc sống. Giá trị văn hóa truyền thống là những gì tốt đẹp thuộc về tư tưởng, chuẩn

mực đạo đức, ứng xử, phong tục, tập quán, sáng tạo văn học nghệ thuật... được cộng đồng

thừa nhận, gìn giữ từ đời này sang đời khác…Những giá trị đó không phải nhất thành bất

51

biến, trái lại, cùng với dòng chảy thời gian, nó luôn được bổ sung, bồi đắp những giá trị

mới, thích ứng với sự biến đổi của cuộc sống, như nền tảng vững chắc để một dân tộc đi xa,

hành trình cùng nhân loại.

2.2.2. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Từ sau “Thập kỷ thế giới về phát triển văn hóa” (1986-1995), trên hành trình tìm kiếm

con đường phát triển của mình, các quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến vấn đề văn hóa

trên tinh thần mới. Bởi văn hóa là sức mạnh nội sinh liên kết các cộng đồng người, là cội

nguồn của một dân tộc. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là sự cần thiết mang

tính tất yếu, khách quan, bởi lẽ xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của văn

hóa và bản sắc văn hóa đối với sự tồn tại, phát triển đất nước. Ngoài ra, đứng trước nhiều

nguy cơ, thách thức do mặt trái của kinh tế thị trường, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,

của toàn cầu hóa... đang gây ra, con người ngày càng phải chú trọng tới việc giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Ở Việt Nam, trong báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Xây dựng

môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[33, tr.127]. Tại Hội nghị ngoại giao lần thứ

25, tháng 11 năm 2006, Đảng đã xác định: ngoại giao văn hóa cùng với ngoại giao chính trị

và ngoại giao kinh tế được xác định là ba trụ cột của ngoại giao Việt Nam. Trên cơ sở

những kinh nghiệm đạt được, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược ngoại giao

văn hóa đến năm 2020, xác định ngoại giao văn hóa là nhiệm vụ chung của cả nước.

Người ta dễ dàng nhận ra, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,

khi ranh giới giữa các quốc gia bị lu mờ, không gian kinh tế được thu hẹp thì giao lưu văn

hóa trở thành một hiện tượng tất yếu, tạo điều kiện cho người dân thụ hưởng tốt hơn những

thành tựu văn hóa chung của nhân loại. Hơn nữa, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ

thông tin, của internet đã mở ra cơ hội để người dân các quốc gia có thể hiểu và tiếp cận với

những nền văn hóa, phong tục tập quán, đời sống văn hóa vật chất, tinh thần từ nhiều nền

văn hóa khác nhau. Từ đó tạo điều kiện chia sẻ, hợp tác, mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu

tinh hoa văn hóa của các nước trên thế giới, làm phong phú giá trị văn hóa dân tộc, thông

qua đó chúng ta giới thiệu văn hóa Việt Nam giàu bản sắc với bạn bè thế giới.

52

Cũng phải thừa nhận rằng, trong xu thế toàn cầu hóa thì việc mở cửa, giao lưu, hội

nhập văn hóa ngày càng trở nên sâu rộng ở mọi quốc gia, bản lĩnh văn hóa Việt Nam nói

chung và bản lĩnh văn hóa dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đang phải đứng

trước những thách thức lớn, liên quan đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

Tuy nhiên, mọi sự tồn tại đều có giá trị riêng của nó. Giữ gìn bản sắc văn hóa trong xu thế

toàn cầu hóa là một quá trình bao gồm nhiều mối quan hệ biện chứng, trong đó bao hàm sự

giao lưu, tiếp biến và sự đào thải. Và, vấn đề trên còn phụ thuộc vào bản lĩnh văn hóa của

mỗi dân tộc, của ý thức giữ gìn, cố kết cộng đồng của chính cộng đồng dân tộc đó.

Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vấn đề giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa trong điều kiện hiện nay đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao trình độ học

vấn của nhân dân, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp nhận và quảng bá hình

ảnh văn hóa đặc sắc Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Trên lĩnh vực vǎn hóa, các hoạt động

sáng tạo có bước phát triển mới không chỉ trung thành với “điển xưa, tích cũ”, chung thành

với một mô tuýp có sẵn mang tính định hướng. Hiện nay, nhiều bộ sưu tập công phu từ kho

tàng vǎn hóa Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu,

giữ gìn và phát huy những giá trị cốt lõi của dân tộc. Số đông vǎn nghệ sĩ đã được rèn luyện

và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước; thông tin đại

chúng ngày càng phát huy vai trò trong đời sống tinh thần xã hội, giao lưu vǎn hóa với nước

ngoài từng bước được mở rộng. Thể chế văn hóa mới, khuyến khích nhân dân lao động

tham gia sự nghiệp xây dựng vǎn hóa và tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và

phát huy bản sắc vǎn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới cùng với việc mở

rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thu thành quả trí tuệ của loài người, từ đó

sáng tạo nên một nền văn hóa mới. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục

tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Bản sắc văn hóa là dấu hiệu cơ

bản đặc trưng của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Việt Nam là đất

nước nông nghiệp, chiếm khoảng 80% dân số. Như vậy, văn hóa truyền thống Việt Nam

không phải là văn hóa thành thị, mà đặc điểm cơ bản của văn hóa truyền thống Việt Nam là

văn hóa làng xã, văn hóa miệt vườn, sông nước. Phải thừa nhận rằng nông thôn Việt Nam,

53

với cấu kết làng xã theo kiểu Phương Đông là nơi bảo lưu rất bền vững các giá trị văn hóa

dân tộc. Tuy nhiên, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang là xu thế nổi bật của thời đại, bao trùm

lên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Không có một quốc

gia - dân tộc nào có thể tự tách ra, đứng ngoài xu thế đó.

Toàn cầu hóa đang cuốn theo tất cả các lĩnh vực cả đời sống xã hội. Văn hóa chịu sự

tác động mạnh mẽ của xu thế ấy và góp phần quan trọng đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa.

Bản thân văn hóa không chỉ thể hiện ở những sản phẩm văn hóa tinh thần, trong các hoạt

động văn hóa tinh thần mà nó ẩn chứa bên trong tất cả các hoạt động đời sống xã hội, trong

tất cả các nhóm dân cư, trong đời sống tâm lý, tình cảm, tư tưởng của con người, trong các

thể chế chính trị - xã hội của đất nước... Có nghĩa là, không có ở đâu, không có lĩnh vực

nào, mặt nào của xã hội mà chúng ta không nhìn thấy văn hóa. Lĩnh vực sản xuất vật chất

đơn thuần, hay lĩnh vực sản xuất tinh thần cũng hàm chứa trong nó những nội dung văn

hóa, bao giờ cũng phản ánh đặc tính văn hóa của con người, của cộng đồng người trong lĩnh

vực sản xuất đó. Phải thừa nhận rằng một sản phẩm vật chất hay phi vật chất bao giờ cũng

kết tinh những giá trị văn hóa nào đó của chính nó. Một trường đại học, không chỉ có chức

năng giáo dục mà còn hàm chứa những giá trị văn hóa, giá trị cốt lõi, sứ mạng của nhà

trường và mối quan hệ văn hóa giữa nhà trường với các đối tác, các đơn vị liên kết đào tạo,

các đơn vị giáo dục khác. Do vậy, văn hóa giao tiếp, ứng xử… sẽ tạo nên thương hiệu của

cơ sở giáo dục điều này là vô cùng quan trọng.

Ở một khía cạnh khác, hiện nay trên thế giới, không thể phủ nhận chủ nghĩa tư bản vẫn là

thế lực hùng mạnh cả về kinh tế và quân sự. Chủ nghĩa tư bản vẫn đang tìm cách lợi dụng

toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, ngoại giao, du học, truyền hình, nghệ thuật, phim ảnh, viện

trợ… để áp đặt các giá trị văn hóa của chúng đối với tất cả các quốc gia khác, thông qua đó

chủ nghĩa tư bản thực hiện âm mưu đồng hóa dần về văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Trong lịch sử, ông cha ta đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho hậu thế về việc phát huy

vai trò của văn hóa dân tộc, sức mạnh nội sinh trong giữ nước, chống ngoại xâm, khi Tổ

quốc bị xâm lăng thì sức mạnh đó được thể hiện rõ nét nhất. Chúng ta có thể nhắc đến Khai

quốc công Lý Thường Kiệt (1019 -1105) với câu nói bất hủ, khẳng định chủ quyền và sự

trường tồn của dân tộc trong Nam quốc sơn hà: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, tiệt nhiên

định phận tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

54

Bảo vương Trần Bình Trọng (1259 -1285), khi bị kẻ thù bắt vẫn khẳng khái, thể hiện bản

lĩnh, tình yêu mãnh liệt giành cho Tổ Quốc, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn: “Ta thà làm quỷ

nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc/Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì

mà phải hỏi lôi thôi”. Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 - 1308), với khát vọng cơ đồ xã

tắc vững bền và nhân tâm an lạc: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, non sông nghìn thuở

vững âu vàng”. Quan phục hầu Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu Ức Trai, đã thấm nhuần

quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý trời, hiểu được giá

trị cốt lõi này thì dân tộc sẽ trường tồn. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muốn tồn tại dài

lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu, bởi dân có yên

thì nước mới thịnh. Nguyễn Trãi chỉ rõ trong Bình Ngô Đại Cáo: “Việc nhân nghĩa cốt ở

yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Cho tới Bắc Bình vương - Quang Trung hoàng

đế Nguyễn Huệ (1753-1792) thì vai trò của văn hóa dân tộc càng được thể hiện mạnh mẽ:

“Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó

phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Quang Trung

hoàng đế sau khi hay tin quân Thanh tràn biên giới phía Bắc vào xâm lược nước ta, tại hội

thề Quang Trung đã có bài Dụ tướng sĩ. Thông qua Lời Dụ, Quang Trung đã khẳng định rõ

mục đích của cuộc tiến quân là để bảo vệ các truyền thống văn hóa dân tộc như các tục để

tóc dài, nhuộm răng đen; quyết tâm đánh giặc đến cùng (đánh cho kẻ xâm lược không kịp

trở tay, không còn mảnh giáp) và khẳng định chủ quyền quốc gia của người Việt Nam:

“Đánh cho lịch sử muôn đời biết rằng nước Nam anh hùng này là có chủ”. Ngày nay,

chúng ta nhất là lớp trẻ đã không hiểu hết ý nghĩa của từ “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để

đen răng”, vì truyền thống văn hóa dân tộc như các tục lệ để tóc dài hay nhuộm răng đen

giờ đã thay đổi khác trước, song lời Dụ tướng sĩ của Quang Trung nhắc nhở các thế hệ con

cháu mai sau giá trị, bản sắc, cội nguồn của dân tộc mình; hay sự cần cù trong lao động, sản

xuất Lúa khô nước cạn ai ơi/Rủ nhau tát nước chờ trời còn lâu;Mẹ ơi đừng có âu sầu/Quay

tơ đánh ống làm giàu mấy hơi!… dưới góc độ văn hóa, có thể thấy sức mạnh bên trong, nền

tảng tinh thần của dân tộc mà tiêu biểu là tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tinh

thần chống ngoại xâm, trong lao động, sản xuất... được khơi dậy và phát huy cao độ,

tạo thành sức mạnh chiến thắng kẻ thù.

55

Chúng ta cũng có quyền tự hào về các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã được

UNESCO công nhận như: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Vịnh Hạ Long,

Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Hội Gióng, Ví giặm Nghệ Tĩnh, Ca trù, Hát xoan, Đờn ca tài tử

Nam Bộ, Nhã nhạc cung đình Huế, Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thành Nhà

Hồ, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long.v.v.. Trong bối cảnh tình hình thế giới,

khu vực và trong nước vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn, đặc biệt sự du nhập

của văn hoá Phương Tây đã làm cho văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một, ảnh

hưởng ít nhiều, thì việc phát huy những giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hóa trong điều kiện

hiện nay lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.

Tại Sóc Trăng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một yêu cầu cấp

thiết. Bởi lẽ, nơi đây đang lưu giữ một kho tàng văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể vô

cùng phong phú. Trong giai đoạn 2014 - 2018, UBND tỉnh đã xếp hạng thêm 10 di tích lịch

sử - văn hóa cấp tỉnh; hiện nay, tỉnh đã có 3 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh

mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, như: Nghệ thuật sân khấu Rô băm của người

Khmer ở Sóc Trăng; Lễ hội nghinh Ông và nghệ thuật sân khấu Dù kê của người Khmer ở

Sóc Trăng. Tuy nhiên, nền văn hoá cổ truyền Sóc Trăng đang đứng trước thử thách của một

thời kỳ phát triển mới do những cơ sở kinh tế - xã hội trước đó đã bị thu hẹp nhường chỗ

cho những yếu tố văn hóa mới của xã hội hiện đại, cùng với đó là những yếu tố phản văn

hoá, ngoại lai đang làm lu mờ các giá trị đạo đức, giá trị văn hóa như kiến trúc nhà cửa,

phong tục tập quán, ma chay, cưới hỏi, đi tu báo hiếu, cúng giường.v.v.. đã tác động rất lớn

đến nền văn hóa bản địa Sóc Trăng. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng

và Nhà nước cũng như chính quyền địa phương cần chính sách để giữ gìn phát huy các giá

trị văn hóa nói trên của nhân dân Sóc Trăng.

2.3. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc ở Nam Bộ

2.3.1. Về bản sắc văn hóa dân tộc ở Nam Bộ

Theo các di chỉ khảo cổ học, cách đây hàng chục vạn năm, trên vùng đất Nam Bộ đã

có người sinh sống. Bước sang hậu kỳ thời đại đá mới - sơ kỳ đồ đồng, cư dân vùng này đã

tạo dựng nên một nền văn hóa phát triển dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước. Căn cứ vào

những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc vào khoảng cuối thời kỳ đồng thau, sơ kỳ

56

đồ sắt ở phía Nam của Lâm Ấp (Chămpa), tương ứng với vùng đất Nam Bộ ngày nay, đã

xuất hiện một quốc gia có tên gọi là Phù Nam.

Từ thế kỉ XVII, trên vùng đất Tây Nam Bộ bắt đầu xuất hiện lớp cư dân mới - lưu dân

người Việt, vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, lần lượt lớp trước, lớp sau bằng nhiều con đường

họ đến vùng đất định cư mới, lập làng. Trong đó, đa số là những người nông dân và thợ thủ

công nghèo ở các tỉnh phía Bắc vì không chịu nổi những tai họa do cuộc chiến tranh giữa

hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn mà ra đi.

Người Hoa bắt đầu di dân đến Nam Bộ từ năm 1679, khi chúa Nguyễn Phúc Tần cho

các tướng “Phản Thanh phục Minh” Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên tới Mỹ

Tho, Biên Hoà và Sài Gòn để khai khẩn, định cư. Năm 1680, Mạc Cửu và những người

Hoa tuỳ tùng đến Chân Lạp, chiêu tập lưu dân lập ra 7 thôn xã từ Vũng Thơm đến Cà Mau,

đến năm 1708 cũng xin thần phục chúa Nguyễn.

Người Khmer chỉ thực sự định cư ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ XVI. Đến Nam Bộ nơi họ

chọn để định cư là các vùng đất cao ở Nam Bộ, tạo thành các khu vực cư trú tập trung ở Sóc

Trăng, Trà Vinh, An Giang và rải rác ở các nơi khác. Bộ máy hành chính được thiết lập đến

cấp srok (xứ), và được nối dài với bộ máy tự quản ở cấp phum (xã), phum (buôn) và một

mạng lưới chùa chiền dày đặc. Theo nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng: “Người Khmer

lúc đầu đến cư trú ở Nam Bộ chủ yếu trên những giồng đất cao, ở đó khoảng 5 -10 gia đình

hợp thành một Phum, nhiều Phum họp lại thành một Sóc. Phum, Sóc gắn liền với các ngôi

chùa. Phum, Sóc là đơn vị cư trú xã hội truyền thống.”[19, tr.74]. Trong khuôn khổ bộ máy

cai trị của các vua chúa nhà Nguyễn, Phum Sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã bị

tích hợp vào các xã ấp chính thức của chính quyền. Mạc Đường đã nhận xét: “Cho đến thế

kỷ XVII, người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn sống khu biệt và không có mối

quan hệ hành chính với bất cứ quốc gia nào thời đó”[45, tr.41]. Xã hội truyền thống của

người Khmer trước đây là sự kết hợp giữa tổ chức tự quản của cộng đồng với sự tham gia

của tổ chức nhà chùa. Sự đan xen hỗn hợp này đã tạo cho xã hội truyền thống của người

Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long một đặc tính xã hội riêng biệt khác với nhiều tộc

người khác.

Khi nghiên cứu về vấn đề này, Lý Tùng Hiếu cho rằng đặc trưng đồng bằng sông

nước và sự tiếp biến các yếu tố văn hoá của người Chăm, người Khmer, người Hoa vào văn

57

hoá Việt trong vùng đã tạo nên một diện mạo đặc sắc của văn hóa Nam Bộ. Do điều kiện

địa lý sông nước đặc thù, nên cách thức hoạt động sản xuất của cư dân trên vùng đất phì

nhiêu rộng lớn này mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời cũng đa

dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Có thể thấy, tồn tại xã hội nơi đây chủ yếu là

sông, kênh rạch, đất phù sa, các giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn

trũng thấp... về khí hậu, đây là vùng tương đối điều hoà, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không

có mùa lạnh...đã tác động nhiều đến phương thức sinh hoạt vật chất. Phần lớn Nam Bộ sản

xuất trái cây, trồng cây nông nghiệp, lúa nước, cũng như các nghề đánh bắt, nuôi trồng và

chế biến thuỷ sản. Trong giao thương, do có nhiều sông, kênh, rạch nên chợ nổi đã trở thành

một nét sinh hoạt văn hoá rất đặc thù của vùng sông nước Nam Bộ. Về ẩm thực, để cân

bằng với khí hậu nóng nực, người Việt nơi đây rất chuộng ăn canh, và do tiếp biến các món

canh chua của người Khmer, nên các món canh chua Nam Bộ cực kỳ phong phú. Do nguồn

thuỷ sản dồi dào, thành phần thuỷ sản như cá, tôm, cua, rùa, rắn, nghêu, sò, ốc, hến giữ vai

trò quan trọng trong cơ cấu bữa ăn.

Về văn hóa tinh thần, phần đông cư dân người Kinh nơi đây bắt nguồn từ Bắc Bộ,

Trung Bộ, người Hoa bắt nguồn từ Trung Hoa và đồng bào Khmer từ Campuchia. Do vậy,

nơi đây là một vùng đất đa tộc người và có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa rõ nét. Đối với

người Kinh, có sự tiếp nối truyền thống của người Kinh ở đồng bằng Trung và Nam Bộ,

người Kinh ở Nam Bộ cũng dành ưu tiên cho đạo Phật, có tượng Phật Di Lặc, có chùa Bà

Chúa sứ (An Giang), Mẹ Nam hải, Đông hải (Bạc Liêu) nổi tiếng.v.v.. Đạo Phật kết hợp

với đạo Lão, đạo Khổng, đạo Kitô, đạo Thánh Mẫu... Các lễ hội của người Khmer bao gồm

hai loại chính là lễ hội nông nghiệp - ngư nghiệp và lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo.v.v.. Người

Hoa ở Nam Bộ phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên. Hệ thống thần

thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp. Các thần thánh được cộng đồng thờ cúng

gồm: Bà Thiên Hậu, Quan Thánh Đế Quân, Ngọc Hoàng, Ông Bổn, Khổng Tử... Ngoài ra,

phần ít người Chăm Nam Bộ hầu hết đều theo đạo Hồi (Islam) với những lễ hội tín ngưỡng

- tôn giáo đặc sắc.

Như vậy, điều kiện địa lý tự nhiên đa dạng và phong phú, khiến cho các tộc người

Nam Bộ đều mau chóng hình thành và phát huy nhiều sở trường văn hóa mới. Và quá trình

58

giao lưu tiếp biến văn hóa sôi động đã khiến cho trong văn hóa của các tộc người Hoa,

Khmer, Chăm… ở Nam Bộ đều có các yếu tố của văn hóa Việt.

2.3.2. Về Điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội tỉnh Sóc Trăng

Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang của tiếng Khmer

mà ra. Srok tức là “xứ”, “cõi”, Kh'leang là “kho”, “vựa”, “chỗ chứa bạc”. Srok Kh'leang là

xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là “Sốc-Kha-Lang” rồi sau đó

thành Sóc Trăng. Là một tỉnh thuộc Tây Nam Bộ, Sóc Trăng nằm trong vùng hạ lưu sông

Hậu, trên trục lộ giao thông thủy bộ nối liền thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây

Nam bộ.

Về vị trí địa lý, Sóc Trăng có vị trí tọa độ: 9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ -

106023’ kinh Đông. Diện tích tự nhiên 3.311,7629 km2 (chiếm khoảng 1% diện tích cả

nước và 8,3% diện tích của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long). Đường bờ biển dài 72 km

và 03 cửa sông lớn: Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông. Phía Bắc và Tây Bắc

giáp tỉnh Hậu Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông Bắc giáp tỉnh Trà Vinh,

phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông.

Tỉnh Sóc Trăng có 11 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Sóc Trăng, 02 thị xã, 08

huyện với 109 xã, phường, thị trấn. Khí hậu Sóc Trăng được chia làm hai mùa rõ rệt là mùa

mưa và mùa khô. Địa lý hành chính của Sóc Trăng nhiều lần thay đổi theo sự biến động của

lịch sử:

Thời chúa Nguyễn, năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1752), sai Chưởng cơ

Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra phủ Gia Định. Năm 1708, Mạc Cửu xin cho xứ Hà Tiên được

thuộc chúa Nguyễn Phúc Chu, đến 1714 chúa Nguyễn thành lập trấn Hà Tiên. Năm 1732,

Chúa Nguyễn Phúc Chu (1725-1738), đặt châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ tại Cái Bè.

Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1756), đặt đạo Đông Khẩu, Tân Châu và Châu

Đốc: Nguyễn Cư Trinh nghị tâu dời dinh Long Hồ qua xứ Tầm Xoi, lấy xứ Sa Đéc đặt làm

đạo Đông Khẩu, cù lao Tiền Giang làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo

Châu Đốc. Lúc này vùng Sóc Trăng nằm trong đạo Châu Đốc.

Thời triều Nguyễn, năm 1802, vua Gia Long (1802-1819), chia Gia Định thành ngũ

trấn. Năm 1834, vua Minh Mạng (1820-1840), chia Gia Định thành lục tỉnh. Năm 1852, đời

59

vua Tự Đức (1848-1883), Gia Định được chia thành lục tỉnh. Năm 1859, Gia Định được

chia thành 3 quận gồm 6 tỉnh.

Thời Pháp thuộc, năm 1859 Pháp chiếm thành Gia Định, 1862 triều đình Nguyễn cắt

nhượng cho 3 tỉnh miền Đông, 1867 Pháp chiếm 3 tỉnh miền. Tháng 6 năm 1871, vùng Cà

Mau nhập qua hạt Sóc Trăng tách khỏi Rạch Giá nhưng 6 tháng lại hoàn lại Rạch Giá. Ngày

18-12-1882 lấy một phần hạt Sóc Trăng cùng với một phần vùng Cà Mau thuộc Rạch giá

lập tỉnh Bạc Liêu. Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Pháp bãi bỏ hạt, thành lập tỉnh. Sóc Trăng

là một trong 21 tỉnh thuộc Nam Kỳ.

Thời kỳ trước năm 1975, năm 1956, Nam Bộ được chia thành 21 tỉnh, Sóc Trăng đổi

thành tỉnh Ba Xuyên (chưa có huyện Vĩnh Châu, đã cắt 10 xã Kế Sách về Phong Dinh).

Như vậy, địa danh Sóc Trăng tồn tại suốt 80 năm. Năm 1958, Ba Xuyên nhận lại quận Kế

Sách thuộc Phong Dinh. Năm 1690, Ba Xuyên nhận lại quận Vĩnh Châu thuộc Bạc Liêu.

Năm 1971, Ba Xuyên là một trong 28 tỉnh thuộc Nam Kỳ và giữ nguyên tên đến giải

phóng 1975.

Thời kỳ sau giải phóng, sau giải phóng tỉnh Ba Xuyên được đổi tên thành tỉnh Sóc

Trăng. Năm 1976 tỉnh Sóc Trăng nhập với tỉnh Cần Thơ thành Hậu Giang. Tỉnh Sóc

Trăng chính thức đi vào hoạt động vào đầu tháng 4/1992. Ngày 24/9/2008, Chính phủ

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 02/NĐ-CP, điều chỉnh địa giới

hành chính huyện Mỹ Tú và thành lập thêm huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Ngày 25

tháng 8 năm 2011, Chính phủ ra Nghị quyết số 90/NQ-CP thành lập thị xã Vĩnh Châu và

các phường thuộc thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính

phủ ra Nghị quyết 133/NQ-CP quyết định chuyển huyện Ngã Năm thành thị xã Ngã Năm

thuộc tỉnh Sóc Trăng.

Về dân số, theo Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở, thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng

4 năm 2019 của Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung Ương (Nhà xuất bản

Thống kê tháng 7/2019). Sóc Trăng có Tổng dân số được tính theo đơn vị hành chính là:

1.199.000 ngàn người. Trong đó, dân tộc Kinh là: (774.807 ngàn người), các dân tộc còn lại

dân tộc Hoa, Khmer là: (424. 846 ngàn người). Trong đó, Nam: (653.597.922 ngàn người);

Nữ: (601.731 ngàn người); Thành thị: (388.550 ngàn người); Nông thôn: (811.103 ngàn

người). Cụ thể:

60

Người Khmer có mặt khá sớm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói chung và địa bàn

Sóc Trăng nói riêng. Là địa phương có dân số người Khmer đông nhất so với các tỉnh khác

trong cả nước. Người Khmer ở Sóc Trăng thường sống quần cư, tập trung ở một số địa

phương. Địa phương có đông người Khmer là huyện Vĩnh Châu (52,3%), Mỹ Xuyên

(26,5%), huyện Mỹ Tú (31%).

Người Hoa ở Sóc Trăng là một bộ phận trong tổng số gần 01 triệu người Hoa hiện

đang cư trú và làm ăn sinh sống trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Năm 1695 Mạc Cửu không

chịu khuất phục nhà Thanh, đã dẫn gia quyến xin Chúa Nguyễn vào khai khẩn đất Hà Tiên.

Đây là lớp lưu dân Hoa kiều đầu tiên đến khẩn hoang đất Sóc Trăng. Lớp người Hoa trong

thời kỳ đầu vì chính trị mà trở thành lưu dân phiêu bạt nơi xứ người hầu hết là tráng đinh.

Kế tiếp con cháu họ từ bên Tàu sang Sóc Trăng bằng đường biển, họ chở những lao động từ

Trung Quốc sang và chở những sản vật từ Sóc Trăng về như đường, sáp ong, tôm, khô cá

… Người Hoa ở Sóc Trăng chọn cư trú ở những nơi đông dân cư, cửa sông, hay những

vùng đất rộng…cộng với việc giỏi tính toán nên người Hoa giữ vai trò quan trọng trong lịch

sử hình thành cũng như phát triển kinh tế, xã hội vùng đất Sóc Trăng. Vị trí địa lí, kinh tế

Sóc Trăng nhìn chung khá thuận lợi cho việc giao thương, buôn bán của người Hoa bằng

đường thủy hướng ra biển đông và ngược dòng sông Mêkông đến Lào và Campuchia theo

hệ thống sông Hậu thông qua cửa sông Trần Đề và Vị Thanh tại Sóc Trăng.

Người Hoa ở Sóc Trăng cư trú tập trung ở thị xã, thị trấn và thị tứ. Hiện nay, thành

phố Sóc Trăng có số người Hoa đông nhất, sau đó là Mỹ Xuyên, Vĩnh Châu, Mỹ Tú. Hoạt

động kinh tế chủ yếu của người Hoa ở Sóc Trăng là thương nghiệp vụ, thủ công nghiệp và

sản xuất nông nghiệp. Ở Sóc Trăng là nơi có tỷ lệ người Hoa đông hơn nhiều so với tỉnh

khác trong khu vực Nam Bộ. Trong buổi đầu khai khẩn Sóc Trăng, người Hoa đã có những

đóng góp lớn cùng với những cộng đồng cư dân Việt đến trước đó. Chính lịch sử khai phá

vùng đất mới đã tạo nên một diện mạo văn hóa đặc thù của người Hoa tại Sóc Trăng.

Người Kinh ở Sóc Trăng là một bộ phận dân cư chiếm đa số. Cùng với quá trình mở

rộng và khai thác vùng đất Sóc Trăng, dân số người Việt nhanh chóng phát triển qua các

thời kỳ và tỷ lệ người Việt trong dân số của tỉnh cũng nhanh chóng thay đổi. Người Kinh ở

Sóc Trăng sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp một số ít cư dân đô thị sống bằng nghề

thương nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Đến Sóc Trăng cách nay khoảng 3 thế kỷ, khi

61

đó vùng đất này còn hoang vu, rừng rậm và đồng lầy, những di dân người Kinh đã từng

bước di dân, lập ấp. Người Kinh ở Sóc Trăng có mặt ở hầu khắp các huyện, xã, thị xã, thị

trấn, tại địa phương. Những tên ấp, tên làng của cư dân người Việt ở Sóc Trăng thời bấy giờ

có thể kể đến: “Bình Thạn Tây Thôn”, “Thới Bình Thôn”, “Bình Trung Thôn”, “An Hòa

Thôn”...đã nói lên niềm khát vọng và sự mong ước được sống an cư, lạc nghiệp trong hạnh

phúc an bình với người Khmer và người Hoa tại địa phương trong lịch sử cũng như hiện tại.

Về văn hóa, quan hệ giữa các dân tộc ở Sóc Trăng thể hiện rất phong phú, từ ngôn

ngữ, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo…Mỗi dân tộc ở Sóc Trăng như: Kinh, Khmer, Hoa đều

có những bản sắc văn hoá, vốn văn hóa truyền thống riêng. Tuy nhiên, trong quá trình

chung sống, ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa anh em giữa các dân tộc đã có quan hệ giao lưu

văn hóa mật thiết, nhiều địa phương ở Sóc Trăng có hiện tượng song ngữ. Tiếng nói giữa

các dân tộc có ảnh hưởng lẫn nhau, có thể dễ dàng tìm thấy trong ngôn ngữ người Việt ở

Sóc Trăng có không ít từ vựng tiếng Hoa, tiếng Khmer và ngược lại. Đôi khi trong giao tiếp

với nhau giữa các dân tộc ở Vĩnh Châu, người ta có thể bắt gặp trong một câu nói có ba từ

vựng của ba dân tộc ở nơi này.

Về điều kiện tự nhiên, Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng

gió mùa, hàng năm có mùa khô và mùa mưa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa

khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,80C, ít khi bị bão

lũ. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.864 mm, tập trung nhất từ tháng 8,9,10, độ ẩm

trung bình là 83%, thuận lợi cho cây lúa và các loại hoa màu phát triển.

Về giáo dục, theo báo cáo Tổng kết năm học 2018-2019 và nhiệm vụ năm học 2019-

2020 của ngành giáo dục và đào tạo, ngày 15 tháng 8 năm 2019 năm học 2018-2019. Tổng

số học sinh đến cuối năm học 2018-2019 là: 266.850 học sinh. Trung học phổ thông: 38

trường (37 công lập, 01 ngoài công lập)/710 lớp. Trung học cơ sở: 113 trường (111 công

lập, 02 ngoài công lập) /1.962 lớp. Tiểu học: 253 trường (249 công lập, 04 ngoài công lập)

/4.168 lớp. Mầm non - mẫu giáo: 136 trường (121 công lập, 15 ngoài công lập) /1.666

nhóm, lớp. Xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Đến nay, toàn tỉnh có 268/518 trường

(công lập) đạt chuẩn Quốc gia, đạt tỷ lệ 51,74%. (Mầm non: 63 trường; Tiểu học 130

trường; THCS 69 trường; THPT 06 trường). Đạt 86,23 % kế hoạch năm 2019. Ngành giáo

62

dục tỉnh Sóc Trăng với hệ thống mạng lưới trường mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp tiếp

tục phát triển phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.

Về kinh tế, thu nhập bình quân đầu người đạt 81,637 triệu đồng/năm (tăng bình quân

hàng năm là 5,8%). Tỷ lệ hộ nghèo chung toàn tỉnh đến cuối năm 2020 dự kiến còn khoảng

2,9%. Trong đó, hộ dân tộc thiểu số Khmer nghèo còn dưới 5,6%. (Nguồn: Báo Sóc Trăng,

Thứ Bảy, 19/01/2019).

Như vậy, do có nguồn gốc là những di dân người Hán ở duyên hải phía Nam Trung

Quốc nhập cư vào Việt Nam qua nhiều thời kỳ và kéo dài nhiều thế kỷ. Họ là những nông

dân, thợ thủ công, binh lính, thương nhân và cả một số quan lại vì nhiều lý do đã rời bỏ đất

nước Trung Hoa đi tìm nẻo mưu sinh. Người Hoa giỏi buôn bán và sản xuất tiểu thủ công

nghiệp, Còn lại là các dân tộc Kinh, Khmer, Chăm... đã cùng chung sức khai phá, xây dựng

và bảo vệ vùng đất này. Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử, ý thức dân tộc, tinh thần

yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm ngày càng được củng cố bền vững. Tinh thần yêu

nước của nhân dân Sóc Trăng được thể hiện ngay từ buổi khai phá, mở mang vùng đất mới

đã anh dũng chiến đấu chống lại bọn cướp biển Java (nay là Indonesia), quân xâm lược

Xiêm La (nay là Thái Lan), giữ gìn xóm làng quê hương, bảo vệ mồ mả ông bà tổ tiên.

Cùng với nghĩa quân Tây Sơn đánh 05 vạn quân Xiêm (do Nguyễn Ánh cầu viện) xâm lược

nước ta, làm nên chiến thắng lịch sử ở Rạch Gầm – Xoài Mút...sau này là Thực dân Pháp và

Đế quốc Mỹ xâm lược. Trải qua bao biến cố, khai hoang, chống chọi với tự nhiên, thú

dữ...các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng đã có mối quan hệ gắn bó, xây dựng nên tinh thần thân ái,

đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, tôn trọng nhau

trong sinh hoạt, phong tục tập quán, tự do tín ngưỡng.v.v..tạo nên cuộc sống hài hòa về kinh

tế, xã hội tạo nên nét văn hóa riêng đầy bản sắc của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng. Đặc

biệt, trong quan hệ giao tiếp, người dân lao động ở đây còn thể hiện đức tính quý trọng nhân

nghĩa, thẳng thắn, bộc trực, sống hào phóng, giản dị, tình cảm mộc mạc chân thành, đó là

bản tính đặc thù của người dân Sóc Trăng.

2.3.3. Về văn hóa các dân tộc tỉnh Sóc Trăng

Bản sắc văn hoá dân tộc chính là những thành tố được kết tinh và gắn bó của một

cộng đồng dân tộc từ thuở khai sơn, lập địa và được duy trì theo quá trình của lịch sử. Nằm

trong dòng chảy xuyên suốt của văn hóa Việt Nam, văn hóa Sóc Trăng với những nét đặc

63

thù của sự cộng cư ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer đã tạo nên những sắc thái văn hóa riêng

của vùng đất và con người nơi đây.

Nhân dân các dân tộc ở Sóc Trăng đã tạo dựng nên các giá trị văn hóa truyền thống

đặc sắc cả vật chất lẫn tinh thần, với các phong tục, tập quán đặc trưng từ sự giao thoa văn

hóa của ba dân tộc Kinh - Khmer - Hoa. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng biệt,

độc đáo như: Lễ hội Oóc om bóc - Đua ghe ngo Sóc Trăng; Lễ Dolta; Lễ Kathina (còn gọi

là lễ dâng bông và dâng y cà sa); Lễ Lôi Protip (Lễ thả đèn nước hay thả hoa đăng; Lễ Cúng

trăng; Tết Chol Chnăm Thmây; nghệ thuật sân khấu Rô băm, Dù kê; Lễ hội phật giáo Nam

tông mang đậm phong cách Khmer Nam Bộ, gắn liền với những ngôi chùa là những nét

kiến trúc đặc sắc nổi tiếng: chùa Dơi chùa Mã Tộc, Mahatup, chùa Đất Sét (Bửu Sơn tự),

chùa Khléang, chùa Chén Kiểu (Salon), chùa La Hán, chùa Bốn Mặt (Barai), chùa Phật

Học... Những ngôi chùa này, ngoài mục đích để cử hành các nghi lễ tôn giáo, còn là nơi lưu

giữ các giáo lý nhà Phật. Ngoài ra còn có đền thờ, đình, miếu, nhà thờ; lễ hội, ca múa, trình

diễn nhạc cụ dân tộc, trình diễn trang phục gia đình, trang phục sinh hoạt cộng đồng và

trang phục lễ hội của cộng đồng Kinh, Hoa, Khmer anh em.

