ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THU MINH
NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC -
INDONESIA TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRUNG QUỐC HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THU MINH
NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC -
INDONESIA TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Trung Quốc học
Mã số: 62 31 06 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRUNG QUỐC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Phùng Thị Huệ
2. PGS. TS. Dương Văn Huy
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án tiến sĩ “Những chuyển biến trong quan hệ Trung
Quốc – Indonesia từ năm 2005 đến nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ tập thể giáo viên hướng dẫn là PGS. TS. Phùng Thị Huệ
và PGS. TS. Dương Văn Huy. Những thông tin, số liệu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét và đánh giá được nghiên cứu sinh thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, có
nguồn gốc rõ ràng, thể hiện trong phần Tài liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu
trong luận án do tôi tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan. Các kết
quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh
Trần Thu Minh
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phùng Thị Huệ, PGS.
TS. Dương Văn Huy đã tận tình chỉ dạy và hướng dẫn em trong quá trình làm
Luận án. Cảm ơn các Thầy Cô đã luôn động viên và tiếp lửa đam mê khoa học
cho em, để em có thể hoàn thành tốt nhất Luận án theo khả năng của mình.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới TS. Hồ Thị Thành, TS. Võ Minh
Vũ cùng các thầy cô trong Khoa Đông phương học – Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn đã giảng dạy và tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể, giúp
em hoàn thành Luận án được thuận lợi nhất. Em xin gửi lời cảm ơn tới GS. TS.
Hoàng Khắc Nam – Khoa Quốc tế học với những gợi mở của thầy đối với
Luận án của em.
Em xin được gửi lời tri ân tới Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Trung Quốc,
cố GS. TS. Đỗ Tiến Sâm, TS. Nguyễn Xuân Cường đã tư vấn, gợi mở và tạo
điểu kiện tốt nhất để em có thể triển khai và hoàn thành Luận án.
Em xin chân thành cảm ơn Phòng đào tạo sau Đại học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành
Luận án.
Nghiên cứu sinh
Trần Thu Minh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC ............................................................................................................. 1 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT .......................................... 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 5 2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................. 7 2.1. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................7 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8 3.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 8 3.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 8 4. Cách tiếp cận ư n n i n ứ .................................................. 8 4.1. Cách tiếp cận................................................................................................. 8 4.2. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................8 5. Đón ó ủa Luận án ................................................................................. 10 5.1. Đóng góp về khoa học .................................................................................10 5.2. Đóng góp về lý luận......................................................................................11 5.2. Đóng góp về thực tiễn............................................................................11 6. Bố cục của Luận án ...................................................................................... 11 C ư n 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................. 13 1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứ li n q an đến đề tài Luận án .... 13 1.1.1. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc................................................................................... ...................................... 13 1.1.2. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Indonesia....................................................................................................................16 1.1.3. Những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia sau năm 2005 ...........................................................................................20 1.2. Đ n i tìn ìn n i n ứu và những vấn đề Luận án sẽ làm rõ ........ 28 1.2.1. Những kết quả các nghiên cứu đã đạt được.............................................29 1.2.2. Những vấn đề Luận án sẽ làm rõ..............................................................30 C ư n 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA 33 2.1. C sở lý luận .............................................................................................. 33 2.1.1. Các khái niệm liên quan đến chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia...................................................................................................................33 2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến quan hệ Trung Quốc – Indonesia...............42 2.1.3. Khung phân tích của Luận án..........................................................49 2.2. C sở thực tiễn ........................................................................................... 50
1
2.3 . Các nhân tố t độn đến q an ệ T n Q ố – Indonesia...................55 Tiểu kết ư n 2 ............................................................................................ 63 C ư n 3. THỰC TRẠNG CHUYỂN BIẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA TRONG CÁC LĨNH VỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY ............ 64 3.1. Nhữn điều chỉnh về chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ son ư n từ năm 2005 đến nay .................................................... 64 3.1.1. Điều chỉnh trong phối hợp chính sách của hai nước..........................64 3.1.2. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ song phương giai đoạn 2005-2013....................................................................................69 3.1.3. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ song phương giai đoạn từ 2013 đến nay................................................74 3.2. Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ năm 2005 đến nay t n lĩn ực ........................................................................................... 77 3.2.1. Chuyển biến trong quan hệ chính trị - an ninh .......................................77 3.2.2. Chuyển biến trong quan hệ kinh tế..........................................................92 3.2.3. Chuyển biến trong quan hệ văn hóa - xã hội ........................................104 Tiểu kết ư n 3 ........................................................................................... 113 C ư n 4. ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ XU THẾ CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC – INDONESIA ................................................... 115 4.1. Đặc điểm chuyển biến và đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia.....115 4.1.1. Đặc điểm chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia............115 4.1.2. Đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia..........................................119 4.2. T động của chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia ... 128 4.2.1. Tác động đến Trung Quốc và Indonesia................................................129 4.2.2. Tác động đến thế giới và khu vực..........................................................134 4.2.3. Tác động đến Việt Nam..........................................................................142 4.3. Thuận lợi, thách thức và xu thế quan hệ hai nước ............................... 146 4.3.1. Những thuận lợi trong quan hệ hai nước ..............................................146 4.3.2. Những thách thức trong quan hệ hai nước ...........................................149 4.3.3. Xu thế quan hệ hai nước đến năm 2030....... .........................................154 Tiểu kết ư n 4 .......................................................................................... 157 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 160 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................. 164 TÀI LIỆU THAM HẢO ................................................................................ 165 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 199
2
DANH MỤC CÁC Ý HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT
TÊN TIẾNG ANH
TÊN TIẾNG VIỆT
ASEAN–China Free Khu Mậu dịch Tự do ASEAN – 1 ACFTA Trade Area Trung Quốc
2 AIIB A
Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông 3 ASEAN Asian Nations Nam Á
4 ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn Khu vực ASEAN
Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu 5 APEC Cooperation Á – Thái Bình Dương
Sáng kiến Vành đai và Con 6 BRI Belt and Road Initiative đường
Châu Á - Thái Bình Dương 7 CA - TBD
Cộng hòa Indonesia 8 CH Indonesia
Cộng hòa nhân dân 9 CHND
Chủ nghĩa xã hội 10 CNXH
Chủ nghĩa tư bản 11 CNTB
Đảng Cộng sản 12 ĐCS
The East Asia Summit Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á 13 EAS
Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 14 FDI
Memorandum of Bản ghi nhớ 15 MoU Understanding
Official Development Viện trợ phát triển chính thức 16 ODA Assistance
World Bank Ngân hàng Thế giới 17 WB
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Các dạng thức chuyển biến trong quan hệ quốc tế 35
Bảng 2.2. Các mức độ của quan hệ đối tác chiến lược 38
Hình 2.3. Sự chú ý bất đối xứng 44
Hình 2.4. Các phương pháp quản lý quan hệ bất đối xứng 44
Sơ đồ 2.5. Cân bằng quyền lực giữa cường quốc B (thông qua sự giúp đỡ của
các cường quốc tầm trung) đối với cường quốc A 46
Bảng 2.6. Phản ứng của một số nước ASEAN với sự trỗi dậy của
Trung Quốc 47
Hình 2.7. Khung phân tích những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc -
Indonesia 49
Hình 3.1. Thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc với Indonesia giai đoạn
2005-2013 93
Hình 3.2. Thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc với Indonesia từ năm 2013
đến nay 97
Hình 3.3. Thâm hụt thương mại giữa Indonesia và Trung Quốc giai đoạn
2013-2019 98
Bảng 3.4. Tình hình thực hiện đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia từ năm
2010-2015 100
Bảng 4.1. Chuyển biến chính trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia 115
Bảng 4.2. Đánh giá mức độ của quan hệ Trung Quốc - Indonesia 123
Bảng 4.3. Chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc 145
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ trên mọi lĩnh
vực, trở thành một cường quốc kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng
nhu cầu lớn về nguồn tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế trong nước,
Trung Quốc tích cực thúc đẩy quan hệ với các nước đang phát triển thông qua hợp
tác Nam – Nam, do các nước này sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên
liệu thô phong phú, dồi dào. Đồng thời, Trung Quốc cũng điểu chỉnh chiến lược đối
ngoại của mình từ “giấu mình chờ thời” sang “chủ động tích cực thiết lập luật chơi”,
nhằm gia tăng ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu. Từ sau Đại hội XVIII Đảng Cộng
sản Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh đã đẩy mạnh quá trình thực hiện “Giấc mộng
Trung Hoa” bằng việc triển khai hàng loạt chiến lược lớn như “Vành đai và Con
đường”, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh ở khu vực, triển khai mạnh
mẽ chiến lược “ngoại giao láng giềng”, chú trọng thúc đẩy quan hệ Trung Quốc –
ASEAN, v.v... Bên cạnh đó, khu vực Đông Nam Á hiện là địa bàn tranh giành ảnh
hưởng chiến lược của các nước lớn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Australia..., do
đó, ngày càng trở nên quan trọng hơn trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc.