Về phong cảnh, Sóc Trăng còn phong cảnh, kiến trúc, ẩm thực, canh tác, giao

thương vô cùng độc đáo: bánh Pía Sóc Trăng; bún nước lèo; lạp xưởng Vũng Thơm; bánh

cóng; bánh in; mè láo; bánh gừng; cảng biển Trần đề…Sóc Trăng còn nổi tiếng với cảnh

sông nước miệt vườn, với rất nhiều hệ thống vườn cây ăn trái, các cồn và cù lao như: cồn

Mỹ Phước, cồn Ấu, rừng ngập mặn nước ven biển - Cù lao Dung, rừng tràm Mỹ Phước -

khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng, trường Taberd Sóc Trăng… tạo nên các giá trị văn hóa

truyền thống đặc sắc. Ngoài ra, các giá trị văn hóa Sóc Trăng còn được hình thành từ lịch

sử khai hoang, lập ấp và kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Bản sắc văn hóa dân tộc ở

Sóc Trăng chính là giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, đều thể hiện những sắc

thái về văn hóa riêng biệt của tỉnh Sóc Trăng. Ngoài ra, bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc

Trăng còn là cơ sở củng cố lòng tự tôn, tự hào dân tộc cũng là nền tảng cho sự phát triển

bền vững tại Sóc Trăng.

• Văn hóa vật thể các dân tộc ở Sóc Trăng

Bản sắc văn hóa các dân tộc ở Sóc Trăng được hình thành từ sự phát triển chung của

đất nước, đồng thời được nuôi dưỡng từ lịch sử hình thành riêng biệt của các cộng đồng dân

64

tộc các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer nơi đây. Bản sắc văn hóa vật thể của các dân tộc ở Sóc

Trăng rất phong phú và đa dạng, như: đình, chùa, khu căn cứ cách mạng, đền thờ…được

hình thành từ sự cộng cư, khai hoang mở cõi của các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer tại vùng đất

mới này. Chính điều kiện tự nhiên, tồn tại xã hội đã góp phần hình thành bản sắc văn hóa

vật thể của các dân tộc ở Sóc Trăng.

Tính đến thời điểm hiện tại, loại hình văn hóa vật thể tỉnh Sóc Trăng có 42 di tích đã

được xếp hạng (8 di tích cấp quốc gia và 34 di tích cấp tỉnh), trong đó có 4 di tích của người

Hoa, 10 di tích của người Khmer và có 3 điểm du lịch được công nhận là điểm du lịch cấp

tỉnh (chùa Mahatup, Trung tâm Văn hóa triển lãm Hồ Nước Ngọt, Cơ sở sản xuất kinh

doanh Bánh Pía Tân Huê Viên).

Di tích lịch sử- văn hóa: Đền thờ Bác Hồ tại ấp Đền Thờ, xã An Thạnh Đông, huyện

Cù Lao Dung, ngôi Đền thờ Bác Hồ được xây dựng khang trang, mang đậm nét văn hóa

dân tộc và là niềm tự hào của người dân tỉnh Sóc Trăng. Khu Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng,

thuộc ấp An B, xã Mỹ phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, năm 1992 Bộ Văn Hóa -

Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã quyết định xếp hạng di

tích Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Chùa Đất Sét hay

còn gọi lạ Bửu Sơn Tự, được xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ 20 bởi nghệ nhân Ngô

Kim Tòng, với tình yêu và niềm đam mê kiến trúc tâm linh, nghệ nhân Ngô Kim Tòng đã

nặn hơn 1000 tượng Phật. Chùa Mahatup hay còn gọi là chùa Dơi, chùa có quần thể kiến

trúc đẹp và độc đáo bậc nhất tại Sóc Trăng. Sức thu hút của chùa Dơi là cảnh quan gần gũi

với thiên nhiên, với một quần thể kiến trúc mở, sự kết hợp hài hòa môi trường sống giữa

con người - thực vật - động vật đã gắn bó với nhau từ rất lâu đời. Chùa Sà Lôn hay còn gọi

chùa Chén Kiểu, là một ngôi chùa cổ thuộc hệ thống Phật giáo của người Khmer. Đây là

ngôi chùa có nét kiến trúc vô cùng độc đáo không chỉ tại Sóc Trăng mà chùa Chén Kiểu còn

nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ. Với cách thiết kế và xây dựng ngôi chùa nổi bật bởi các họa

tiết trang trí bên trong ngôi chùa được hợp thành do các mảnh vỡ của chén (đĩa) tạo thành.

Ngoài ra, người Kinh tại Sóc Trăng còn xây dựng Đình, miếu thờ Thành hoàng, phúc

thần, thần linh, và danh nhân sinh tiền có công xây dựng địa phương. Ở Sóc Trăng “Thành

hoàng” và “Phúc thần” do những người đi khai hoang đem từ quê hương cũ vào. Lưu dân

người Việt đến Phương Nam bằng đường biển, do vậy bất cứ đền miếu nào cũng thờ một vị

65

thần phù hộ người đi biển, thể hiện nhân sinh quan của những người mở cõi. Nếu những

ngôi chùa Chén Kiểu, chùa Dơi, chùa Mahatup… là biểu tượng văn hóa, tâm linh của cộng

đồng người Khmer Sóc Trăng, những cổ tự Hương sơn, Phật học là nơi gửi gắm tâm linh

của bà con người Kinh.. thì Đình thờ 5 ông là một trong những nơi thờ tự được bà con

người Hoa Sóc Trăng chiêm bái, vãn cảnh. Đình có tên là Võ Đế thánh điện, được xây dựng

vào năm 1760, với ý nghĩa đề cao tấm lòng trung nghĩa của con người.

Về hoạt động sản xuất: Do sinh sống chủ yếu ở vùng nông thôn với việc canh tác

lúa nước là nghề chính, vì vậy đại đa số cư dân Khmer ở Sóc Trăng làm nông nghiệp.

Canh tác lúa nước là sinh hoạt sản xuất chủ yếu, chiếm hầu hết dân số lao động. Ngoài ra,

người Khmer ở xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, Sóc Trăng còn có nghề dệt chiếu truyền

thống, chiếu ở Vĩnh Châu nổi tiếng nhờ sự khéo léo, tinh xảo qua đôi tay của bà con

Khmer. Ở Sóc Trăng, người Kinh sống cả ở thành thị và nông thôn, người Kinh ở vùng

nông thôn Sóc Trăng sống chủ yếu bằng nghề nông và cũng xem lúa nước là đối tượng

canh tác chính. Người Hoa thường sinh sống ở thành phố, thị xã chủ yếu buôn bán, thương

nghiệp và kinh doanh.

Về kiến trúc: kiến trúc chùa ở Sóc Trăng mang đậm bản sắc phật giáo và tín ngưỡng

dân gian Khmer. Khi xây chùa, người Khmer luôn tiến hành theo thiết kế truyền thống của

Phật giáo Nam tông và tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc xây dựng nghiêm ngặt. Khi xây

chùa, khuôn viên chùa được bao bọc bởi hàng rào xung quanh, được trang trí bằng các phù

điêu trong truyện dân gian, hoa lá thiên nhiên hoặc bánh xe luân hồi, điệu múa Apsara, hàng

rào thường có rắn thần Naga và tượng đầu thần Bốn Mặt… Theo nghiên cứu của Nguyễn

Tiến Dũng:

Chùa Khmer ở Nam Bộ có nhiều nét độc đáo so với chùa Bắc Bộ về kiến trúc,

cách bố trí hội họa. Cổng chùa, hình tượng chim thần Krut, có nguồn gốc từ Ấn

Độ còn gọi là Gadura, nữ thần Kâyno, chim thần Krut. Trong chùa, rắn là một

hình tượng đặc trưng của người Khmer Nam Bộ, điều này hơi khác so với văn

hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam. Cổng chùa cũng là điểm nhấn độc đáo, là

một thể hội tụ đủ về kiến trúc, điêu khắc, hội họa, trí sáng tạo giữa văn hóa

Bàlamôn giáo với văn hóa Phật giáo Nam Tông[19, tr.84].

66

Chánh điện (Pré-Vihear), thường nằm ở vị trí trung tâm trang trọng nhất, và thường

quay về hướng đông vì đây là hướng hành mộc, xét Ngũ hành theo Hà đồ thì đây là

hướng của sự sống, xanh tốt vào buổi sáng, hướng của mùa xuân sinh tài, nảy lộc. Đây

cũng là hướng đức Phật nhập thiền định dưới gốc cây Bồ đề và ngài đã đắc đạo, từ hướng

đông ngài đã nhìn thấy “ánh sáng của tám muôn bốn ngàn pháp môn đã chiếu sáng ba

cõi, rồi còn sâu tận a tì địa ngục”. Từ triết lý đó, hướng chánh điện của các ngôi chùa

Khmer luôn quay về hướng đông. Mái chùa Khmer cũng có kiến trúc và trang trí nổi tiếng

trong toàn bộ ngôi chùa.

Tượng đức Phật, không như chùa người Việt hay người Hoa, chùa của người

Khmmer chỉ thờ Phật Thích Ca, song không phải một loại tượng mà thường gồm năm hóa

thân khác nhau trong kiếp tu hành của Phật. Phổ biến nhất là kiếp Phật đắc đạo, lúc còn tu

hành, thiền định và khuyến thiện.

Do ảnh hưởng của Phật giáo, tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer ở Sóc

Trăng cũng như ở Đồng bằng Sông Cửu Long luôn gắn bó mật thiết với ngôi chùa. Theo

nghiên cứu của Phạm Thị Hương Hạnh: “Chùa là biểu tượng đặc trưng cho văn hóa dân tộc

Khmer, nơi rèn luyện đạo đức và nhân cách con người, cũng là nơi giáo dục cho thanh niên

người Khmer. Người Khmer xem chùa là nơi thiêng liêng, trang trọng, nơi tập trung những

gì tinh túy nhất của dân tộc”[49, tr.104]. Người Khmer xem ngôi chùa là trung tâm sinh

hoạt cộng đồng của Phum, Sóc. Bên cạnh mục đích là nơi tu hành, thể hiện đức tin đối với

đức Phật, chùa còn được xem là “sân khấu” để tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, lễ hội

truyền thống của đồng bào Khmer diễn ra hàng năm. Đồng thời, đây cũng là nơi giáo dục

truyền thống, dạy chữ Khmer cho các trẻ em người dân tộc. Trong văn hóa người Khmer

Sóc Trăng, chùa Khmer không chỉ là một thiết chế tín ngưỡng tôn giáo mà còn là một

trường học, là một thiết chế văn hóa quan trọng của cả cộng đồng.

Về ẩm thực: Sóc Trăng là vùng đa dạng sinh thái, với nhiều kênh, rạch, đồng cỏ và

giáp biển. Do vậy, địa phương rất giàu nguồn lợi thủy sản: tôm, cua, cá, rắn, nghêu, sò…Từ

các loại thủy sản này người dân có thể chế biến thành nhiều món ăn phong phú bảo vệ sức

khỏe. Thực vật cũng rất phong phú: lúa, gạo, các loại ngũ cốc như đậu, khoai, bắp… nguồn

lương thực này có thể chế biến đa dạng thức ăn: bún, mì, hủ tiếu, bánh ú, bánh tét, bánh hỏi,

67

bánh cóng, bánh khọt…các loại ngũ cốc có thể dùng nấu chè như chè đậu xanh, đậu đỏ, chè

mè đen, chè trôi nước.v.v..

Về trang phục: ăn, mặc, ở là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người. Trang

phục không chỉ giúp con người chống lại thời tiết, khí hậu khắc nghiệt mà nó còn là nhu cầu

thẩm mỹ của con người. Các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer tại Sóc Trăng khi mới đến vùng đất

này, ban đầu họ chỉ có nhu cầu ăn no, mặc ấm, nhưng càng về sau nhu cầu đó ngày càng

tăng lên ăn no, mặc đẹp.

Đối với người phụ nữ Khmer, trang phục người phụ nữ luôn được chú ý bởi sự cầu

kỳ, màu sắc rực rỡ, hoa văn trang trí tinh xảo và được điểm bằng những hạt cườm, kim sa

lấp lánh. Đối với mỗi người phụ nữ Khmer, dù họ có khó khăn, thiếu thốn đến mấy thì cũng

cần phải chuẩn bị cho bản thân và gia đình mình những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất

để mặc trong những dịp quan trọng. Đó còn là việc gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hóa dân

tộc trong mỗi gia đình người dân Phum sóc. Trang phục truyền thống ngày thường của phụ

nữ Khmer là áo tầm - vông (áo dài) và vận xà-rông. Xà-rông là một mảnh thổ cẩm rực rỡ

trang trí nhiều họa tiết hoa văn, nhưng trái chám là hoa văn chủ đạo kích thước rộng khoảng

1m dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới…Để tôn thêm vẻ đẹp nữ tính thì

chiếc “sbay” - một loại khăn lụa xanh mềm mại, cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải

là không thể thiếu.

Về nhà ở: khi định cư ở vùng đất mới, tuy vẫn còn lưu giữ tập quán cư trú từ “quê

cha, đất tổ”, nhưng đồng bào các dân tộc nơi đây vẫn có những thay đổi cho phù hợp với

tồn tại xã hội ở vùng đất mới, “an cư mới lạc nghiệp” có ổn định chỗ ăn chỗ ở thì mới an

lòng mà lo công việc sinh kế mai sau, khi đó họ mới ổn định thoát khỏi cảnh rày đây mai

đó. Các dạng nhà của người Kinh gồm: nhà chữ đinh, nhà xếp đọi, nhà chữ công, nhà có

chái, nhà không chái… về vật liệu làm nhà cư dân nơi đây thường chọn những vật liệu có

sẵn trong vườn, họ thường cất nhà bằng cây tròn, nhỏ như tràm, đước… và lợp bằng lá dừa

nước. Kinh tế phát triển họ có thể xây nhà kiên cố với vật liệu hiện đại và kiến trúc phương

tây. Nhà của người Hoa tại Sóc Trăng làm nghề nông thường sống thành thôn xóm. Làng

thường ở trong cánh đồng, trải dài trên bờ biển, gần nguồn nước, giao thông thuận tiện.

Trong làng, nhà ở bố trí sát nhau theo dòng họ. Ở thành thị họ thường sống tập trung trong

các khu phố riêng. Nhà cửa thường có 3 loại: nhà 3 gian hai chái, nhà chữ Môn và chữ

68

Khẩu. Vật liệu xây nha thường xây tường bằng đá, gạch mộc hay trình đất, ít cột hoặc

không có cột, mái lợp ngói âm dương, lá dừa nước.

Nhà của người Khmer Sóc Trăng về vị trí phân bố những ngôi nhà của cả sóc luôn

được xây dựng xung quanh ngôi chùa và nhà của mỗi gia đình, dòng họ thường tập trung

xung quanh nhau, quây quần thành từng cụm. Người Khmer Sóc Trăng ở nhà sàn (Pơ tiêc

cơ pua), đây là loại nhà giúp họ tránh được ngập lụt mùa mưa xâm nhập. Nhà sàn của người

Khmer Sóc Trăng thường có ba gian và là loại nhà có nhiều chức năng, sử dụng được

không gian sinh hoạt triệt để: trong cùng góc là kho chứa sản phẩm nông nghiệp (thùng dự

trữ lúa), hai bên là phòng của con cháu, ông bà nằm ở gian giữa hướng mặt trời mọc, còn

con cháu ở hai phòng hướng mặt trời lặn (thể hiện sự tôn trọng), dưới sàn là nơi chứa các

vật dụng sinh hoạt và lao động sản xuất.

• Văn hóa phi vật thể ở Sóc Trăng

Văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và

không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của

cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Theo Sở Văn hóa - Thể

thao và Du lịch Sóc Trăng, di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn toàn tỉnh có 7 loại

hình gồm: tiếng nói chữ viết, ngữ văn truyền miệng, nghệ thuật diễn xướng dân gian, tập

quán xã hội và tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, tri thức dân gian, nghề thủ công truyền

thống. Những di sản văn hóa trên là kết tinh trí tuệ, sức sáng tạo của biết bao thế hệ nhân

dân lao động của vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa Sóc Trăng. Trong các đề tài di sản văn

hóa phi vật thể trên, thì loại hình “Nghệ thuật sân khấu Dù Kê của người Khmer Nam Bộ

trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng” đã được lập hồ sơ khoa học và được Bộ Văn hóa - Thể thao và

Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngoài ra, tỉnh Sóc Trăng còn

có những loại hình văn hóa phi vật thể khác như múa lân sư rồng, nhạc ngũ âm; nghề dệt

chiếu, điêu khắc, vẽ trang trí hoa văn.v.v..

Văn hóa tinh thần, hiện nay, ở các chùa lớn, danh tiếng của người Khmer hầu như

đều có ban nhạc “Ngũ âm” còn gọi “Pin Piet” để phục vụ các lễ hội. Dàn nhạc Ngũ âm

của người Khmer có từ rất lâu đời. Tại Sóc Trăng Chùa Dơi là một trong số ít ngôi chùa

còn lưu giữ trọn vẹn 02 dàn nhạc dân tộc truyền thống, đây là 02 bộ nhạc cụ quý báu, là

69

biểu tượng của sự vui tươi, sung túc, ấm no,…thể hiện nét đẹp văn hóa, giàu tính nghệ

thuật truyền thống.

Về tiếng nói và chữ viết, người Khmer đã có chữ viết từ thế kỷ thứ III và định hình

tương đối hoàn chỉnh vào thế kỷ thứ VII. Chữ viết của người Khmer là một loại mẫu tự

được xây dựng dựa vào chữ Phạn, tức là chữ Pali - Sanskrit, trải qua hơn 17 thế kỷ hình

thành và phát triển đến nay chúng đã được cải biên tới 11 lần. Tiếng nói của người Khmer

thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer. Theo Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh chữ viết của người

Khmer Nam bộ theo mẫu tự Brahmi cùng nguồn gốc chữ viết với tiếng Chăm và nhiều tộc

người khác ở Đông Nam Á: “Người Khmer Nam Bộ có hệ thống chữ viết độc đáo, tiếng

nói phản ánh được nếp sống, cách nghĩ và diễn đạt đúng bản sắc văn hóa tộc người

mình…Có thể nói, tiếng nói và chữ việt đã giúp người Khmer Nam Bộ giữ gìn và phát huy

được văn hóa truyền thống của mình theo những môi trường rất khác nhau”[132, tr.46].

Tuy ngôn ngữ có chung nguồn gốc với ngôn ngữ của người Khmer ở Campuchia

nhưng vì sống và giao lưu với người Việt lâu đời, ngôn ngữ và chữ viết của người Khmer

cùng tồn tại và phát triển song song với ngôn ngữ và chữ của người Việt nên đã hình thành

nhiều nét mới, với đặc trưng riêng biệt, khác xa với nguồn gốc ban đầu.

Về lễ cưới, cô dâu Khmer mặc áo dài màu vàng có thêu kim tuyến và đính hạt cườm,

hạt kim sa rực rỡ ở phía trước. Trên đầu cô dâu còn đội chiếc mão “Kha-ba-lòn-cốt” như

một vươn miện nhỏ xinh xắn được làm từ hạt cườm và hàng trăm chiếc cánh cứng màu

xanh biếc của con Chilvít (loài bọ cánh cam) và khăn Sbay trong lễ, tết có màu kim vàng

(khác với khăn Sbay trong lễ, tết có màu xanh), đính hàng ngàn hạt kim sa nhỏ, có độ lấp

lánh, sặc sỡ. Đối với người đàn ông thì đơn giản hơn. Hằng ngày, người đàn ông thường

mặc bà ba đen, quấn khăn rằn khi đi làm đồng, làm rẫy. Đến lễ tết, họ thường mặc áo bà

ba trắng, quần đen, quàng khăn trắng, quấn chéo vắt lên vai trái (khác với nữ quàng Sbay

bên vai phải từ trên xuống). Riêng chú rể Khmer trong đám cưới mặc Sarong, áo ngắn

màu đỏ, quàng khăn trắng vắt qua vai trái, đem thêm con dao tượng trưng, ngụ ý để bảo

vệ cô dâu gắn với truyện tích Sự tích Răm bơt bay sây trong lễ cưới (gọi là múa thanh đao

mở mâm lễ vật).

Văn học dân gian Khmer có các thể loại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn,

truyện cười, tục ngữ, dân ca... phản ánh đời sống tinh thần, những phong tục tập quán của

70

người Khmer. Thần thoại Khmer phản ánh đời sống con người, giải thích các hiện tượng tự

nhiên (mưa, gió, mặt trời và mặt trăng...). Truyền thuyết Khmer giải thích những đặc điểm

địa lý, lịch sử... Điểm nổi bật của truyền thuyết Khmer là gắn bó chặt chẽ với phong tục và

lễ hội (sự tích lễ Chôl Chnăm thmây, Dolta, Ocomboc...). Thông qua các lễ hội kể trên,

truyền thuyết Khmer được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, đến các tầng lớp nhân dân.

Về nghệ thuật, sân khấu Dù kê, Rô băm mang tính nghệ thuật điển hình, độc đáo và

đầy sáng tạo, là di sản vô giá của người Khmer Tây Nam Bộ. Nghệ thuật Dù kê của người

Khmer còn có tên gọi là Lakhôn Bassắc, có nghĩa là kịch hát của người Khmer ở vùng sông

Bassắc (sông Hậu). Sân khấu Dù kê có nội dung rất phong phú và mang tính giáo dục cao.

Các tích truyện diễn ra trên sân khấu Dù kê luôn đề cao đạo lý, tinh thần hướng thiện, ca

ngợi cái tốt, cái đẹp; đồng thời lên án cái ác, cái xấu. Cốt truyện của các vở diễn thường

được rút ra từ thần thoại, cổ tích và kết thúc có hậu.

Kịch múa Rô băm còn gọi “Rom Rô băm”, là loại kịch múa cổ điển sân khấu cung

đình của người Khmer. Điệu Rô băm được các nghệ sĩ biểu diễn những động tác và tư thế

của đôi bàn tay, phối hợp nhịp nhàng, uyển chuyển, uốn cong của toàn thân. Ngoài động tác

múa, còn dùng lời nói, lời hát để giải thích các tình tiết, sự kiện, hành động. Nội dung

thường là tích cổ như vở Riêm kê trích từ anh hùng ca Ấn Độ Ramayana... Nhân vật trở

thành mẫu người lý tưởng của người Khmer như nàng Sêđa xinh đẹp thuỷ chung, hoàng tử

Rama tài giỏi nhưng gặp nhiều chuyện gian truân, khổ ải. Ngoài ra, còn nhiều vở khác, như

Ra Ta Na Vông, Linh Thôn... cũng đều thấm đượm tinh thần Phật giáo “ở hiền gặp lành”,

làm việc ác thì phải đền tội, nghiệp tạo thì phải trả.v.v..

Về tôn giáo, Sóc Trăng là một tỉnh đa tôn giáo, toàn tỉnh Sóc Trăng có gần 50% dân

số theo đạo. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Công

giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Tứ Ân Hiếu

Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương… được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân.

Phật giáo Nam tông (Tiểu thừa), được truyền vào Việt Nam theo con đường của các

nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đường biển tới Srilanca, Mianma, Thái Lan tới vùng sông

Mê Công (Campuchia) và vào vùng các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (phía Nam) của

Việt Nam, được đông đảo người dân đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer đón nhận, trở

thành tôn giáo của người Khmer, do đó gọi là Phật giáo Nam tông Khmer.

71

• Phong tục đi tu của người Khmer ở Sóc Trăng

Người Khmer ở Sóc Trăng trong suốt cuộc đời của mình từ khi cất tiếng chào đời đến

trưởng thành và chết đi họ luôn gắn bó mật thiết với đạo, vì đạo theo chữ pali là “Săsana”

nghĩa là “lời dạy bảo” cho nên muốn có cuộc đời tốt đẹp, an lành, hạnh phúc thì phải tin

theo đạo, sống theo đạo; phật, pháp, luôn luôn là chỗ dựa vững chắc của họ.

Theo phong tục của người Khmer, khi người con trai đến tuổi 12, 13 phải vào chùa tu

một thời gian với một hay nhiều ý nghĩa: trả hiếu cho ông bà, cha mẹ; để thực hiện tình

cảm, trách nhiệm đối với dân tộc; để tỏ lòng thành kính với Đức Phật… Sau thời gian một

tháng họ có thể xin ra khỏi chùa, trở lại cuộc sống đời thường bất cứ lúc nào, họ có thể lập

gia đình, làm ăn, tham gia các công việc xã hội, khi muốn họ lại có thể xin vào chùa tu một

thời gian rồi sau đó lại có thể trở về với gia đình.

Đối với người Khmer Sóc Trăng, các vị sư có vị trí và ảnh hưởng rất lớn. Nhà sư

được coi là đại diện cho Đức Phật để truyền dạy và giáo hóa chúng sinh, bởi vậy vị sư luôn

là người thầy được tôn kính và tin tưởng. Theo truyền thống từ xa xưa của người Khmer

Sóc Trăng, tuyệt đại bộ phận người dân theo Phật giáo thuộc hệ phái Nam tông, do đó khi

nói đến dân số người Khmer ở Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc có thể hiểu đó là số

lượng Phật tử, tín đồ Phật giáo (trừ những vị sư đang tu trong chùa được coi là nhà tu hành).

Có thể nói, đời sống thường nhật của đồng bào Khmer và Phật giáo Nam tông Khmer

không thể tách rời. Chùa là nơi tu hành của các vị sư sãi, là nơi làm lễ của đồng bào, là nơi

giáo dục đào tạo dạy chữ, dạy nghề cho con em của đồng bào dân tộc, là bảo tàng lưu

giữ các hiện vật từ đồ thờ tế tự, điêu khắc, trạm trổ, ghe ngo… đồng thời cũng là nơi thờ

cúng những người thân của đồng bào dân tộc Khmer sau khi mất. Sinh hoạt trong gia đình,

cộng đồng Phum, Sóc của người Khmer đa phần đều gắn với tín ngưỡng và triết lý của đạo

Phật. Các công việc của gia đình cũng như sinh hoạt văn hóa, lễ hội của cộng đồng đều có

sự tham dự của các vị sư. Đại bộ phận các ngôi chùa Khmer đã trở thành nơi hội tụ, điểm

đến và là nơi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng xã Khmer Việt Nam.

Về lối sống, khi đến Đồng bằng sông Cửu Long cũng như Sóc Trăng người ta dễ dàng

nhận thấy cộng đồng người Khmer ít có hộ giàu. Lý do này xuất phát từ quan niệm sống

của người Khmer, đồng bào rất coi trọng các giá trị tinh thần. Họ xem đời sống hiện tại chỉ

là “cõi tạm” trong “bánh xe luân hồi” của giáo lý nhà phật, vì vậy họ sẵn sàng chấp nhận

72

một cuộc sống hiện tại khó khăn, miễn sao kiếp sau được siêu thoát, được tái sinh, được về

nơi an lành, nơi tây phương cực lạc… Do đó, họ dễ chia sẻ và đồng cảm với những người

nghèo khó. Họ dành dụm phần lớn tiền kiếm được mà trong số đó để cúng chùa để làm

phúc để tích đức cho kiếp sau. Nhiều gia đình mặc dù còn rất khó khăn nhưng vẫn hết lòng

thành tâm với cửa Phật, góp phần tôn tạo chùa chiền, cúng dường chư tăng. Điều này cho

thấy một triết lý nhân sinh, một lối sống mang nặng dấu ấn của Phật giáo thuần thành,

nguyên thủy, ít chịu những tác động của thời cuộc trong bối cảnh kinh tế thị trường. Chịu

ảnh hưởng sâu sắc của triết lý Phật giáo Nam tông, trong cuộc sống, người Khmer Sóc

Trăng luôn có ý thức tương trợ giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt. Việc nhường cơm sẻ áo cho

đồng đạo hay cúng dường chư Phật không phải là gánh nặng cuộc đời, mà đó là đạo lý, là lẽ

sống, là con đường để đạt sự siêu thoát cho cuộc sống mai sau tốt đẹp hơn.

Phật giáo luôn hướng con người đến những giá trị cao cả: “chân - thiện - mỹ”. Những

bài học về “vô thường”, “vô ngã” “vị tha”, “từ bi hỷ xả”… đã thấm nhuần trong tâm thức

mỗi người. Tuy nhiên, khi phật giáo du nhập và phát triển, tinh thần nhập thế cũng có sự

khác biệt tại vùng đất Sóc Trăng. Với quan niệm sống để làm phước, nên các lễ hội là dịp

để cầu kinh, làm phước, hướng thiện. Do đó, trong những ngày lễ hội, người dân dù nghèo

khổ, vẫn không ngại tốn kém tiền của, mua sắm lễ vật dâng cúng nhà chùa và đọc kinh cầu

siêu. Người Khmer ngôi chùa Phật như ngôi từ đường chung của Phum, Sóc. Tuy nhiên, về

lối sống mỗi dân tộc trong quá trình giao thoa vẫn giữ được những nét riêng của dân tộc

mình. Cụ thể: Đi tu: Theo quan niệm của người Khmer, đi tu không chỉ là hoạt động mang

tính chất thuần túy tôn giáo mà đã trở thành một tục lệ, một sắc thái văn hóa lâu đời. Sau

một thời gian tu học tại chùa, các vị sư Khmer có thể chọn con đường xuất tu, trở về với

cuộc sống gia đình. Người Kinh và Hoa lại không xem đi tu tại chùa đối với các bé trai là

bắt buộc, là tục lệ. Người ta chỉ đi tu khi cuộc sống có những khó khăn về thể xác lẫn tâm

hồn, khi họ không còn chốn nương thân, hay những người buồn chán hồng trần, gặp nhiều

ngang trái...mới tìm đến cửa chùa. Khi đã xuất gia, phật tử người Kinh và Hoa thường ít

xuất tu, trở về với cuộc sống gia đình như người Khmer.

Tang ma: Đây là phong tục mà người Khmer về thế giới quan, chịu ảnh hưởng rất

lớn của Phật giáo. Tang lễ của người Khmer được tổ chức tại chùa, gắn với quan niệm

sinh tử tại chùa. Chùa của người Khmer thường có tháp cốt và nhà hỏa thiêu. Người

73

Khmer có câu “sống giữ của, chết gửi xương” nghĩa là sống không tiếc của, tiếc công

dâng hiến lên chùa, chết không mong mỏi gì hơn là được gửi tro cốt lên chùa, được về với

ánh hào quang của Phật. Người hoa và người Kinh không có nghi lễ này và thường tổ

chức lễ tang tại gia đình, sau khi hỏa thiêu, hoặc chôn cất thì gửi hài cốt hoặc di ảnh vào

chùa. Vì vậy, họ không giành tất cả tiền bạc dành dụm được để dâng hết vào chùa như

quan niệm của người Khmer.

Lễ Dâng bông (Bôn Phka). Đây có thể gọi là Lễ làm phước, vì khi người Khmer cần

xây dựng các công trình như đường xá, trường học, chùa… thì họ tổ chức lễ này nhằm

quyên góp tiền của để xây dựng, lễ cũng thường tổ chức tại chùa do các vị sư sãi trong chùa

chủ trì, kêu gọi. Người hoa và người Kinh cũng không có lễ này và thường ủng hộ chính

quyền khi được các tổ chức chính trị - xã hội kêu gọi đóng góp.

Nghi lễ cầu an được xem là tâm điểm của các nghi lễ, thể hiện sự yên bình giữa một

cuộc đời đầy sóng gió, là cầu nối giưã tâm linh và con người không thể phai mờ trong đời

sống tâm linh của người dân Việt và thường được tổ chức tại chùa và do các nhà sư hành lễ,

cầu nguyện. Nhưng đối với người Khmer Lễ Cầu an (Bon Kâm San Srok) lại do từng gia

đình người Khmer tổ chức hoặc nhiều nhà cùng tổ chức và thỉnh vị sư đến tụng kinh cầu

phước tại gia đình.

Chôl Chnăm Thmây, còn gọi là Lễ Vào năm mới, cũng như tết cổ truyền của các dân

tộc khác, Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer tuy có cùng ý nghĩa đón

mừng năm mới, nhưng lại được tổ chức với những tập tục khác biệt. Mọi sinh hoạt Tết

Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer hầu hết chỉ diễn ra tại chùa. Đồng bào tập trung

tại chùa, diễu hành rước Đại lịch, đắp núi cát, tắm tượng Phật, cầu siêu, cầu an và tắm sư,

tắm cha mẹ. Người hoa và người Kinh thường đón năm mới tại nhà, mua sắm, trang hoàng

nhà cửa, dọn dẹp bàn thờ tổ tiên, đi chúc tết, thăm họ hàng và chỉ viếng chùa vào ngày

mồng một.

Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng được xem là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên. Hoạt động này được chính quyền địa phương

triển khai phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của tỉnh. Thông qua hoạt động, giúp cho

các cấp, các ngành và tầng lớp nhân dân hiểu rõ về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển

kinh tế - xã hội.

74

Từ những yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc tại tỉnh Sóc Trăng hiện nay, có thể

nhận thấy, những giá trị cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc tại tỉnh Sóc Trăng hiện nay.

Tuy nhiên, cần phải xác định rõ những yếu tố cần giữ gìn, tiếp tục vun đắp, tồn tại về sau

như: Tinh thần yêu quê hương, đất nước; ý thức cố kết cộng đồng; Lòng nhân ái, tinh thần

nghĩa hiệp, trọng đạo lý; Tinh thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử; Tinh thần lạc

quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa; sự linh hoạt trong lao động sản xuất...đặc biệt là các lễ

hội dân gian truyền thống, lễ hội cổ truyền, lễ hội lịch sử cách mạng, các trò chơi dân gian

trong lễ hội, các di tích lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, sân khấu, đình, chùa. Các giá trị vật

chất khác như: đình, chùa bún nước lèo, bún gỏi dà, bánh pía.v.v..

Những yếu tố cần phải phát huy như: Các bảo tàng, đội ngũ những nhà văn hóa dân

tộc thiểu số,các di tích lịch sử văn hóa tại Sóc Trăng, Hội văn nghệ dân gian, các câu lạc bộ

Đờn ca tài tử, các đề tài nghiên cứu về nghệ thuật sân khấu Rô băm, Dù kê.v.v..

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra

trong lịch sử của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Vì là sản

phẩm sáng tạo của con người nên văn hoá là một hiện tượng xã hội, sản phẩm xã hội. Nói

đến văn hoá là nói đến dân tộc, gắn với dân tộc và bao giờ cũng mang bản sắc dân tộc. Bản

sắc văn hóa dân tộc là tổng thể các giá trị đặc trưng, tiêu biểu, phản ánh tính chất, tính cách,

phẩm chất của mỗi dân tộc, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt văn hoá của dân tộc này với dân

tộc khác.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa

của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu

tranh dựng nước và giữ nước. Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần

đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái,

khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế

trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong các hình thức

biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Sóc Trăng là tỉnh có vị trị địa lý khá thuận lợi cho việc giao thương và phát triển kinh

tế, xã hội. Do những nét đặc thù của môi trường tự nhiên, lịch sử và các điều kiện kinh tế,

chính trị - xã hội; các quan hệ trong tiếp xúc, giao lưu văn hóa nên cộng đồng cư dân nơi

75

đây đã tạo ra những nét văn hóa đặc thù có thể gọi là: “văn hoá xứ giồng”, thể hiện qua các

mặt trong đời sống hằng ngày của người Sóc Trăng, từ ngôn ngữ, mối quan hệ xã hội, tên

đất, tên làng đến tín ngưỡng tôn giáo, ẩm thực và lễ hội của người Kinh, Hoa, Khmer. Biểu

hiện tập trung và nổi bật nhất ở các cộng đồng dân tộc bản địa trong các hoạt động: bảo vệ

phum, sóc và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống; tổ chức đời sống cộng đồng; quan

hệ ứng xử; lối sống và trong tiếng nói - chữ viết, luật tục, trang phục, nghi lễ - lễ hội...Với

những giá trị văn hóa mang tính đặc thù của mình, nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng

đã góp một phần đáng kể vào việc vun đắp, làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp xây dựng và phát

triển văn hóa dân tộc Việt Nam nói riêng, Đảng ta luôn quan tâm thích đáng đến vấn đề giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Qua nhiều Văn kiện,

nhiều Nghị quyết và Chỉ thị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập từng bước hệ

quan điểm chỉ đạo việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó nổi lên một số

quan điểm trọng yếu sau đây:

Thứ nhất, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là yêu cầu khách quan vừa của

công cuộc phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội; vừa của sự nghiệp xây dựng và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

Thứ hai, trong khi giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa chung của dân tộc Việt Nam

thống nhất, phải đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa riêng của tất cả các dân tộc

trên đất nước ta để xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng

các dân tộc Việt Nam;

Thứ ba, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, tự

cô lập; trái lại phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu một cách có chọn lọc

những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa của các dân tộc khác; đồng thời chống tất cả những

gì lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quan, lề thói cũ. Từ đó xây dựng một nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

76

Chương 3

BẢN SẮC VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC

Ở TỈNH SÓC TRĂNG THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Nhận diện bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng

3.1.1. Tinh thần yêu quê hương, đất nước của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng

Yêu nước là tình cảm mang tính phổ biến, quý báu không chỉ ở Việt Nam mà

còn cả các dân tộc trên thế giới. Tuy thế, trong bảng các giá trị văn hóa tinh thần

truyền thống của dân tộc ta thì chủ nghĩa yêu nước luôn được xếp ở vị trí đầu tiên. Yêu

nước trở thành “Tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” là “Động lực tình cảm

lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo

đức của dân tộc ta”[49, tr.123]. Là một địa phương với các dân tộc chính Kinh, Hoa,

Khmer, lòng yêu nước của nhân dân Sóc Trăng cũng mang những giá trị chung của dân tộc.