Đặc biệt, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền Biển Đông đang có những diễn biến
phức tạp, việc ASEAN trở thành Cộng đồng vào ngày 31/12/2015 đã mở ra cục diện
hợp tác mới ở khu vực. Bởi vậy, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã không
ngừng thúc đẩy quan hệ với ASEAN cũng như các quốc gia trọng yếu của ASEAN,
trong đó có Indonesia.
Về phía Indonesia, đây là quốc gia lớn nhất và có tầm ảnh hưởng quan trọng
ở khu vực Đông Nam Á, do vậy, Indonesia có vị trí đặc biệt trong chiến lược can dự
và tranh giành ảnh hưởng khu vực của các cường quốc trên thế giới. Trước hết,
Indonesia là quốc gia giàu tài nguyên, có uy tín trong khu vực và trên thế giới. Là
một thành viên sáng lập ASEAN, đồng thời tham gia nhóm các nền kinh tế lớn G20,
5
tiếng nói của Indonesia trong khu vực ngày càng trở nên có trọng lượng. Bên cạnh
đó, Indonesia có vị trí chiến lược độc đáo khi sở hữu tuyến hàng hải quan trọng
chạy qua khu vực eo biển Malacca - một vị trí có thể kiểm soát được tự do hàng hải
giữa Biển Đông và Ấn Độ Dương, cũng là con đường nhập khẩu dầu thô chính của
Trung Quốc. Do vậy, phát triển quan hệ với Indonesia trở thành vấn đề chiến lược
của Trung Quốc. Mặt khác, trong bối cảnh nhiều nước Đông Nam Á đang lo ngại
trước “thuyết về mối đe dọa Trung Quốc”, việc Indonesia luôn kiên trì chính sách
ngoại giao nhất quán là độc lập và không liên kết tạo thuận lợi cho sự tiếp cận của
Trung Quốc.
Trung Quốc và Indonesia đều là những nước lớn, có ảnh hưởng quan trọng
đối với khu vực cũng như với Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có
nhiều biến động, quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng đang có nhiều thay đổi.
Trung Quốc và Indonesia đã từng trải qua thời kỳ cắt đứt quan hệ ngoại giao, nhưng
với xu thế hòa bình và hợp tác trong quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh, hai nước
đã khôi phục lại quan hệ, thậm chí thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm
2005. Ngược lại, những chuyển biến trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Indonesia có thể tác động và làm thay đổi cục diện tại khu vực Đông Nam Á. Trước
những tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước ASEAN về vấn đề Biển Đông,
Indonesia đã đóng vai trò trung gian hòa giải, là “cầu nối” giải quyết tranh chấp.
Nếu lôi kéo được Indonesia ủng hộ mình trong các vấn đề quốc tế và khu vực,
Trung Quốc không chỉ thuận lợi trong việc gia tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á, mà
còn có thể chiếm ưu thế lớn hơn trong những tranh chấp trên biển. Có thể nói,
chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia là hệ quả của chuyển biến về
quan hệ quốc tế trong khu vực, đồng thời, những chuyển biến trong quan hệ hai
nước có thể lý giải và dự đoán được những thay đổi về cục diện chính trị của khu
vực trong tương lai. Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu về hai quốc gia này
nói chung, cùng những chuyển biến trong quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia
nói riêng, đặc biệt là sự thay đổi trong cách xử lý, ứng phó của Indonesia trước sự
gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ lý giải được nhiều vấn đề học thuật quan
6
trọng, cũng như hiểu được bản chất của mối quan hệ này.
Ngoài ra, việc nghiên cứu những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc -
Indonesia giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về chiến lược gia tăng ảnh
hưởng của Trung Quốc tại khu vực ASEAN, từ đó nhận diện sâu sắc hơn chiến lược
ngoại giao của Trung Quốc trong quá trình cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn.
Do đó, việc triển khai những nghiên cứu vừa cơ bản, vừa hệ thống, chuyên sâu về
chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, nhằm cung cấp cơ sở khoa học
và thực tiễn để phục vụ cho công tác tham mưu tư vấn chính sách đối ngoại với hai
quốc gia láng giềng, nhằm đảm bảo an ninh quốc gia của Việt Nam trở thành một
nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài luận án tiến sĩ của
mình là: Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005
đến nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án nhằm mục tiêu làm rõ sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia từ sau năm 2005. Đồng thời làm rõ thực trạng chuyển biến trong từng
lĩnh vực quan hệ, từ đó nhận diện đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia và góp
phần làm rõ đặc trưng chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong quan hệ với các
nước láng giềng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm làm rõ mục tiêu trên, luận án chủ yếu thực hiện một số nhiệm vụ cơ
bản như sau:
(i) Phân tích những nhân tố tác động đến sự chuyển biến trong quan hệ
Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005 để xác định nguyên nhân dẫn đến chuyển biến
trong quan hệ hai nước;
(ii) Làm rõ những chuyển biến trong mối quan hệ hai nước từ năm 2005 tới
nay trên một số lĩnh vực như chính trị - an ninh, kinh tế và văn hoá – xã hội;
(iii) Đánh giá sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau
năm 2005. Từ đó, làm rõ tác động và xu thế của chuyển biến trong quan hệ Trung
7
Quốc – Indonesia đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ
năm 2005 tới nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ thời điểm hai nước thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược vào năm 2005 tới nay. Số liệu và sự kiện trong quan hệ hai nước sẽ
được cập nhật đến thời điểm hoàn thành Luận án (Quý I năm 2020).
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ
song phương giữa Trung Quốc và Indonesia, do đó không gian nghiên cứu chủ yếu
là Trung Quốc và Indonesia. Tuy nhiên, Luận án cũng đặt mối quan hệ này trong
bối cảnh tác động của khu vực và thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.
- Phạm vi nội dung: Luận án tập trung chủ yếu vào phân tích chuyển biến
trong các lĩnh vực như chính trị - an ninh, kinh tế, văn hoá – xã hội.
4. Cách tiếp cận ư n n i n ứ
4.1. Cách tiếp cận
- Là một nghiên cứu chuyên ngành Trung Quốc học, Luận án tập trung nhìn
nhận mối quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ góc độ Trung Quốc.
- Luận án tiếp cận nghiên cứu mối quan hệ song phương trực tiếp giữa hai
nước Trung Quốc và Indonesia, không tập trung nghiên cứu mối quan hệ này qua
các kênh đa phương.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đa ngành và liên ngành của khu vực học, đất nước học, như
quốc tế học, sử học, chính trị học, kinh tế học… Trong đó, các phương pháp của
chuyên ngành quốc tế học và lịch sử nhằm đánh giá chính sách đối ngoại của Trung
Quốc và Indonesia. Các phương pháp của chuyên ngành lịch sử nhằm: (i) phân tích
làm rõ bối cảnh xung quanh quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong từng giai đoạn cụ
thể (phương pháp đồng đại), để thấy được mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa các
8
nhân tố bên trong và bên ngoài đối với quan hệ hai nước; (ii) phân tích, làm rõ sự
giống và khác nhau trên từng lĩnh vực trong quan hệ hai nước, từ đó nhận diện sự
chuyển biến trong quan hệ hai nước qua từng giai đoạn lịch sử (phương pháp lịch đại).
Phương pháp của chuyên ngành chính trị học được sử dụng khi phân tích, so sánh các
văn kiện nhằm nhận diện những chuyển biến trong các văn bản tuyên bố chung của
hai nước; hoặc khi nhận diện sự phân hóa quan điểm của giới tinh anh chính trị
Indonesia từ dựa trên phân tích các lợi ích nhóm và mối quan tâm khác nhau… Các
phương pháp của chuyên ngành kinh tế học được sử dụng khi đánh giá những chuyển
biến trong các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực kinh tế, như thương mại, đầu tư… Luận
án sẽ vận dụng linh hoạt các phương pháp này nhằm nhận diện rõ đặc điểm chính
sách của Trung Quốc trong quan hệ với Indonesia. Những phân tích, đánh giá về tình
hình Indonesia cũng nhằm lý giải mức độ quan hệ và cách thức ứng xử của Trung
Quốc đối với Indonesia.
- Phương pháp tư liệu: thu thập, tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa và đánh
giá các loại tư liệu;
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: phỏng vấn trao đổi quan điểm nghiên
cứu với các chuyên gia thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế, chuyên nghiên cứu về quan
hệ Trung Quốc – Indonesia, nhằm tìm ra những yếu tố mấu chốt của vấn đề nghiên
cứu đang quan tâm. Trong số các học giả mà nghiên cứu sinh phỏng vấn được, đáng
chú ý có một số chuyên gia đầu ngành trong nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc –
Indonesia, như GS. Leo Suryadinata (Singapore), PGS. Hứa Lợi Bình 许 利 平
(Trung Quốc), TS. Phan Nguyệt 潘 玥 (Trung Quốc); TS. Cheng-Chwee Kuki
(Malaysia), và nhiều học giả người Indonesia khác.
- Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng phương pháp so sánh, bao gồm so
sánh các chính sách, ứng xử của các nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, so
sánh các văn kiện, tuyên bố chung để thấy được chuyển biến trong phối hợp chính
sách giữa hai nước.
- Phương pháp dự báo: căn cứ vào những dữ liệu trong quá khứ và hiện tại để
9
xác định xu hướng vận động của quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong tương lai.
5. Đón ó ủa Luận án
Trung Quốc học là một chuyên ngành, đồng thời cũng là đối tượng nghiên
cứu quan trọng đối với thế giới, bởi sự ra đời và phát triển văn minh Trung Hoa có
tác động rất lớn đối với thế giới. Đối với một quốc gia láng giềng có nhiều “duyên
nợ” lịch sử với Trung Quốc như Việt Nam, việc nghiên cứu về Trung Quốc trên
những khía cạnh cụ thể sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Trung Quốc, từ đó
có thể quản lý tốt hơn mối quan hệ với quốc gia này. Với nhu cầu nghiên cứu đó,
Luận án nhằm nhận diện sự chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc
với một quốc gia láng giềng, với trường hợp cụ thể là Indonesia. Luận án có một số
đóng góp như sau:
5.1. Đóng góp về khoa học
(1) Luận án nghiên cứu một cách hệ thống các nhân tố tác động, sự chuyển
biến của quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên các lĩnh vực chủ chốt, rút ra đặc điểm
chuyển biến, đánh giá tác động của cặp quan hệ đối với mỗi quốc gia và khu vực.
Luận án đưa ra dự báo về xu thế phát triển của mối quan hệ này trong thời gian tới
trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của các nhân tố thường xuyên tác động tới
cặp quan hệ này.
(2) Nghiên cứu trường hợp quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng góp phần
làm rõ đặc điểm quan hệ bất đối xứng giữa Trung Quốc với một nước láng giềng
trong khu vực.
(3) Luận án góp phần làm rõ đặc điểm chính sách đối ngoại của Trung Quốc
với các nước láng giềng trong tổng thể chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung
Quốc tại khu vực Đông Nam Á. Luận án góp phần nhận diện rõ hơn quá trình tương
tác cũng như lối tư duy và cách thức Trung Quốc gia tăng quan hệ với các nước
láng giềng. Từ đó, Luận án góp phần hiểu rõ hơn về đất nước Trung Quốc, tư duy
và truyền thống đối ngoại của người Trung Quốc.
(4) Luận án góp phần làm rõ thực trạng đối ngoại của Trung Quốc với các
quốc gia láng giềng ở khu vực, cũng như sự phản ứng của các nước đối với Trung
10
Quốc. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể rút ra được những bài học lịch sử nhằm thích
ứng tốt hơn với những chuyển biến trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực
có tác động trực tiếp đối với Việt Nam, như trường hợp quan hệ Trung Quốc và
Indonesia.
5.2. Đóng góp về lý luận
(1) Luận án xây dựng một khung phân tích cho nghiên cứu về chuyển biến
trong quan hệ song phương;
(2) Hệ thống hóa các tiêu chí cần thiết để đánh giá mối quan hệ giữa Trung
Quốc và một nước láng giềng: các tiêu chí đánh giá tính chất bất đối xứng, tiêu chí
đánh giá quan hệ đối tác chiến lược, tiêu chí đánh giá phản ứng của một số quốc gia
trong khu vực ASEAN đối với Trung Quốc...
(3) Luận án cung cấp cơ sở lý luận cho nghiên cứu về quan hệ giữa Trung
Quốc với một quốc gia tầm trung trong khu vực ASEAN.