Nhưng, khi thể hiện ở Sóc Trăng thì tình yêu đó lại mang đậm dấu ấn của nhân dân nơi đây.

Bảo vệ quê hương chính là bảo vệ vùng đất: “Phù sa châu thổ cuối miền Hậu Giang/Cá

tôm biển bạc, ngút ngàn trùng khơi”.

Khi thực dân Pháp xâm lược, chứng kiến sự hèn nhát của triều đình nhà Nguyễn nhân

dân Sóc Trăng đã kiên cường tham gia phong trào khởi nghĩa, chiến đấu chống giặc Pháp

bảo vệ quê hương đất nước, do các sỹ phu yêu nước Trương Định, Nguyễn Hữu Huân,

Nguyễn Trung Trực, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự... lãnh đạo. Nhận định về tinh thần yêu

nước của nhân dân Sóc Trăng, Trần Việt Hùng viết: “…Khi thực dân Pháp xâm lược nước

ta nhân dân Sóc Trăng cùng với nhân dân Nam Kỳ kiên cường chống giặc. Nhân dân Sóc

Trăng còn tham gia phong trào chống pháp do hai anh em Đỗ Thừa Luông và Đỗ Thừa Tự

lãnh đạo...”[61, tr.7]. Nhân dân Sóc Trăng còn hăng hái tham gia phong trào yêu nước do cụ

Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh khởi xướng. Tham gia Hội kín “Thiên

địa hội” ở thị xã Sóc Trăng khi đó. Thời kỳ lịch sử kiên cường đấu tranh xây dựng, bảo vệ

Tổ quốc ở tỉnh Sóc Trăng còn được thể hiện lại trong bộ phim tài liệu: “Lực lượng vũ trang

Sóc Trăng 70 năm một chặng đường lịch sử”, đã xuất hiện những người con tiêu biểu của

quê hương Sóc Trăng, luôn nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước và chủ

nghĩa anh hùng cách mạng, đó là anh hùng lực lượng vũ trang Sơn Ton, Lưu Nguyệt Hồng

“Nữ du kích Ngã Năm”- Nguyên Phó Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh

77

Sóc Trăng; Mai Thanh Thế; Anh Hùng Lâm Tương; Thiếu tướng Ngô Văn Tảo; nguyên Ủy

viên Bộ chính trị Lê Phước Thọ …Ngoài ra, còn có hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ và nhân dân

Sóc Trăng đã ngã xuống trong mùa Xuân 1975, cho đến những giờ phút cuối cùng cùa ngày

30-4-1975 và sáng ngày 01-5-1975 vẫn có hơn 30 cán bộ, chiến sĩ hy sinh anh dũng đã làm

nên ngày toàn thắng. Sự hy sinh đó cùng với hơn 13.000 liệt sĩ, 4.477 thương binh là những

tấm gương oanh liệt suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc (1954 -

1975). Ngoài ra, còn là sự hy sinh thầm lặng của các Mẹ Việt Nam anh hùng. Hiện, Sóc

Trăng có 24 mẹ Việt Nam anh hùng còn sống và biết bao người con Sóc Trăng kiên trung

khác. Họ mãi mãi là những tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh

hùng cách mạng.

Sau năm 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ, cuộc kháng chiến toàn diện

chống thực dân Pháp đã thu hút đông đảo đồng bào Khmer tham gia, nhiều căn cứ kháng

chiến của lực lượng yêu nước tại Sóc Trăng đã được xây dựng và phát triển trong vùng

đồng bào Khmer, tạo tiền đề quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và

đế quốc Mỹ, như căn cứ Vĩnh Châu - Sóc Trăng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào Khmer đã tích cực tham gia Mặt trận Dân tộc

Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lực lượng cách mạng trong vùng dân tộc Khmer phát

triển nhanh chóng, thu hút đông đảo sư sãi, vì Tổ quốc sẵn sàng “Cởi áo cà sa khoác chiến

bào” cùng với đồng bào Khmer tham gia vào các tổ chức cách mạng, như: Ban Khmer vận

khu Tây Nam Bộ, Ban Khmer vận các tỉnh, huyện, xã và phát triển cơ sở cách mạng trong

giới sư sãi. Nhiều vị sư sãi Khmer đã hoàn tục trực tiếp cầm súng tham gia kháng chiến;

nhiều phong trào đấu tranh, biểu tình công khai của đồng bào và sư sãi Khmer chống chính

quyền tay sai của Mỹ - Ngụy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là

Đảng bộ tỉnh, nhân dân Sóc Trăng đã làm nên những chiến thắng vẻ vang qua các chặng

đường lịch sử, đặc biệt đã vùng lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, điển hình là cuộc

nổi dậy của quân dân xã Hòa Tú huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng chống lại thực dân Pháp và

bọn tay sai.

Người Khmer ở Sóc Trăng tự giác đấu tranh, tình đoàn kết các dân tộc Kinh, Khmer

và Hoa được củng cố, tăng cường. Tổ chức Đảng đã tập trung xây dựng, củng cố khối đoàn

kết các dân tộc, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống âm mưu thống trị và khai thác thuộc

78

địa của thực dân Pháp; vận động đồng bào Khmer tích cực tham gia:“Hội tương tế ái hữu”;

“Cứu tế đỏ”; “Hội ủng hộ Issarăk”; “Ban sãi vận”…Qua các phong trào đấu tranh, dưới

sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào Khmer ngày càng nhận thức rõ hơn khả năng và sức mạnh

to lớn cũng như tinh thần đoàn kết của chính cộng đồng của mình. Theo Nguyễn Đại Đồng,

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, đồng bào theo Phật giáo Nam Tông Khmer Sóc

Trăng đã có nhiều đóng góp trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở cả hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ. Cụ thể, ngày 9/5/1971, tại Sóc Trăng hàng vạn đồng bào, tăng ni,

Phật tử kéo đến các chùa hội họp, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam.

Thông qua Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước, tỉnh Sóc Trăng đã xuất hiện nhiều tấm gương

chống thức dân Pháp và đế quốc Mỹ. Năm 1948, tại chùa Khlang Ong, tỉnh Sóc Trăng có

cuộc họp của chính quyền kháng chiến các tỉnh Nam Bộ do Hòa thượng Tăng Hô chủ trì.

Cuộc họp này, một lần nữa khẳng định trách nhiệm của chính quyền, Mặt trận các cấp trong

việc vận động sư sãi và đồng bào Phật tử Khmer ủng hộ cuộc kháng chiến.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bọn tay sai và đế quốc Mỹ xâm

lược. Chứng kiến tội ác đầu độc, thảm sát của thực dâp Pháp và đế quốc Mỹ tại Khám lớn

Sóc Trăng, trên 1000 chiến sĩ các mạng trung kiên và đồng bào yêu nước. Tỉnh ủy Sóc

Trăng đã phát động nhiều cuộc đấu tranh sâu rộng trong nhân dân, lên án chính quyền Ngô

Đình Diệm. Với ý chí căm thù giặc tột cùng, nhiều gia đình thường dân quyết tâm một lòng

đi theo cách mạng. Năm 1960 nhân dân đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Địa bàn Ngã

Năm là một trong những nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt giữa ta và địch. Chiến thắng Ngã

Năm đã đi vào lòng người, là một chiến tích vẻ vang của quân và dân Sóc Trăng. Ngày 23

tháng 8 năm 2004, Bộ Văn hóa - Thông tin đã có Quyết định số 73/2004/QĐ - BVHTT

công nhận địa điểm chiến thắng Ngã Năm là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia.

Lịch sử đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng còn ghi nhận những chiến tích anh hùng của

“Chiến thắng Chắc tức-Bàu còn”, thuộc ấp Tân Lộc, xã Lai Tân, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc

Trăng. Ngoài ra, những chiến công hiển hách của tiểu đoàn Phú Lợi, được ghi rõ trong cuốn

Di tích lịch sử - Văn hóa tỉnh Sóc Trăng do Ban tuyên giáo Tỉnh ủy và Sở Giáo dục - Đào

tạo Sóc Trăng nghiên cứu, ghi nhận tiểu đoàn Phú Lợi “… đánh thiệt hại nặng 6 tiểu đoàn,

trên 40 đại đội, bắn rơi 37 máy bay, phá hủy 111 xe quân sự… bắn chìm 13 tàu chiến, thu

1.500 súng các loại…”. Sau ngày đất nước thống nhất, tiểu đoàn vinh dự được nhận những

79

phần thưởng cao quý: 12 huân chương chiến công, trong đó, có 2 đồng chí vinh dự được

phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là: đồng chí Nguyễn Văn A và đồng

chí Hồ Minh Luông. Ngoài ra, còn phải kể đến chiến thắng “Rạch Già” (Cù Lao Dung) với

những câu thơ quen thuộc “Ai về Cù Lao Dung/Nhớ ghé viếng Rạch Già/Nhớ về An Thạnh

Nhất/Hỏi Tây chết mất thằng”. Lịch sử đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng còn ghi nhận

“Chiến thắng Xẻo Me”, tại ấp Xẻo Me, xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

đã góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng kẻ thù xâm lược.v.v..

Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng nằm trong rừng tràm Mỹ Phước (xã Mỹ Phước, huyện Mỹ

Tú, tỉnh Sóc Trăng), nên còn được gọi là Căn cứ Mỹ Phước. Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng như

một dấu son được tô đậm trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc

ta. Ngoài ra, đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng còn tự hào về Trường Taberd, trường Taberd

tọa lạc trên đường Tôn Đức Thắng, nay thuộc phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc

Trăng. Nơi đây hiện đang lưu giữ những gía trị lịch sử không chỉ của nhân dân tỉnh Sóc

Trăng mà còn của cả dân tộc.

Như vậy, ý thức bảo vệ quê hương, đất nước và tài nguyên thiên nhiên nơi cư trú,

cùng với đó là những quy định liên quan đến bảo vệ sản xuất, chống kẻ thù xâm lược; bảo

vệ và phát huy những giá trị văn hóa đặc trưng của mình được coi là biểu hiện đặc thù về

lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc của nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng.

3.1.2. Ý thức cố kết cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa trong văn hóa Sóc Trăng

Truyền thống đoàn kết cộng đồng gắn bó, keo sơn của nhân dân Sóc Trăng được thể

hiện rõ hơn khi quê hương phải trải qua bao khó khăn: chinh phục thiên nhiên, hạn hán,

dịch bệnh và luôn phải đương đầu với các thế lực kẻ thù xâm lược. Khi vào vùng đất mới,

làng của ngươi Kinh cùng với Sóc của người Khmer và Bang, Hội của người Hoa đã tạo

nên sự cố kết cộng đồng bền chặt. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, vùng đất Sóc

Trăng cách nay khoảng trên 300 năm vẫn chưa được khai phá; trừ phần đất giồng cát, còn

lại đa số đều còn ngập nước. Dân cư vẫn còn thưa thớt, nhiều rừng rậm hoang vu, dưới sông

cá sấu, trên bờ cọp tha. Những người Việt đầu tiên “đi mở cõi”, đến vùng đất Sóc Trăng

định cư, người Việt hiểu rằng vùng đất này với đầy rẫy những hiểm nguy đang rình rập, với

tâm trạng: “Ra đi là sự đánh liều/Dại như con trẻ chơi diều đứt dây” không biết ngày mai

rồi sẽ ra sao …Do vậy, muốn sinh tồn họ phải liên kết những con người xa lạ với nhau. Khi

80

nghiên cứu về vấn đề này, Sơn Nam cũng cho rằng: “Nói chung, tâm trạng của người

nghèo, người bị lưu đày khẩn hoang đến nơi “xứ sở lạ lùng”, là muốn ra sức biến đầm lầy,

rừng tràm, rừng cây tạp trở thành ruộng lúa, sau đó cất một căn chòi để được an cư lạc

nghiệp. Tương lai thì như thế nào chưa rõ…”[99, tr.243]. Cũng theo Sơn Nam vùng đất này

là: “ …Thiên đường của cọp, sấu, rắn độc, muỗi mòng với bệnh sốt rét, ẩm thấp, mặt đất lè

tè, sông rạch khá nhiều với nhiều ao vũng…”[99, tr.188], buộc họ phải sống nương tựa vào

nhau, tất cả đều hết lòng vì việc nghĩa vì cuộc sống mai sau.

Ngoài ra, khi lưu lạc vào vùng đất Sóc Trăng xa xôi, những người con xa xứ đều xác

định mọi người, hễ ai thuộc dân tộc Việt Nam đều có chung một nguồn cội, một tổ tiên. Do

vậy, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng giúp đỡ nhau của tất cả các dân tộc sống

trên vùng đất mới là điều hiển nhiên, “bán anh em xa/mua láng giềng gần”, “tình làng,

nghĩa xóm”; “tình dân tộc, nghĩa đồng bào”. Điều này đã hình thành nên tinh thần đoàn kết

cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa Sóc Trăng. Có lẽ những lưu dân người Việt đều hiểu vùng

đất mới với điều kiện sinh tồn khắc nghiệt, xa quê hương, không người cưu mang, nương

tựa. Do đó, đoàn kết để mưu sinh cũng là điều dễ hiểu. Khi nhận xét về tinh thần đoàn kết

của nhân dân nơi đây, Sơn Nam có nhận định: “Người một xứ, một xóm với ông bà mình

xưa kia thì đã là “bà con một xứ rồi”. Người họ Trần, họ Phạm (lắm khi thay đổi họ) hoặc

khác họ nhưng là bạn của người bạn thân nào đó, trên đường lưu lạc đôi khi khắng khít hơn

bà con ruột...”[96, tr.19].

Đặc trưng chung của trong quần cư của người Sóc Trăng là tính mở. Dân cư Sóc

Trăng chủ yếu là ba dân tộc Kinh, Hoa và Khmer cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, khai khẩn đất

hoang, dựng làng, dựng ấp. Tuy các đơn vị cộng đồng xã hội của ba dân tộc chủ yếu có

những điểm khác biệt. Song, các dân tộc không sống riêng, tách biệt mà có sự đan xen lẫn

nhau, dẫn đến có sự giao thoa văn hóa, thể hiện qua các câu thơ đầy cảm động: “Sóc Trăng

ơi khúc tình quê mộc mạc/Mãi ngọt ngào trong câu hát Dù Kê/Điệu Lâm Thôn cho ngơ

ngẩn lối về”.

Theo Sơn Nam: Theo nghiên cứu của Ngô Văn Lệ: “Làng Việt Nam Bộ ở giai đoạn

đầu của quá trình làng là liên hiệp của những nông dân tự do trong công cuộc khai phá,

chinh phục những vùng đất hoang rậm”[72, tr.221]. Các phum và sóc là một tổ chức xã hội

có kết cấu chặt chẽ, một khối cộng đồng thống nhất, một đơn vị tụ cư mang dấu ấn “công

81

xã nông thôn”; là một chỉnh thể thống nhất của môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá

và tâm linh. Các gia đình thành viên trong phum, sóc không ở rải rác theo từng xóm như

trong làng của người Việt, mà ở tập trung theo từng cụm nhà ở ven sông, trục lộ… Giữa các

gia đình thành viên trong phum, sóc luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nương tựa

lẫn nhau khá cao.

Khi định cư ở vùng đất Sóc Trăng người Kinh, người Hoa và người Khmer tuy các

nền văn hóa khác nhau nhưng lại gặp nhau ở nụ cười của đức phật. Tiếng đọc kinh chùa của

người Khmer tuy thiếu tiếng chuông mõ của chùa người Việt nhưng đều nhắc nhở cả hai

làm việc thiện, hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hơn nữa, đến vùng đất mới,

đất đai quá rộng tới mức “cò bay thẳng cánh”, mọi người mặc sức khai hoang nên không

cần tranh chấp ruộng đồng. Được thiên nhiên ưu đãi, với những cù lao trù phú, tạo ra những

sản vật đặc sắc tại đại phương: “Thuyền về Kế Sách miệt vườn xanh xanh/Đây rồi, mảnh

đất Châu Thành/Thơm ngon bánh Pía hiền lành đất quê”.

Trong việc thờ phụng, việc thờ thêm vài vị thần, thờ vài cục đá hay cái đầu con cá

sấu ở mé sông như người Khmer đang làm được người Kinh vui vẻ chấp nhận, vì nó cũng

giống như người Kinh thờ cọp hay thờ bà Chúa Sứ, mẹ Liễu Hạnh…Những món ăn ngon

của người địa phương như mắm bò hóc (Pro-hố), bún mắm, gỏi cá lóc trộn rau đắng,… rất

dễ được người Kinh chấp nhận và đưa vào thực phẩm hàng ngày của mình. Mặt khác, khi

ba dân tộc đến định cư ở vùng đất mới cuộc sống dễ dàng, cá tôm thì đâu cũng có, củi than

cũng vậy, lúa gạo thì dư ăn trong gia đình. Do vậy, sự gắn kết cá nhân gia đình, làng xã

cũng trở nên dễ dàng, khi tồn tại xã hội có những điều kiện thuận lợi thì ý thức xã hội, sự

gắn kết cũng trở nên thuận lợi. Giữa các gia đình thành viên trong phum, sóc luôn thể hiện

tinh thần đoàn kết, nương tựa lẫn nhau, chung tay góp sức trong mọi hoạt động, “một người

vì mọi người, mọi người vì một người”. Cách cư trú, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng

này là một trong những nét thể hiện tính đặc thù về tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng của

nhân dân các dân tộc tỉnh Sóc Trăng.

Những năm qua, để cụ thể hóa, đường lối chính sách sách của Đảng và Nhà nước về

xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Tỉnh ủy Sóc Trăng đã ban hành 02 Nghị quyết quan

trọng: Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 5-4-2002 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng bộ

đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer” và Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày

82

14/12/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ đối

với công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Trung bình mỗi năm, Sóc Trăng đào tạo

nghề cho khoảng 25.000 lao động, giải quyết cho 25-30 ngàn người có việc làm, giảm 2-3%

hộ nghèo, đáng chú ý, tỷ lệ hộ Khmer nghèo giảm 3-4%. Năm 2018, toàn tỉnh đã giảm hơn

8.000 hộ nghèo, trong đó hơn 5.000 hộ là đồng bào Khmer thoát nghèo. Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc (MTTQ) tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức khánh thành, bàn giao 125 căn nhà Ðại đoàn

kết cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, điều kiện khó khăn trên địa bàn tỉnh, mỗi căn nhà

được hỗ trợ 40 triệu đồng. Từ nguồn quỹ, Ủy ban MTTQ tỉnh Sóc Trăng hỗ trợ xây nhà Ðại

đoàn kết cho người khó khăn về nhà ở, trong đó có đồng bào Khmer.

Ngoài ra, Sóc Trăng đã quan tâm xây dựng đội ngũ người có uy tín vùng đồng bào

dân tộc thiểu số (DTTS). Người có uy tín phát huy tốt vai trò vận động, làm gương trong bà

con DTTS thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước, đoàn kết giúp nhau phát triển sản xuất. Tận các phum sóc, bà con Khmer hăng hái thi

đua lao động sản xuất, hình thành nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, đem lại thu nhập cao

như: trồng trọt kết hợp chăn nuôi, mô hình tôm - lúa, cá - lúa, trồng nấm rơm… giúp hàng

chục nghìn hộ Khmer vươn lên thoát nghèo, đời sống của bà con ngày càng phát triển.

Ngoài ra, tỉnh còn mở nhiều buổi tập huấn nhằm tuyên truyền chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác dân tộc, tôn giáo, các

chương trình, dự án liên quan đến công tác xóa đói, giảm nghèo. Tại các buổi họp mặt, tập

huấn, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể cùng với người có uy tín bàn bạc, thống nhất

những nội dung cụ thể để tuyên truyền trong cộng đồng, khu dân cư. Qua đó, người có uy

tín càng hiểu rõ hơn sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta chăm lo cho đồng bào

các dân tộc, từ đó gương mẫu đi đầu thực hiện các phong trào ở địa phương, tuyên truyền,

vận động bà con các dân tộc làm theo, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế gia đình.

Có thể nhận thấy, đời sống vật chất và tinh thần đối với đồng bào Hoa trên địa bàn

tỉnh, đời sống người dân nhất là đồng bào Hoa ngày càng được cải thiện và nâng cao. Ðặc

biệt trong đào tạo nghề, đồng bào Hoa luôn đoàn kết, giữ gìn và phát huy đạt hiệu quả

không chỉ về kinh tế mà còn đa dạng hóa các ngành nghề. Người Hoa luôn sống hòa nhập

với cộng đồng, yên tâm lao động sản xuất, kinh doanh. Thời gian qua, việc tiếp tục duy trì

thực hiện các chính sách an sinh xã hội như: đầu tư giúp đồng bào vay vốn sản xuất, kinh

83

doanh, chính sách hỗ trợ đồng bào nghèo trong dịp tết hàng năm, hỗ trợ xây nhà ở và các

công trình công cộng.v.v..

Mặt khác, thông qua các tổ chức chính trị, xã hội như: Hội nông dân, cộng đồng các

dân tộc Kinh, Hoa, Khmer đã giúp nhau sản xuất, kinh doanh thoát nghèo. Từ phong trào

nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi cho thấy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau đã

trở thành nề nếp trong sản xuất. Để giúp hội viên, nông dân tiếp cận, thực hiện có hiệu quả

hơn trong sản xuất. Hội Nông dân các cấp tỉnh Sóc Trăng thường xuyên tổ chức triển khai,

hướng dẫn tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật… giúp hội viên, nông dân nâng cao

trình độ canh tác. Trong quá trình công tác, hội Nông dân thực hiện các phong trào thi đua,

như: phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết, tương thân, tương ái

giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; phong trào nông dân xây dựng nông thôn

mới… khơi dậy ý chí tự cường và tinh thần sáng tạo trong lao động sản xuất.

Cùng với quá trình cộng cư, giúp nhau trong lao động sản xuất, ở Sóc Trăng Phật giáo

Nam Tông từ lâu đã mang dấu ấn đậm nét trong tâm linh của cộng đồng. Do vậy, đối với

người Khmer ngôi chùa không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, mà còn được xem là

“trung tâm văn hóa - xã hội” là “ngôi nhà chung” của đồng bào dân tộc Khmer nơi gắn kết

cộng đồng bền chặt. Ngôi chùa được các gia đình trong phum, sóc góp công, góp của …

xây dựng nên. Trong số đó phải kể đến: “Ngôi Chùa chén kiểu Mỹ Xuyên/Nhìn gian chánh

điện bốn bề gốm hoa/Công lao bao vị sư già/Ấm lòng phật tử gần xa viếng chùa”. Chùa

cũng là nơi diễn ra các sự kiện quan trọng trong sinh hoạt của phum, sóc cũng như suốt

cuộc đời con người “sự tử cũng như sự sinh” như: lễ Sene Đônta, lễ Ok Om Bok, tết Chôl

Chnăm lễ Phật đản, lễ Rằm tháng Giêng, lễ Dâng y… Mỗi lễ hội có những ý nghĩa khác

nhau, nhiều nghi thức độc đáo diễn ra, và luôn lấy chùa làm trung tâm tổ chức nghi thức lễ

hội.… Khi qua đời, bà con Khmer cũng không địa táng như phong tục các dân tộc Việt,

Hoa… mà xin đem vào chùa hỏa táng, lấy tro cốt gửi vào chùa phụng thờ, với triết lý để

vong hồn người quá cố ngày đêm nghe kinh Phật, ăn chay, kề cận ánh hào quang sớm được

siêu thoát, về nơi Tây phương cực lạc. Theo nghiên cứu của Phạm Thị Hương Hạnh: “Chùa

là biểu tượng đặc trưng cho văn hóa dân tộc Khmer, nơi rèn luyện đạo đức và nhân cách

con người, cũng là nơi giáo dục cho thanh niên người Khmer. Người Khmer xem chùa là

nơi thiêng liêng, trang trọng, nơi tập trung những gì tinh túy nhất của dân tộc”[49, tr.99].

84

Một số lễ hội mang ý nghĩa cầu mong sự an lành, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, mùa

màng bội thu, giúp người ta nhớ về cội nguồn tổ tiên, ông bà đã sống chan hòa và yêu

thương nhau hơn trên mảnh đất này, rất được cộng đồng 3 dân tộc xem như lễ hội chung

của vùng đất Sóc Trăng như: Lễ hội Cúng Phước Biển được tổ chức tại chùa Cà Săng (Srei

Krosang), ở làng biển xã Vĩnh Châu, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; đua Bò kéo xe, đua

Ghe ngo trên cạn, thi đua tưới rẫy, thi nhặt củ hành,... Ngày hội cũng có những chương trình

biểu diễn văn nghệ với những điệu múa uyển chuyển, điêu luyện của các cô gái Khmer hòa

cùng dàn nhạc ngũ âm và cả vũ điệu cổ truyền như múa gà, múa trống sadam, múa khỉ của

các nghệ nhân Khmer, chương trình biểu diễn là dịp thể hiện tinh thần cố kết cộng đồng

Kinh - Khmer - Hoa trong văn hóa Sóc Trăng.

Trong gia đình người Khmer, mối quan hệ vợ, chồng và các con được xây dựng trên

nền tảng triết lý đạo Phật. Giá trị đích thực trong cuộc sống được đánh giá qua việc làm

thiện hay ác. Làm việc thiện sẽ tích đức, được phúc về sau, còn làm việc ác sẽ bị quả báo

theo quy luật nhân quả “gieo nhân nào gặp quả đó”, tuy thế giới quan mang nặng tính duy

tâm, song mọi tôn giáo đều mang tính hướng thiện.

Ngoài ra, nét đặc thù của văn hóa các dân tộc ở Sóc Trăng trong các phong tục tập

quán, các tín ngưỡng, lễ hội trong sinh hoạt văn hóa dân gian; tính đan xen các giá trị văn

hóa khác nhau tạo nên sự phong phú của bản sắc các dân tộc ở Sóc Trăng. Cụ thể, Do đồng

bào Khmer sống dựa vào nông nghiệp nên nhiều hình thức tín ngưỡng cổ xưa bắt nguồn từ

tục thờ đá Neak Tà (còn gọi là Nạk Tà) trong các phum sóc, đó là thần bản thổ, thần chữa

bệnh, xét xử. Neak Tà còn được gọi là ông Tà, là vị thần bảo hộ phum sóc - giống như thần

Thành hoàng ở các làng của người Việt. Tín ngưỡng thờ Neak Tà của người Khmer là yếu

tố liên kết, tập hợp cư dân trong phum sóc, nhưng qua thời gian cộng cư, giao lưu văn hóa

với người Việt, người Hoa nên ngày nay, lễ cúng Neak Tà có sự tham gia rất đông của cả

cộng đồng.

Về ẩm thực, đã từ lâu người dân vùng sông nước Sóc Trăng biết khai thác những

nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như: các loại cá đồng, cá sông, cá biển, ốc, tôm, cua,

tép,...bông súng, bông điên điển, rau nhúc, bông lục bình, tai tượng... để chế biến thành

nhiều món ăn hấp dẫn. Nếu như người Kinh có bánh tét, cá kho, mắm chưng, mắm tép,

bánh xèo, bánh canh, canh chua, mắm kho, bánh lọt... thì người Hoa tại Sóc Trăng lại có

85

bánh cóng, bánh củ cải, mè láo, bánh pía, lạp xưởng... thì đồng bào Khmer lại có bún nước

lèo, mắm bồhóc...cùng với thời gian, các món ăn chính của các dân tộc đã có sự giao thoa,

thay đổi cho phù hợp với khẩu vị của dân tộc mình. Cụ thể, bánh tét của người Kinh thường

chỉ có nhân đậu, nhân chuối, bây giờ đã được người Hoa biến hóa thêm vào nhân thịt hay

lạp xưởng, trứng vịt muối. Còn món bún nước lèo đặc sắc của bà con Khmer, đã được thêm

vào thịt heo luộc, tôm, chả lụa, heo quay, hột vịt lộn... của người Kinh. Riêng bánh pía của

người Hoa nay được thêm vào hương vị sầu riêng, khoai môn, hoặc làm bánh chay phục vụ

đồng bào phật tử.

Như vậy, trên cơ sở tính cộng cư có được từ việc tổ chức cuộc sống của các thành viên

trong Phum, Sóc, ngôi chùa cùng với những hoạt động của các vị sư và tín đồ đã tạo ra sự

cố kết cộng đồng. Khi Phật giáo đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người Khmer Sóc

Trăng, Phật giáo đã trở thành giá đỡ về mặt tinh thần giúp đồng bào Khmer thoát khỏi nỗi

đau về thể xác, thì các nhà sư ở trong chùa càng được đồng bào kính trọng.

Cộng đồng người Hoa ở Sóc Trăng được hình thành cách nay hơn ba thế kỷ. Hơn ba

thế kỷ qua, cũng là thời gian để định hình một văn hóa của người Hoa ở Sóc Trăng. Đến

vùng đất mới, đồng bào Hoa vẫn lưu giữ các nghề truyền thống, đó là làng nghề làm bánh

pía và lạp xưởng lâu đời. Ngoài ra, người Hoa tại Sóc Trăng còn làm nghề dịch vụ, buôn

bán... tiểu thủ công nghiệp khá phát triển. Do vậy, cộng đồng người Hoa sẵn sàng giúp đỡ

nhau trong sản xuất kinh doanh, họ coi nhau là người một nhà khi đến vùng đất mới. Những

hoạt động kinh doanh, sản xuất thường có các hội nghề nghiệp tương ứng. Những hội này

đều có một vị tổ và có một ngày giỗ tổ trong năm, được thực hiện với những nghi thức trang

trọng. Người Hoa có tinh thần cố kết rất cao, tương thân tương ái trong cuộc sống cộng

đồng. Họ sẵn sàng giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn hay bất cứ việc gì nếu

có thể. Tại Sóc Trăng các Hội quán, Hội tương tế… của người Hoa từ rất lâu đã thể hiện

được tinh thần đoàn kết, tính cố kết cộng đồng rất cao. Hội tương tế của người Hoa là một

tổ chức xã hội tập hợp rộng rãi công dân là người Hoa được thành lập vào cuối tháng 10

năm 2004 theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản. Hội đã thực hiện được khá nhiều hoạt động

nổi bật như tuyên truyền các chủ trương chính sách, pháp luật, của Đảng, Nhà nước, cứu trợ

thiên tai, nạn nhân chất độc da cam, quỹ Khuyến học và nhiều hoạt động từ thiện... Hội

tương tế đã xây dựng trường học, tặng quà cho người nghèo vào dịp lễ, tết, phát gạo cho

86

người nghèo, Hòa An Hội quán với hoạt động phát gạo, ban trị sự chùa La Hán với hoạt

động cấp áo quan và phát gạo. Hội Tôn thân họ Huỳnh với hoạt động khám bệnh, cấp phát

thuốc miễn phí… tổ chức các trương trình văn hóa nghệ thuật của người Hoa như Hội Diễn

nghệ thuật quần chúng người Hoa, tổ chức, hỗ trợ kinh phí hoạt động cho câu lạc bộ Thư

pháp, tổ chức Hội thi Thư pháp, và nhiều công việc từ thiện khác. Với tinh thần hoạt động

từ thiện xã hội, thời gian qua, Hội tương tế người Hoa Sóc Trăng đã có nhiều đóng góp thiết

thực vào sự phát triển cộng đồng. Qua đó, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

đảm bảo an sinh xã hội, cũng như những người yếu thế trong cộng đồng, giảm tỷ lệ hộ

nghèo và gia đình chính sách trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Đây là những việc làm đáng trân

trọng và cần được nhân rộng.

Ngày nay, cộng đồng các dân tộc đã có sự giao hòa, cố kết giữa ba dân tộc Kinh, Hoa

và Khmer bản địa qua giao tiếp, qua lao động sản xuất, bảo vệ quê hương, qua ngôn ngữ và

cả quan hệ huyết thống. Nhiều địa danh còn lưu giữ ở Sóc Trăng ngày nay đã phản ánh

phần nào mối quan hệ này như làng Xoài Ca Nả, làng Bố Thảo,... hay qua kiến trúc chùa

cũng thể hiện sự pha trộn văn hóa này. Cụ thể, hình rồng được đắp trên các cột của chính

điện của các ngôi chùa đã không còn là “rồng truyền thống” trong hình ảnh dân gian Khmer

mà có sự ảnh hưởng của người Hoa. Chín đôi cột cũng đã có cách giải thích khá lý thú về

đặc thù cộng cư của các tộc người trong vùng, gắn liền cách lý giải về sông Cửu Long của

người Việt. Ngoài ra, cộng đồng các dân tộc đã thực hiện tốt các cuộc vận động lớn: “Toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; “Ngày vì người nghèo”; “Tháng an

toàn giao thông”; tổ chức Hội thi “Dân vận khéo” phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân,

tương ái trong cộng đồng.

Khác với các dân tộc khác, cộng đồng xã hội người Việt đó là làng. Dân cư trong làng

Việt tại Sóc Trăng được tập hợp từ nhiều nơi khác nhau, từ nhiều dòng họ khác nhau sợi

dây liên kết các dòng họ chính là tình người. Để tồn tại, các cộng đồng dân cư trong làng xã

cũng luôn phải tìm cách ứng phó và thích nghi với những tác động bất lợi của tự nhiên gió

bão, lũ lụt, hạn hán… để bảo vệ sản xuất và cuộc sống của chính họ tại vùng đất mới. Trong

quá trình ấy, các cộng đồng cư dân làng xã ngày càng tích lũy kinh nghiệm để chung sống

hài hòa, giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn “bán anh em xa mua láng giềng gần”.

87

Ý Thức cố kết cộng đồng của người Kinh còn được thể hiện qua tín ngưỡng tâm linh

đó là đình, chùa, vào tháng giêng, tuy không phải phật tử nhưng người Việt thấy mình có

trách nhiệm phải đến chùa, thắp nhang, khấn vái đó là cử chỉ để nhớ đạo đức dân tộc, tình

yêu tổ quốc… Theo nghiên cứu của Sơn Nam thì: “Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh

thần, có đình mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ,

bằng không chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc…”[100, tr.26]. Những người dân

khẩn hoang luôn ước mong những vị thần tại chỗ sẽ phù hộ độ trì cho họ. Với nhu cầu tín

ngưỡng tâm linh như vậy, người Việt đã duy trì và phát triển tại vùng đất mới tín ngưỡng đa

thần và tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Theo số liệu của Ban Tôn giáo tỉnh Sóc Trăng, toàn

tỉnh có 75 ngôi đình, rải đều khắp các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Trong đó, Kế

Sách là huyện có số lượng đình nhiều nhất 20 ngôi, huyện Long Phú 16 và Mỹ Xuyên 10

ngôi; huyện Mỹ Tú, Thạnh Trị là mỗi địa phương 8 ngôi đình; thị xã Vĩnh Châu 04 và Ngã

Năm 05; nơi có ít đình nhất là thành phố Sóc Trăng và huyện Cù Lao Dung mỗi nơi có 02

ngôi đình. Do hình thành trong quá trình khẩn hoang, lập làng tại vùng đất mới trong

khoảng vài ba trăm năm gần đây, nên đình làng ở Sóc Trăng ở Sóc Trăng thường chỉ thờ

một vị thần mang tính ước lệ là thần Bổn Cảnh Thành Hoàng, nghĩa là vị thần Thành

Hoàng của một vùng đất. Mỗi ngôi đình nơi lưu giữ những giá trị tâm linh tín ngưỡng, lễ

hội truyền thống, nơi tụ họp vui chơi giải trí sinh hoạt cho người dân trong vùng. Hàng năm,

theo phong tục tại các ngôi đình ở Sóc Trăng đều tổ chức những lễ hội cúng đình gắn liền

với đời sống lao động của cư dân vùng trồng lúa nước, thường có các lễ chính như Kỳ Yên,

Thượng điền, Hạ điền.... Lễ Hạ điền, được cử hành vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như khai

trương việc cày cấy, trồng trọt…mong ước một vụ mùa bội thu nơi vùng đất mới.

Hơn nữa, đến đình, chùa còn thể hiện tinh thần cố kết với đồng bào thôn xóm, phum,

sóc. Chính tính hướng thiện, lòng từ bi, bác ái của nhà phật khiến những con người xa lạ

đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, thiện tâm công đức vì họ đều là phật tử. Ngoài ra,

người Kinh còn lấy đình, miếu nhiều nơi còn gọi là miễu làm nơi hội họp vào ngày mồng

một và ngày rằm hàng tháng. Đình, Miếu ở Sóc Trăng thờ Thành hoàng, Phúc thần, Thần

linh và Danh nhân sinh tiền có công xây dựng địa phương. Điều đó nhắc nhở lòng nhân

nghĩa, đạo lý tự giác, tinh thần đoàn kết tưởng nhớ công ơn người khai hoang, lập ấp…

phong tục này có ảnh hưởng sâu đậm đến ngày nay. Tiêu biểu trong số đó là Đình thần Mỹ

88

Xuyên, là một công trình kiến trúc nghệ thuật tín ngưỡng dân gian được xây dựng từ thế kỷ

XIX và còn giữ được khá nguyên vẹn mô típ kiểu kiến trúc đình làng xưa của người Việt ở

Nam Bộ. Đến lệ cúng đình, Ban hội đình cùng bà con tề tựu về đình, cầu nguyện mưa thuận

gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu, cầu cho dân giàu nước mạnh, mọi người đều được bình

yên và cầu siêu cho vong linh những vị anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Ý Thức cố

kết cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa trong văn hóa Sóc Trăng cũng được hình thành từ nhu

cầu trong lao động, sản xuất. Ý Thức cố kết cộng đồng không phải là những nét trừu tượng,

chính khí hậu, địa chất, sông ngòi, thảo mộc Sóc Trăng chủ yếu là nhân tố quan trọng hình

thành nên yếu tố trên. Cụ thể, Đình thần Mỹ Xuyên xưa kia nằm ngay trung tâm chợ Bãi

Xàu, nơi đây vốn là một trong những thương cảng lúa gạo nổi tiếng ở miền Tây Nam Kỳ.

Người Kinh khi vào Sóc Trăng sinh sống họ mưu sinh bằng nghề nông là chủ yếu, do

vậy họ luôn luôn phải quan sát thiên nhiên để đoán biết được thời tiết mà đưa ra những

quyết định trong việc nhà nông… “Trông trời trông đất trông mây/Trông mưa, trông gió,

trông ngày trông đêm/Trông cho chân cứng đá mềm/Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng”.

Do vậy, ông trời trở thành chỗ dựa tâm linh, là nơi người dân trao gửi niềm tin trong lao

động. Vậy là, dân lập bàn thờ Thiên để cúng trời - đất, đây là một tín ngưỡng phổ biến của

người Kinh tại Sóc Trăng. Bàn thờ thiên chính là sự cố kết tâm linh giữa con người với trời

đất, với tổ tiên là nơi gửi gắm ước nguyện phước lành, bình an, mạnh khỏe tới ông trời, tới

tổ tiên của những con người xa xứ.v.v..

Tuy nhiên, đặc trưng chung của trong quần cư của Sóc Trăng là tính mở, do vậy

trong cuộc sống, sinh hoạt, tín ngưỡng hàng ngày cũng có sự hỗn dung rõ nét. Theo nghiên

cứu của Trần Minh Thương và Bùi Túy Phượng: “…Người ta dễ nhận thấy nhiều bàn thờ

Ông Thiên đôi khi còn có kết hợp thờ ông Tà. Bên cạnh lư hương, hay dưới chân bàn thờ

Trời có khi là mấy hòn đá, biểu tượng của Neak Tà. Gặp ngày giỗ ông bà, hoặc ngày lễ,

ngày tết, cúng tổ nghề, tổ nghiệp…người ta cũng cúng luôn Ông Trời”[129, tr.47]. Ở Sóc

Trăng các hoạt động văn hóa như Dù Kê, Rô Băm là loại hình sân khấu dân gian đặc sắc

của người Khmer Nam Bộ nói chung và người Khmer Sóc Trăng nói riêng. Do đời sống

cộng cư nên loại hình văn hóa này chịu ảnh hưởng và giao thoa với các loại hình nghệ thuật

Cải lương, ca tài tử của người Việt, hát hò Quảng của người Hoa ở Sóc Trăng. Sân khấu Dù

Kê, Rô Băm mang tính nghệ thuật điển hình, độc đáo và đầy sáng tạo, là di sản vô giá của

89

người Khmer. Sơn Ngọc Hoàng cho rằng: “Trong quá trình giao lưu văn hóa, người Khmer

Sóc Trăng đã tiếp nhận và Khmer hóa những tinh hoa văn hóa nghệ thuật của các dân tộc

khác để làm phong phú thêm tài sản văn hóa riêng của mình. Đặc biệt đã tiếp nhận và tiếp

biến loại hình “Lokhon kbach boran Khmer”[55, tr.53].

Như vậy, đặc trưng chung của trong quần cư của cư dân Sóc Trăng là tính mở, ba dân

tộc sinh sống trên vùng đất này đều xem lễ, tết của dân tộc khác như của chính dân tộc

mình. Tuy có những khác biệt, thể hiện sắc thái riêng của mỗi dân tộc. Ý thức cố kết cộng

đồng Kinh - Khmer - Hoa trong văn hóa Sóc Trăng được hình thành từ nhu cầu trong lao

động, sản xuất. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhưng buổi đầu khai phá biết bao hiểm

nguy rình rập, thách thức với con người. Do cuộc sống đầy nỗi bất trắc đã tạo ra sự liên kết

cộng đồng, mối liên kết cá nhân phụ thuộc vào cộng đồng dần dần trở thành tập tục có cơ sở

kinh tế - xã hội, bảo đảm tạo nên sợi dây tinh thần nối giữa các cá nhân trong cộng đồng:

gia đình - làng xã - Tổ quốc. Trong quá trình khai hoang, lập ấp các dân tộc luôn sát cánh

bên nhau trong lao động sản xuất. Trải qua rất nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử các dân

tộc ở tỉnh Sóc Trăng đã có mối quan hệ gắn bó đã cùng chung sức khai phá, xây dựng và

bảo vệ vùng đất này, tạo nên ý thức cố kết cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa trong văn hóa

Sóc Trăng.

3.1.3. Lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa Sóc Trăng

Nhân ái là yêu thương con người, tức đặt con người lên trên tất cả, ở vị trí trung tâm

trong các mối quan hệ. Tuy vậy, không phải mọi dân tộc đều có lòng nhân ái giống nhau.

Lòng nhân ái của nhân dân Sóc Trăng nói riêng bắt nguồn từ đạo nhân trong Nho giáo và từ

bi trong Phật giáo Nam Tông, tôn giáo ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống tâm linh người

dân Sóc Trăng. Khi truyền bá vào Sóc Trăng lòng nhân ái được thể hiện qua lăng kính của

những người đi “khai hoang, mở cõi”, đó chính là lòng yêu thương con người, giúp người

khác vượt qua khó khăn, hòa nhập ở vùng đất mới, là sự cưu mang người khác khi “sa cơ,

lỡ vận nơi đất khách”… Trong lúc khó khăn, hoạn nạn chính lòng nhân ái, tinh thần nghĩa

hiệp, sẻ chia lẫn nhau đã giúp họ vượt qua hoàn cảnh thực tại. Vì vậy, đối với người Kinh

khi xa xứ, lòng yêu thương con người chính là “thương người như thể thương thân”; “một

con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Gió đưa nhành trái la đà/Cù lao Dung đó mấy xa cũng

gần/Bống sao đem nầu tương bần/Nặng mang tình đất nhẹ nâng tình người”… từ lâu đã trở

90

thành nếp nghĩ, cách ứng xử, triết lý sống của con người nơi đây, chi phối mối quan hệ giữa

người với người nơi đây. Lòng nhân ái của nhân dân các dân tộc Sóc Trăng còn được thể

hiện qua lăng kính hào sảng của những người trọng nghĩa khinh tài, xem tiền tài là vật ngoài

thân và có khí thế ngang tàn của những con người “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”. Họ

luôn hào hiệp, hiếu khách và sẵn sàng giúp đỡ người khác không ngại khó khăn. Theo Sơn

Nam: “Tính cách trọng tình nghĩa có nguồn gốc từ truyền thống nhân ái của văn hóa dân

tộc. Là những “con người tứ chiếng”[98, tr.70]. Tuy không bà con thân thuộc, đến mảnh đất

Sóc Trăng trước bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết, của điều kiện tự nhiên, do đó con

người trong hoàn cảnh họ này chọn cách sống nhân ái, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trịnh

Hoài Đức cho rằng, càng đi về Phương Nam tính trọng nghĩa lại được quan niệm khác đi

một chút và đến vùng đất Sóc Trăng, trọng nghĩa đã trở thành một trong những phẩm cách

quan trọng nhất, thành đặc trưng trong tính cách của con người nơi đây: “…Người đủ tính

trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ nữ cũng thế…”[40, tr.180]. Cá tính người

Sóc Trăng cũng thể hiện rõ ở sự hiếu khách, tự tin. Sơn Nam nhận định: “Miền Nam là nhà

của họ, làm lai rai cũng đủ ăn đi tới đâu cũng không chết đói, hễ ăn ở có “điệu nghệ” thì

không cô độc và luôn gặp bạn tri âm (tứ hải giai huynh đệ), chuyện nhỏ nhặt thì bỏ qua,

chuyện nào bất bình thì giải quyết gấp, nơi làm ruộng mỗi năm một mùa, người dân quá

rảnh rang để ăn uống, đờn ca vọng cổ…”[100, tr.358]. Có thể thấy, đây là vùng đất của dân

cư tứ xứ, con người không quen biết nhau, nhưng cũng có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn

nhau, do vậy cơ sở của quan hệ giữa họ ở đây không phải tình mà là nghĩa.

Mặt khác, chúng ta không thể phủ nhận rằng “nhân” của Nho giáo và “từ bi” của Phật

giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc đến lòng nhân ái của người Sóc Trăng, khi định cư ở vùng

đất mới, thành phần dân cư đa phần là người Hoa từ Trung Hoa, người Kinh từ Ngũ Quảng

với tư tưởng nho giáo phong kiến và người Khmer mang nặng tư tưởng phật giáo Nam

Tông thì lòng nhân ái của nhân dân Sóc Trăng sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc từ “nhân” của Nho

giáo và “từ bi” của Phật giáo. Nhưng nó không ảnh hưởng hoàn toàn, mà bị “khúc xạ” bởi

sự chắt lọc những nhân tố thích hợp cùng với sự Việt hoá “từ bi” của Phật giáo, “nhân” của

Nho giáo, tạo nên một nét riêng cho lòng nhân ái của người Sóc Trăng. Đại bộ phận người

Khmer đã theo phật giáo Nam Tông và họ lấy chùa làm nơi sinh hoạt tôn giáo, vì bản chất

của văn hóa Phật là sự sống an hòa, tịnh lạc không đố kỵ, hơn thua. Do đó, hình thái của

91

văn hóa Phật giáo phải phản chiếu được nếp sống an hòa tịnh lạc đó. Theo Tiền Văn Triệu,

Lâm Quang Vinh: “Người Khmer quan niệm “lúc trẻ phải trau dồi tri thức, lớn lên phải biết

giữ của, về già phải biết tu thân, lúc sắp lìa trần phải biết niệm phật”[132, tr.21].

Chữ “Nhân”, trước hết, là lòng thương yêu con người, không phân biệt giai cấp.

“Người nhân” thường giúp người khác vượt khó khăn, gian khổ, cưu mang người khác,

“nhân” chính là sự tự nguyện của mỗi người với cộng đồng với gia đình. Lòng nhân ái,

khoan dung ở Sóc Trăng đối với đồng bào Khmer được thể hiện qua Hội Đoàn kết sư sãi

yêu nước tỉnh Sóc Trăng, hội đã thực hiện tốt công tác vận động đồng bào phật tử tích cực

hưởng ứng cuộc vận động của chính phủ: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”;

“Khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”.v.v.. Ngoài ra, các chùa Phật giáo Nam

Tông mở các lớp dạy chữ Khmer từ lớp 1 đến lớp 6 trong dịp hè cho sư sãi và con em đồng

bào Khmer theo học. Các chùa còn được cấp phát miễn phí các loại sách, báo, tạp chí theo

định kỳ nhằm bổ sung vào tủ sách pháp luật để sư sãi và đồng bào phật tử nghiên cứu, quán

triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Nhìn chung lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa Sóc Trăng

được biểu hiện ở quan hệ ứng xử hàng ngày. Trong quan hệ xóm làng, lòng nhân ái thể hiện

ở “chín bỏ làm mười”;“tối lửa, tắt đèn có nhau”; “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, dù

xem xét mọi việc “có lý, có tình” nhưng thực ra, người Sóc Trăng nặng tình hơn lý, nhiều

lúc đi đến chỗ duy tình. Họ ghét lối sống bạc tình, bạc nghĩa, theo kiểu “ăn cháo, đá bát”.

Quan điểm này cũng áp dụng cho cả người thân: “Người dưng có ngãi (nghĩa) thì đãi người

dưng, anh em vô ngãi thì dừng anh em”. Ở Sóc Trăng còn có các phong trào, các câu lạc bộ,

được Hội Chữ thập đỏ tỉnh thành lập với mục đích kêu gọi những tấm lòng nhân ái cùng

góp sức, góp tiền, quần áo cũ, nhu yếu phẩm...giúp đỡ người yếu thế trong tỉnh có ý nghĩa

sâu sắc như: “Xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa”, “Phụng dưỡng các bà mẹ Việt

Nam anh hùng“, “Xây cầu giao thông nông thôn”, “Hiến máu nhân đạo”, “Chợ nhân đạo

“0 đồng” huyện Kế sách”, “Tháng nhân đạo” năm 2020, với chủ đề “Chung tay vì sức

khỏe cộng đồng”, “Chợ nhân đạo”.v.v…Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh

Sóc Trăng, năm 2018 tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh đứng thứ 16 trên cả nước và cao nhất

tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đến Thị xã Vĩnh Châu có hơn 52% số dân là đồng

92

bào dân tộc Khmer sinh sống, trong số chín xã, phường có tới bảy xã, phường thuộc diện

khó khăn. Những năm gần đây, với chính sách ưu đãi của Chính phủ từ các chương trình

134 và 135 đời sống của đồng bào đã có nhiều thay đổi. Nhiều hộ nông dân đã đến trụ sở

UBND xã xin được trả lại sổ hộ nghèo với triết lý rất đáng trân trọng: Nhờ Nhà nước hỗ trợ

vốn, lại được cán bộ khuyến nông và những người làm ăn giỏi hướng dẫn, nhiều hộ nông

dân Khmer nghèo đã vươn lên, sản xuất giỏi. Nay đã hết nghèo rồi, mình đi trả sổ hộ nghèo

để Nhà nước giúp đỡ người khác... Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, những

năm qua các cấp ủy Đảng, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, tỉnh Sóc

Trăng luôn chú trọng thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho các đối tượng

chính sách trên địa bàn.

Lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý được thể hiện khá rõ nét trong chuỗi

các lễ hội của đồng bao Khmer Sóc Trăng. Tâm điểm đáng chú ý là Tết cổ truyền (Chôl

Chnăm Thmây) còn gọi là lễ chịu tuổi. Khi nghiên cứu Tết cổ truyền (Chôl Chnăm Thmây)

chúng tôi nhận thấy, cũng giống như phong tục của người Kinh, Hoa đồng bào cũng ăn tết 3

ngày: ngày thứ nhất Chôl Chnăm Thmây, ngày thứ 2, Von bât và ngày thứ 3 là Lơng sak.

Ngày thứ nhất, từng đoàn người sẽ lên chùa với những bộ quần áo sặc sỡ, trên tay cằm

nhang đèn, hoa quả cùng nhau rước thần Đại nông lịch (Maha Sâng Kran) với hàm ý biết

ơn vị thần đã phù hộ cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu quanh chính điện

rồi vào lễ Phật, mừng năm mới. Ngày thứ hai, Phật tử dâng cơm cho các vị sư và đắp núi

cát (Anisâng Pun Phnôm Khsách). Tết Chôl Chnăm Thmây của người Khmer chính là bài

học răn dạy con cháu về cách sống, lối sống theo triết lý đạo phật, một triết lý nhân văn cao

cả về lòng biết ơn của đồng bào với đức Phật, với các nhà sư, với ông bà mình những người

đã khuất. Họ dâng cúng bánh tét, trái cây và một sấp vải trắng để cầu siêu cho người đã

khuất với quan niệm “mình ăn gì thì ông bà mình có cái đó”, gần giống quan niệm “trần

sao âm vậy” của người Kinh. Tết Chôl Chnăm Thmây của người Khmer thể hiện tinh thần

trọng đạo lý trong văn hóa của người dân Khmer Sóc Trăng.

Lễ Sel Đolta hay còn gọi là lễ cúng ông bà, nhằm tưởng nhớ đến công ơn sinh thành

của thân nhân quá cố. Theo nghiên cứu của Phạm Thị Phương Hạnh: “Vào mùa Đolta, các

vị sư sãi và đồng bào Khmer ở các chùa, ở trong mỗi gia đình đều hướng về tổ tiên với

lòng thành kính để được dâng ơn, đáp nghĩa bao la vô tận đối với các đấng sinh thành đã

93

dưỡng dục cho mỗi người lớn lên và trưởng thành”[49, tr.123]. Từ lâu lễ cúng ông bà Sel

Đolta đã gắn liền với tâm linh người Khmer Sóc Trăng thể hiện giá trị đạo đức, văn “uống

nước nhớ nguồn” của đồng bào. Lễ Cúng Trăng (Oóc Ombóc), của người Khmer ở Sóc

Trăng. Theo quan niệm của đồng bào Khmer, mặt trăng là vị thần cai quản mùa màng. Do

vậy, sau mỗi vụ mùa sản xuất, cần làm lễ cúng trăng để tạ ơn một năm mưa thuận gió hòa,

thu hoạch tốt, nhà nhà trong phum, sóc ấm no, hạnh phúc. Lễ hội cũng mang một ý nghĩa

nhân văn sâu sắc thể hiện nghĩa tình đạo lý, sự biết ơn các vị thần của đồng bào Khmer Sóc

Trăng cần được gìn giữ và trân trọng.

Đối với người Kinh tại Sóc Trăng, lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý

trong văn hóa Sóc Trăng không chỉ được thể hiện qua việc thờ cúng cha mẹ (sự tử như

sự sinh) mà còn được thể hiện qua phong tục thờ cúng của nhân dân đối với người có

công đức với nhân dân (công tắc tự chi), thông qua đình và đền để thờ các vị Thành

hoàng tức là công thần đời trước của người Việt. Khi đến vùng đất mới khai hoang lập

ấp thì phong tục thờ cúng của nhân dân đối với người có công đức với nhân dân ngoài

việc giữ nguyên lý cơ bản, khi đến vùng đất mới được áp dụng linh hoạt trong tình hình

đất mới. Ngoài ra, theo Sơn Nam vào dịp lễ giỗ ông bà cha mẹ tuy có nguồn gốc từ

Quảng trị, nhưng khi sinh sống ở vùng đất mới, sự tưởng nhớ công ơn cha mẹ của người

Kinh cũng có những điểm khác biệt thông qua bài khấn của gia chủ: “Đất đai viên trạch,

tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ, ông bà đất nước. Vẫn là để tạ ơn người đi khai khẩn

phần đất này đầu tiên…”[100, tr.24].

Trọng nghĩa tình, đạo lý là đặt cái chung lên cái riêng và nếu cần cũng sẵn sàng hy

sinh cái riêng vì cái chung. Khi lưu dân người Việt cùng với người Hoa và người Khmer

cộng cư tại Sóc Trăng, tư tưởng trọng nghĩa tình, đạo lý đã trở thành một nguyên tắc đạo

đức, một nguyên tắc sống. Tinh thần đó không chỉ thể hiện trong quá nhận thức sâu sắc hơn.

Tin và theo đảng nhân dân các dân tộc tại Sóc Trăng ý thức rằng cách mạng là chính nghĩa,

theo Đảng bảo vệ bờ cõi, giang sơn, bảo vệ Làng, Phum, Sóc…là chính nghĩa. Do đó, lớp

lớp người con Sóc Trăng theo Đảng lên đường bảo vệ Tổ Quốc, không ngại hy sinh, gian

khổ vì sự nghiệp giải phóng quê hương, giải phóng đất nước. Có thể khẳng định, vì nghĩa

đã được nhân dân các dân tộc tỉnh Sóc Trăng nâng lên thành tiêu chuẩn để đánh giá con

người. Vì nghĩa, trọng đạo lý đã trở thành bổn phận với tổ tiên, với gia đình với bạn bè.

94

Như vậy, lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa Sóc Trăng

biểu hiện ở quan hệ ứng xử của nhân dân các dân tộc Sóc Trăng đã thể hiện những bản sắc

của nhân dân các dân tộc nơi đây. Nó được hun đúc từ truyền thống “lá lành đùm lá rách”

của dân tộc ta từ ngàn đời, từ những triết lý sống mộc mạc, giản dị “cơm ba bát, áo ba

manh” không màng danh lợi của những con người “Mang gươm đi mở cõi…”. Bản sắc văn

hóa mang tính đặc trưng trên đang góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng trong văn hóa

cộng đồng các dân tộc Việt Nam, rất cần được gìn giữ và trân trọng.

3.1.4. Tinh thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử của cộng đồng dân tộc

Sóc Trăng

Tính giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử trong lối sống của nhân dân các dân

tộc ở Sóc Trăng được thể hiện rõ qua phương thức sinh hoạt, ăn uống hằng ngày của cộng

đồng...Đồng bào không cầu kỳ, phô trương, hay nói thẳng, nói thật, thật thà, dễ mến, hiếu

khách…Để mô tả tính cách con người nơi đây ta có thể hiểu ngay qua câu thơ:“Ra đi gặp

vịt cũng lùa/Gặp duyên cũng kết/Gặp chùa cũng tu”. Ra đường với một mục đích có thể là

đi thăm ruộng, thăm bà con hay học hỏi cách gieo trồng mùa vụ, nhưng có thể chưa ra đến

ruộng họ đã gặp gì vui nấy, cởi mở, không khô cứng bó buộc. Dễ dàng kết giao, sẵn sàng

kết nghĩa anh em, coi trọng nghĩa khí. Không quá cầu kỳ trong các tiệc vui, cũng không cần

“mâm cao cỗ đầy” vẫn có thể ngồi cạnh nhau “lai rai” hát vài câu vọng cổ, cởi mở nỗi lòng:

“Ngó lên trời mưa sa lác đác/Ngó xuống đất hạt cát nằm nghiêng/Rượu Ba Xuyên tiếp đãi

bạn hiền/Trước là đãi bạn sau giải phiền cho anh”. Về bản chất, họ không có tâm lý ít lo

xa, họ mộc mạc, giản dị, như chính điệu múa Lâm thôn (Răm Vông), múa Lăm Leo, múa

Saravan... mỗi khi trống phách lên ai cũng múa một cách hồn nhiên, thoải mái rất vui nhộn.

Sóc Trăng không có sự thay đổi khí hậu quá khác biệt giữa các mùa, cũng không chịu

cảnh mưa dầm, gió bấc như ở Đồng Bằng Sông Hồng và vùng Duyên Hải Miền Trung.

Theo Nguyễn Hiến Lê người dân ở đây chỉ cần: “…Phát vài công đất ở sau nhà, sạ một vài

giạ lúa là có dư lúa ăn suốt năm. Cá nhiều tới nỗi con nít cầm một cây đinh ba nhỏ đi đâm

một lúc về cũng được một xâu cá, đàn bà ngồi rửa chén thấy cá lội ngang thường cầm dao

chém được những con cá lớn bằng bắp chuối”[71, tr.114-115]. Khí hậu dễ chịu, đời sống dễ

dàng nên con người sống với nhau chân thành, cởi mở và giản dị, không quá coi trọng tiền

tài, của cải vật chất, sống phóng khoáng, ngay thẳng và bộc trực. Chính từ nếp sống, cách

95

suy nghĩ và nói năng của người Sóc Trăng, cũng như sự bộc trực, thẳng thắn, không thích

văn chương rào đón, ngôn ngữ Sóc Trăng thường có lối nói rút ngắn, giàu hình tượng.

Chẳng hạn: “Thương sao thương quá bất nhơn/ Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào”;

“Thuyền chài thuyền lưới thuyền câu /Biết thuyền nhơn ngãi nơi đâu mà tìm”, hay “Hoa

trong vườn nhà ai/ Đưa làn hương ngược gió/ Lẫn trong mùi cây cỏ/ Anh biết tìm em đâu”

(Phaka Kroong- dân ca Khơmer).

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn nhận thấy, vùng đất Sóc Trăng cũng không

ưa sự ràng buộc, chuộng sự bình đẳng; trong mưu sinh thì có tinh thần mạo hiểm, bươn

chải, đầu óc sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới, trong ứng xử thì bộc trực, hào hiệp, trọng

nghĩa, khinh tài, phóng khoáng, bao dung, thích ăn chơi xả láng, nhà ở có thể tạm bợ.v.v..

Họ trọng tình hơn trọng lợi, trọng nghĩa hơn trọng danh: Tiền tài như phấn thổ/Nhân nghĩa

tựa thiên kim. Bởi đứt dây nên gỗ mới chìm/Tại ai ở bạc nên mới tìm nơi xa. Họ tiếp đãi

khách với tấm lòng chân thành, chất phác, không toan tính. Khi khách đến nhà: Bắt con cá

lóc nướng trui/Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa. Người Sóc Trăng rất bộc trực, thẳng

thắn, họ nghĩ sao nói vậy, không văn hoa dài dòng, rào trước đón sau,“nói thẳng ruột

ngựa”; “ruột để ngoài da”, không thích che đậy giấu giếm, không quá giữ kẽ, quanh co,

không úp mở: Chẳng thà em lấy thằng chồng khờ chồng dại/Lo kinh thương phản mại/Tính

công nghệ nông trang/Không ham nhiều bạc lắm vàng/Mai sau sanh chuyện điếm đàng bỏ

em. Thậm chí đến chuyện tình duyên cũng phơi bày thẳng thực, không giữ kẽ: Con gái

mười bảy mười ba/Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng/Mẹ giận mẹ phát ngang hông/Đồ

con mất nết đòi chồng suốt đêm! và, còn cà rỡn với lời nói, đùa vui không sĩ diện theo kiểu

“Tam tòng tứ đức” của lễ giáo phong kiến: Nước mắm ngon dầm con cá đối/Em biểu anh

chờ để tối em qua…Người Việt ta thường có câu: “Áo năng may năng mới, người năng tới

năng thân”.

Con người nơi đây nổi tiếng rộng rãi, bụng dạ thật lòng và giản dị muốn nói điều gì là

nói ra điều ấy, không nói vòng vo tam quốc. Sở dĩ có được điều này có lẽ cũng do đời sống

hằng ngày của họ, là sự chung sống hài hòa giữa các dân tộc Kinh, Hoa và Khmer. Ở mỗi

dân tộc họ có phong tục riêng, tôn giáo khác nhau nhưng những người miền Tây nói chung

sống rất hòa hợp, tôn trọng tín ngưỡng lẫn nhau. Môi trường tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử xã

hội là yếu tố cơ bản góp phần tạo nên dấu ấn riêng trong nhận thức, đời sống vật chất và

96

tinh thần của con người ở một vùng địa lý nhất định. Sự giản dị trong lối sống của cộng

đồng các dân tộc Sóc Trăng cũng được thể hiện qua cách trưng bày hoa quả ngày tết. Tết

đến, người Kinh và Hoa Sóc Trăng thường trưng bày ngũ quả, là những loại quả cây nhà lá

vườn không cầu kỳ, mà theo nghiên cứu của Sơn Nam: “… ngũ quả thường là bốn loại trái

bình dân, kiểu chơi chữ như trái mãng cầu, trái dừa, đu đủ, xoài, gợi ý “cầu vừa đủ xài”,

không tìm được trái tốt thì trái non, hoặc lá mà thay thế hoặc trưng trái sung (sung

túc)”[100, tr.255].

Sự giản dị trong lối sống còn được thể hiện thông qua cách cất nhà, nếu như người

Kinh ở Bắc Bộ thường quan niệm “sống cái nhà, già cái mồ”, thì khi vào vùng đất mới với

điều kiện tự nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa cách xây nhà của người Kinh cũng đơn

giản, không cầu kỳ, không quá coi trọng. Nhà chỉ là nơi “đụt nắng che mưa”, gia chủ có thể

tự mình hoặc ra rừng đốn năm bảy cây cỡ bắp đùi về chặt, đẽo rồi làm cột, kèo thì để cây

gác chéo, cột lại bằng dây dừa, dây mây hoặc thân trúc chẻ hai, lợp lại bằng lá tấm chằm

hoặc lá cần đốp loại lá chằm theo cách của người Khmer. Nhà cũng không cần gia công,

không theo nghi lễ cúng kiếng đầy đủ. Theo Trần Minh Thương, Bùi Túy Phượng, về nhà

mới cũng giản đơn không cầu kỳ, nghi thức: “Người đến chia vui mang theo chục chén,

chục đũa, ấm pha trà, đôi heo, chục con gà… giúp chủ nhà mới tự tin chuẩn bị cho công

việc làm ăn”[129, tr.387]. Trang trí, sắp đặt trong nhà cũng giản đơn, nhà thường chỉ ba

gian, gian giữa người ta kê bàn thờ tổ tiên, từ đường, không cầu kỳ, khuôn phép. Trong ăn

uống họ cũng không cầu kỳ, kén chọn. Theo Sơn Nam: “Người Bắc Bộ kén chọn thức ăn,

như là kén chọn chữ nghĩa, người Miền Trung ăn thật ít, nhưng thật ngon, theo kiểu vua

chúa. Người Nam Bộ không kén cho lắm, thích các loại rau rừng. Ăn nhiều là phương thuốc

dưỡng cơ thể, chống bệnh sốt rét”[95, tr.75].

Sự giản dị trong lối sống đối vời người Khmer cũng được thể hiện qua cách xây dựng

chùa. Theo nghiên cứu của Vương Hồng Sển thì ở Sóc Trăng có một ngôi chùa cũng rất

nổi tiếng đó là chùa Chén kiểu, chùa có tên chính thức là Chro Luong, tên một con sông

chạy dọc theo đường làng gần chùa. Sở dĩ chùa có tên dân gian là chùa Chén Kiểu vì khi

xây dựng chùa sư trụ trì Tăng Địch đã vận động người dân quyên góp xây chùa, ai có gì

góp đó. Khi đó người dân rất nghèo nên góp cả chén, đĩa lành có, vỡ có…thông qua đôi tay

97

khéo léo của các nghệ nhân mà ngôi chùa được xây, đắp từ những chiếc chén, đĩa lại có nét

đẹp rất riêng biệt và vô cùng độc đáo… như ngày nay.

3.1.5. Tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa trong văn hóa Sóc Trăng

Có thể hiểu lạc quan là niềm tin của bản thân, của tập thể hay của cả một cộng đồng

về một ở tương lai tốt đẹp. Lạc qua là thái độ sống điềm tĩnh, an nhiên trước những tình

huống, sự việc không mong muốn xảy ra. Tinh thần lạc quan của nhân dân Sóc Trăng theo

chúng tôi, trước hết, phải bắt đầu từ phương thức sản xuất của con người, ở cả hai mặt: quan

hệ với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và quan hệ với xã hội (quan hệ sản xuất). Phương thức

sản xuất là điều kiện kinh tế - xã hội của lối sống, của tinh thần. Bởi vì phương thức sản

xuất như thế nào thì phương thức sống như thế ấy. Sự hình thành tinh thần lạc quan bắt

nguồn từ lịch sử khai hang vùng đất mới khi chúa Nguyễn là Sãi vương xin Chân Lạp cho

lập hai đồn thu thuế. Sơn Nam nhận định: “Có làm thì có ăn chớ không đến mức có làm mà

không có ăn, hạn hán mất mùa ít sảy ra chẳng bao giờ gây thiệt hại lớn…”[95, tr.23]. Họ

đến trong khi nơi đây tồn tại dân bản địa rất ít; sống chủ yếu ở các vùng cao, gò trũng như

Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long. Khi người Việt đến, người Việt sống hòa nhập với dân

bản địa, học hỏi giao lưu văn hóa với bản địa tạo thành một nền văn hóa bản địa đa dạng và

đặc sắc. Họ mang theo đời sống và tính cách rất phong phú: lạc quan, cởi mở, phóng

khoáng, không có quy định nghiêm ngặt, dễ dãi: ăn nói, ẩm thực, nhà ở… Thoải mái trong

sinh hoạt, tín ngưỡng (ông đạo: đạo sờ, đạo khùng, đạo điên, đạo dừa…); khác người, gàn

dở. Giàu tính mạo hiểm, tinh thần lạc quan của những con người đi phiêu lưu nơi xa -

không ràng buộc (Phú Xuân cũng trải; Đồng Nai cũng từng). Họ là những con người “chữ

nghĩa chưa đầy lá me”, không rành ngôn ngữ thánh hiền, tính khí nóng nảy, bộc trực, không

chịu nịnh bợ ai, luôn mang trong mình tinh thần lạc quan vui vẻ. Khi được thiên nhiên ưu

đãi con người cũng trở nên hào phóng, không cân đo, tính toán, phòng thân, điều này cũng

góp phần tạo nên tính cách của người Sóc Trăng. Đó chính là tinh thần lạc quan, nhìn cuộc

sống đầy ý nghĩa trong văn hóa Sóc Trăng. Tồn tại xã hội thuận lợi cũng là giá đỡ cho tinh

thần lạc quan, người ta dễ dàng nhận ra tính cách của người dân nơi đây là sự phóng

khoáng, lạc quan, hào sảng, khát vọng tìm đến chân trời hạnh phúc thông qua điệu hò, khúc

hát cải lương, tân cổ giao duyên…Họ không chịu khuất phục số phận, không chấp nhận

98

nghèo khổ, nhìn cuộc sống lạc quan, đầy ý nghĩa, luôn tìm mọi cách để “sổ lồng”, “bay

xa”, “khát vọng hạnh phúc” như lý chim sáo, lý ngựa ô, lý cây cầu, lý vọng phu.v.v..

Hơn nữa, lưu dân từ Miền Trung vào Sóc Trăng với mục đích làm kinh tế, thoát khỏi

cái nghèo, khí hậu khắc nhiệt cứ đeo bám họ. Khi đặt chân tới vùng đất xa xôi “ra đi là sự

đánh liều”, do vậy tinh thần lạc quan cũng giúp họ có thêm nghị lực vững tin số phận chẳng

lẽ nào. Với tâm thế mong ước “thân tâm an lạc”, thân (thân xác) và tâm (tinh thần, tâm lý)

luôn gắn chặt, hỗ trợ lẫn nhau. Khi thân có an, thì tâm mới lạc khi đó sẽ giúp họ vượt qua

mọi nghịch cảnh “dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua”. Ở một khía cạnh khác, nơi quê

cha, đất tổ họ đã gặp biết bao rủi ro, trong hoàn cảnh đó, họ phải lạc quan và hài hước tự

động viên chính mình “hết mưa trời sẽ nắng lên thôi”, “có công mài sắt có ngày nên

kim”...làm giá đỡ tinh thần vượt qua mọi khó khăn, hoạn nạn. Chí khí ấy sẽ theo họ vào

vùng đất mới, một phần khi vào Phương Nam, thường là tuổi trung niên, bản sắc đã đậm

nét, tính cách đã định hình như xi măng nhồi nước khô cứng, đã trở thành bản lĩnh sống.

Hơn nữa Theo Sơn Nam, khi vào vùng đất mới “…nhờ nguồn lợi thiên nhiên dồi dào như

bắt cá biển, ăn ong (mật sáp), câu cá sấu, thầy trị rắn…vẫn sống khỏe. Nhờ dự trữ chút ít

tiền bạc, ngồi không mà vẫn có ăn…”[100, tr.26]. Vùng đất Sóc Trăng cũng được thiên

nhiên ưu đãi: “Sóc Trăng nước mặn đồng bằng/Dân lành lúa tốt của hằng trời cho/Kế

Sách, Ba Rinh, Xa Mo/Lắm vườn nhiều ruộng, không lo thất mùa”; “Ai về thẳng tới Năm

Căn/Ghé ăn bánh hỏi Sóc Trăng, Bãi Sàu/Mắm nêm, chuối chát, khế rau/Tôm càng Đại

Ngãi cặp vào khó quên”. Điều này dẫn đến sự thoải mái trong sinh hoạt vật chất, tinh thần

lạc quan theo một lý do “rất khác” so với quê hương Miền Trung của người Kinh.