5.3. Đóng góp về thực tiễn
Quan hệ Trung Quốc – Indonesia có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với
Việt Nam bởi đây là hai quốc gia láng giềng có tác động mạnh mẽ đối với Việt Nam
trên nhiều khía cạnh.
(1) Nghiên cứu này sẽ cung cấp những luận chứng khoa học tham khảo cho
quá trình hoạch định chính sách ngoại giao của Việt Nam trong quan hệ bất đối
xứng với Trung Quốc.
(2) Nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác nghiên cứu và
giảng dạy trong nước liên quan đến Trung Quốc.
6. Bố cục của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận án được chia thành 4 phần, bao gồm:
C ư n 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nội dung này bao gồm: Những nghiên cứu về chính sách đối ngoại của
Trung Quốc và Indonesia, về quan hệ Trung Quốc - Indonesia. Từ đó, đánh giá tình
hình nghiên cứu vấn đề và chỉ ra những hướng nghiên cứu cần thực hiện của Luận
11
án.
C ư n 2. C sở lý luận, thực tiễn và nhân tố t độn đến chuyển biến
trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia
Nội dung này sẽ nêu rõ cơ sở lý luận của quan hệ Trung Quốc – Indonesia,
bao gồm các khái niệm, các lý thuyết liên quan. Chương này còn phân tích rõ cơ sở
thực tiễn của mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia, bao gồm: quan hệ Trung Quốc
– Indonesia trước năm 2005, các nhân tố quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ
này, tình hình bên trong mỗi nước dẫn đến nhu cầu tăng cường quan hệ giữa hai
nước.
C ư n 3. Thực trạng chuyển biến quan hệ Trung Quốc – Indonesia
t on lĩn ực từ năm 2005 đến nay
Nội dung này sẽ phân tích quan điểm chính sách của Trung Quốc và
Indonesia trong quan hệ song phương, phân tích những chuyển biến và lý giải
nguyên nhân dẫn đến chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau
năm 2005 trên các lĩnh vực như chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội.
C ư n 4. Đặc diểm, t động và xu thế chuyển biến trong quan hệ
Trung Quốc – Indonesia
Nội dung này sẽ nhận diện đặc điểm chuyển biến trong quan hệ hai nước từ
sau năm 2005, từ đó rút ra đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia; phân tích tác
động của sự chuyển biến đối với bản thân Trung Quốc và Indonesia, đến thế giới và
khu vực, và đối với Việt Nam. Dựa trên việc phân tích những thuận lợi và thách
thức trong quan hệ hai nước, Luận án sẽ dự đoán xu thế quan hệ hai nước trong thời
12
gian tới.
C ư n 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Quan hệ Trung Quốc – Indonesia được hai nước xác định là quan hệ đối tác
chiến lược từ năm 2005, và được nâng cấp lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện vào năm 2013. Quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia là một
phần trong mạng lưới quan hệ đối tác của Trung Quốc – mạng lưới được nước này
thúc đẩy đặc biệt từ sau cải cách mở cửa (sau năm 1978). Mối quan hệ này đã được
nhiều học giả các nước tiến hành phân tích, nghiên cứu dưới nhiều góc độ, tuy
nhiên, những nghiên cứu về sự chuyển biến trong mối quan hệ này chưa thật sự
nhiều.
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứ li n q an đến đề tài Luận án
Nghiên cứu những chuyển biến trong mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia
cần khảo sát các công trình liên quan đến những vấn đề sau: (i) Chuyển biến trong
chính sách đối ngoại của Trung Quốc; (ii) Chuyển biến trong chính sách đối ngoại
của Indonesia; (iii) Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ sau năm
2005.
1.1.1. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của
Trung Quốc
Về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, nhiều nghiên
cứu đã tập trung lý giải việc Trung Quốc điều chỉnh chính sách ngoại giao. Trung
Quốc đã có sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao, chuyển từ “duy trì ổn định” thành
“chủ động duy trì quyền lực, duy trì ổn định”, đặc biệt từ sau Đại hội XVIII ĐCS
Trung Quốc. Trung Quốc đang đưa ra ngày càng nhiều các sáng kiến, chiến lược
nhằm thay thế các thể chế và quan hệ quốc tế do phương Tây dẫn đầu, như Ngân
hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á AIIB nhằm thay thế Ngân hàng Thế giới WB, Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải SCO nhằm thay thế cấu trúc an ninh của Tổ chức Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương NATO, sáng kiến Chiang Mai nhằm thay thế cho Quỹ
Tiền tệ Quốc tế IMF… [Pradt, 2016, tr.117-118]. Ngoài ra, Trung Quốc đưa ngoại
13
giao láng giềng lên thành ưu tiên số một, coi “thân thiện với láng giềng, coi láng
giềng là bạn” là nguyên tắc cơ bản, coi “thân, thành, huệ, dung” (thân thiện, thành
tâm, cùng có lợi cùng hưởng, bao dung) là yêu cầu thực tiễn [陈跃, 马千里, 2015,
tr.59]. Các nghiên cứu đã phân tích, lý giải việc Trung Quốc xác định lại phạm vi
của “láng giềng”, không chỉ đơn thuần là phạm vi địa lý, mà còn là “biên giới
chiến lược do xác định được các quan niệm (chung) về địa chính trị (giữa các
nước)” [丁工, 2014, tr.30]. Sự điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng của
Trung Quốc chủ yếu bao gồm: (i) xác định lại quan niệm về ngoại giao láng giềng;
(ii) mở rộng việc triển khai “cộng đồng chung vận mệnh”; (iii) xây dựng lại môi
trường xung quanh Trung Quốc thông qua “Vành đai và Con đường” [孙云飞,
2015, tr.58-60].
Sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn với kinh tế của Trung Quốc mặc dù
được thực hiện bằng “phương thức mềm và linh hoạt”, nhưng cũng có tác động làm
thay đổi tương quan lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực. Trọng tâm chuyển
đổi phương thức kinh tế trong nước gắn với điều chỉnh chiến lược ngoại giao của
Trung Quốc thể hiện ở nhiều nội dung, trong đó nổi bật nhất là việc đẩy mạnh thực
hiện Chiến lược “Vành đai và Con đường” [Nguyễn Quang Thuấn, 2017, tr.4;
Nguyễn Hữu Cát, Vũ Quang Đức, 2018, tr.92-93]. Sự điều chỉnh chiến lược ngoại
giao của Trung Quốc đem lại những tác động tích cực đan xen với tiêu cực đối với
nhiều nước. Một mặt, sự điều chỉnh này sẽ buộc Trung Quốc tính toán cân nhắc
những lợi ích nhất định của ASEAN; thúc đẩy xu thế hội nhập, hợp tác cùng phát
triển cho các nước nhỏ; thúc đẩy trật tự thế giới đa cực; nâng cao vị thế các nước
đang phát triển trong khu vực thông qua cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn tại
khu vực;… Mặt khác, tham vọng không thay đổi của Trung Quốc về chủ quyền
lãnh thổ; việc Trung Quốc tìm cách tác động đến định hướng chính sách của các
nước láng giềng khiến tình hình chính trị nội bộ nhiều nước bị phân hóa và diễn
biến khó lường; cạnh tranh, cọ xát giữa các nước lớn ở khu vực sẽ gay gắt hơn
khiến các nước nhỏ đứng trước khó khăn trong việc cân bằng quan hệ với các
nước… đều gây những thách thức không nhỏ đối với khu vực và các nước láng
14
giềng [Nguyễn Hữu Cát, Vũ Quang Đức, 2018, tr.94-97].