Đối với người Hoa tại Sóc Trăng, tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa còn

bắt nguồn từ xuất thân của họ, vì phong trào “phản Thanh phục Minh” mà sang đây. Khi

xin chúa Nguyễn khai hoang vùng đất Sóc Trăng, những người gốc ở Quảng Tây - Quảng

Đông, đều mang theo tinh thần lạc quan, hy vọng vùng đất mới sẽ tốt đẹp, thuận lợi trong

sinh hoạt, an cư, bình yên hơn cố quốc. Trước khi người Việt vào khai phá, vùng đất Nam

Bộ này từ lâu đã có người sinh sống, chủ yếu là người Khmer. Vùng này đất đai màu mỡ,

nhiều nước ngọt, ruộng trũng (thảo điền): tập trung đông dân Việt ở sông Tiền, Bến Tre,

Mỹ Tho, Sóc Trăng, Rạch Giá, Cà Mau; canh tác trên ruộng ít lầy lội, dùng trâu khỏe để cày

cấy. Với sự nhanh nhẹn, cần cù, chịu khó của nhân dân nơi đây, Nam Bộ đã trở thành vựa

99

lúa lớn. Cảng Bãi Xàu ở Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) là nơi tập trung nhiều thương lái người

Hoa buôn bán sang nước ngoài. Ngay tận Ba Thắc đã có đội tàu người Hoa kinh doanh; khi

nước lên cao thì xuất cảng đi buôn bán ở bên ngoài.

Tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa trong văn hóa Sóc Trăng cũng được

thể hiện qua nghệ thuật Rô Băm. Vùng đất Sóc Trăng có một diện mạo văn hóa đa dạng, sự

giao lưu văn hóa của ba dân tộc Kinh, Hoa và Khmer tạo nên nét đặc trưng không dễ trộn

lẫn của văn hóa Sóc Trăng. Sân khấu kịch múa Rô Băm Sóc Trăng “đã được dân gian và

bản địa hóa” về tuồng tích mang tính giáo dục rất lớn, lấy xưa răn dạy con cháu ngày nay,

nhân vật chính luôn “có hậu”, giải quyết mâu thuẫn “tốt - xấu”, “thiện - ác” chiến thắng

cuối cùng luôn thuộc về “cái tốt, cái thiện”, tuồng tích thể hiện nhân sinh quan của nhân dân

Sóc Trăng, đặc biệt về nhân vật có thêm vai hề, vai ông lão, bà lão…với vai trò chọc cười,

vai hề khi thì xỏ xiên, lúc châm biếm, dí dỏm, hóm hỉnh… tạo duyên gây cười và dẫn dắt

cốt truyện trong vở diễn, mà sân khấu kịch múa cổ điển Campuchia không có. Loại hình

nghệ thuật này không chỉ phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho người dân Sóc Trăng mà còn

mang tính triết lý sâu sắc đó là tinh thần lạc quan thông qua các tuyến nhân vật thiện - ác,

chính - tà.

Như vậy, sân khấu kịch múa Rô Băm về nhân vật có thêm vai hề, thể hiện tinh thần

lạc quan, khát vọng tin tưởng vào sự tốt đẹp, bình yên, an lạc trong cuộc sống còn nhiều khó

khăn của nhân dân các dân tộc Sóc Trăng. Từ đó, góp phần xây dựng và phát triển nhân

cách con người nơi đây.

3.2. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng

3.2.1. Nguyên nhân của những vấn đề nói trên

3.2.1.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, toàn cầu hóa đã có những tác động tích cực, rút ngắn khoảng cách về văn

hóa và văn minh làm cho “không gian văn hóa” xích lại gần hơn. Con người không còn

thấy xa lạ về các nét văn hóa đặc thù của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, kinh tế thị

trường cũng bộc lộ những mặt trái và gây ảnh hưởng không nhỏ đến bản sắc văn hóa của

nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Đối với nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng

những ảnh hưởng tiêu cực về văn hóa chính là: lòng yêu nước; tinh thần đoàn kết, ý thức

100

cộng đồng; lòng nhân ái khoan dung trọng nghĩa tình đạo lý; sự phong khoáng, ngay thẳng

bộc trực; phật giáo Nam Tông; sự đa dạng trong lễ hội…trong một bộ phận nhân dân các

dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Không ít trường hợp vì đồng tiền mà chạy theo những lời xúi dục

của các thế lực phản động, bất chấp pháp luật và truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân

tộc. Sự cố kết công đồng, đang dần bị thay thế bởi các giá trị vật chất, thương mại hóa, làm

mất dần bản sắc văn hóa của dân tộc, gây ra những khó khăn, rất lớn đối với việc giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng.

Thứ hai, toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng nhiều làn sóng văn hóa ồ ạt “du nhập” vào

Việt Nam, sự “gạn đục, khơi trong” không còn đủ mạnh, sức đề kháng của văn hóa bản địa

trở nên mất định hướng, dễ bị đánh gục mất đi hồn cốt của dân tộc. Toàn cầu hóa cũng dẫn

đến đời sống tinh thần, lối sống của nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng bị biến dạng, cá

biệt có những luồng văn hóa do cách xa về địa lý, khác nhau về tồn tại xã hội nên hoàn toàn

xa lạ với giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam cũng như bản sắc văn hóa của

nhân dân các dân tộc bản địa.

Thứ ba, Sóc Trăng là vùng có trình độ dân trí thấp, dân số là người dân tộc Khmer cao

thứ hai khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cộng với đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở

tỉnh Sóc Trăng vẫn còn thiếu và yếu đều này ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, Sóc

Trăng vẫn là tỉnh nghèo so với khu vực và cả nước, điều kiện vật chất để đầu tư cho công

tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại địa phương còn hạn chế, thiếu thốn cả về chế độ lẫn

cơ sở vật chất. Sự bất cập này cần sự nhìn nhận và quan tâm đúng mực từ chính quyền các

cấp, những người làm công tác văn hóa, cũng như từ chính bà con các dân tộc tại tỉnh Sóc

Trăng.

Thứ tư, sau khi đất nước thống nhất, các thế lực phản động vẫn đang ráo riết thực hiện

âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, các quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo nhằm phá hoại những nỗ lực của nhân dân các dân tộc nơi đây về việc giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sóc Trăng cũng như khối đại đoàn kết dân tộc.

3.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về vai trò của văn hóa chưa thật

sự đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng văn hóa chưa được

101

tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, quyết liệt; sự phối hợp của các ngành để xây dựng

nền văn hóa, phát triển văn hóa từng lúc chưa chặt chẽ. Ở một số vùng nhận thức về văn

hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa trong các cấp ủy đảng, chính quyền, ban ngành còn bị xem nhẹ

chưa sâu sắc. Chưa quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo cơ bản và nội

dung nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Mặt khác, các chính sách về

văn hóa còn chậm được luật hóa cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, hơn nữa

luật cũng không hoặc chậm được phổ biến trong nhân dân. Khi sảy ra sai phạm ở các cấp về

cách quản lý văn hóa, phá hoại các di sản văn hóa… việc xử lý còn chưa triệt để. Do đó,

chưa tạo sự chuyển biến thực sự, mạnh mẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa XI tại đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ XII của Đảng nêu rõ:

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém chủ yếu là do cấp ủy, chính quyền

nhận thức chưa đúng tầm quan trọng và chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này,

lãnh chỉ đạo chưa thật sự quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa còn chậm, thiếu

đồng bộ. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa còn chậm được đổi mới, có lúc

có nơi con xem nhẹ, thậm chí buông lỏng[33, tr.126].

Thứ hai, các phong trào, xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa văn minh. Các

cuộc vận động quần chúng nhân dân giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn chưa

được đẩy mạnh và duy trì một cách thường xuyên, liên tục; các phong trào còn mang nặng

hình thức, hô hào khẩu hiệu; còn trông chờ, ỷ lại cấp trên, chưa thường xuyên, tự giác trong

quần chúng nhân dân cũng như các cấp chính quyền. Do đó, các giá trị văn hóa dân tộc có

nguy cơ bị mai một, một bộ phận nhân dân không thấy được giá trị văn hóa dân tộc mình,

còn mặc cảm, tự ti không tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc có xu hướng không thừa nhận

bản sắc văn hóa dân tộc, chạy theo những luồng văn hóa mới hoặc bị “Kinh hóa”.

Thứ ba, mặt bằng dân trí tuy có nâng lên nhưng còn thấp, đời sống nhân dân còn

nhiều khó khăn; một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ vai trò,

vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội. Trong hoạt động văn hóa, thể thao

và du lịch nhiều cơ quan, tổ chức chưa xem trọng văn hóa truyền thống, chạy theo sở thích

đám đông, theo lợi nhuận. Một số lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch chưa được kiểm duyệt

102

hoặc kiểm duyệt qua loa làm biến tướng các giá trị văn hóa truyền thống, gây hoang mang,

bức xúc trong dư luận, đặc biệt là các chuyên gia, những người làm nghệ thuật chân chính.

Thứ tư, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng còn nhiều

hạn chế, thiếu tính định hướng, tham mưu cho các cấp ủy đảng chính quyền trong giai đoạn

công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Chưa phân tích một cách tường minh nội hàm của

bản sắc văn hóa cũng như những hạn chế, tiêu cực từ mặt trái của các quá trình đó đối với

văn hóa. Hơn nữa việc tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước còn

hạn chế. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ XII, phần hạn chế, yếu kém Đảng ta nêu rõ:

“Việc thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách trong nhiều trường hợp còn chậm,

chất lượng thấp, tính khả thi không cao...Chưa thay thế được kịp thời những cán bộ không

đủ phẩm chất, năng lực, thiếu trách nhiệm, thực thi kém hiệu quả trong triển khai thực hiện

nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước”[33, tr.114]. Điều này dẫn đến hệ quả là các

cấp, ngành có liên quan còn bị động trong việc xử lý các mối quan hệ biện chứng giữa giá

trị truyền thống và hiện đại, văn hóa và kinh tế, văn hóa và dân tộc, văn hóa và con

người…Do vậy, chưa phát huy hết tiềm năng và thế mạnh của vùng.

Thứ năm, kinh phí đầu tư cho lĩnh vực văn hóa còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm công

tác văn hóa, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng với yêu cầu. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý và những người hoạt động trên lĩnh vực

văn hóa tuy có được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ phát triển

văn hóa.

3.2.2. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng

3.2.2.1. Thực trạng giữ gìn và phát huy tinh thần yêu quê hương, đất nước của người

dân Sóc Trăng

Tinh thần yêu nước là giá trị nhân bản, cao đẹp nhất trong dòng chảy xuyên suốt của

mỗi dân tộc. Tinh thần yêu nước đã thấm sâu vào máu thịt của dân tộc ta trong đó có nhân

dân các dân tộc bản địa Sóc Trăng. Đó là tình yêu quê hương, yêu phum, sóc, làng, ấp.

Nhận thức tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy tinh thần yêu quê hương, đất

nước của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng. Các cấp ủy Đảng, các cơ quan ban ngành và

các đoàn thể nhân dân ở tỉnh Sóc Trăng đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước

103

Cùng với cả nước, trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, Sóc Trăng đã có

nhiều tấm gương anh dũng chiến đấu, nhiều điển hình tiên tiến trong lao động, sản xuất,

vươn lên làm giàu và nhiều công trình sáng kiến, công trình nghiên cứu khoa học được ứng

dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để làm tốt hơn nữa phong trào thi đua

yêu nước, đưa công tác thi đua gắn với công việc hàng ngày của mỗi người nhằm thực hiện

thắng lợi mục tiêu đến năm 2020, Sóc Trăng trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực

Đồng bằng sông Cửu Long.

Nhiều hoạt động của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Sóc Trăng, đặc biệt là các mô hình, điển

hình được các tỉnh học tập, vận dụng như việc Phát huy vai trò người có uy tín trong cộng

đồng, các chức sắc tôn giáo đã đồng hành cùng Mặt trận Tổ quốc vận động nhân dân, tín

đồ, phật tử hưởng ứng các hoạt động phong trào do Mặt trận Tổ quốc các cấp và các ngành

địa phương tổ chức. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước đã thể hiện tốt vai trò trung tâm đoàn kết,

vận động bà con dân tộc Khmer tích cực lao động sản xuất, nâng cao đời sống. Hội còn làm

tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; qua đó, các vị sư sãi, ban quản trị chùa và bà

con Phật tử Khmer ngày càng nâng cao ý thức chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước.

Giữ gìn và phát huy tinh thần yêu quê hương, đất nước của cộng đồng dân tộc

Sóc Trăng còn được thể hiện ở nỗ lực giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của nhân dân

tỉnh Sóc Trăng

Những giá trị bản sắc độc đáo của nhân dân các dân tộc tỉnh Sóc Trăng được thể

hiện qua lễ hội, kiến trúc, điêu khắc, ẩm thực đặc biệt là văn hóa vật thể và phi vật thể. Đẩy

mạnh triển khai công tác kiểm kê hệ thống di tích, di sản văn hóa. Ở Sóc Trăng, UBND tỉnh

Sóc Trăng ra quyết định số: 06/2015/QĐ-UBND, ngày 10 tháng 02 năm 2015 “V/V ban

hành quy định phân cấp quản lý di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa

bàn tỉnh Sóc Trăng”. Qua đó, tỉnh Sóc Trăng đã kiểm kê được 111 di tích trên địa bàn,

trong đó đã lập hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng được 08 di tích cấp quốc gia và 26 di tích

cấp tỉnh (có 20 di tích lịch sử cách mạng, 08 di tích kiến trúc nghệ thuật, 03 di tích lưu niệm

danh nhân, 02 di tích chứng tích chiến tranh và 01 di tích thắng cảnh).

Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng bao gồm

nhiều loại hình đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, do đặc thù của loại hình di sản văn hóa này

104

là tồn tại trong trí nhớ, được lưu truyền chủ yếu bằng con đường truyền miệng và nhất là

trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa với tốc độ đô

thị hóa diễn ra mạnh mẽ, cùng với sự giao lưu hội nhập, đã tác động một cách sâu rộng đến

mọi tầng lớp dân cư. Do đó, di sản văn hóa phi vật thể ở Sóc Trăng cũng rất dễ bị mai một

và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến mất nhanh chóng. Sở VHTTDL Sóc Trăng xây dựng kế

hoạch và chỉ đạo đơn vị Bảo tàng tỉnh thực hiện việc kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản

VHPVT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng năm 2012. Sau khảo sát, Bảo tàng tỉnh đã tổ chức buổi

báo cáo tổng kết. Loại hình di sản văn hóa được kiểm kê gồm: tiếng nói chữ viết, ngữ văn

dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội, lễ hội, nghề thủ công truyền thống

và tri thức dân gian; trong đó kiểm kê các loại văn tự, chữ viết, ca dao, tục ngữ, loại hình

nghệ thuật sân khấu Rô Băm, Dù Kê, tục thờ cúng gia tiên, Tết Nguyên Đán, Tết Đoan

Ngọ, lễ cưới, mừng thọ, lễ tang.v.v...

Đờn ca Tài tử Nam Bộ, trong đó có tỉnh Sóc Trăng đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch liệt kê vào danh mục 33 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đợt 1.

Ngoài ra, trong danh mục 19 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đợt 7 còn có Nghệ thuật

sân khấu Dù Kê của người Khmer. Đến nay, trong hệ thống Bảo tàng tỉnh gồm có nhà Bảo

tàng chính, phòng Trưng bày Văn hóa Khmer và di tích Khu Căn cứ Tỉnh ủy rừng Tràm

Mỹ Phước Sóc Trăng. Các công cụ cầm tay được trưng bày, giới thiệu có hệ thống về sản

xuất nông nghiệp của người Khmer từ các thế kỷ trước... Toàn tỉnh có 136 câu lạc bộ đờn

ca tài tử với hơn 1.000 người thực hành, trong đó có gần 200 người có khả năng truyền dạy;

trình độ và khả năng chuyên sâu về nghệ thuật đờn ca tài tử cũng như những người tham gia

đội, nhóm, câu lạc bộ đờn ca tài tử tại các địa phương trong tỉnh không ngừng phát triển về

chất lượng và số lượng.

Giữ gìn và phát huy tinh thần yêu quê hương, đất nước của cộng đồng dân tộc Sóc

Trăng còn được thể hiện trong công tác tuyên truyền, giáo dục phù hợp đi đôi với công tác

nghiên cứu khoa học

Công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống được thực hiện qua

việc học tập các nhân vật tiêu biểu vào dịp các ngày lễ lớn của dân tộc, của đồng bào. Trong

các chương trình giáo dục, đào tạo tại các trường từ cấp trung học phổ thông, cao đẳng, đại

học…đã lồng ghép những bài học, chuyên đề… nhằm giáo dục truyền thống lịch sử địa

105

phương như: Giáo dục quốc phòng, Lịch sử, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Địa phương

học…Ngoài ra, các trường còn tổ chức cho học sinh, sinh viên tham gia các chương trình về

nguồn, các di tích lịch sử, bảo tàng, đền thờ… thông qua các chương trình thiết thực đã khơi

dậy tinh thần yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc trong các thế hệ trẻ Sóc Trăng.

Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, việc phát huy tinh thần yêu quê hương, đất

nước của cộng đồng dân tộc Sóc Trăng vẫn còn những hạn chế cần phải nhanh chóng khắc

phục. Đó là sự hoài nghi của giới trẻ, của các tầng lớp nhân dân về đường lối phát triển kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phấn đấu được trở thành đảng viên của lớp

trẻ, sự thờ ơ trước các vấn đề chính trị, xã hội của đất nước. Nhiều trường hợp khác cũng

cho thấy tinh thần xả thân vì nước giảm sút, một số tổ chức nước ngoài thông qua tài trợ học

bổng đã thực hiện “diễn biến hòa bình” trong giáo dục và đào tạo. Một bộ phận không nhỏ

cán bộ và nhân dân, nhất là thanh niên có biểu hiện của sự suy giảm lòng yêu nước và ý chí

tự cường dân tộc: lối sống ích kỷ, cá nhân thực dụng, lơ là với công cuộc phát triển chung

của cộng đồng, thiếu hoài bảo phục vụ quê hương, đất nước, ngại khó khăn gian khổ, thiếu

quyết tâm, ý chí và sự nỗ lực vươn lên.

Việc vận động xã hội hóa và quan tâm đầu tư của nhà nước đối với hoạt động các câu

lạc bộ đờn ca tài tử là hết sức quan trọng. Hiện tại, những người có tâm huyết với dòng

nghệ thuật này hầu như gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Dù có đam mê với nghề, sống

dựa vào nghề để mưu sinh, nhưng để chăm chút và đầu tư chuyên sâu cho nghề vẫn còn

một khoảng cách. Đối với nghệ thuật sân khấu Rô Băm và Dù Kê cũng có những khuyết

điểm cần phải khắc phục, đó là sự thiếu tinh tế, nhạy bén trước sự đổi thay của cuộc sống,

vẫn theo “lối xưa, kiểu cũ” nhất là kinh tế thị trường, cũng như sự giao lưu, tiếp biến văn

hóa. Các nghệ sĩ đều đã lớn tuổi, thiếu sức khỏe để truyền dạy, đời sống kinh tế gặp nhiều

khó khăn không thể gắn bó với nghề. Một vấn đề nữa, việc truyền dạy cho các thế hệ kế cận

không đáp ứng được về mặt kỹ năng, kỹ thuật của các thế hệ đi trước làm giảm sút chất

lượng biểu diễn, lòng yêu nghề cũng ngày bị mai một. Các hoạt động bảo vệ và phát huy

giá trị của di sản văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng cũng chưa đạt hiệu quả cao.

Mặt khác, nhận thức về việc giữ gìn và phát huy tinh thần yêu quê hương, đất nước

của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng vẫn còn hạn chế. Tinh thần yêu nước vẫn chưa được

thể hiện trong quá trình dây dựng kinh tế - xã hội, tinh thần “thi đua là yêu nước, yêu nước

106

thì phải thi đua” vẫn chưa nhận được sự chuyển biến tích cực. Sóc Trăng so với khu vực

vẫn là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, chỉ đạt 34 triệu đồng/năm,

trong khi đó GDP bình quân đầu người cả nước ước tính đạt 53,5 triệu đồng/năm.

Trên đây là các vấn đề cấp bách đặt ra, các cấp ủy, đảng, chính quyền cần chú trọng

các vấn đề nêu trên, bởi không làm tốt các vấn đề đó tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc

phòng… sẽ suy giảm, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đây

cũng là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng kích động, gây mất trật tự xã hội. Các cấp ủy

Đảng, Chính quyền cần quan tâm đến các vấn đề nêu trên giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc không chỉ dừng lại ở hô hào, khẩu hiệu… mà cần thực hiện bằng những việc làm cụ

thể như sự quan tâm vật chất, chế độ đãi ngộ đến cơ sở hoạt động, hình thức tổ chức hoạt

động văn hóa… phải thật tốt. Như vậy mới thu hút được các nghệ sĩ tham gia, nhất là lớp

trẻ, góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tại Sóc Trăng hiện nay.

3.2.2.2. Thực trạng giữ gìn và phát huy ý thức cố kết dân tộc Kinh - Khmer - Hoa

trong văn hóa Sóc Trăng

Trong những năm qua, ý thức giữ gìn và phát huy ý thức cố kết dân tộc Kinh - Khmer

- Hoa trong văn hóa Sóc Trăng được nhân dân Sóc Trăng tiếp tục phát huy trong xây dựng

lối sống mới. Những năm qua, các lễ hội văn hóa Đồng Bằng Sông Cửu Long nói chung và

Sóc Trăng nói riêng đã góp phần kết nối cộng đồng, phát triển kinh tế, văn hóa của vùng

nhất là tiềm năng du lịch. Ngoài ra, văn hóa còn phản ánh ước mơ, khát vọng của một cộng

đồng, một ước mơ “ở hiền gặp lành”, mọi điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cuộc sống, một khát

vọng tu thân tích đức để kiếp sau an nhàn cực lạc. Trong thời gian qua việc thực hiện phong

trào: “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” đã thu được nhiều tín hiệu đáng mừng, góp

phần thực hiện nhiệm vụ chính trị mà đảng và nhân dân giao phó. Việc thực hiện nếp sống

văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội, hoạt động tuyên truyền, cổ động, cũng như sự khởi

sắc của các phong trào văn nghệ của quần chúng ở cơ sở đã tạo nên sự chuyển biến tích cực

trong nhận thức của nhân dân Sóc Trăng.

Ban Chỉ đạo Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh đã tổ chức

“Hội nghị tổng kết phong trào dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh năm 2017 và

triển khai kế hoạch năm 2018”. Năm 2018, tỉnh Sóc Trăng có hơn 89% số gia đình được

công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa; gần 14% số xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới,

107

phường văn minh đô thị; hơn 85% số xã, phường có nhà văn hóa và hơn 88% số khóm, ấp

có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng. Nhờ vậy, bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp

của đồng bào Khmer luôn được giữ gìn và phát huy. Các thiết chế văn hóa trong vùng đồng

bào Khmer luôn được quan tâm đầu tư xây dựng. Các di tích văn hóa, lịch sử cũng có điều

kiện để quan tâm giữ gìn.

Bên cạnh công tác tuyên truyền Mặt trận tổ quốc (MTTQ), các cấp còn tập trung phát

động các khu dân cư, các hộ gia đình đăng ký thực hiện các danh hiệu cụ thể như, “Khu dân

cư văn hóa”, “Gia đình văn hóa”, vận động các hộ gia đình đăng ký thực hiện “Hộ gia đình

không mắc các tệ nạn xã hội”, “Khu dân cư không có tội phạm nghiêm trọng”. Theo Ban

thường trực UBMTTQ tỉnh Sóc Trăng, 6 tháng đầu năm, Quỹ “Vì người nghèo” các cấp

vận động được trên 3,2 tỷ đồng. Từ nguồn quỹ vận động được, Mặt trận các cấp đã xây

dựng nhà đại đoàn kết; hỗ trợ khám chữa bệnh, tặng quà cho hộ nghèo, hỗ trợ Quỹ Khuyến

học, tặng học bổng cho học sinh nghèo, trợ giúp sản xuất giúp hộ nghèo vươn lên phát triển

kinh tế.

Những năm qua, ngành giáo dục Sóc Trăng đã triển khai các biện pháp huy động học

sinh đến lớp, nâng cao chất lượng dạy và học. Năm 2018, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ

thông trên địa bàn tỉnh đạt hơn 98%, trong đó học sinh dân tộc thiểu số chiếm hơn 26%.

Năm học 2018 - 2019, toàn tỉnh có 98.386 học sinh dân tộc thiểu số, trong đó học sinh dân

tộc Khmer là 84.261 em, tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường ở các cấp đều

cao. Toàn tỉnh có 246 trong tổng số 523 trường công lập đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ

hơn 47%.

Tuy nhiên, ý thức giữ gìn và phát huy ý thức cố kết cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa

trong văn hóa Sóc Trăng trong những năm qua, bên cạnh những kết quả khả quan, vẫn còn

một số hạn chế. Đó là sự phát sinh những tiêu cực tác động đến nhiều mặt trong đời sống

của đồng bào các dân tộc, sự phân hóa giàu nghèo, đạo đức xã hội xuống cấp, bản sắc văn

hóa truyền thống dân tộc bị mai một, môi trường sinh thái đang bị xâm hại nghiêm trọng;

các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng âm

mưu “diễn biến hòa bình”, với những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù

địch trên các trang mạng xã hội. Chống phá về văn hóa, phá hoại về đạo đức, lối sống.

108

Chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc chế độ, kích

động, chống lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.

Đối với người Khmer, các vị sư có vị trí và ảnh hưởng rất lớn. Nhà sư được coi là đại

diện cho Đức Phật để truyền dạy và giáo hóa chúng sinh, bởi vậy vị sư luôn là người thày

được tôn kính và tin tưởng. Tuy nhiên, ngày nay quan niệm của người Khmer đã thay đổi,

họ không còn xem trọng việc thanh niên phải trải qua thời gian tu hành mới có đủ điều kiện

kết hôn. Do vậy, khi chọn rể người Khmer cũng không bắt buộc phải trải qua thời gian tu

hành như trước. Chính quan niệm này làm cho số lượng sư sãi ngày một ít đi, nhà chùa

không còn đóng vai trò giáo dục chuẩn mực về nhân cách, đạo đức như trước nữa. Hơn nữa,

người dân Sóc Trăng đa phần làm nông nghiệp cùng với mảnh ruộng, họ yên phận với

cuộc sống hàng ngày, kém tính tổ chức, kỷ luật, xa lạ với lối tư duy của văn minh công

nghiệp, đồng bào thích sự ổn định, an phận, thói quen dựa vào kinh nghiệm, ngại đổi mới.

Từ đó dẫn đến một lối ứng xử co cụm “đèn nhà ai, nhà ấy rạng” thiếu tinh thần hợp tác,

tinh thần trách nhiệm, thờ ơ với cộng đồng ở một bộ phận nhân dân.

Những năm gần đây, với sự cộng cư của nhiều nền văn hóa Kinh, Hoa, Khmer. Trong

đó, người Kinh vẫn chiếm đa số, kế tiếp đến người Khmer và người Hoa. Chính sự cộng cư

đã dẫn đến sự giao lưu và tiếp biến văn hóa, đã làm thay đổi nhiều nét của bản sắc văn hóa

của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng. Từ việc thờ cúng tổ tiên đến các lễ hội, tang ma cưới

hỏi, nhạc cụ… nếu như người Khmer trước đây chỉ thờ cúng cha mẹ ở chùa thì nay họ dần

cúng ở nhà v.v.. Hơn nữa, quá trình phát triển kinh tế- xã hội, quảng bá du lịch sẽ phá vỡ

cấu trúc hạ tầng. Khách du lịch trong quá trình tham quan vẫn chưa phù hợp với thuần

phong mĩ tục, của văn hóa bản địa đặc biệt tại các nơi trang nghiêm. Có thể thấy, tại Sóc

Trăng hội nhập đang làm nguy cơ bản sắc văn hóa truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm

lăng” của văn hóa nước ngoài. Họ không đặt nặng vấn đề phải gìn giữ các yếu tố văn hóa

truyền thống của dân tộc mình.

Ngày nay, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường, do áp lực công việc cũng như tốc độ

công nghiệp hóa thời gian nhàn rỗi của các phật tử không nhiều, do vậy, thời gian đến chùa,

tụng kinh, cúng dường, làm công quả, thiện nguyện cũng không nhiều như trước. Do vậy,

hoạt động của sư sãi cũng phải thay đổi. Hình thức khất thực, tụng kinh, hành lễ bị giảm

nhẹ, mất phần long trọng, hình ảnh cũng như vai trò của nhà chùa, sư sãi không còn được

109

xem trọng như trước. Các thanh niên vào chùa tu báo hiếu cũng cởi mở hơn, giáo lý, giáo

luật bớt hà khắc hơn trước. Hơn nữa, với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự cộng cư

và sự du nhập của các tín ngưỡng, tôn giáo, các lễ hội…của nhiều nền văn hóa.

Từ thực tế nêu trên, các cấp ủy, đảng chính quyền cần có những hành động thiết

thực liên kết khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiêu diệt các thế lực thù địch, loại trừ các

văn hóa phẩm độc hại, có nội dung phản động nhằm xuyên tạc chống phá nhà nước, sự

nghiệp cách mạng cũng như nền văn hóa đặc thù của địa phương nói riêng và nền văn

hóa dân tộc nói chung.

3.2.2.3. Thực trạng giữ gìn và phát huy lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo

lý trong văn hóa Sóc Trăng

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của đảng, đảng bộ và nhân dân tỉnh Sóc

Trăng giữ gìn phát huy lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa Sóc

Trăng lên một tầm cao mới trong lối sống của mình. Mọi tầng lớp nhân dân từ cán bộ lãnh

đạo, công nhân, viên chức tới các em học sinh, sinh viên…tất cả đều hăng say góp công góp

của vì một xã hội tốt đẹp hơn thông qua các phong trào: “Xây dựng nhà tình thương, nhà

tình nghĩa”, “Phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng“, “Xây cầu giao thông nông

thôn”.v.v..

Những năm qua đông đảo đoàn viên, thanh niên trong tỉnh đã nêu cao tinh thần xung

kích, tình nguyện, tích cực tổ chức, tham gia nhiều phong trào, hoạt động đền ơn, đáp nghĩa

mang ý nghĩa thiết thực. Qua đó, bày tỏ lòng tri ân, trách nhiệm của tuổi trẻ đối với những

người có công với đất nước. Trong 6 tháng đầu năm 2018, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn đã

vận động, tặng trên 400 phần quà cho gia đình chính sách, người có công với tổng kinh phí

thực hiện trên 170 triệu đồng; tổ chức khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho 6.896 lượt

người có công, gia đình chính sách, hộ nghèo trên địa bàn tỉnh với kinh phí trên 6,9 tỉ đồng.

Thực hiện chế độ chính sách dành cho người có công với cách mạng, trong thời gian

qua, tỉnh Sóc Trăng luôn chú trọng triển khai các văn bản về chế độ chính sách đối với

người có công, qua đó giúp người dân cập nhật thông tin và hiểu rõ về ý nghĩa, mục đích

chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong công tác người có công. Đồng thời,

trong tổ chức triển khai thực hiện đảm bảo đảm đúng, đầy đủ đối tượng thuộc diện thụ

hưởng, tránh hiện tượng bỏ sót đối tượng. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã có nhiều chương trình

110

hoạt động biểu dương, khen thưởng các đối tượng người có công tiêu biểu đạt nhiều thành

tích trong sản xuất, đời sống, các mô hình kinh tế hiệu quả. Qua đó kịp thời động viên, tạo

động lực để người có công phát huy thành tích đã đạt được, góp phần xây dựng địa phương

ngày càng phát triển.

Cuộc sống của xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế

đã tác động đến đời sống gia đình, ở một góc độ nào đó đã phá vỡ nền nếp, gia phong đạo

đức của gia đình mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Tình trạng ly hôn, ly thân, sống chung

như vợ chồng không đăng ký kết hôn.vv.. Tình trạng bạo lực trong gia đình có chiều hướng

ngày càng gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động xuất hiện cả trong đời sống gia đình cộng

đồng ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer. Các giá trị mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc đang có

biểu hiện xuống cấp, mai một, lối sống thực dụng có xu hướng phát triển trong một bộ phận

dân cư nơi đây.

Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế thị trường, truyền giáo, du lịch, di dân,

nhu cầu của con người,… Lòng thương người, tình thân ruột thịt, tình nghĩa gia đình, tình

nghĩa vợ chồng và sự đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng làng xóm vốn là sức mạnh, là

những giá trị của văn hóa truyền thống dân tộc đã được thử thách qua thời gian, đang có

nguy cơ bị đồng tiền làm cho xói mòn, làm cho lu mờ. Sự nhẫn tâm, thậm chí là độc ác đến

tột cùng; sự thờ ơ, vô cảm trước tai họa hoặc nỗi bất hạnh của người khác, kể cả người thân

hay ruột thịt, không còn là hiện tượng cá biệt…ở nhân các dân tộc tỉnh Sóc Trăng. Trong

khi xã hội tôn trọng cá nhân, lợi ích cá nhân, khuyến khích và tạo điều kiện để làm giàu

chính đáng thì những biến thái tiêu cực của cơ chế thị trường đã làm méo mó những giá trị

đó, làm cho một bộ phận con người đề cao lợi ích cá nhân, lối sống vị kỷ, sự phóng khoáng,

ngay thẳng bộc trực dần bị thay thế bởi sự thờ ơ, vô cảm.

Từ lâu, lễ hội đình Sóc Trăng mang tính chất của đời sống dân cư vùng trồng lúa. Gắn

liền với đời sống văn hóa, tâm linh của lưu dân người Việt đi khai hoang, mở cõi. Nhưng

những năm gần đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, lễ hội dân gian truyền thống nói

chung và lễ hội đình nói riêng ở tỉnh Sóc Trăng có những hạn chế nhất định. Nhìn chung,

mức độ bảo tồn của lễ hội Sóc Trăng không cao: lễ hội đặc sắc không còn. Các sinh hoạt

văn hóa nghệ thuật và các trò chơi dân gian trong lễ hội đình hầu hết đã bị mai một. Do đời

111

sống xã hội đã thay đổi, những chức năng của đình trong chế độ phong kiến trước đây hầu

như không còn.

Tinh thần “vì nghĩa” sẵn sàng giúp đỡ cưu mang người khác lúc sa cơ, lỡ vận lòng

bao dung trong đời sống cộng đồng ngày càng phai nhạt. Sự hào sảng của những con người

“nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” đã phai mờ. Vào dịp lễ, tết, bữa cơm đoàn viên, cúng

ông bà, tổ tiên cũng không còn là dịp để con cháu quây quần, sum họp, kinh tế thị trường và

nỗi lo toan cho cuộc sống khiến họ giảm bớt các tục lệ, làm qua loa, ước lệ. Thậm chí, con

cháu không còn để tang ba năm như trước kia mà vội vàng xả tang để lo kế mưu sinh. Lý

tưởng sống “một người vì mọi người”, “vì nghĩa quên thân”… cũng không còn như xưa

nữa, thay vào đó là lối sống lạnh lùng “tiền trao, cháo múc”, vụ lợi vun vén cho bản thân,

tin thần vì cái chung của xóm, làng, phum, sóc…đang bị suy giảm nghiêm trọng.

Trong những năm qua, dưới tác động tiêu cực của của kinh tế thị trường, tình trạng

“sùng bái” đồng tiền đã phần nào len lỏi vào đời sống nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng đó là sự bất chấp những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt Nam để chạy

theo đồng tiền, đánh mất đi lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, ảnh hưởng đến lòng nhân ái, khoan

dung, trọng nghĩa tình, đạo lý của con người nơi đây. Cũng phải thừa nhận rằng, việc giữ

gìn phát huy lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa Sóc Trăng ngoài

mặt tích cực, nó cũng còn không ít những bất cập, nếu như con người áp dụng một cách thái

quá trong mọi hoàn cảnh.

3.2.2.4. Thực trạng giữ gìn và phát huy tinh thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong

ứng xử trong lối sống của nhân dân Sóc Trăng

Với lịch sử hơn 300 năm, người dân nơi đây sinh ra và lớn lên và gắn bó với ruộng

vườn, sông nước và gắn kết với cộng đồng làng xã. Khi vào khẩn hoang vùng đất mới với

biết bao khổ cực, do vậy từ ăn uống tới cưới xin, ma chay, lễ tết, nhà cửa hay đình chùa…

người Sóc Trăng thường đơn giản, không cầu kỳ lễ nghĩa, ngôi thứ, lớn nhỏ, giai cấp, họ coi

bốn bể là nhà tứ hải giai huynh đệ. Lối sống ấy khuyến khích con người cá nhân không

ngừng nỗ lực lao động, sáng tạo để đóng góp vào sự phát triển chung của cộng đồng. Mỗi

thân phận nơi đây tồn tại trong mối quan hệ khăng khít với cộng đồng như là cách để đối

phó với bao bất trắc, hiểm nguy nơi đất khách “Nước trong xanh sao nước chảy

hoài/Thương người xa xứ lạc loài đến đây”.