Đáng chú ý, nhiều tác giả đã xuất phát từ góc độ văn hóa để lý giải các vấn
đề liên quan đến chính sách ngoại giao láng giềng hiện nay của Trung Quốc, cho
rằng phương châm “Thân, thành, huệ, dung” đã phản ánh được tư duy kết nối và
đạo đức mang tính tương tác trong văn hóa truyền thống Trung Quốc [邢丽菊, 2014,
tr.9-10]. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, văn hóa Nho giáo là một loại sức
mạnh mềm, chứa đựng logic tư duy và các triết lý đối nhân xử thế của người Trung
Quốc, khi lan truyền sang các nước láng giềng cũng sẽ tạo ra các triết lý hoặc logic
tư duy đối nhân xử thế tương tự. Nếu áp dụng văn hóa Nho giáo vào ngoại giao láng
giềng của Trung Quốc, sẽ có ích cho việc triển khai các công tác ngoại giao láng
giềng, phát huy vai trò quan trọng trong việc ổn định hòa bình môi trường xung
quanh Trung Quốc [孔志国,罗建波, 2017, tr.116].
Các nghiên cứu chỉ ra một số vấn đề trong nước có liên quan trực tiếp đến tình
hình ngoại giao Trung Quốc, như: (i) mô hình quyết sách và đặc điểm cá tính của
lãnh đạo quyết định đặc điểm mới của ngoại giao; (ii) sự chuyển đổi mô hình cơ cấu
chính phủ đòi hòi công tác ngoại giao phải nêu bật sự phối hợp và nhấn mạnh việc
thực hiện; (iii) ảnh hưởng của sự thay đổi xã hội trong nước, như phản ứng của Trung
Quốc đối với các vấn đề nhạy cảm của quốc tế liên quan đến chủ quyền có sự tham
gia rộng rãi của dân chúng [张清敏, 2014, tr.1]. Trong khi đó, Varrall (2015) đã nhấn
mạnh vai trò của Tập Cận Bình, và năng lực vật chất ngày càng tăng của Trung Quốc,
đồng thời giải thích cách Trung Quốc hành xử và diễn giải với thế giới thông qua các
câu chuyện quan trọng. Ví dụ, hành động của Trung Quốc tại biển Đông có thể được
lý giải theo quan điểm “lịch sử như định mệnh”: các hành động của Trung Quốc ở
Biển Đông phản ánh sự trở lại dần dần về vị trí mà nước này coi là xứng đáng và
được tôn trọng trên thế giới, và trong khu vực [Varrall, 2015, tr.13-16].
Đi sâu phân tích quan hệ đối tác của Trung Quốc, học giả 周淇隽 (2013) đã
chỉ ra 3 giai đoạn chính trong sự phát triển ngoại giao quan hệ đối tác của Trung
Quốc, bao gồm: (i) Giai đoạn tìm tòi từ năm 1993-2002: xây dựng và nâng cấp quan
hệ đối tác với tất cả 14 quốc gia và khu vực; (ii) Giai đoạn phát triển từ năm 2003-2012:
15
xây dựng và nâng cấp quan hệ đối tác với tất cả 65 quốc gia và khu vực; (iii) Giai đoạn
hoàn thiện từ năm 2013 đến nay [门洪华, 刘笑阳, 2015, tr.73-80]. Về đối tượng, các
nước và tổ chức đối tác trong quan hệ đối tác của Trung Quốc được chia thành 3
cấp bậc theo thứ tự thấp dần, bao gồm: Quan hệ đối tác mang tính toàn cục, quan hệ
đối tác mang tính chiến lược và quan hệ đối tác thông thường. Trung Quốc căn cứ
vào đặc điểm quan hệ ngoại giao với các nước và tổ chức đặc thù để xác định tên
gọi cho trạng thái quan hệ song phương [Feng Zhongping, Huang Jing, 2014, tr.9].
Trung Quốc xây dựng “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” với khá nhiều nước, bao
gồm một số nước phương Tây, trong nhóm BRICS, một số nước láng giềng, các nước
có nguồn tài nguyên quan trọng hoặc các nước có tầm ảnh hưởng trong khu vực…
[周淇隽, 2013]. Về thời gian thiết lập các quan hệ đối tác, có hai khoảng thời gian
số lượng các nước Trung Quốc xây dựng và nâng cấp quan hệ đối tác tăng mạnh, đó
là dưới thời kỳ Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lãnh đạo (2003-2012) và sau khi Sáng
kiến “Vành đai và Con đường” được đưa ra (từ sau năm 2013) [门洪华, 刘笑阳,
2015, tr.83].
Có thể thấy, những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại
của Trung Quốc đã phân tích, lý giải sự thay đổi trong chính sách ngoại giao láng
giềng của Trung Quốc từ nhiều góc độ khác nhau, đã nhận diện được các tác động
tích cực và tiêu cực của sự thay đổi chính sách này đối với thế giới và khu vực.
Trong khi đó, các nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ đối tác đã nhận diện được
phần nào chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới và khu vực.
1.1.2. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của
Indonesia
Các nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách ngoại giao của Indonesia
đã phân tích chính sách “cân bằng năng động” (dynamic equilibrium) của nước
này, thể hiện ở chỗ: (i) mở rộng thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược,
đối tác toàn diện với các nước trong và ngoài khu vực; (ii) chú trọng thúc đẩy
ngoại giao đa phương theo mô hình “vòng tròn đồng tâm” với ASEAN là tâm
điểm; (iii) ủng hộ việc chia sẻ và nhân rộng những giá trị, nguyên tắc, quy chuẩn,
16
luật lệ chung ở khu vực và trên thế giới; (iv) Indonesia tự định vị là bên đóng vai
trò trung gian hòa giải trong các tranh chấp trên Biển Đông giữa ASEAN và Trung
Quốc trong hơn hai thập kỷ qua, đồng thời thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng
tin; (v) luôn tham gia tích cực, năng động vào các hoạt động ngoại giao đa phương
mở rộng ra ngoài khu vực… [Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan, 2014, tr.117-123].
Chính sách ngoại giao “cân bằng năng động” này còn thể hiện qua các trường hợp
cụ thể, như việc Indonesia muốn tạo dựng được mối quan hệ cân bằng với hai
cường quốc ở châu Á là Trung Quốc và Nhật Bản, bên cạnh đó, Indonesia cũng
từng bước gia tăng hợp tác với Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng [Nguyễn
Huy Hoàng, 2018, tr.238-239]. Học giả người Indonesia Evan Laksmana đã có một
số bài viết về chủ đề này, như: “Pragmatic Equidistance: How Indonesia
Manages Its Great Power Relations” (2017), “Promises and pitfalls of
Indonesia’s faith in multilateralism” (2018a), “Abandoned at Sea: The Tribunal
Ruling and Indonesia’s Missing Archipelagic Foreign Policy” (2018b), … Trong
các nghiên cứu này, Evan cho rằng Indonesia đang thực hiện một chiến lược “cân
bằng thực dụng” để quản lý ảnh hưởng của các cường quốc [Laksmana, 2017,
2018a, 2018b].
Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Indonesia càng trở thành chủ đề được
nhiều học giả quan tâm đặc biệt từ sau khi Tổng thống Jokowi lên nắm quyền.
Nhìn chung, các nghiên cứu đã chỉ ra các quan điểm chính sách đối ngoại chủ yếu
của Indonesia thời kỳ Tổng thống Jokowi, bao gồm: (i) tiếp tục chính sách ngoại
giao “triệu người bạn, không kẻ thù” của Tổng thống Susilo; (ii) thực thi tầm nhìn
về vai trò của Indonesia với tư cách là “trục hàng hải toàn cầu”; (iii) ngoại giao
nhằm phục vụ lợi ích của người dân trong nước [Dương Văn Huy, 2014a, tr.31].
Về cơ sở xây dựng chính sách đối ngoại của Indonesia thời kỳ Jokowi, các học giả
đã chỉ ra một số nền tảng như: (i) nguyên tắc “độc lập – chủ động”; (ii) dựa trên
học thuyết “trục hàng hải”, trong đó tập trung 2 yếu tố: một là xây dựng trở lại
một cường quốc biển, hai là chính sách đối ngoại cân bằng các nước lớn [Nguyễn
17
Thanh Tuấn, 2016, tr.30-33].
Trong bối cảnh mới, chính sách đối ngoại của Indonesia có nhiều thay đổi,
chủ yếu thể hiện ở: (i) mục tiêu chiến lược từ chỗ là nước lớn trong khu vực Đông
Nam Á chuyển thành nước lớn cả ở khu vực ngoài Đông Nam Á; (ii) phản ứng
của Indonesia ngày càng mạnh mẽ đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc; (iii) chính
sách Biển Đông của Indonesia ngày càng cứng rắn [刘艳峰, 邢瑞利, 2016, tr.59-
61]. Chính sách đối ngoại thời kỳ Jokowi chủ yếu bao gồm các đặc điểm như: (i)
quay trở lại chủ nghĩa thực dụng, thực hiện ngoại giao kinh tế; (ii) coi trọng lợi ích
quốc gia, đề cao chủ nghĩa dân tộc; (iii) vượt qua các cường quốc tầm trung,
hướng tới sức ảnh hưởng toàn cầu; (iv) ngoại giao nghiêng về phía Mỹ, đồng thời
duy trì cân bằng nước lớn ở mức độ nhất định [于志强, 2015, tr.14-17]. Ngoại
giao thực dụng của Indonesia coi ngoại giao kinh tế là trung tâm, củng cố vũ đài
ngoại giao đa phương giữa các cường quốc tầm trung với ASEAN là trung tâm,
thúc đẩy ngoại giao nhân dân và ngoại giao biển, nỗ lực xây dựng Indonesia trở
thành quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, nâng cao tầm ảnh hưởng của
Indonesia trên trường quốc tế, tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước trong
và ngoài khu vực, thúc đẩy quá trình chuyển đổi nâng cấp của ngoại giao
Indonesia [宋秀琚,王鹏程, 2018, tr.105-106]. Một thay đổi đáng chú ý của ngoại
giao Indonesia thời kỳ Jokowi chính là việc từ bỏ “chủ nghĩa quốc tế” thời kỳ
Susilo, dần chuyển sang “hướng nội”, đồng thời đưa “chủ nghĩa quốc gia” lên vị
trí ưu tiên hàng đầu [尹楠楠, 2018, tr.68-70].
Cũng bàn về những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Indonesia, một
số học giả Indonesia như Andika (2016), Madu (2017) đã khẳng định: Tổng thống
Jokowi đã đưa ra các chính sách đối ngoại theo định hướng phục vụ trong nước,
phục vụ người dân (Pro-People Diplomacy), hỗ trợ lợi ích kinh tế trong nước
trước tiên [Andika, 2016, tr.2-3, Madu, 2017, tr.195-196]. Còn Iis Gindarsah (2018)
cho rằng, giữa những bất ổn trong khu vực, chiến lược “phòng ngừa rủi ro”
(hedging) đang ngày càng thể hiện rõ trong tư duy chiến lược của Indonesia về
khu vực hàng hải, đồng thời, quân đội trở thành một công cụ quan trọng trong
18
chính sách đối ngoại của Indonesia [Gindarsah, 2018, tr.31-32].
Về chiến lược của Indonesia trong ứng xử với các cường quốc, Dave McRae
(2015) đã phân tích cách Indonesia cân bằng giữa ảnh hưởng của Trung Quốc và
Mỹ, trong khi Trung Quốc đang ngày càng trở nên quan trọng đối với Indonesia
trên tư cách là một đối tác về kinh tế, thì hợp tác giữa Indonesia và Mỹ lại mang
nhiều nội dung về an ninh [McRae, 2015, tr.4-8]. Trong khi đó, 薛松 và 许利平
(2016)đã nghiên cứu ngoại giao biển mà Indonesia sử dụng trong thời gian này,
đồng thời phân tích những thách thức khi thực hiện Chiến lược cường quốc biển,
bao gồm: lo ngại về chủ nghĩa dân tộc, khó khăn do tranh chấp biển xung quanh,
hiệu quả thực hiện chính sách thấp, thiếu nguồn vốn xây dựng. Tác giả cũng chỉ ra
những thách thức đối với hợp tác biển giữa hai nước, bao gồm: mối liên hệ chính
sách trong quá trình kết nối chiến lược rất ít; vấn đề Natuna ảnh hưởng đến hợp tác
song phương; chủ nghĩa dân tộc của Indonesia; cạnh tranh từ các nước lớn khác như
Mỹ, Nhật…[ 薛 松 , 许 利 平 , 2016, tr.80-83]. Đáng chú ý, tác giả Damian
Wnukowski (2015) trong nghiên cứu Balancing ASEAN, the U.S. and China:
Indonesia’s Bebas-aktif Foreign Policy in the 21st Century cho rằng, mặc dù đã có
nhiều phát triển trong những năm gần đây, bebas-aktif (free and active: tự do và
năng động) vẫn là tâm điểm của chính sách đối ngoại của Indonesia. Sức mạnh
chính của chính sách này nằm ở sự linh hoạt đáng kể, cho phép chiến lược được
điều chỉnh theo môi trường quốc tế thay đổi mà không từ bỏ các mục tiêu chính.
Indonesia đã áp dụng khéo léo chiến lược này trong mối quan hệ với Trung Quốc và
Mỹ - hai cường quốc có ảnh hưởng lớn đến tiến trình quan hệ quốc tế ở Đông Á.
Tác giả cũng cho rằng, mặc dù ASEAN vẫn đóng một vai trò quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Indonesia, nhưng dường như, cùng với sự trỗi dậy của sức
mạnh và khả năng tự hành động của Indonesia, tầm quan trọng của ASEAN có thể
giảm dần. Trong kịch bản này, chính sách bebas-aktif được sửa đổi có thể được tiến
hành nhiều hơn thông qua các hành động và sáng kiến riêng lẻ, bên cạnh hoạt động
trên các diễn đàn toàn cầu như G20 [Wnukowski, 2015, tr.137].