112

Tinh thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử trong lối sống của cộng đồng các

dân tộc được bắt nguồn từ vùng đất Sóc Trăng mưa thuận, gió hòa, nhân dân nơi đây không

phải khó khăn, vất vả cho sự mưu sinh nên mọi thứ cứ mộc mạc, giản dị như cái vốn có của

tự nhiên, định hình lối sống phóng khoáng, tự do, hào hiệp, không lo xa, không cần tiết

kiệm, không tích góp, phòng cơ, đôi khi có phần dễ dãi , một tính cách đặc trưng của họ,

nhưng đồng thời lại tạo nên lối sống mất căn cơ, không lo xa. Đây cũng là tính cách khá đặc

biệt của người dân vùng sông nước Sóc Trăng, được hình thành từ đặc điểm sinh thái của

vùng đất này, góp phần cho sự định hướng cũng như phương pháp tư duy, xúc cảm của họ.

Trong tác phẩm Nói về miền Nam, Cá tính Miền Nam, thuần phong mỹ tục Việt Nam, Sơn

Nam nhận định: “So với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng

người thưa. Người dân thảnh thơi “vừa làm vừa chơi cũng đủ ăn”[97, tr.133].

Tuy nhiên, tinh thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử trong lối sống của cộng

đồng các dân tộc tại Sóc Trăng ngày nay đang có xu hướng thay đổi theo chiều hướng xấu.

Lối sống giản dị của nhân dân Sóc Trăng đang thay đổi theo xu hướng tiêu cực. Một phần

do sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường, người dân dần có lối sống hưởng thụ, trong đó có

lối sống hưởng thụ các giá trị vật chất đang ngày càng lấn át các chuẩn mực đạo đức, giá trị

văn hóa truyền thống. Nếu trước đây người ta coi trọng lối sống giản dị, tiết kiệm thì nay

trong nền kinh tế thị trường, người ta lại ra sức tiêu xài, phung phí. Từ ăn uống tới cưới xin,

nếu trước đây trong việc lễ hỏi người ta chỉ cần tặng đôi bông tai làm vật kỷ niệm. Họ xem

trọng đôi bông tai và trả đôi bông tai cũng đồng nghĩa với ly dị. Ngày giỗ ông bà nếu như

trước đây, con cháu nhớ tới ngày giỗ cha mẹ, ông bà, tổ tiên thì quây quần phụ giúp tiền

bạc, công sức, nấu những mâm cơm đạm bạc cùng với ba chén cơm - ngụ ý cơm tam tài và

một mâm cơm, với thức ăn đơn giản gọi là “mâm đất đai” cúng ngoài cửa, trên bàn thời thì

bày sẵn bông hoa. Thì nay, con cháu có thể mang lại nhà hàng, món ăn do nhân viên nhà

hàng chuẩn bị, còn ở thôn quê thì cũng tổ chức linh đình, có khi kéo dài vài ba ngày, ăn

uống linh đình kèm theo hát Karaoke hoặc đàn ca tài tử rất tốn kém. Ngày nay, lễ hỏi không

giản đơn như vậy, nhà trai không chỉ mang đôi bông tai, mà còn nhẫn cưới, tiền, vàng và

nhiều thứ thách cưới khác của nhà gái. Lối sống này không thích hợp với cả hiện trạng kinh

tế lẫn truyền thống văn hoá của đồng bào, nhất là vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc còn nhiều

khó khăn tại Sóc Trăng. Đảng bộ và chính quyền địa phương cần có những giải pháp cấp

113

thiết khắc phục vấn đề trên, chỉ có như vậy mới tạo ra sức bật cho tinh thần đoàn kết cũng

như giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc nói chung tại Việt Nam hiện nay.

3.2.2.5. Thực trạng giữ gìn và phát huy tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý

nghĩa trong văn hóa Sóc Trăng

Lạc quan là một trong những giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc Việt Nam nói chung

và Sóc Trăng nói riêng. Giá trị đó được hình thành trong quá trinh dựng nước, giữ nước và

quá trình cộng cư, khai hoang lập ấp. Cơ sở của tinh thần lạc quan chính là lòng tin vào

chính nghĩa, lòng tin vào sự cần cù “có công mài sắt, có ngày nên kim”, vào sức mạnh tinh

thần, cộng sinh của những con người “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”. Cơ sở của tinh

thần lạc quan của những con người vượt ngàn dặm xa, luôn tin vào sự mỉm cười của số

phận nơi vùng đất mới.

Sóc Trăng là vùng đất mới, lưu dân đến Sóc Trăng hầu hết là những “tiểu nhân”,

thuộc tầng lớp dưới cùng của xã hội hoặc bất mãn với triều đình… họ “Ra đi là sự đánh

liều...” vừa nói lên tâm trạng của người ly hương đi tìm đất mới: “Vẫn nghe tiếng hát trời

quan họ/Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn!”, vừa bày tỏ thái độ quyết chí ra đi và cũng mang

theo một tinh thần lạc quan nhất định. Do đó, những giá trị tinh thần mà họ mang theo khi

xa xứ, không phải là “hệ tư tưởng” của những giá trị vốn có từ lâu đời. Họ chỉ mang theo

những giá trị vốn gắn bó lâu đời với người bình dân như yêu nước, đoàn kết, dũng cảm,

nhân ái, tình làng nghĩa xóm, tinh thần lạc quan…trong đó, có niềm tin bất diệt “còn da

lông mọc, còn chồi nảy cây”, vốn là tài sản quý giá nhất trong hành trang tiến về vùng đất

mới. Niềm tin, sự lạc quan là liều thuốc an thần giúp họ quên đi những bất công đang hiện

hữu như một định mệnh mà họ phải gánh chịu. Những giá trị ấy ít chịu sự ràng buộc của

khuôn khổ đạo lý truyền thống nhưng vẫn rất sâu sắc, bền vững.

Tuy vậy, những năm gần đây tinh thần lạc quan có lúc bị giảm sút khi tinh hình thế

giới biến động, sự khủng hoảng chính trị ở nhiều nước, trong nước tình trạng suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan

liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi. Điều đó dẫn đến một số cán bộ, đảng viên bi

quan, dao động mất phương hướng và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước.

Trước thực trạng đó, tại Đại hội lần thứ VI, đảng ta đã chỉ ra rằng, tâm trạng bi quan, dao

114

động, mất phương hướng là trái với bản chất tốt đẹp của người chiến sĩ cách mạng, cần phải

được khắc phục.

Sóc Trăng cần khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân. Nhận định quan liêu, xa rời

quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, thiếu trách nhiệm trước những

khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân... là những biểu hiện suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dễ xảy ra trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, ảnh hưởng

nghiêm trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Việc giữ gìn và phát

huy tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa trong văn hóa Sóc Trăng, tỉnh ủy Sóc

Trăng đã tập trung triển khai nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình trạng này. Tỉnh ủy đẩy

mạnh công tác tự phê bình và phê bình các cá nhân, tập thể gắn với kiểm điểm hằng năm và

đột xuất ở các cấp ủy đảng, nhằm nhận diện đầy đủ biểu hiện suy thoái trong đội ngũ cán

bộ, đảng viên. Thường xuyên theo dõi, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng

viên về tu dưỡng đạo đức, lối sống, xây dựng tác phong công tác. Năm 2017, thực hiện

công tác kiểm tra, giám sát, các cơ quan chức năng tỉnh Sóc Trăng đã phát hiện, xử lý kỷ

luật 50 cán bộ, đảng viên mắc sai phạm về kinh tế. Riêng ngành Thanh tra tỉnh thực hiện 91

cuộc thanh tra hành chính, 70 cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện các quy định về công tác

tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Một số vấn đề văn hóa - xã hội chuyển biến chậm, có

mặt còn hạn chế. Cơ sở hạ tầng văn hoá chưa đáp ứng yêu cầu sinh hoạt của người dân;

việc phát huy cơ sở vật chất văn hóa hiện có chưa được quan tâm đúng mức; thiết chế văn

hoá ở cơ sở chưa được quản lý và khai thác có hiệu quả, có nơi hư hỏng, xuống cấp, đầu tư

mới còn hạn chế; đến nay còn trên 45% ấp, khu dân cư chưa có nhà sinh hoạt cộng đồng.

Chất lượng giáo dục còn thấp so với khu vực và cả nước.

Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên không phải bản chất của chế độ, do vậy có thể khắc

phục được.

Đất nước đang thay đổ từng ngày, cơ hội việc làm, được giáo dục, thoát nghèo luôn

rộng mở với nhân dân Sóc Trăng. Nhưng cũng không ít những khó khăn, nhiều cơ hội,

cũng đồng nghĩa nhiều thách thức nghiệt ngã, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng cần đoàn

kết, vượt qua mọi khó khăn, phát huy những giá trị tích cực của dân tộc, của địa phương. Để

làm được điều đó,cần có lối sống lạc quan, tin vào sức mạnh văn hóa truyền thống của dân

tộc, hướng tới nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

115

3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay

3.3.1. Kinh tế chậm phát triển cản trở việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc

Trong giai đoạn hiện nay, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thực sự được xem trọng. Kinh tế Sóc Trăng liên tục tăng

trưởng, đầu tư nước ngoài tăng lên, đời sống nhân dân ổn định. Yếu tố văn hóa trong kinh tế

và kinh tế trong văn hóa đã được biểu hiện trong đời sống mỗi gia đình và sự phát triển kinh

tế - xã hội của các địa phương tại Sóc Trăng.

Tuy nhiên, như vậy là chưa đủ, nền kinh tế nhìn chung vẫn chưa phát triển bền vững,

tăng trưởng kinh tế vẫn dựa vào kinh phí từ Trung ương là chủ yếu. Việc giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay vẫn chứa đựng dáng dấp của sự

“bao cấp”, dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước, của cơ chế “xin - cho” là chính mà chưa có sự

khơi dậy, phát huy tính chủ động tích cực, tự giác của các chủ thể văn hóa.

Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng hiện nay so với yêu cầu cấp thiết

hiện nay vẫn còn là một khoảng cách. Việc tổ chức huy động nguồn lực theo tinh thần xã

hội hoá công việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng hiện nay còn nhiều hạn chế

và nhiều địa phương cơ sở vẫn dựa vào ngân sách Nhà nước. Việc phối hợp, phát huy vai

trò các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại

Sóc Trăng hiện nay chưa đồng bộ, chưa tạo thành sức mạnh tổng hợp, công tác biểu dương,

khen thưởng, tôn vinh những tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng hiện nay chưa rộng rãi và kịp thời.

3.3.2. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Sóc Trăng vẫn có xu hướng chạy theo

phong trào, hình thức, khẩu hiệu, rập khuôn… ít có hiệu quả thực tế

Hiện nay, công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vẫn còn nặng “công

văn”; “chỉ thị”. Do vậy, chưa phát huy được tính tự giác, sáng tạo và hiệu quả trong việc giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tại tỉnh Sóc Trăng làm nghèo nàn, thậm chí mất đi

giá trị đích thực của bản sắc văn hóa. Chính quyền địa phương thường chú trọng vào việc

tìm ra cách thức làm kinh tế bằng nhiều con đường, trong đó, việc giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc để tạo tiền đề cho phát triển kinh tế du lịch. Điều đó phản ánh nhận thức của các cấp

116

chính quyền về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mới dừng lại ở tính định hướng tư

tưởng mà chưa có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về nó trong tổng thể các chỉ tiêu kinh tế - xã

hội của quá trình xây dựng nông thôn mới. Hệ quả là kinh tế có bước phát triển nhưng văn

hóa thì mai một thậm chí còn có những bước lùi về văn hóa.v.v..Công tác tuyên truyền,

hướng dẫn cho quần chúng nhân dân hiểu rõ giá trị truyền thống trong việc gìn giữ và phát

huy bản sắc văn hoá dân tộc trong công tác tổ chức lễ hội còn hạn chế.

Ngoài ra, còn có xu hướng bảo thủ, phục cổ trong xây dựng lối sống. Hiện nay, với

việc phát triển kinh tế thị trường và sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, khoa học

công nghệ làm cho tư tưởng, lối sống của con người hiện nay có những biến đổi nhất

định. Do đó, chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về vai trò của giá trị văn hóa

truyền thống, cần kế thừa chọn lọc và phát huy những giá trị phù hợp với công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội.

3.3.3. Chính sách và quản lý vĩ mô trong xây dựng và phát triển văn hóa địa

phương vẫn bất cập

Chính sách trong xây dựng và phát triển văn hóa vẫn duy trì cách xây dựng mang

tính tập thể, như: “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Làng văn hóa”,

“Gia đình văn hóa”; “Ấp văn hóa”,…các phong trào quy định những tiêu chuẩn, khuôn mẫu

quá mức, làm mai một sự phong phú đa dạng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc tỉnh Sóc Trăng. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa

ở khu dân cư” có quan điểm chỉ đạo phải lấy đại đoàn kết dân tộc làm động lực; lợi ích của

nhân dân làm điểm tương đồng, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc làm này cũng bộc lộ không ít hạn chế, bất cập trong xây dựng,

ban hành cũng như triển khai chính sách, cách thức chỉ đạo và thực hiện. Điều đó làm lu

mờ, giảm giá trị trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Cụ thể, có nhiều

nơi tại Sóc Trăng cách thức thực hiện còn chồng chéo. Tuy đã có những tiêu chuẩn công

nhận “Thôn văn hóa”; “Gia đình văn hóa”; “Ấp văn hóa”, … nhưng nhiều địa phương vẫn

yêu cầu phải có các các danh hiệu văn hóa đi kèm khác như: thư viện văn hóa, công viên

văn hóa, chợ văn minh… nhiều địa phương còn đặt nặng hình thức và chạy theo bệnh thành

tích, bình xét gia đình văn hóa lại mặc nhiên đánh đồng tỷ lệ thuận với hộ nghèo! Các cuộc

vận động cần phải sửa đổi, bổ sung mang tính chiến lược, linh hoạt và có sự tham gia đóng

117

góp từ các chủ thể xây dựng văn hóa cũng như các bộ, ngành có liên quan. Ngoài ra, công

tác thanh tra, kiểm tra tuy đã được tiến hành thường xuyên nhưng xử lý vi phạm còn chưa

mạnh, chưa đủ sức răn đe ngăn chặn nên kết quả còn hạn chế.

Chúng ta vẫn còn xem nặng phát triển kinh tế, chưa xem trọng đúng mức đầu tư cho

văn hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Đội ngũ làm

công tác văn hóa cũng chưa được quan tâm đúng mức về học tập nâng cao trình độ, về

chế độ chính sách và sự nhìn nhận của xã hội của cán bộ lãnh đạo. Do vậy, đội ngũ cán

bộ quản lý và làm công tác văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu và yếu,

nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực là người dân tộc và các nghệ nhân có tay nghề

cao ngày càng giảm dần, hơn nữa cán bộ quản lý nhà văn hóa đa số có trình độ chuyên

môn không phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm dẫn đến hạn chế trong hoạt động văn

hóa văn nghệ, thể dục thể thao.

Mặt khác, hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá ở một số nơi

xuống cấp, thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng còn thấp. Việc đưa văn hoá, văn nghệ đến

phục vụ đồng bào các dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Việc đầu tư cho công tác trùng

tu, tôn tạo còn hạn chế, định mức chưa xứng tầm. Kinh phí phân bổ hàng năm cho hoạt

động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao còn thấp so với nhu cầu hoạt động. Hệ thống giáo

dục quốc dân cũng không có môn học nào giành riêng cho công tác giữ gìn, phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc, nếu có chỉ là sự lồng ghép trong một số môn học. Riêng một số ngành

học về văn hóa hay liên ngành có giảng dạy tại các trường Đại học Trà Vinh, Cần Thơ,

Vĩnh Long... nhưng vẫn còn mang tính chung chung, chưa nêu được sự rõ nét, đặc thù của

bản sắc văn hóa dân tộc. Đội ngũ nghiên cứu về văn hoá tại Sóc Trăng còn hạn chế và thiếu

tính kế thừa, thiếu niềm đam mê.

3.3.4. Tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục, tập quán của người dân Sóc Trăng

đang bị xâm hại

Công tác bảo tồn tín ngưỡng, lễ hội, các phong tục tập quán đang tồn tại những bất

cập. Với các lễ hội ngày càng dày đặc là gánh nặng kinh tế không nhỏ cho chính quyền địa

phương. Ngoài ra, số lượng người tham gia, số lượng du khách quá đông dẫn đến các lễ hội

không trật tự, thiếu văn minh, nhiều tệ nạn xã hội… Các luồng văn hóa xấu, các hiện tượng

văn hóa chưa được kiểm soát xuất hiện không ít. Ngoài ra, những yếu tố kinh doanh, thị

118

trường trong các lễ hội đã ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý, bản sắc văn hóa của nhân dân

Sóc Trăng.

Ngoài lễ hội các phong tục, tập quán, nghi lễ cũng có những thay đổi rất lớn. Một số

nghi lễ, do kinh tế thị trường, do nhu cầu phải thích ứng với cuộc sống hiện đại, các dân tộc

Sóc Trăng không còn tổ chức những lễ thức theo đúng truyền thống dân tộc, mất nhiều thời

gian và gây tốn kém như trước. Đa phần các lễ hội đều được đơn giản hóa tối đa từ cưới hỏi

đến ma chay, đầy tháng thậm chí là lễ hội. Ở Sóc Trăng, đặc biệt vùng đồng bào dân tộc

Khmer ngày nay, phong tục đi tu đã không còn là một nét văn hóa truyền thống mang tính

bắt buộc, số lượng nam đi tu của các phum sóc giảm đáng kể so với trước đây.

Nghệ thuật sân khấu Dù Kê, Rô Băm trong đời sống văn hóa tinh thần của người

Khmer là một di sản độc đáo nhất cần phải bảo vệ. Từ dân gian, thông qua các truyện kể,

thần thoại và cách thực hiện dân dã, một nền sân khấu có sức tái hiện và hệ thống hóa các

quan niệm, thần thoại và bộ sử thi Ấn Độ để đưa lên sân khấu này đứng được và phát triển

trước nhu cầu văn hóa đa dạng của công chúng, đồng thời lại có thể quảng bá những giá trị

này với khu vực, thế giới là một thách thức không hề đơn giản.

Đứng trước một thời đại mới, nghệ thuật sân khấu của người Khmer có nguy cơ mai

một. Sân khấu truyền thống không còn vị thế như trước và ngày càng sụt giảm cả về số

lượng và chất lượng. Các đoàn nghệ thuật hát Rô Băm đang mai một dần và khó có khả

năng phục hồi. Các nghệ sĩ của Rô Băm ngày càng hiếm, chỉ có một số ít nghệ sĩ cao tuổi

duy trì để thỏa mãn lòng yêu nghề và quan trọng hơn hết là do thiếu khán giả. Hiện nay, các

đoàn Rô Băm ở Sóc Trăng chỉ tồn tại trên danh nghĩa chứ ít khi tổ chức biểu diễn. Đội ngũ

diễn viên thường chán nản vì khán giả ngày một ít đi, thời gian biểu diễn ít đi, sân khấu biểu

diễn hẹp dần. Trước thực tế đó, theo chúng tôi, ở tầm quản lý vĩ mô về văn hóa, cần phải có

những giải pháp để giữ gìn một nền nghệ thuật sân khấu của người Khmer, đặc biệt là sân

khấu Dù Kê, một loại hình nghệ thuật sáng tạo và ở một trình độ thẩm mỹ nghệ thuật cao

của người Khmer Sóc Trăng.

Đối với lễ hội Đình của người Kinh tại Sóc Trăng, theo phong tục truyền thống vào lễ

Kỳ yên, và Hạ điền mỗi năm hát bội ba ngày 15, 16,17. Nhưng bây giờ mỗi năm chỉ hát

một lần, và cũng rất ít bà con tham gia, đặc biệt là lớp trẻ, họ không đam mê với hát bội tại

đình, lớp trẻ có xu hướng thích tân nhạc, và nhiều các phương tiện giải trí khác như tivi,

119

mạng xã hội zalo, facebook các quán cà phê…Do vậy, đa phần các đình của người Kinh chỉ

cúng vào dịp lễ và bỏ dần phần hội. Hơn nữa, những nội dung trong hoạt động lễ hội chưa

phong phú, tính hấp dẫn chưa cao; các hình thức cờ bạc trá hình vẫn còn khá phổ biến (các

trò chơi có thưởng); nạn ăn xin, trộm cướp ùn tắc giao thông, đi lại lộn xộn, xả rác bừa

bãi...vẫn thường xuyên xảy ra tại trung tâm lễ hội. Bên cạnh đó, tính thương mại hóa trong

hoạt động lễ hội (các hoạt động đều có thu tiền, giá cả các dịch vụ vô tội vạ . . .) làm mất đi

tính trang nghiêm và mục đích, ý nghĩa của lễ hội.

3.3.5. Chương trình xây dựng nông thôn mới còn nhiều hạn chế

Hiện nay, chương trình xây dựng nông thôn mớ đang từng bước mang lại lợi ích cho

nhân dân các dân tộc tỉnh Sóc Trăng, song sự tác động của nó cũng có tính hai mặt trong

quá trình triển khai các tiêu chí tại địa phương. Trong những năm qua, phong trào xây dựng

nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia

của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh việc ghi

nhận những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, cũng còn nhiều vấn đề đáng lo ngại.

Tỉnh ủy Sóc Trăng đã tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 04 của

Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2016-2020. Qua 3 năm thực hiện Nghị quyết

đã góp phần duy trì tốt và nâng dần mức độ hoàn thiện các tiêu chí, góp phần giữ vững quốc

phòng và an ninh trật tự xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày

càng khởi sắc. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm, thu nhập bình quân đầu người tăng lên.

Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và tích hợp văn

hóa mới, tạo điều kiện để người dân nông thôn vừa là chủ thể giữ gìn, vừa là người tham gia

sáng tạo các giá trị văn hóa mới cũng cần được bàn sâu trong quá trình xây dựng nông thôn

mới; qua thời gian triển khai thực hiện, tuy đã đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn chậm

so với kế hoạch, do đó các địa phương phải có sự chủ động, quyết liệt hơn nữa trong thực

hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đối với những tiêu chí khó

cần các nguồn vốn lớn như: giao thông, trường học, y tế... tỉnh sẽ hỗ trợ để cùng các địa

phương thực hiện.

3.3.6. Vấn đề về người Khmer Krom hiện nay

Hiện nay, bất chấp sự thật lịch sử về vùng đất Tây Nam bộ mà đồng bào Khmer đang

sinh sống là một phần không thể tách rời của lãnh thổ nước Việt Nam. Các thế lực thù địch,

120

phản động vẫn đang rêu rao, làm rộ lên vấn đề Khmer Krom, chúng vu cáo Việt Nam

“cướp đất” của người Campuchia, nhất là những vấn đề liên quan đến đồng bào dân tộc

Khmer vùng Tây Nam bộ chúng tìm mọi cách lu loa, vu cáo lên mạng xã hội và các phương

tiện thông tin không chính thống bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Sự ra đời của tổ chức phản

động Khmer Krom, các thế lực phản động này còn phát tán Cờ và biểu tượng “Nhà nước

Khmer Krom” lưu vong. Các thế lực thù địch, phản động đang xuyên tạc lịch sử bằng

những luận điệu cực đoan, dối trá của những kẻ cơ hội, đang cố tình xuyên tạc lịch sử, làm

tổn thương mối quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia.

Gần đây, Tổ chức “Liên đoàn Khmers Kampuchea Krom - KKK - KKF” đang sống

lưu vong tại Mỹ đã lợi dụng “tự do” của cính phủ Mỹ nhằm tham gia các “diễn đàn” quốc

tế, tiếp xúc các chính khách gia tăng các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, chống

phá Việt Nam một cách thiếu căn cứ, xuyên tạc lịch sử, không tôn trọng sự thật về vấn đề tự

do tôn giáo, đàn áp sư sãi… chúng yêu cầu chính phủ Việt Nam, chấm dứt phân biệt đối xử

với người “Khmer Krom”… Sau khi những kẻ cầm đầu bị cách chức, vì có những hành vi

xuyên tạc lịch sử, bị chính quyền sở tại nghiêm cấm hoạt động, chúng đã ngấm ngầm

chuyển sang đào tạo, lôi kéo những người trẻ tuổi, ít hiểu biết về lịch sử dân tộc, chúng

cấp thẻ thành viên của tổ chức lưu vong “Liên đoàn Khmers Kampuchea Krom”, vận

động các nước gây sức ép với Việt Nam về vấn đề “Khmer Krom”. Ngang ngược hơn

chúng còn đề nghị Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và các nước thành viên ASEAN

can thiệp vào các vấn đề trên, cho dù các vấn đề đó không hề tồn tại. Sau khi đảng Cứu

quốc Campuchia - CNRP sau khi bị giải thể, nhận được sự dung túng của đảng Cứu

quốc (CNRP), các đối tượng phản động người Khmer lưu vong tiếp tục lợi dụng các vấn

đề dân chủ, nhân quyền tiến hành nhiều hoạt động chống phá Việt Nam. Chúng đã tổ

chức “Hội thảo” vu khống sự đàn áp của chính phủ Việt Nam với sư sãi, tín đồ phật giáo

Nam Tông tại Tây Nam Bộ. Chúng còn kích động nhân dân tham gia các cuộc biểu tình

xuyên tạc Campuchia “cắt đất” cho Việt Nam, hay Việt Nam lấn chiếm lãnh thổ

Campuchia, Việt Nam đào sông ở An Giang và một số tỉnh giáp biên giới hai nước xâm

phạm lãnh thổ, chủ quyền Campuchia v.v..

Qua công tác truy xét, Chính phủ Việt Nam ta đã phát hiện và tịch thu hàng ngàn tài

liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử vùng đất Nam bộ, cho rằng, đất Nam bộ là của người

121

“Khmer Krom” bị Việt Nam xâm chiếm. Lợi dụng Tuyên ngôn về quyền của người bản địa

của Liên hợp quốc, chúng xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta đối với dân

tộc Khmer; vu cáo, kích động gây chia rẽ quan hệ Việt Nam - Campuchia; ủng hộ hoạt

động của Đảng CNRP; tuyên truyền, khuếch trương thanh thế cho KKF.

Tại các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu… nơi có đông đồng bào Khmer sinh

sống, chính phủ Việt Nam đã phát hiện, làm rõ các đối tượng phản động ở có hoạt động

thu thập, cung cấp thông tin ra bên ngoài; trả lời phỏng vấn, đưa tin xuyên tạc, bịa đặt;

tán phát tài liệu phản động, tuyên truyền tư tưởng ly khai, tự trị cho người Khmer Krom.

Cụ thể là vụ kiện tranh chấp đất tại một số chùa Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, An

Giang… ghê gớm hơn chúng còn muốn tách Phật giáo Nam tông Khmer ra khỏi Giáo

hội Phật giáo Việt Nam.

Trước các vấn đề bức xúc, nhạy cảm nêu trên chính quyền địa phương cũng như

chính phủ Việt Nam cần có những biện pháp mềm dẻo, nhằm loại bỏ những luận điệu phản

động, xuyên tạc bảo đảm an ninh trật tự vùng Tây Nam của Tổ Quốc cũng như tình láng

giềng, hữu nghị của hai nước.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay đang

chịu tác động của nhiều nhân tố. Đó là, vấn đề toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, quá trình

công nghiệp hóa hiện đại hóa, sự du nhập ồ ạt của các trào lưu văn hóa, hệ thống thông tin,

truyền thông các ấn phẩm báo chí, mạng Internet…Các nhân tố trên tác động đa chiều, biện

chứng, vừa tích cực vừa tiêu cực. Đồng thời cũng tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, đảng bộ và nhân dân tỉnh Sóc Trăng

ngoài việc phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh. Bản sắc văn hóa dân tộc được biểu

hiện tập trung ở di sản văn hóa. Trong những năm qua, công tác giữ gìn và phát huy những

giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng cơ bản được chính quyền và nhân dân

các dân tộc tại địa phương quan tâm, đầu tư, có bước phát triển tốt về quy mô cũng như

chiều sâu và đã đạt được những kết quả nhất định, tạo sự khởi sắc trong giữ gìn phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đó góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại địa phương,

122

quảng bá hình ảnh, bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc Sóc Trăng trước các dân tộc

khác trong nước cũng như bạn bè quốc tế, đồng thời tạo được niềm tin trong nhân dân về

đường lối đúng đắn của đảng và nhà nước.

Tuy nhiên, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có xu hướng chạy theo phong trào,

hình thức, khẩu hiệu, rập khuôn chưa có chiều sâu; tỉnh vẫn còn xem nặng phát triển kinh tế

chưa xem trọng đúng mức đầu tư cho văn hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc nói riêng. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sóc Trăng trong những năm qua đã được chỉ ra trong nội

dung luận án, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Các

nguyên nhân trên theo chúng tôi cần sớm được khắc phục. Luận án cũng nêu một số vấn đề

đặt ra, như mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn, phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc thực sự được xem trọng, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có xu hướng chạy

theo phong trào, hình thức, khẩu hiệu, rập khuôn chưa có chiều sâu, chính sách trong xây

dựng và phát triển văn hóa vẫn duy trì cách xây dựng mang tính tập thể mang tính chung

chung chưa có chủ thể thực hiện, chúng ta vẫn còn xem nặng phát triển kinh tế chưa xem

trọng đúng mức đầu tư cho văn hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

nói riêng, bước vào kinh tế thị trường, một bộ phận nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng

không khỏi bị choáng ngợp, công tác bảo tồn tín ngưỡng, lễ hội, các phong tục tập quán

đang tồn tại những bất cập, trình độ dân trí của các dân tộc ở Sóc Trăng còn những hạn chế

nhất định, cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc tại Sóc Trăng. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng hiện nay,

các vấn đề đặt ra nêu trên trên theo chúng tôi cần sớm được giải quyết.

123

Chương 4

NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIỮ GÌN PHÁT HUY

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY

4.1. Quan điểm cơ bản nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng hiện nay

4.1.1. Hội nhập quốc tế là điều kiện khách quan, nhưng hội nhập có bản lĩnh là

tiền đề để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Trước xu thế toàn cầu hóa của thế giới hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát

triển trong sự tách biệt với thế giới. Do vậy, hội nhập quốc tế là điều kiện khách quan của sự

phát triển của các dân tộc, nhưng hội nhập có bản lĩnh, nghĩa là chúng ta chỉ nên kế thừa,

phát huy những giá trị tốt đẹp làm tiền đề để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Khác với những năm trước, hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay đòi hỏi đổi mới tư duy,

chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng

góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác” trên nhiều lĩnh vực từ

kinh tế, chính trị đến văn hóa. Bởi vì, bản lĩnh của một nền văn hoá là tổng hợp toàn bộ

những nhân tố thể hiện cốt cách, khí phách, tư chất và sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc

trước tác động của các nền văn hoá khác trong giao lưu, hội nhập. Một nền văn hoá thiếu

bản lĩnh thì dễ bị đánh mất bản sắc dân tộc. Do ứng xử hài hoà, dân tộc ta không cự tuyệt

các giá trị văn hoá bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên

tắc, không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.

Hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu về văn hóa giữa các nước đang diễn ra hết sức sôi

động - đó là điều kiện khách quan quy định sự giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Nhưng nếu không có một bản lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển văn hóa

đúng đắn thì việc giao lưu văn hóa và kinh tế thị trường sẽ dần làm mai một, đánh mất bản

sắc văn hóa dân tộc - bản lĩnh hội nhập vững vàng là tiền đề để giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc.

4.1.2. Phải làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã

hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển

Cách đây hơn 70 năm (năm 1943), Đề cương về văn hóa Việt Nam - một văn kiện

quan trọng của Đảng, do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo, đã sớm khẳng định quan

124

điểm của Đảng ta coi văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị và văn hóa; nêu bật

3 tính chất cơ bản của văn hóa Việt Nam là: dân tộc, khoa học và đại chúng; đồng thời cũng

chỉ rõ, có lãnh đạo được phong trào văn hóa, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (tháng 11-1946), trong diễn văn, Bác Hồ đã

nêu một quan niệm giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, đó là: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân

đi”. Thông qua các kỳ đại hội đảng, tư tưởng làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng

tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển, đã được

Đảng ta nêu từ 1991 đến nay: Xây dựng nên văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm

nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội XI,

Đảng ta một lần nữa khẳng định: Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc

của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

4.1.3. Phải đảm bảo cho văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng

Nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc dân tộc đó là nền văn hóa thống nhất trong đa

dạng và phong phú của các nền văn hóa của các cộng đồng tộc người, các vùng miền - sự

phong phú đa dạng đã được hun đúc qua lịch sử gắn dựng nước và giữ nước của dân tộc. Sự

đa dạng văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng, không chỉ tạo nên sức hấp dẫn to lớn

của Việt Nam đối với thế giới bên ngoài, mà còn là nền tảng hình thành nội lực cho sự phát

triển của đất nước. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tính đa

dạng là một đặc điểm lâu đời của nền văn hóa Việt Nam, hình thành từ đặc điểm tự nhiên

và xã hội của đất nước. Giao lưu với văn hóa Ấn Độ, Quá trình giao lưu với văn hóa Trung

Hoa... người Việt vẫn giữ được bản sắc văn hóa của riêng mình có một nền văn hóa đa dạng

và phong phú, đồng thời có một nền văn hóa chủ lưu làm cơ sở cho các cộng đồng văn hóa

thiểu số, đó là văn hóa Việt. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,

dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,

trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

125

4.1.4. Không đóng cửa, khép kín, mà đẩy mạnh giao lưu hợp tác để văn hóa tiếp

nhận được những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại

Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. (Nghị

quyết trung ương 9, khóa XI của Đảng về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng

yêu cầu phát triển bền vững đất nước). Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là

đóng cửa, khép kín, mà còn là giao lưu hợp tác văn hóa để tiếp nhận những giá trị văn hóa,

văn minh của nhân loại, đề kháng trước những yếu tố lạc hậu, phản văn hóa. Thông qua hợp

tác, giao lưu quốc tế, mỗi dân tộc sẽ tiếp thu và nắm bắt được những thành tựu văn minh,

những tinh hoa của nhân loại trong mọi lĩnh vực; là cơ hội để thêm bạn, bớt thù, mở rộng

thêm đối tác, tăng sự hiểu biết lẫn nhau, chung sức giải quyết hiệu quả các vấn đề mang tính

toàn cầu... Bên cạnh đó, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, các dân tộc có điều kiện phát

huy lợi thế so sánh của mình, đánh giá đúng mình và nhận thức được thế giới xung quanh

để từ đó có cách làm, có bước đi phù hợp. Giao lưu, hợp tác quốc tế nhằm tạo môi trường

ổn định để phát triển; có cơ hội để phát huy những tiềm năng lợi thế của mỗi nước; là điều

kiện để tiếp thu, học hỏi những tinh hoa, tiến bộ của thế giới phục vụ cho mục tiêu phát

triển của mỗi dân tộc.

4.1.5. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội

Văn hóa không chỉ là nhân tố nội sinh thúc đẩy con người Việt Nam phát triển, hoàn

thiện nhân cách mà còn là mục tiêu, động lực thúc đẩy việc tái cấu trúc lại nền kinh tế, đổi

mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn

xã hội, phát triển bền vững đất nước; trở thành nền tảng tinh thần của xã hội ta.

Tuy đã có sự phát triển về nhiều mặt, song so với kết quả đạt được trên các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, xã hội, thì kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa

đủ sức tạo ra “cú hích” đủ mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người

và môi trường văn hóa xã hội chủ nghĩa lành mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, các tệ nạn và tiêu cực

xã hội. Sở dĩ xây dựng, phát triển văn hóa chưa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị,

xã hội... là do nhiều nguyên nhân chi phối, tác động, song chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính

quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chưa chỉ

đạo quyết liệt trong triển khai xây dựng đời sống, môi trường văn hóa mới lành mạnh. Công

126

tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật chậm được đổi mới hoặc đổi mới chậm, bị xem

nhẹ, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. So với các lĩnh vực khác, đầu tư cho lĩnh vực văn

hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, còn dàn trải và hiệu quả thấp. Công tác đào tạo, bồi

dưỡng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý các cấp chưa được quan tâm đúng mức. Đấu tranh phòng, chống sự xâm lăng, xâm nhập,

thẩm lậu của các sản phẩm văn hóa độc hại, các yếu tố “ngoại lai” không phù hợp với điều

kiện, hoàn cảnh Việt Nam chưa thật sự kiên quyết, thậm chí có lúc, có nơi còn buông lỏng,

gây bất bình trong nhân dân.