Về ảnh hưởng của chính sách đối ngoại Indonesia đối với quan hệ Trung
19
Quốc – Indonesia, chính sách ngoại giao kinh tế của Chính phủ Jokowi có lợi cho
việc mở rộng hơn nữa hợp tác kinh tế và đầu tư thương mại song phương giữa hai
nước, tuy nhiên, cũng đem lại tính bất định đối với quan hệ song phương. Trong
vấn đề Biển Đông, từ khi căng thẳng leo thang, Bộ Ngoại giao Indonesia luôn duy
trì lập trường trung lập, không làm phức tạp hóa mâu thuẫn, đồng thời thúc đẩy đối
thoại giữa các bên tranh chấp. Trong khi đó, phía quân đội Indonesia lại có quan
điểm hoàn toàn khác, muốn Chính phủ Indonesia thể hiện lập trường cứng rắn,
quyết đoán hơn trong việc xử lý bất đồng [于志强, 2015, tr.19].
Nhìn chung, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Indonesia đã tập
trung phân tích vai trò của của cường quốc tầm trung và đặc điểm chính sách “cân
bằng năng động” của Indonesia. Các nghiên cứu này đã nhận diện được thay đổi về
chính sách đối ngoại dưới thời Tổng thống Jokowi, với đặc điểm nổi bật là chủ
nghĩa thực dụng về kinh tế, giảm bớt ưu tiên cho “chủ nghĩa quốc tế”. Đặc biệt, các
nghiên cứu đã đánh giá được phần nào ảnh hưởng của chính sách đối ngoại
Indonesia đối với quan hệ giữa nước này với Trung Quốc.
1.1.3. Những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia sau năm 2005
Nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia không thể
tách rời việc nghiên cứu những thay đổi trong tổng thể quan hệ Trung Quốc –
ASEAN, do đây là khu vực mà cả hai nước này đều có ảnh hưởng quan trọng, đồng
thời đã có thời gian dài Indonesia xử lý quan hệ với Trung Quốc thông qua ASEAN.
Thứ nhất, nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc – Indonesia cần được đặt trong
tổng thể quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Trung
Quốc với ASEAN, tác giả Kuik (2005) cho rằng, một trong những thay đổi quan
trọng trong chính sách ASEAN của Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI là sự nổi lên của
chủ nghĩa đa phương. Trung Quốc đã từ chỗ thận trọng và nghi ngờ, không khởi
xướng, không ưa chuộng các thể chế đa phương, nay đã chuyển sang lạc quan và
nhiệt tình, cho rằng các diễn đàn đa phương là phương tiện hữu ích để thúc đẩy các
mục tiêu chính sách của riêng mình. Những thay đổi nhận thức này tuy chậm nhưng
20
là những thay đổi đáng kể, dẫn đến sự ưu tiên hơn về ngoại giao đa phương trong
chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc. Ngoài ra, sự tham gia vào các tổ chức đa
phương của Trung Quốc được thúc đẩy bởi tham vọng thiết lập các quy tắc mới cho
hợp tác khu vực [Kuik, 2005, tr.119].
Tác giả Lưu Việt Hà (2014) nhận định: tuy công khai tuyên bố “kiên trì thân
thiện với láng giềng”, song thực tế Trung Quốc vẫn tiếp tục chính sách “chia để trị”
đối với ASEAN, sử dụng các đòn bẩy kinh tế để tăng cường sự chi phối về chính trị.
Quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ tiếp tục phát triển, song lòng tin
chính trị chưa thể có sự cải thiện lớn trong thời gian tới [Lưu Việt Hà, 2014, tr.212].
Tác giả Nguyễn Huy Hoàng (2018) tập trung nhận diện những đánh giá của
ASEAN đối với sự điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển mới của Trung
Quốc, khẳng định rằng bất kỳ thay đổi nào xuất hiện ở Trung Quốc dù là nhỏ cũng
đều có những ảnh hưởng nhất định đến khu vực Đông Nam Á và các nước thành
viên của ASEAN. Nghiên cứu trên cũng phân tích đối sách và phản ứng của
ASEAN, một số nước thành viên đối với sự điều chỉnh chiến lược và phương thức
phát triển mới của Trung Quốc [Nguyễn Huy Hoàng, 2018, tr.17].
Các tác giả Nguyễn Văn Hà, Chu Trọng Trí (2015) đánh giá các tác động
kinh tế của những chính sách phát triển hợp tác mới của Trung Quốc đối với
ASEAN. Trong đó, bên cạnh các tác động tích cực như góp phần giúp thương mại
hai chiều tăng nhanh, thúc đẩy đầu tư, góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kết nối
về cơ sở hạ tầng giao thông và tài chính, tác động tích cực đến quá trình hội nhập và
hợp tác kinh tế trong ASEAN..., cũng cần lưu ý các tác động tiêu cực như: sự phụ
thuộc vào kinh tế Trung Quốc của ASEAN ngày càng tăng, sự chuyển hướng
thương mại, tác động bất lợi từ sự gia tăng cạnh tranh... [Nguyễn Văn Hà, Chu Trọng Trí, 2015,tr.15-18]. Xu hướng gia tăng hợp tác về kinh tế giữa Trung Quốc
và ASEAN cũng được các tác giả Trần Khánh, Đàm Huy Hoàng (2014) nhận định:
từ thập niên đầu thế kỷ XXI đã tăng nhanh tốc độ và quy mô về hoạt động ngoại
giao, thiết lập các thể chế hợp tác, nhất là về kinh tế với ASEAN và các nước thành
viên. Cuộc chạy đua trong quan hệ với Đông Nam Á của Trung Quốc trở nên quyết
21
liệt kể từ khi Mỹ điều chỉnh chiến lược, xoay trục hướng về Châu Á – Thái Bình
Dương, tái cân bằng chiến lược tại khu vực này cả về quân sự và kinh tế [Trần
Khánh, Đàm Huy Hoàng, 2014, tr.3].
Thứ hai, những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia từ sau năm 2005 chủ yếu phân tích thực trạng quan hệ Trung Quốc –
Indonesia trong từng giai đoạn, và sự thay đổi về quan hệ trong từng lĩnh vực kinh
tế, chính trị - an ninh và văn hóa – xã hội. Đáng chú ý có cuốn sách Six Decades of
Indonesia-China Relations An Indonesian Perspective của Sinaga (2018). Nghiên
cứu đã khái quát một cách hệ thống quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong 60 năm
dưới góc nhìn của Indonesia kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao qua các
phương diện chính trị - an ninh, kinh tế, trong tổng thể mối quan hệ Trung Quốc –
ASEAN.... Các tác giả cho rằng, mối quan hệ lâu dài giữa Indonesia và Trung Quốc
trong sáu thập kỷ qua đã chứng kiến những giai đoạn thăng và trầm. Indonesia nhận
thức được rằng, bất kỳ thay đổi chính trị nào trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích quốc gia của Indonesia.