4.2. Giải pháp về kinh tế - xã hội nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay

4.2.1. Có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu

Long nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã

hội. Trong đó, tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao

gồm: hoàn cảnh địa lý; điều kiện dân số; phương thức sản xuất ra của cải vật chất. Trong ba

nhân tố đó thì phương thức sản xuất của cải vật chất là nhân tố quyết định đối với tồn tại xã

hội. Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng, quan

điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống v.v.. phản ánh tồn tại xã hội trong

những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử. Do đó, muốn giữ gìn phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được một nền tảng kinh

tế vững chắc không chỉ ở Đồng bằng Sông Cửu Long mà còn ở tỉnh Sóc Trăng. Thời gian

vừa qua, kinh tế của vùng tăng trưởng khá tốt; cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, môi

trường kinh doanh năng động; nguồn lao động dồi dào, chất lượng ngày càng tăng. Tuy

nhiên, đến nay Đồng bằng Sông Cửu Long nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng vẫn chưa

thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Do vậy, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng lần thứ XIII, đã đề ra kế hoạch phát triển

kinh tế- xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2015-2020, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020

xây dựng Sóc Trăng trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Để đạt được điều này, với vị trí địa lý kinh tế, điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi, đặc

biệt là một trong những cửa ngõ thông ra biển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh

127

cần năng động, sáng tạo, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương. Phấn đấu duy

trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đặc biệt tạo chuyển biến mạnh, đột phá tăng

trưởng trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, dịch vụ; đồng thời nâng cao chất lượng,

hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa tỉnh Sóc Trăng từng bước vượt ra khỏi tình

trạng tụt hậu, thu nhập thấp; Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, nâng một bước đáng

kể trình độ công nghệ trong nền kinh tế. Tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế của

tỉnh, đặc biệt là các doanh nghiệp, tham gia cùng cả nước hội nhập ở mức sâu và cao hơn

với kinh tế khu vực và thế giới. Tận dụng các cơ hội thuận lợi của hội nhập quốc tế cho phát

triển; khai thác có hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại; Phát triển văn hoá - xã hội đồng bộ

với tăng trưởng kinh tế. Nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn

nhân lực. Tiếp tục cải thiện đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, tạo thêm

nhiều việc làm, giảm rõ rệt các tệ nạn xã hội. Phát triển và hoàn thiện từng bước kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội v.v..

Ngoài ra, tỉnh luôn đẩy mạnh thu hút đầu tư, củng cố bộ máy và tăng cường cải cách

TTHC (Thủ tục hành chính) theo tinh thần Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ

về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ phát triển

doanh nghiệp đến năm 2020. Ngày 03/02/2017 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng

phê duyệt Đề cương và dự toán kinh phí lập Đề án Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh Sóc Trăng

đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 với mục tiêu tổng quát: Định hướng và thực hiện

có hiệu quả công tác hội nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng theo từng giai

đoạn, trên cơ sở khai thác tốt lợi thế kinh tế và cơ hội của địa phương, chủ động ứng phó

với các nguy cơ trong quá trình hội nhập, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo

hướng bền vững.

Năm 2017, UBND tỉnh Sóc Trăng đã ký ban hành Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND

quy định về hỗ trợ kinh phí đạo tạo và thu hút nhân lực trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng đến năm

2020. Nội dung Quyết định trên quy định rõ các trường hợp được hỗ trợ kinh phí đào tạo và

thu hút nhân lực. Đối tượng được hỗ trợ kinh phí đào tạo: Cán bộ, công chức, viên chức

đang công tác tại các cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan

Đảng, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn được cơ quan

có thẩm quyền cử đi đào tạo tiến sỹ theo nhu cầu của tỉnh và có bằng tốt nghiệp tiến sỹ

128

trong giai đoạn từ ngày 01/12/2014 đến hết năm 2020. trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Cuối

tháng 4/2018, tỉnh Sóc Trăng sẽ tổ chức Hội nghị Xúc tiến đầu tư tỉnh Sóc Trăng năm 2018

và Lễ phát động khởi nghiệp với sự tham dự của lãnh đạo Chính phủ, mục đích của Hội

nghị nhằm tuyên truyền, giới thiệu thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng, thế mạnh và chính

sách ưu đãi; huy động các nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước

để phát triển nhanh, bền vững; gặp gỡ, trao đổi trực tiếp giữa lãnh đạo Trung ương và lãnh

đạo tỉnh với các doanh nghiệp, nhà đầu tư có ý định tìm hiểu và đầu tư trên địa bàn tỉnh Sóc

Trăng. Với mục tiêu chính là cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư, chất

lượng điều hành và quản lý kinh tế của tỉnh, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của

doanh nghiệp. Tỉnh chủ trương xây dựng môi trường kinh doanh thực sự thông thoáng,

minh bạch, hấp dẫn và thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh,

góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Phát triển văn hoá- xã hội đạt một số kết quả tích cực, song vẫn chưa theo kịp nhịp độ

phát triển của cả nước, một số chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, mức

sống, giảm nghèo còn thấp hơn khá nhiều so mức bình quân chung của cả nước. Tỷ lệ hộ

nghèo chung của tỉnh và đặc biệt tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer còn rất cao,

chiếm 24,3% và 36,8% theo tiêu chí năm 2010. Chênh lệch mức sống giữa các khu vực

trung tâm ,vùng sâu và vùng xa trong tỉnh có xu hướng ngày càng có khoảng cách.

4.2.2. Tập trung thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc, thực hiện xóa đói

giảm nghèo

Tập trung thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc, nhất là chính sách về hạ tầng,

hỗ trợ phát triển sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giáo dục và đào tạo, chăm

sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm cho nhân dân. Đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành

chính, tập trung nguồn lực thực hiện tốt các chương trình, chính sách đối với đồng bào dân

tộc thiểu số như nhà ở, quy hoạch dân cư, hộ nghèo theo hướng phát triển bền vững.

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nhấn mạnh: Sóc Trăng cần có các giải pháp

giảm nghèo bền vững từ nay đến năm 2020, hướng đến năm 2030. Hạn chế thấp nhất tình

trạng tái nghèo, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số. Góp phần tăng thu và nâng cao thu

nhập bình quân đầu người của người dân trong tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ

129

trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp. Có chính sách chuyển đổi nghề,

tạo việc làm để ổn định và nâng cao cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số.

Thách thức lớn đối với tỉnh là trình độ dân trí thấp, hạ tầng yếu, tỉnh nghèo… trong

khi đó, chúng ta phải nỗ lực để triển khai toàn diện cùng cả nước cơ bản thành nước công

nghiệp vào năm 2020. Muốn vậy, phải nghiên cứu xây dựng hạ tầng, quy hoạch phát triển

như việc xem xét xây dựng cảng Trần Đề thành cảng nước sâu để gắn với phát triển điện

gió, điện mặt trời, một số khu công nghiệp thu hút nhà đầu tư chiến lược như Nhật Bản, Đài

Loan, Singapore và các nhà đầu tư trong nước vào xúc tiến đầu tư cho tỉnh Sóc Trăng, Phó

Thủ tướng Trương Hòa Bình gợi mở với lãnh đạo tỉnh và các bộ, ngành tỉnh Sóc Trăng.

Bên cạnh đó, tỉnh cần tính toán việc chuyển đổi giống cây trồng, thu hút nhà đầu tư

trong và ngoài nước, cải cách hành chính phải đột phá, xóa đói giảm nghèo… Qua đó, tạo

ra động lực để phát triển kinh tế của địa phương. Phát triển giáo dục và đào tạo, ưu tiên

người dân tộc thiểu số, chính sách cử tuyển, dạy nghề cho con em dân tộc thiểu số để bổ

sung nguồn lực cho địa phương sau này với hệ thống các trường dân tộc nội trú. Nâng cao

chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc,

nhân rộng các bài thuốc quý trong nhân dân. Đồng thời, ngăn chặn cho được hôn nhân cận

huyết thống, cũng như nạn tảo hôn trong đồng bào dân tộc và thực hiện tốt chính sách dân

số, đẩy lùi tệ nạn, hủ tục gắn với tuyên truyền các nâng cao nhận thức của người dân, bảo vệ

truyền thống văn hóa các dân tộc.

Từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số, quan tâm đến

công tác đào tạo, quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ người dân tộc thiểu số trong

thời kỳ mới. Đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị, gắn với việc “dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Quan tâm hơn nữa đến công tác giữ vững an ninh chính trị,

củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ động ngăn chặn từ xa các hoạt

động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân. Tập trung đấu tranh ngăn chặn sự về suy

thoái chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện của diễn biến và tự diễn biến, tự

chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên. Bởi các thế lực thù địch luôn chống phá, gây chia

rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động bà con… Do đó, việc tuyên truyền vận động bà con

sống hòa hợp, đoàn kết, không nghe kẻ xấu, hiểu rõ chính sách tốt đẹp của chế độ ta,

xây dựng quê hương ấm no, phát triển.

130

4.2.3. Tăng cường thực hiện các đề án văn hóa trọng điểm và chú trọng tôn tạo,

giữ gìn và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa Sóc Trăng

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh công tác văn hóa -

thông tin ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong những năm qua, tỉnh Sóc Trăng đã có

nhiều đề án, dự án đầu tư, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào

dân tộc Khmer được triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết

định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27/7/2011 về phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các

dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”, đây là vấn đề quan trọng tiếp tục thể hiện chính

sách của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc

thiểu số Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII. Thực hiện chủ trương

của Đảng và Nhà nước tỉnh Sóc Trăng đang tăng cường đầu tư kinh phí để thực hiện các đề

án trọng điểm nhằm khôi phục lại một số loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống có nguy

cơ bị mai một như: nghệ thuật sân khấu Dùkê, Rôbăm, trang phục truyền thống, lễ hội văn

hóa, kiến trúc, trò chơi dân gian, các loại hình nghệ thuật khác… cần có cơ chế, chính sách

đãi ngộ hợp lý cho các nghệ nhân, những cá nhân và gia đình có công sức giữ gìn tài sản

văn hóa dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, nhất là cán bộ người dân tộc;

thu hút cán bộ có trình độ, năng lực về công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng

cường đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí, các tụ điểm sinh

hoạt văn hóa chùa Khmer, đầu tư sách, báo, thông tin khoa học kỹ thuật, phủ sóng phát

thanh, truyền hình bằng tiếng, chữ dân tộc... chuyển tải những nội dung và lượng thông tin

thiết thực đến cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa.

Nâng mức đầu tư cho văn hóa, bảo đảm tỷ trọng chi ngân sách cho văn hóa phải tăng

tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước,

đẩy mạnh thực hiện chủ trương về xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn

lực cho phát triển văn hóa, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa.

Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa từ huyện đến cơ sở, theo hướng cơ sở vật chất, trang

thiết bị, kinh phí đáp ứng yêu cầu hoạt động và chuyên môn hóa cán bộ. Khai thác các

nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, các nguồn lực

trong xã hội tham gia xây dựng cơ sở vật chất văn hóa. Hàng năm, phân bổ ngân sách địa

phương để hoàn thiện cơ sở vật chất và đảm bảo cho văn hóa phát triển.

131

Xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm, nâng cấp các thiết chế văn hóa từ huyện

đến cơ sở đạt chuẩn theo quy định; tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa đã được xếp

hạng. Tăng cường đầu tư kinh phí để thực hiện các đề án trọng điểm nhằm khôi phục lại

một số loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống có nguy cơ bị mai một như: nghệ thuật

sân khấu Dùkê, Rôbăm, lễ hội truyền thống, trang phục truyền thống, các trò chơi dân gian,

các loại hình nghệ thuật khác… cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý cho các nghệ

nhân, những cá nhân và gia đình có công sức giữ gìn tài sản văn hóa dân tộc. Quan tâm đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, nhất là cán bộ người dân tộc; thu hút cán bộ có trình độ, năng

lực về công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường đầu tư xây dựng các thiết

chế văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí, các tụ điểm sinh hoạt văn hóa chùa Khmer, đầu tư

sách, báo, thông tin khoa học kỹ thuật, phủ sóng phát thanh, truyền hình bằng tiếng, chữ dân

tộc... chuyển tải những nội dung và lượng thông tin thiết thực đến cho đồng bào dân tộc

vùng sâu, vùng xa.

Để phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội thì kế hoạch bảo tồn di sản không thể tách

rời các kế hoạch, chiến lược phát triển khác của tỉnh. Giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn ở

địa phương cần thiết phải được gắn với chiến lược phát triển du lịch, nâng cao đời sống kinh

tế cho cộng đồng dân cư địa phương và bảo vệ môi trường. Có như thế, di sản văn hóa mới

là cơ sở để xây dựng văn hóa hiện đại mang bản sắc địa phương nói riêng, bản sắc dân tộc

nói chung.

Thực hiện chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật, chính sách

kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh

tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực hiện chính sách đãi ngộ về tinh thần và vật chất đối với văn nghệ sĩ, các nghệ nhân,

các hạt nhân phong trào cơ sở nhằm động viên, khích lệ và khơi dậy niềm đam mê trong

từng cá nhân. Tăng cường công tác kiểm tra văn hóa, thông tin gắn với trách nhiệm cá nhân

và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ

chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn

hóa. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức lối sống, “Tự diễn biến”, "Tự chuyển hóa" trên lĩnh vực văn hóa, thông tin. Ngăn chặn

132

có hiệu quả các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản không đúng tôn chỉ, mục

đích, sản phẩm lệch lạc.

Thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội lớn của đồng bào dân tộc như:

Ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc, Lễ Chol Chnăm Thmây, Lễ Dolta, Lễ hội Ok-Om-

Bok, Hội diễn nghệ thuật và trình diễn trang phục dân tộc Khmer... Thông qua các cuộc thi,

liên hoan, hội diễn tuyên truyền bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, nâng cao đời sống

sinh hoạt văn hóa của đồng bào Khmer trên địa bàn toàn tỉnh. Có thể nói, các chính sách

bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Khmer ở Sóc Trăng đã góp phần tạo nên

bản sắc văn hóa đậm đà của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, sẽ phát huy được vai trò, sức

sống trong cuộc sống hiện tại của người Khmer tỉnh Sóc Trăng.

4.2.4. Chú trọng tôn tạo, giữ gìn và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa Sóc

Trăng

Hiện nay, trên toàn tỉnh Vĩnh Long có 44 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng,

trong đó có 08 di tích cấp quốc gia, 36 di tích cấp tỉnh, bao gồm 26 di tích lịch sử cách

mạng, 10 di tích kiến trúc nghệ thuật, 03 di tích lưu niệm danh nhân, 03 di tích chứng tích

chiến tranh, 01 di tích lưu niệm anh hùng liệt sĩ và 01 di tích thắng cảnh. Cần phải thừa

nhận rằng mỗi di tích lịch sử - văn hóa tại Sóc Trăng đều chứa đựng những giá trị vật chất,

tinh thần phong phú của nhân dân Sóc Trăng. Những di tích lịch sử - văn hóa tại Sóc Trăng

không phải là vật thể “vô tri” mà nó chính là “chứng tích lịch sử - văn hóa”, nối liền các giá

trị quá khứ và hiện tại và là nền tảng của các giá trị trong tương lai. Các di tích lịch sử - văn

hóa được tôn tạo, giữ gìn thể hiện giá trị đạo lý của con cháu đối với các thế hệ khai sơn lập

địa, tạo vẻ mỹ quan cho di tích. Thông qua nó mà ta hiểu được phần quan trọng của logic

lịch sử, trong đó hàm chứa cả thế giới quan, nhân sinh quan của các thế hệ ông cha. Đó là

những triết lý nhân sinh sâu sắc về ẩm thực, hội họa, kiến trúc…

4.2.5. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, xây dựng đội ngũ

cán bộ văn hóa

4.2.5.1. Nâng cao nhận thức về mối quan hệ mật thiết giữa các dân tộc tỉnh Sóc Trăng

với cộng đồng dân tộc Việt Nam

Tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự hiểu biết của xã hội về giữ gìn, phát huy văn

hóa dân tộc. Xây dựng các chương trình hoạt động, lễ hội, biểu diễn văn hóa, nghệ thuật các

133

dân tộc cấp tỉnh, huyện theo định kỳ hàng năm và cả giai đoạn 2012-2020. Tổ chức các hoạt

động giao lưu văn hóa, kinh tế, thể dục thể thao thiết thực, hiệu quả, gắn với điều kiện thực

tế của địa phương, thu hút đông đảo đồng bào dân tộc tham gia và thụ hưởng. Đẩy mạnh

hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở địa phương; có kế hoạch sử dụng học sinh,

sinh viên dân tộc được đào tạo cơ bản để họ được về phục vụ địa phương và dân tộc mình.

Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, những giá trị vật chất, tinh

thần độc đáo của địa phương giúp nhân dân có dịp giới thiệu những giá trị đó với bạn bè

thế giới. Thông qua các hoạt động lễ hội phát huy hơn nữa lòng yêu nước, chủ nghĩa anh

hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào, ý chí tự cường của dân tộc, củng cố và

tăng cường niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; qua đó, tạo chuyển biến

mạnh mẽ về hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Đẩy mạnh công

tác tuyên truyền về vai trò, vị trí văn hóa, làm cho toàn xã hội tham gia xây dựng và phát

triển văn hóa. Giáo dục truyền thống, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc.

Với nhiều hình thức tuyên truyền sinh động, làm cho văn hóa thấm sâu trong mỗi gia

đình; qua đó nâng cao nhận thức của toàn xã hội về văn hóa, đầu tư cho văn hóa là đầu

tư cho con người.

Hiện nay, việc giáo dục và tuyên truyền chủ nghĩa Mác -Lênin đang phát huy tác

dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung và tỉnh Sóc Trăng

nói riêng. Tuy nhiên, cần phải được nhận thức lại, nhất là trong các trường học, cần phải

đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn tỉnh, trong các cấp

ủy Đảng, các ban ngành, đoàn thể quần chúng. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức

trong Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị phải gương mẫu về tư tưởng, đạo đức, lối sống.

Kiên quyết khắc phục tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, rèn luyện đạo đức cần, kiệm,

liêm, chính, tinh thần hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân theo gương Bác Hồ.

Đối với nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng, trong gia đình cha mẹ gương mẫu với

con cái; trong nhà trường thầy, cô giáo gương mẫu với học sinh, sinh viên, người lớn

gương mẫu với trẻ em… Gương mẫu để cảm hóa, từ đó mà lãnh đạo, dẫn dắt. Đồng thời

quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ; có chính sách

trọng dụng người tài.

134

Cần giáo dục cho nhân dân về những giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của dân

tộc để giác ngộ sâu sắc về truyền thống, lịch sử, bản sắc văn hóa của dân tộc. Trên cơ sở đó,

xác định rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của các tổ chức, các lực lượng với sự nghiệp cách

mạng nói chung, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc nói riêng, từ đó ra sức học

tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng

cao ý thức tinh thần trách nhiệm trong tham gia các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa của

dân tộc. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, việc tổ chức xây dựng và phát huy các

phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, biểu dương, nhân rộng

những nhân tố mới, những tập thể, cá nhân tiêu biểu trong các phong trào hành động cách

mạng, tạo sức giáo dục lan tỏa trong xã hội với phương châm “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”,

nhằm góp phần tích cực vào xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Nâng cao nhận thức của nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng cũng cần chú ý đến

việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của bản sắc văn hóa các

dân tộc cho nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng, cũng như vấn đề tiếp thu có chọn lọc

các giá trị tinh hoa văn hóa của các vùng miền khác và của nhân loại. Vấn đề này cần phải

được tiến hành thường xuyên, lâu dài, thông qua nhiều hình thức đa dạng và phù hợp như

xuất bản văn hóa phẩm, qua các phương tiện thông tin đại chúng và các chiến dịch tuyên

truyền vận động về văn hóa. Trong đó nổi lên hai hình thức chính, đó là thông qua hệ

thống thông tin đại chúng và thông qua hệ thống giáo dục, trong đó hệ thống giáo dục nhà

trường là nòng cốt. Hệ thống thông tin đại chúng có quy mô rộng lớn và có vai trò hàng

đầu nhằm quảng bá, thông tin, tuyên truyền, giáo dục những hiểu biết về bản sắc văn hóa

dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Hệ thống này thông qua phương tiện thông tin hàng

đầu là hệ thống phát thanh, truyền hình, báo chí, sách vở, các phương tiện nghe nhìn,…

Thực tế những thập kỷ vừa qua, nhất là sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, trên

các phương tiện thông tin đại chúng đã tăng lên một cách đáng kể các nguồn thông tin văn

hóa đến với nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Các di sản, các giá trị văn hóa, bản sắc

văn hóa của các dân tộc đã được truyền tải hàng ngày đến với nhân dân các dân tộc ở tỉnh

Sóc Trăng, nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, nâng cao nhận thức, dân trí, từ đó làm cho

nhân dân Sóc Trăng hiểu biết văn hóa, rút ngắn khoảng cách với nhân dân cả nước cũng

như bạn bè quốc tế.

135

4.2.5.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đủ năng lực hoàn thành

nhiệm vụ

Thường xuyên rà soát lại nguồn nhân lực, liên kết, phối hợp tổ chức đào tạo, đặc biệt

quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực trên địa phum, sóc, thôn, ấp... đảm bảo ổn định,

đạt chuẩn theo quy định và đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát trển văn hóa. Rà soát, bổ

sung quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao, du lịch, gia đình,

thông tin và truyền thông có đủ tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được

giao. Tỉnh Sóc Trăng cũng cần có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, tôn vinh và đãi

ngộ các cán bộ công tác trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Ngoài ra, tỉnh cũng cần phát

triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ chuyên gia vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có

phẩm chất đạo đức tốt, có tâm với nghề, chuyên nghiệp có trách nhiệm và sự tận tụy phục

vụ đồng bào.

Đây là giải pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến chất lượng hoạt động giữ gìn bản

sắc văn hóa của dân tộc hiện nay, vì các hoạt động xã hội muốn đạt kết quả tốt phải có đội

ngũ cán bộ chuyên trách. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn

hóa để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên. Nâng cao chất lượng của

đội ngũ này, là lực lượng nòng cốt để hiện thực hóa những quan điểm, đường lối của Đảng,

Nhà nước về văn hóa đi vào thực tiễn cuộc sống, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Phải làm tốt công tác lựa chọn, bổ

nhiệm cán bộ làm công tác văn hóa nhất là những cán bộ đảm nhiệm ở vị trí quan trọng. Tốt

nhất nên lựa chọn những cán bộ có đủ điều kiện về năng lực phẩm chất, được đào tạo cơ

bản, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm cao, am hiểu địa bàn, phong tục tập

quán, yên tâm công tác và có kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, Sóc Trăng cũng cần chú trọng đến tuổi đời của đội ngũ làm văn hóa, nên

chọn những đồng chí có tuổi đời nhiều hơn hoặc bằng cán bộ địa phương, có trình độ kiến

thức tương xứng hoặc nhỉnh hơn với mặt bằng chung của cán bộ xã để thuận lợi trong quan

hệ công tác cũng như phát huy được vai trò của đội ngũ cán bộ này ở địa phương. Chủ động

phối hợp với địa phương và các ban, ngành tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ,

chuyên môn cho số cán bộ làm công tác văn hóa, nhất là những đồng chí giữ các cương vị

lãnh đạo nhằm nâng cao kiến thức toàn diện cho họ. Trong đó, chú trọng đến công tác văn

136

hóa, năng lực, trình độ tuyên truyền, vận động cũng như năng lực tập hợp, đoàn kết toàn

dân tham gia xây dựng đời sống văn hóa mới, thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế

hoạch xây dựng, tu bổ phát triển các di tích lịch sử văn hóa, các trò chơi dân gian truyền

thống, lễ hội…

Đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở địa phương; có kế hoạch sử

dụng học sinh, sinh viên dân tộc được đào tạo cơ bản để họ được về phục vụ địa phương và

dân tộc mình. Để phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà thì kế hoạch bảo tồn di

sản không thể tách rời các kế hoạch, chiến lược phát triển khác của tỉnh. Giữ gìn và phát

huy giá trị di sản văn ở địa phương cần thiết phải được gắn với chiến lược phát triển du lịch,

nâng cao đời sống kinh tế cho cộng đồng dân cư địa phương và bảo vệ môi trường. Có như

thế, di sản văn hóa mới là cơ sở để xây dựng văn hóa hiện đại mang bản sắc địa phương nói

riêng, bản sắc dân tộc nói chung.

Để làm tốt những giải pháp trên, vấn đề then chốt là phải đổi mới và nâng cao nhận

thức, xem cơ sở là địa bàn chiến lược của sự nghiệp cách mạng văn hóa, là nơi biến những

quan điểm của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, là môi trường sống, nơi sinh ra và đồng

thời là nơi lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi

toàn dân và các cấp, các ngành tích cực tham gia, hưởng ứng thì nhất định công tác giữ gìn,

phát huy giá trị văn hóa của tỉnh sẽ đạt được nhiều thành tựu mới, góp phần nâng cao đời

sống văn hóa đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa.

4.2.6. Giải pháp quản lý vĩ mô về văn hóa

4.2.6.1. Nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, phối hợp với các tổ chức xã

hội nghề nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội trong các hoạt động văn hóa

Các cấp chính quyền tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng và phát triển

vǎn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng

cường công tác phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong

tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn xã hội về vị trí, vai trò của xây dựng và phát triển văn

hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong huy động

các nguồn lực tham gia phát triển sự nghiệp văn hóa.

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các đường lối, chủ trương của Đảng và

chính sách, pháp luật Nhà nước về công tác giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc,

137

nhất là Nghị quyết TW5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nhằm nâng cao nhận thức, ý thức của mọi người dân

về giữ gìn, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa của tỉnh nhà. Nâng cao trách nhiệm của

chính quyền các cấp trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, đổi mới phương thức

lãnh đạo theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, báo chí phát triển đúng hướng chính trị,

tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở

phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự

lãnh đạo hoặc mất dân chủ.

Hàng năm, các cấp chính quyền tham mưu các cấp ủy Đảng cùng cấp gắn việc xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

đất nước trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương, việc thực

hiện các chỉ tiêu văn hóa được tính vào kết quả thi đua, xếp loại hàng năm các chi bộ,

đảng bộ cơ sở.

4.2.6.2. Cần có chính sách đặc thù về dân tộc và tôn giáo tại tỉnh Sóc Trăng

Cần coi trọng vấn đề dân tộc và tôn giáo trong công cuộc xây dựng và phát triển của

tỉnh Sóc Trăng.Thực tiễn cho thấy, trong quá trình lịch sử, đặc biệt là trong hai cuộc kháng

chiến chống xâm lược vừa qua ở Sóc Trăng cũng như ở Nam Bộ nói chung vấn đề dân tộc

và tôn giáo cần có một tầm quan trọng đặc biệt. Thực dân đế quốc, cùng những thế lực thù

địch tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo, phá hoại, chống đối cách mạng. Chúng

tìm cách chia rẽ các tôn giáo, làm suy yếu lực lượng quần chúng nhân dân yêu nước đứng

về phía cách mạng. Vì vậy, thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước

ta ở Sóc Trăng hiện nay, thực chất là đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo trong tỉnh, phát huy

truyền thống yêu nước của bà con dân tộc và các tín đồ tôn giáo trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Sóc Trăng. Đây cũng là nguồn nội lực lớn để xây dựng,

phát triển Sóc Trăng trong hiện tại cũng như trong tương lai.

Công cuộc vận động cách mạng bà con dân tộc và tín đồ tôn giáo ở Sóc Trăng trong

tình hình hiện nay có những nét riêng so với thời kỳ trước đây trong công cuộc kháng chiến

chống xâm lược. Đây là cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, nhằm xây dựng cuộc

sống ấm no và hạnh phúc, một xã hôi công bằng và văn minh. Tình trạng nghèo đói của các

dân tộc ở Sóc Trăng, nhiều năm qua đã được cải thiện, nhưng cho đến nay, vẫn còn có

138

nhiều hộ dân tộc nhất là người Khmer chưa thoát khỏi nghèo đói. Thực hiện chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước ta, trước hết là nâng cao đời sống của bà con dân tộc, bao gồm

đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Công tác xóa đói giảm nghèo ở Sóc Trăng vẫn hết

sức bức thiết. Để có thể nâng cao và cải thiện đời sống bà con dân tộc ở Sóc Trăng là cả một

vấn đề dân tộc không đơn giản. Cho đến nay, vùng dân tộc ở Sóc Trăng vẫn lấy sản xuất

nông nghiệp làm nguồn thu nhập chính. Vì vậy, phải đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, tận

dụng các thế mạnh của cây lúa và hoa màu. Mặt khác cần có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ở nông thôn, nông nghiệp sản xuất hàng hóa kết hợp với các hoạt động tiểu thủ công

nghiệp, thương nghiệp…

Hơn nữa, sự khó khăn trong công tác dân tộc và tôn giáo ở Sóc Trăng là việc xây

dựng một đội ngũ cán bộ trong đồng bào dân tộc. Đây là việc đòi hỏi nhiều thời gian và

công sức. So với một số dân tộc khác ít người ở nước ta, người Khmer, người Hoa đã có

một số trí thức là người dân tộc. Tuy nhiên còn quá ít, việc đầu tư cho giáo dục, văn hóa,

nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật trong vùng dân tộc Sóc Trăng còn quá khiêm tốn. Điều

đó ảnh hưởng không ít đến tốc độ phát triển của các dân tộc ở Sóc Trăng. Công cuộc công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Sóc Trăng, trong vùng dân tộc không thể tiến hành với trình độ

dân trí, với đội ngũ cán bộ như hiện nay. Tình trạng đó, cũng không thể nói đến việc phát

huy nguồn nội lực. Sự nghiệp cách mạng ở Sóc Trăng hôm nay, không chỉ đòi hỏi lòng

dũng cảm, sự hy sinh mà còn đòi hỏi cả tri thức nữa. Phát huy truyền thống yêu nước và

cách mạng của đồng bào trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nâng cao

dân trí, sự mở mang tri thức của người dân.

Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Sóc Trăng là hết sức cần

thiết. Ở đây phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong công tác dân tộc và tôn giáo, vận

dụng đường lối, chính sách dân tộc của Đảng cần hết sức cụ thể và phù hợp với thực tiễn,

với đặc điểm của tình hình Sóc Trăng. Công tác dân tộc và tôn giáo là việc không chỉ của

Ban Dân vận, Ban Dân tộc…mà là của nhiều ngành, đoàn thể, chính quyền và cấp ủy từ

tỉnh đến địa phương của Sóc Trăng và của bản thân các dân tộc, các tôn giáo trong tỉnh.

139

4.2.6.3. Tích cực sưu tầm, kiểm kê, nghiên cứu đánh giá các di sản văn hoá vật thể và

phi vật thể ở Sóc Trăng hiện nay

Tích cực làm tốt công tác sưu tầm, kiểm kê, nghiên cứu đánh giá các di sản văn hoá.

Trên cơ sở đó có kế hoạch quản lý tốt và khai thác sử dụng một cách có hiệu quả. Đối với di

sản văn hoá phi vật thể, cần làm tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ một cách khoa học và có hệ

thống thông qua việc tư liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa nhằm nhận diện và

xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại di sản văn hóa trong cộng đồng,

trên cơ sở đó đề xuất phương án giữ gìn, phát huy một cách hiệu quả. Đối với các di sản văn

hoá vật thể, cần làm tốt công tác trùng tu, tôn tạo để giữ gìn, bảo quản được lâu dài. Công

việc này đòi hỏi phải hết sức thận trọng và đảm bảo yêu cầu về mặt kỹ thuật. Nâng cao vai

trò quản lý, định hướng của Nhà nước, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân

tham gia bảo vệ di sản văn hóa, gắn hoạt động văn hóa dân tộc trong công tác xây dựng đời

sống văn hóa. Trong đó cần chú trọng đến nguyên tắc “bảo tồn sống”, tức là bảo tồn các

loại hình văn hóa phi vật thể ngay chính trong đời sống cộng đồng.

Có chính sách, chế độ thích đáng cho các nghệ nhân tài giỏi, những cá nhân và gia

đình có công sức giữ gìn tài sản văn hóa địa phương. Trên cơ sở đó, có kế hoạch quản lý tốt

và khai thác sử dụng một cách có hiệu quả. Đối với di sản văn hoá phi vật thể, cần làm tốt

công tác kiểm kê, lập hồ sơ một cách khoa học và có hệ thống, thông qua việc tư liệu hóa,

vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và

sức sống của từng loại di sản văn hóa trong cộng đồng, trên cơ sở đó đề xuất phương án giữ

gìn, phát huy một cách hiệu quả. Đối với các di sản văn hoá vật thể, cần làm tốt công tác

trùng tu, tôn tạo để giữ gìn, bảo quản được lâu dài. Công việc này đòi hỏi phải hết sức thận

trọng và đảm bảo yêu cầu về mặt kỹ thuật. Thực tế, di sản văn hóa phi vật thể là một trong

những linh hồn văn hóa của mỗi cộng đồng, qua những văn hóa phi vật thể đó thế hệ ngày

nay có thêm sự hiểu biết và sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, lối sống tốt

đẹp của ông cha ta. Di sản văn hóa phi vật thể hòa quyện vào không gian sinh thái - nhân

văn, nơi chúng được sáng tạo ra và đang hiện diện, tiến diễn trong đời sống của mỗi cộng

đồng cư dân, hàm chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời lại phải mang hơi thở

của thời đại.

140

4.2.6.4. Tiếp tục tổ chức các hoạt động lớn như ngày hội văn hóa dân tộc, liên hoan

ca múa nhạc dân gian… ở tỉnh Sóc Trăng

Cần có biện pháp giúp đồng bào các dân tộc giữ gìn các di sản văn hóa, giữ gìn và

phát huy nghề - làng nghề truyền thống, các loại hình văn học - nghệ thuật truyền thống, giữ

gìn sắc phục của dân tộc, khuyến khích mặc trang phục dân tộc mình vào dịp lễ, tết... Trên

thực tế, ngày hội là hoạt động văn hóa có ý nghĩa to lớn, thiết thực, cụ thể hóa các chủ

trương của Đảng, các chính sách của Nhà nước; thể hiện sự quan tâm, chăm lo của các cấp,

các ngành và chính quyền phương trong việc giữ gìn, tôn vinh và phát huy bản sắc văn hóa

truyền thống, chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội cũng là dịp để đồng bào nâng

cao ý thức trách nhiệm với văn hóa truyền thống, củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn

dân tộc.

Phục hồi các lễ hội dân gian đặc sắc mang tính tiêu biểu của các dân tộc như: Lễ hội

cúng Phước Biển; Tết Chôl-Chnăm-Thmây; Lễ hội Thác Côn; Lễ hội Nghinh Ông; Lễ

Ooc-om-boc…Có định hướng trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức các lễ hội truyền

thống, lễ hội dân gian; hạn chế, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Phục hồi và nâng

cao một số lễ hội tiêu biểu để có thể tổ chức định kỳ hàng năm. Huy động nguồn tài chính

từ ngân sách Nhà nước, từ xã hội hóa; khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá

nhân tham gia tài trợ, đầu tư trong việc triển khai các họat động có liên quan đến Đề án

“Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam”; tiếp tục đầu tư và phát huy các

giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc. Tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự hiểu

biết của xã hội về giữ gìn, phát huy văn hóa dân tộc. Xây dựng các chương trình hoạt động,

lễ hội, biểu diễn văn hóa, nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh, huyện theo định kỳ hàng năm và

cả giai đoạn 2012-2020.

Để phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội, thì kế hoạch giữ gìn di sản không thể tách

rời các kế hoạch, chiến lược phát triển khác của tỉnh. Chiến lược thúc đẩy phát triển đời

sống vật chất và tinh thần cho nhân dân các dân tộc ở tỉnh cần chú ý phải giữ được giá trị di

sản văn hóa vật chất và tinh thần truyền thống, giữ cho được cái quý, cái riêng của từng

Phum, Sóc, giữ cho được bầu không khí trong lành vốn có của mỗi Phum, Sóc. Để phát

triển đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng việc thúc đẩy

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là tất yếu.

141

Chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì

mới có thể thúc đẩy nhanh sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ở tỉnh

Sóc Trăng. Phải làm cho đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng khá hơn. Chiến lược phát triển phải nhìn xu thế phát triển lâu dài của một đất nước,

của một dân tộc.

4.2.6.5. Có phương pháp, cách thức phù hợp nhằm giữ gìn và phát huy tính đa dạng,

phong phú của bản sắc văn hóa dân tộc ở Sóc Trăng

Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hướng tới một nền văn hóa dân tộc đa dạng, phong

phú về sắc thái chứ không phải là một nền văn hóa nghèo nàn, giống nhau, cùng khuôn

mẫu. Do đó, muốn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tỉnh Sóc Trăng cần phải có

phương pháp, cách thức phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức, chạy theo

phong trào làm phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên thực tế,

theo số liệu báo cáo từ các tỉnh, thành phố hàng năm có rất nhiều lễ hội thể thao văn hóa,

văn nghệ được tổ chức, số lượng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, thôn văn hóa, làng

văn hóa đạt tỷ lệ rất cao. Thông qua số liệu báo cáo, cũng như các danh hiệu văn hóa đã có

không ít câu hỏi hoài nghi về chất lượng khi mà những hành vi phản cảm, những tệ nạn xã

hội vẫn không có xu hướng giảm trong thời gian qua. Trên thực tế, số lượng không đi đôi

chất lượng, các lễ hội thể thao văn hóa, văn nghệ được tổ chức mang nặng tính hình thức,

phản cảm, yếu tố kinh tế làm lu mờ các giá trị văn hóa như tình trạng mê tín dị đoan trong

các lễ hội, nạn trộm cắp, cờ bạc, “chặt chém” du khách, “ buôn thần bán thánh”; các biểu

hiện thương mại hóa lễ hội, lợi dụng lễ hội để trục lợi … vẫn đang diễn ra.

Cần kiểm tra sâu sát, đánh giá chặt chẽ, siết chặt thanh tra, kiểm tra, các cơ quan

quản lý cần có văn bản pháp quy. Chính quyền địa phương cũng phối hợp, giám sát sao

cho các hoạt động văn hóa diễn ra đúng ý nghĩa của nó. Các lễ hội cần được diễn ra

trong không khí linh thiêng, trang trọng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của

nhân dân. Trên cơ sở đó sẽ phát huy được tính sáng tạo trong giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc và phát triển kinh tế, ngăn chặn sự bảo thủ, trì trệ hay phiêu lưu mạo hiểm trong

phát triển của các dân tộc.

Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay là điều cần

thiết, nhằm duy trì các giá trị truyền thống trong sự phát triển liên tục của xã hội hiện đại.

142

Tuy nhiên, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tại Sóc Trăng cũng đòi hỏi

chính quyền địa phương phải có cái nhìn đúng đắn, đưa ra cách thức giữ gìn phát huy bản

sắc văn hóa phù hợp với thực tiễn địa phương. Cụ thể, chính quyền tỉnh Sóc Trăng phải chú

trọng đến bản sắc văn hóa các dân tộc tại địa phương mình như: tinh thần yêu quê hương,

đất nước của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng, ý thức cố kết cộng đồng Kinh - Khmer -

Hoa trong văn hóa Sóc Trăng, lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong văn hóa

Sóc Trăng, tinh thần giản dị, bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử trong lối sống của cộng đồng

các dân tộc Sóc Trăng, xây dựng phum, sóc …Từ đó, phân định được những yếu tố nào cần

giữ gìn, phát huy, những yếu tố nào cần loại bỏ và cũng cần có thước đo để có tiêu chuẩn,

kiểm chứng và phân loại, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.

Một là, tinh thần yêu quê hương, đất nước của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng,

trong giai đoạn hiện nay, đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng cần tập trung tinh thần và sức

mạnh để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quê hương, bảo vệ sự bình yên của xóm làng, tỉnh táo

vạch trần mọi âm mưu chống phá của kẻ thù. Tăng cường khối đại đoàn kết thông qua

Hội quán, Hội tương tế… của người Hoa, Làng của người Việt hay phum, sóc của người

Khmer; giảng dạy, tuyên truyền để các thế hệ con cháu biết ơn và tự hào, nối tiếp truyền

thống cách mạng của ông cha; biết vươn lên làm giàu và giúp người khác làm giàu trong

sản xuất kinh doanh, giúp nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn, thể hiện tấm lòng hướng

thiện, lòng từ bi, bác ái của nhà phật; tinh thần yêu quê hương, đất nước là phải biết bảo

vệ lẽ phải, bênh vực lẽ phải lên án và tránh xa cái ác, cái xấu, chống lại những hành vi

phản văn hóa, phản lại bản sắc văn hóa của dân tộc, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn

xã hội khác ; người dân Sóc Trăng vốn có tinh thần nghĩa hiệp của những con người

“nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” do vậy, trước những biến đổi sâu sắc đang tác động

tiêu cực đến đời sống văn hóa, nhất là bản sắc văn hóa của dân tộc mình thì tinh thần đó

càng phải được phát huy hơn bao giờ hết.

Hơn nữa, trong bảng giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, yêu nước là giá trị

được xem trọng hàng đầu, muốn tập hợp được tinh thần yêu nước từ đông đảo quần chúng

nhân dân chính quyền tỉnh Sóc Trăng cần xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích, kết

hợp được sức mạnh của cả cộng đồng ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer vì mục tiêu chung, xây

dựng quê hương Sóc Trăng ngày càng giàu mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Sao cho

143

tinh thần yêu nước phải là chuẩn mực, thành thước đo và nguyên tắc sống của mỗi con

người chứ không dừng lại ở phong trào, hô hào, khẩu hiệu thiếu chiều sâu hoặc bùng phát,

cảm tính.

Hai là, ý thức cố kết cộng đồng Kinh - Khmer - Hoa, sự gắn bó keo sơn của nhân dân

Sóc Trăng được thể hiện khi quê hương phải trải qua bao khó khăn như chinh phục thiên

nhiên khắc nghiệt, ba dân tộc Kinh, Hoa và Khmer cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, khai

khẩn đất hoang, dựng làng, dựng ấp. Ở Sóc Trăng Phum, Sóc gắn liền với các ngôi

chùa, ngôi chùa không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, mà còn được xem là “trung

tâm văn hóa - xã hội” là “ngôi nhà chung” của đồng bào dân tộc Khmer. Làng của người

Kinh gắn liền với các ngôi đình, người Hoa gắn liền với Bang, Hội… ngày nay, chính

quyền địa phương cần phát huy hơn nữa sự gấn kết của các cộng đồng trên, bằng cách

tạo ra các chính sách, nguồn tài chính hay các hình thức hỗ trợ khác nhằm giúp đồng

bào an cư lạc nghiệp. Chính quyền địa phương cũng cần có những hình thức tổ chức các

lễ hội văn hóa, tâm linh sao cho phù hợp vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đáp

ứng nhu cầu của hội nhập văn hóa, vừa mang lại những lợi ích kinh tế cho địa

phương…Các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”; “xây cầu nông thôn”…cần phát triển mạnh,

nhân rộng, đúng người, đúng đối tượng để có sức lan tỏa.

Ba là, lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp của nhân dân Sóc Trăng nói riêng bắt nguồn

từ đạo nhân trong Nho giáo và từ bi trong Phật giáo tôn giáo ảnh hưởng rất nhiều đến đời

sống tâm linh người dân Sóc Trăng. Do vậy, chính quyền Sóc Trăng một mặt cần phát huy

những thế mạnh trong tôn giáo, đó là sự gắn bó, keo sơn của phật tử với ngôi chùa và sự tôn

trọng đối với nhà sư. Mặt khác, cần có những chính sách chống lại những hành vi lợi dụng

tôn giáo nhằm tuyên truyền, chống phá đảng, nhà nước đặc biệt những nơi có đồng đồng

bào dân tộc Khmer sinh sống. Đối với người Việt ở Sóc Trăng thì nghĩa tình, đạo lý được

thể hiện qua các dịp lễ tết, đó là lúc con cháu tưởng nhớ công ơn người đi khai hoang, mở

cõi. Việc thờ cúng tưởng nhớ tổ tiên là việc làm đáng được trân trọng, giữ gìn.Tuy nhiên,

chính quyền địa phương cần lưu ý bởi các hiện tượng biến tướng “chạy quyền”, “chạy

chức” có thể được diễn ra thông qua dịp lễ tết.

Bốn là, trong lối sống của cộng đồng các dân tộc Sóc Trăng, họ có tinh thần giản dị,

bộc trực, thẳng thắn trong ứng xử, dễ dàng kết giao, sẵn sàng kết nghĩa anh em, coi trọng

144

nghĩa khí. Không quá cầu kỳ trong các tiệc vui, không cần “mâm cao cỗ đầy” vẫn có thể

ngồi cạnh nhau hát vài câu vọng cổ, cởi mở nỗi lòng. Đây là một điểm đáng quý, đảng bộ

tỉnh Sóc Trăng cần tuyên truyền những giá trị đó, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Năm là, phát huy tính tích cực, chủ động của các chủ thể trong giữ gìn bản sắc văn

hóa. Tính tích cực, chủ động của cộng đồng các dân tộc anh em Kinh, Hoa, Khmer trong

việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình đó là một quá trình mang tính tự giác, chủ

động, của cộng đồng các dân tộc anh em nơi đây, nhằm đáp ứng nhu cầu của dân tộc, của

thời đại. Bởi lẽ, không ai hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa của đồng bào bằng chính

những con người của cộng đồng đó. Chính quyền địa phương cần khơi dậy trong đồng bào

sự hiểu biết, ý nghĩa, giá trị của các giá trị văn hóa của từng dân tộc. Đối với các dân tộc

Kinh, Hoa, Kher cần nhận thức được rằng không ai khác, chính họ là những chủ nhân của

văn hóa đó.

Ngoài việc tích cực, chủ động trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình,

cộng đồng dân tộc Kinh, Hoa, Kher cần chủ động tự giác trong việc quảng bá hình ảnh, mỗi

cá nhân là một đại sứ trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mình như giữ gìn ngôn ngữ

mẹ đẻ, phong tục tập quán, lễ tết, sử dụng trang phục, cách thể hiện tín ngưỡng, tôn

giáo…cộng đồng dân tộc Kinh, Hoa, Khmer cần coi mình vừa là chủ thể vừa là đối tượng

của quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa. Làm tốt quá trình này một mặt giúp bà con bảo vệ

được bản sắc văn hóa dân tộc mình, thể hiện tình cảm, tình yêu với cội nguồn văn hóa. Mặt

khác cũng giúp cộng đồng, nhất là lớp trẻ chiến thắng những cám dỗ, những tác động tiêu

cực khách quan xung quanh của những yếu tố phản văn hóa, ảnh hưởng không tốt tới quá

trình giữ gìn bản sắc văn hóa.

Trên đây là những giải pháp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tở tỉnh

Sóc Trăng mà chúng tôi đưa ra, để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc

Trăng, muốn thực hiện tốt vấn đề trên, thì Đảng Bộ và Nhân dân tỉnh Sóc Trăng phải thực

hiện với sự quyết tâm cao nhất.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý những thành tựu và hạn chế về giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong những năm qua. Chúng tôi đã chỉ

ra những nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó, đồng thời xem đây là cơ sở để

145

tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc ở Sóc Trăng hiện nay. Những giải pháp cần thực hiện đó là:

Cần có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long

nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng; triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế -

xã hội xóa đói giảm nghèo; tăng cường đầu tư kinh phí để thực hiện các đề án văn hóa trọng

điểm; nâng cao nhận thức của nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng; xây dựng đội ngũ cán

bộ làm công tác văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ

được giao; tăng cường các nguồn lực cho công tác giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa các dân

tộc ở tỉnh Sóc Trăng; làm tốt công tác quản lý, định hướng của Nhà nước.

Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng phải chú trọng

những giá trị văn hóa có tính đặc thù của địa phương; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng là nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành trong đó cũng cần sự

nỗ lực của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Ngoài các giải pháp cơ bản nêu trên, các

cấp, các ngành cần dựa vào tính đặc thù của địa phương để đưa ra các giải pháp cho phù

hợp. Ngoài ra, việc nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng cần

phải thực hiện đồng bộ, thường xuyên.

Xuất phát từ điều kiện thực tế của địa phương luận án đề xuất những giải pháp chủ

yếu nhằm phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay. Những giải pháp có

mối quan hệ biện chứng với nhau, để những nghiên cứu của tác giả đạt hiệu quả thiết thực

cần áp dụng song song các giải pháp, để nghiên cứu có thể mang lại những giá trị hữu ích

cho địa phương, cho các nhà nghiên cứu, cho công tác giảng dạy.

146

KẾT LUẬN

1. Có thể nói văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau,

từ xưa đến nay đã được nhiều học giả nghiên cứu. Tuy khái niệm văn hóa được hiểu theo

rất nhiều định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung, khi nghiên cứu văn hóa dựa trên khía

cạnh tính cách con người, văn hóa được tập trung vào hai nội dung chính đó là: thứ nhất,

văn hóa ngoài việc chứa đựng văn học và nghệ thuật còn chứa đựng cả cách sống, phương

thức chung sống; thứ hai, văn hóa được xem như một quá trình, là phương thức ứng xử của

con người với môi trường tự nhiên và xã hội;

2. Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc,

biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp cho dân tộc đó giữ vững tính

duy nhất, thống nhất và nhất quán của bản thân mình trong quá trình phát triển; nói đến bản

sắc văn hóa là nói đến cái mặt bất biến của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, bản sắc văn hóa dân tộc cũng cần được nhìn nhận đánh

giá trên quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể;

3. Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác văn hóa. Chiến

lược Phát triển văn hóa đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2009 xác

định:“Văn hoá các dân tộc thiểu số là tài sản quý giá góp phần làm nên sự phong phú, đa

dạng mà thống nhất của văn hoá Việt Nam. Giữ gìn bản sắc và sự đa dạng của văn hoá các

dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chính trị xã hội to lớn của kỷ nguyên toàn cầu hoá…” là một

trong những nhiệm vụ trọng tâm. Do đó, vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là

vấn đề sống còn của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc là tài sản vô giá là linh hồn của

dân tộc nó là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Vấn đề giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết, đặc biệt là trong

điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập

quốc tế;

4. Sóc Trăng là nơi sinh sống của ba dân tộc anh em Kinh - Khmer - Hoa. Trong quá

trình sinh sống cộng cư lâu năm đã có sự giao thoa về văn hóa giữa các dân tộc và tạo nên

bản sắc văn hóa vô cùng độc đáo của người dân Sóc Trăng. Nơi đây hội tụ nhiều lễ hội, với

các phong tục, tập quán đặc trưng mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt.

Có thể khẳng định các giá trị văn hóa ở tỉnh Sóc Trăng được hình thành và in đậm trên cơ

147

sở các yếu tố của tồn tại xã hội, điều kiện tự nhiên, địa lý, dân cư…Các giá trị tinh thần này

có sự tác động biện chứng trong tiềm thức của mỗi người dân nơi đây được hình thành từ

tồn tại xã chứng tới các hình thái ý thức xã hội khác. Từ tồn tại xã hội đã hình thành nên

những đặc trưng văn hóa cơ bản của tỉnh Sóc Trăng với những bảng giá trị riêng đáng trân

trọng như: tinh thần yêu nước.

Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc lãnh thổ Việt

Nam. Song, đối với người dân Sóc Trăng, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự

nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử hào hùng của dân

tộc. “Từ thuở mang gươm đi mở cõi - nghìn năm thương nhớ đất thăng long”. Cùng với cả

nước vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu

đẹp, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh;

giữ gìn và phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - làng xã -Tổ

quốc; nét đặc thù trong ngôn ngữ - chữ viết, điêu khắc, văn học, nghệ thuật; sự đa dạng các

lễ hội văn hóa…

Ngoài ra, Sóc Trăng là một trong những tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu

Long - có khá nhiều tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo…. Có

thể nói, Phật giáo Nam tông Khmer chiếm tỷ lệ khá cao so với các tôn giáo khác trong tỉnh

về cơ sở thờ tự cũng như tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Vì vậy, khi nói đến đồng bào dân tộc

Khmer ở Sóc Trăng không thể không nói đến cộng đồng Phật giáo Nam tông Khmer. Đặc

trưng này được thể hiện trong sự ảnh hưởng của vị thế của các vị sư sãi và các ngôi chùa

trong vị trí tâm linh của nhân dân nói chung và đồng bào Khmer nói riêng. Được xem là

một trong những tỉnh thành có số lượng Tăng Ni đông nhất miền Tây Nam Bộ.

Như vậy, trên cơ sở tính cộng cư có được từ việc tổ chức cuộc sống của các thành viên

trong phum sóc, ngôi chùa cùng với những hoạt động của các vị sư và tín đồ đã tạo ra tính

cộng mệnh và cộng cảm. Tất cả các yếu tố đó đã tạo nên tính cố kết cộng đồng bền chặt của

phum sóc dân tộc Khmer. Nó thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa ba yếu tố: cá nhân-gia đình

và phum sóc - ngôi chùa. Đây có thể nói là cơ sở cho việc xây dựng khối đoàn kết trong

cộng đồng dân tộc mà ngày nay cũng được xem là một nguồn lực quan trọng trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những giá trị đó được kết tinh từ lịch sử, từ truyền

thống văn hóa, từ điều kiện tự nhiên và các điều kiện xã hội khác. Những giá trị đó không

148

nằm ngoài giá trị chung của văn hóa dân tộc Việt Nam nhưng khi thể hiện ở Sóc Trăng thì

những giá trị đó được nhân lên và có những dấu ấn đậm nét của cộng đồng các dân tộc

Kinh, Hoa, Khmer ở Sóc Trăng.

5. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Sóc Trăng hiện nay phải dựa trên nền tảng những giá trị đặc thù và bản sắc của địa phương.

Trên thực tế việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sóc Trăng hiện nay đã đạt

được những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên, vấn đề trên vẫn còn nhiều bất cập, một số

mục tiêu chưa đạt được, một số mục tiêu đạt được nhưng chưa bền vững.

6. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sóc Trăng hiện nay phải quán

triệt được những quan điểm khoa học. Trên cơ sở đó cần thực hiện tốt các giải pháp như:

nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội, các

tổ chức xã hội nghề nghiệp trong tổ chức hoạt động văn hóa; cần có chính sách đặc thù tới

vấn đề dân tộc và tôn giáo tại tỉnh Sóc Trăng; tiếp tục tổ chức các hoạt động lớn như ngày

hội văn hóa các dân tộc, liên hoan ca múa nhạc dân gian, triển lãm văn hóa các dân tộc;

nâng cao nhận thức của nhân dân các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng.

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Lê Thị Tâm (2017), “Một số vấn đề về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”, Tạp chí Giáo dục (Số đặc biệt tháng 7/2017), tr. 277-279.

2. Lê Thị Tâm (2017), “Tổ chức và quản lí các hoạt động văn hóa cơ sở ở Sóc Trăng

hiện nay -thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Giáo dục (Số đặc biệt Kì 2 tháng 10/2017), tr.

274-276.

3. Lê Thị Tâm (2018), “Một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc Khmer ở Sóc Trăng”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội (Số đặc biệt tháng

2/2018), tr.148-150.

4. Lê Thị Tâm (2018), “Một số nhân tố cơ bản quy định văn hóa và sự ảnh hưởng đến

giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng”, Tạp chí Giáo dục và Xã

hội (Số đặc biệt Kì 2 tháng 2/2018), tr.151-155.

5. Lê Thị Tâm (2018), “Sóc Trăng đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn

hóa phi vật thể vì sự phát triển bền vững”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội (Số đặc biệt, tháng

11 năm 2018), tr.265-269.

6. Hội thảo quốc gia CBPR (2019), “Phát huy sự đoàn kết cộng đồng trong liên kết

đạo tạo giữa các trường dạy nghề và doanh nghiệp tại Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện

nay”, tr.66 - 72.

7. Lê Thị Tâm (2019), “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ở Sóc

Trăng hiện nay”. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (Số 7- 2019), tr.107-112.

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

[1]. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu Kết luận Hội nghị

lần thứ X, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.14.

[2]. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương. Tổng điều tra dân số và nhà

ở Việt Nam năm (2009): Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225.

[3]. Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt (đồng Chủ biên), (2014), Giá trị truyền thống dân

tộc với việc xây dựng nhân cách sinh viên hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật Hà Nội.

[4]. Trần Lê Bảo (2015), Văn hóa Việt Nam một số vấn đề văn hóa Việt Nam và văn hóa

Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, tr.11.

[5]. Võ Thanh Bằng (Chủ biên), (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí

Minh, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[6]. Trần Văn Bính (2002), “Thời cơ và thách thức đối với văn hóa dân tộc trong xu thế

toàn cầu hóa”, Tạp chí Cộng sản, tr.648.

[7]. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.77- 78.

[8]. Trần Văn Bính (2011), Xây dựng đời sống văn hóa, đạo đức, lối sống của người

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[9]. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Hội thảo khoa học lịch sử hình thành và phát triển tỉnh

Sóc Trăng trước năm 1945, Nxb Giáo dục, tr.69.

[10]. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng

bằng sông Cửu Long, Nxb giáo dục, tr.225.

[11]. Cơ quan đặc trách Công tác dân tộc ở Nam Bộ (2000), Vai trò của chùa trong đời

sống người Khmer Nam Bộ, chuyên đề nghiên cứu khoa học, tr.21.

[12]. Nguyễn Mạnh Cường (2002), Vài nét về người Khmer Nam Bộ, Nxb Khoa học xã

hội, tr.112.

[13]. Thái Văn Chải (1997), Tiếng Khmer, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.165.

[14]. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng Chủ biên), (2002), Giá trị truyền

thống trước những thách thức của toàn cầu hóa. Nxb Chính trị Quốc gia.

151

[15]. Chu Xuân Diên (Chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, Nxb Tp. Hồ Chí

Minh, tr.24.

[16]. Chu Xuân Diên (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, in lần đầu năm 1999, tái bản lần

thứ hai năm 2008, TP.Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[17]. Trần Phỏng Diều (2015), Tín ngưỡng dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

[18]. Mai Thị Dung (2014), Giáo dục văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc

hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, trường

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

[19]. Nguyễn Tiến Dũng (2015), Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người

Khmer trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Luận án tiết sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội, tr.74;84.

[20]. Đoàn Trung Dũng, Võ Văn Chỉ (2014), “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa

Khmer Tây Nam Bộ trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”. Tạp chí dân tộc, tr.167.

[21]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng, t.3, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.363.

[22]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1980), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm BCHTW khoá

VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.56.

[23]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.76.

[24]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.54-55.

[25]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.64.

[26]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.114.

[27]. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113.

[28]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.106.

152

[29]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, tập 50, tr.225.

[30]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.122-123.

[31]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội

nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.232;360.

[32]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành

Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.46-47.

[33]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII

(2016), Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, tr.14;114;125;126;127;299;303.

[34]. Nguyễn Đệ (2014), Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ, in trong Hội Dân tộc

học TP. Hồ Chí Minh (2014), Nhân học & Cuộc sống (Tuyển tập chuyên khảo số 01), Nxb Đại

học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.68-87.

[35]. Nguyễn Khoa Điềm (2003), “Đề cương văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản,

tr.690.

[36]. Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người ở Việt Nam, Nxb Thời đại.

[37]. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (tập 1), (Bản dịch của Viện Sử học). Nxb

Khoa học xã hội. Hà Nội, tr.32.

[38]. Phạm Văn Đồng (1993), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

tr.10.

[39]. Phạm Duy Đức (2004), “Thực trạng đời sống văn hóa ở Việt Nam qua gần 30 năm

đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, tr.862.

[40]. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai,

tr.180.

[41]. Phạm Duy Đức (Chủ biên), (2006), Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện văn hóa, Hà Hội, tr.167.

[42]. Phạm Duy Đức (2009), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

153

[43]. Phạm Duy Đức (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 -Những

vấn đề phương pháp luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[44]. Phạm Duy Đức (Chủ biên), (2010), Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn

hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986 -2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[45]. Mạc Đường (Chủ biên), (1991), Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb

Khoa học xã hội, tr.41.

[46]. Trần Văn Giàu (2000), Sự hình thành về cơ bản hệ thống tư tưởng yêu nước Việt

Nam, trong Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.42.

[47]. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.77;123.

[48]. Phạm Thanh Hà (2009), Vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu

hóa, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Triết học.

[49]. Phạm Phương Hạnh (Chủ biên), (2013), Văn hóa Khmer Nam Bộ nét đẹp trong

bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật Hà Nội, tr.99;104;123.

[50]. Phùng Thu Hiền (2015), Giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát

triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh.

[51]. Lê Văn Hiến (1995), Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb Đà Nẵng, tr.6.

[52]. Lý Tùng Hiếu (2013), Tổng quan về tôn giáo của cư dân Nam Bộ, Kỷ yếu Hội thảo

khoa học, Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn sự chuyển đổi tôn giáo của các dân tộc thiểu số

ở vùng Nam Bộ, tr.11-32.

[53]. Lưu Kim Hoa, Phan An, Hà Tăng, Trần Đại Tân (2016), Văn hóa Người Hoa Nam

Bộ, Nxb Văn hóa -Văn nghệ, tr.15.

[54]. Nguyễn Huy Hoàng (2000), Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử của C.Mác,

Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

[55]. Sơn Ngọc Hoàng (Chủ biên), (2012), Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Rô Băm của

dân tộc Khmer Nam bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Đề tài cấp tỉnh, tr.53.

[56]. Vũ Ngọc Hoàng (2014), “Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới”. Tạp chí Cộng sản, tr.855.

154

[57]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa (1993),

Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[58]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các môn khoa học

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

[59]. Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số TP. Hồ Chí Minh (2016), Văn hóa

người Hoa Nam Bộ, Nxb Văn hóa - Văn nghệ.

[60]. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb

Thế giới, Hà Nội, tr.27.

[61]. Trần Việt Hùng (Chủ biên), (2010), Trịnh Công Lý, Hồ Văn Sáu, Nguyễn Văn Ba,

Lịch sử địa phương Sóc Trăng, Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.7.

[62]. Đỗ Huy (1990), Bản sắc dân tộc của văn hóa, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

[63]. Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong

của sự phát triển đất nước, dân tộc”. Tạp chí Triết học, (số 4).

[64]. Nguyễn Văn Huyên (2003), “Lối sống người Việt Nam dưới tác động của toàn cầu

hoá”. Tạp chí Triết học, số 12, tr.33- 34.

[65]. Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, Nxb Khai trí, Sài Gòn, tr.39.

[66]. Trần Đình Hượu (1996), Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc. Trong Đến hiện đại từ

truyền thống. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.235-236.

[67]. Võ Sĩ Khải (1987), Đất Gia Định thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, in trong Trần Văn

Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, tập 1, tr.82. Và Vũ Minh

Giang (Chủ biên), (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ, tr.23.

[68]. Vũ Khiêu (1987), Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng văn hóa, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, tr.8.

[69]. Vũ Khiêu (2000), Văn hóa Việt Nam; xã hội và con người, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, tr.36-37.

[70]. Đặng Hoàng Lan (2014), “Quá trình chuyển hóa thờ cúng Ông Bổn của người

Hoa ở Nam Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 12), tr.90-97.

155

[71]. Nguyễn Hiến Lê (1989), Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (Du ký và biên khảo),

Nxb Long An, tr.114-115.

[72]. Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam

Á, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.221.

[73]. Ngô Văn Lệ (Chủ Biên), Đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của

các cộng đồng cư dân Nam Bộ. Đề án KHXH cấp Nhà nước. Đề tài 7.

[74]. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, tr.226.

[75]. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 45, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.429.

[76]. Trần Thị Hồng Liên (2002), “Vấn đề dân tộc & Tôn giáo ở Sóc Trăng”, Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo (số 2), tr.124.

[77]. Trần Hồng Liên (2015), “Thiết chế văn hóa tâm linh qua tục Thờ Thiên Hậu của

người Hoa ở Tây Nam Bộ: truyền thống và biến đổi”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số

2), tr.102-117.

[78]. Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật các dân

tộc thiểu số Việt Nam Hội thảo (2015), Thực trạng, giải pháp giữ gìn, phát huy văn hóa cổ

truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội thảo khoa học.

[79]. Huỳnh Lứa (Chủ biên), (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb TP. Hồ

Chí Minh, tr. 49 ; 52-53.

[80]. Sơn Lương (2000), Hội thảo khoa học lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Sóc

Trăng trước năm 1945, tr.84.

[81]. Sơn Lương (2005), “Vài suy nghĩ trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

truyền thống Khmer tỉnh Sóc Trăng”, Tạp chí Văn hóa Sóc Trăng, (số 12), tr.8-11.

[82]. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.257.

[83]. C.Mác và Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

tr.625.

[84]. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1999), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.

42 ;136 - 137.

[85]. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

tr.164.

156

[86]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.173.

[87]. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.509.

[88]. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.173.

[89]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.171.

[90]. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.431.

[91]. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.74.

[92]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.190.

[93]. Trần Thị Minh (2014), Phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã

hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, Hà Nội, tr.22.

[94]. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr.59.

[95]. Sơn Nam (1993), Sơn Nam Đồng bằng Sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa. Nxb TP.

Hồ Chí Minh, tr.23;27; 75.

[96]. Sơn Nam (2004), Đồng Bằng Sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt

vườn, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, tr.19.

[97]. Sơn Nam (2005), Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,

tr.133.

[98]. Sơn Nam (2005), Nói về miền Nam - Cá tính miền Nam - Thuần phong mỹ tục Việt

Nam, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh, tr.70.

[99]. Sơn Nam (2018), Giới thiệu Sài Gòn xưa, tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long,

Nxb Trẻ, tr.188; 243.

[100]. Sơn Nam (2018), Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Nxb Trẻ, tr.24;26;

246; 255; 268;358.

[101]. Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa -

một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.85-87.

[102]. Đoàn Thanh Nô (2002), Người Khmer ở Kiên Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, tr.21.

[103]. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, tr.20.

[104]. Phan Ngọc (2015), Bản sắc văn hóa Việt Nam, sđd, tr.34, tr.136, tr.503.

[105]. Nguyễn Tri Nguyên (2014), “Bản chất và đặc trưng tín ngưỡng dân gian”, Tạp

chí Di sản Văn hóa (số 7), tr.27-32.

157

[106]. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XII, kỳ họp thứ 5,

ngày 29 tháng 6 năm 2001 (2008), Luật di sản văn hóa, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.6;7.

[107]. Hồ Sĩ Quý (1999), Về văn hóa và văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, tr.32.

[108]. Hồ Sĩ Quý (2005), “Động thái của một số giá trị truyền thống trong toàn cầu

hóa” . Tạp chí Xã hội học, (số 2).

[109]. Hồ Sĩ Quý (2007), “Về môi trường văn hóa và môi trường văn hóa ở Việt Nam”.

Tạp chí Triết học, (số 3).

[110]. Hồ Sĩ Quý (2010), “Văn hóa và văn minh, giá trị con người - Những khái niệm

công cụ chủ yếu trong nghiên cứu khoa học xã hội”. Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (số 9).

[111]. Võ Văn Sen, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Văn Lên (đồng Chủ biên) (2014), Tín

ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ: Bản sắc và giá trị. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Đại học Quốc

gia TP. Hồ Chí Minh.

[112]. Nguyễn Văn Sĩ (2016), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Khmer Nam Bộ”.

Tạp chí Lý luận chính trị, (số 2).

[113]. Sở Giáo dục - Đào tạo Sóc Trăng (2009), Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Sóc Trăng,

tr.144.

[114]. Phan Xuân Sơn (2016), “Vấn đề hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Tạp chí

Lý luận chính trị, (số 3).

[115]. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, tr.153.

[116]. Đặng Hữu Toàn (Chủ biên), (2014), Các nền văn minh thế giới, Nxb Khoa học

Xã hội.

[117]. Phan Thị Yến Tuyết - Cao Tự Thanh (2013), 100 câu hỏi đáp về người Hoa ở

Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ.

[118]. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,

tr.19.

[119]. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh, tr.27.

[120]. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục, tr.10.

158

[121]. Trần Ngọc Thêm (2005), Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn

hiện tại, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr.221;327.

[122]. Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.29.

[123]. Ngô Đức Thịnh (2016), Tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã

hội.

[124]. Hoàng Thịnh (1998), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, tr.56.

[125]. Phan Thuận (2017), “Sóc Trăng thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục trong

cộng đồng Phật giáo Nam tông Khmer”. Tạp chí Cộng sản, (số 2).

[126]. Trần Thuận (2014), Nam Bộ vài nét lịch sử văn hóa, Nxb Văn hóa - Văn nghệ,

tr.27-28; 32;121.

[127]. Bùi Thanh Thủy (2015), Giáo dục văn hóa tinh thần truyền thống cho sinh viên

hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

[128]. Trần Minh Thương (2016), Văn hóa dân gian phi vật thể của người Khmer Sóc

Trăng, Nxb Mỹ Thuật, tr.299.

[129]. Trần Minh Thương, Bùi Túy Phượng (2016), Nghi lễ trong gia đình ở Sóc Trăng,

Nxb Mỹ thuật, tr.47;387.

[130]. Nguyễn Thị Thường (2002), “Toàn cầu hóa từ góc nhìn văn hóa”, Tạp chí Cộng

sản, tr.872.

[131]. Tiền Văn Triệu (2011), Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng, Nxb Phương Đông,

Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng, tr.34.

[132]. Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer

Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, tr.21;46.

[133]. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, tr.18 -19.

[134]. Viện Sử học phiên dịch (1962), Đại Nam Thực lục Tiền biên, soạn năm 1844,

Nxb Sử học, Hà Nội, tr.136 -140.

159

[135]. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại

TP.HCM (2012), Đặc khảo văn hóa người Hoa ở Nam Bộ, sđd. tr.74-80.

[136]. Viện Văn hóa (1993), Văn hóa người Khmer vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long,

Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội, tr.89.

[137]. Hồ Sỹ Vịnh (2005), Về bản lĩnh văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, tr.289.

[138]. Thạch Voi (1988), Khái quát về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, in

trong Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Tổng hợp Hậu Giang, tr.22.

[139]. Trần Quốc Vượng (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục, tr.15.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

[140]. Amy B. M. Tsui và James W.Tollefson (2007), Chính sách ngôn ngữ, văn hóa và

bản sắc trong bối cảnh châu Á, Nxb Routledge, Hoa Kỳ.

[141]. A.L.Kroeber và Kluckhohn (1952), Culture, acritical review of concept and

defiitions, Vintage Books, A Division of Random House, New Yosk, tr. 357.

[142]. E.B.Tylor, “Văn hóa nguyên thủy”, (Huyền Giang dịch từ tiếng Nga), Tạp chí

Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr.13.

[143]. F.Boa, Primitive Minds (1921), Trí óc của người nguyên thủy, Ngô Phương Lan

dịch, tr.23.

[144]. Gerald.C.Hukey (1960), Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam, xã hội

học, tr.85.

[145]. J. A.Loughney (2001), Văn hoá học và văn hoá thế kỷ XX, t.1. Viện Thông tin

Khoa học xã hội, tr.127.

[146]. Stuart Hall, Pao-Đu-Gay (1996), Các câu hỏi về bản sắc văn hóa, Nxb SAGE,

Anh.

[147]. [UNESCO. Mexico City Declaration on Cultural Policies. World Conference on

Cultural Policies. Mexico City, 26 July-6 August 1982. Http://culturalrights.net/descargas

/drets_culturals401.pdf].

160

PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH PHẢN ÁN

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC

TRĂNG HIỆN NAY

Ảnh 1: Hội diễn Trang phục truyền thống dân tộc Khmer 2016 (Nguồn

http://thst.vn/t/soc-trang-hoi-dien-trang-phuc-va-nhac-cu-truyen-thong).

Ảnh 2: Cổng chùa Dơi, Khóm 9, P.3, TP. Sóc Trăng

161

Ảnh 3: Lễ hội đua Ghe Ngo của người Khmer

Ảnh 4: Cổng chùa Hương Sơn, P.5. TP. Sóc Trăng

162

Ảnh 5: Lễ Cưới người Hoa (Nguồn http://quehuongonline.vn/)

Ảnh 6: Chùa Chén Kiểu, xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng

163

Ảnh 7: Chùa Phật học, P.2, TP.Sóc Trăng

164

Ảnh 8: Hình ảnh cổng chùa Chroi Tưm Chắc (Mã tộc), Số 19 Trần Hưng Đạo,

Phường 10, Sóc Trăng Tỉnh: Sóc Trăng.

Ảnh 9: Hình ảnh tại chùa Chroi Tưm Chắc (Mã tộc), Số 19 Trần Hưng Đạo,

Phường 10, Sóc Trăng Tỉnh: Sóc Trăng.

165

Ảnh 10: Hình ảnh tại chùa Chroi Tưm Chắc (Mã tộc), Số 19 Trần Hưng Đạo,

Phường 10, Sóc Trăng Tỉnh: Sóc Trăng.

Ảnh 11: Hình ảnh tại chùa Chroi Tưm Chắc (Mã tộc), Số 19 Trần Hưng Đạo,

Phường 10, Sóc Trăng Tỉnh: Sóc Trăng.

166

Ảnh 12: Chánh điện thờ Phật Thích Ca, Chùa Dơi, Khóm 9, P.3, TP. Sóc Trăng

Ảnh 13: Hình ảnh tại Bửu Sơn Kỳ Hương, Số 286 Tôn Đức Thắng, Phường 5,

Sóc Trăng.

167

Ảnh 14: Tác giả cùng Ban nhạc truyền thống chùa Mahatup, tết Chol Chnam

Thmay 2019

Ảnh 15: Phật tử dùng cơm tại chùa Sà Lôn hay chùa Chén Kiểu xã Đại Tâm,

huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng

168

169