Do đó, vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc trên toàn thế giới và trong khu vực này
chắc chắn sẽ tác động đến lợi ích quốc gia của Indonesia. Nghiên cứu quan hệ giữa
hai quốc gia này giúp Indonesia xác định và tận dụng tốt các cơ hội vì lợi ích phát
triển quốc gia của mình [Sinaga, 2018a]. Còn tác giả Trần Hiệp (2012) đã tiếp cận
mối quan hệ này từ sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Indonesia, thể hiện qua:
(i) định hướng xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các nước ngoài khu vực của
Indonesia; (ii) sự hưởng ứng tích cực từ các đối tác của Indonesia, trong đó có
Trung Quốc, trước chính sách tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với các nước
lớn [Trần Hiệp, 2012, tr.47-49] … Nhìn chung, đặc điểm chủ yếu của quan hệ
Trung Quốc – Indonesia từ sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm
2005 là: (i) phát triển với tốc độ nhanh so với các nước ASEAN khác; (ii) các lĩnh
vực hợp tác ngày càng được mở rộng, tính chất “chiến lược” ngày càng được tăng
cường; (iii) quan hệ giữa hai nước luôn tồn tại song song tính hợp tác và tính cạnh
22
tranh, trong đó mặt hợp tác là nổi trội và được hai nước đề cao.
Trong những nghiên cứu được tiến hành trước khi hai nước nâng cấp quan hệ
thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, hầu hết các tác giả Indonesia đều
cho rằng quan hệ hai nước “hiệu quả và thực dụng, nhưng chưa phải là đối tác chiến
lược” [Tjhin, 2012, tr.312], Indonesia không chắc chắn về vai trò lâu dài của Trung
Quốc tại Đông Á [Rizal Sukma, 1999, tr.37-38], do đó, Indonesia áp dụng chiến
lược “tự do và linh hoạt” [Tjhin, 2012, tr.305-310; Parameswaran, 2014a, tr.154-
155]. Sau khi hai nước nâng cấp quan hệ, đặc biệt sau khi Trung Quốc đề xuất xây
dựng “Vành đai và Con đường”, Indonesia đưa việc xây dựng “Trục hàng hải toàn
cầu” trở thành định hướng chính sách đối ngoại của mình, nhiều tác giả cho rằng,
quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong thời đại Jokowi được hình thành bởi hai lợi
ích chính, bao gồm lợi ích kinh tế và vấn đề chủ quyền biển [Andika, 2017, tr.163,
165-166; Pattiradjawane, 2016, tr.6]. Các tác giả đều chỉ ra rằng, hiện đang có nhiều
quan điểm khác nhau trong nội bộ Chính phủ Jokowi khi nhìn nhận về Trung Quốc
khi coi Trung Quốc vừa là mối đe dọa, vừa là cơ hội hợp tác [Syailendra, 2017, tr.3;
Fitriani, 2018, tr.6-9; Anwar, 2019, tr.6]. Điều này giải thích cho chính sách “phòng
bị nước đôi”, “không đối trọng” một lần nữa được Chính phủ Jokowi áp dụng trong
giai đoạn này [Supriyanto, 2016; Syailendra, 2017, tr.3; Andika, Aisyah, 2017,
tr.176; Fitriani, 2018, tr.10-13].
Trong lĩnh vực kinh tế, các học giả Trung Quốc tương đối lạc quan khi đưa
ra các nhận định về quan hệ Trung Quốc – Indonesia, như: “thương mại hai nước
liên tục lập kỷ lục mới”, “đầu tư không ngừng tăng cao”, “các lĩnh vực khác đều có
thành tựu”… [吴崇伯, 2014, tr.39-40]. Gần đây, một loạt bài viết của các học giả
Trung Quốc tập trung khai thác độ trùng khớp và tính bổ sung giữa Sáng kiến
“Vành đai và Con đường” và Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”, phân tích thực
trạng hợp tác hai nước trong khuôn khổ “Vành đai và Con đường”, như: cuốn sách
21 世纪海上丝绸之路”与中国——印尼战略合作研究 (Nghiên cứu “Con đường
tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và hợp tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia) của 宋秀
琚 (2017), 21 世纪海上丝绸之路”建设与中国——东盟经贸新合作 (Xây dựng
23
“Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và hợp tác mới trong kinh tế thương mại
giữa Trung Quốc và ASEAN) của 龙安山 (2018), “一带一路”背景下中国对印尼
直接投资研究 (Nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Trung Quốc đối với Indonesia
trong bối cảnh “Vành đai và Con đường”) của 谭璟婧 (2017), “一带一路”背景下
印尼的中国劳工问题 (Vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia trong bối cảnh
“Vành đai và Con đường”) của 潘玥 (2017)... Trong đó, cuốn sách 21 世纪海上丝
绸之路”与中国——印尼战略合作研究 (Nghiên cứu “Con đường tơ lụa trên biển
thế kỷ 21” và hợp tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia) đã phân tích các cơ hội
và thách thức đối với hợp tác Trung Quốc – ASEAN, hợp tác Trung Quốc –
Indonesia trong khuôn khổ “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”, trong đó nhiều
nội dung chỉ ra tiềm năng và khó khăn trên các lĩnh vực như chế độ quản lý biển
của hai nước, quan hệ đối tác trên biển, hợp tác về ngư nghiệp, phát triển giao lưu
nhân văn giữa Trung Quốc và Indonesia... Còn Luận văn thạc sỹ “一带一路”背景
下中国对印尼直接投资研究 (Nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Trung Quốc đối với
Indonesia trong bối cảnh “Vành đai và Con đường”) của 谭璟婧 (2017) đã phân
tích: (i) môi trường đầu tư nước ngoài của Indonesia, bao gồm các nhân tố như tài
nguyên phong phú, các yếu tố chính trị và kinh tế; (ii) thực trạng đầu tư của Trung
Quốc đối với Indonesia, bao gồm: các chính sách đặc thù thu hút đầu tư Trung
Quốc của Indonesia, quy mô đầu tư Trung Quốc tại Indonesia, các lĩnh vực đầu tư
chủ yếu và đặc điểm đầu tư của Trung Quốc đối với Indonesia; (iii) một số vấn đề
tồn tại trong đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Trung Quốc đối với Indonesia, chủ
yếu bao gồm: mức độ đầu tư tương đối thấp, tỉ lệ thực hiện đầu tư thấp, sự không
tương xứng giữa động lực chính sách và sự năng động của doanh nghiệp, chất
lượng các dự án... Nghiên cứu cũng chỉ ra các cơ hội đối với doanh nghiệp Trung
Quốc đầu tư vào Indonesia trong bối cảnh xây dựng “Vành đai và Con đường”, như
sự bổ sung về chiến lược phát triển của hai nước, các lĩnh vực đầu tư truyền thống
còn nhiều không gian phát triển, đầu tư trong lĩnh vực các ngành nghề mới nổi trở
24
thành điểm tăng trưởng mới...
Tác giả Anne Booth (2011) đã chỉ ra những lợi ích cũng như lo lắng về hệ
lụy của việc các nước Đông Nam Á khi gia tăng quan hệ thương mại với Trung
Quốc, với việc phân tích trường hợp cụ thể của Indonesia [Booth, 2011, tr.152-158].
Nhiều nghiên cứu nước ngoài trong thời gian gần đây đi sâu vào những vấn đề tồn
tại và thách thức trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia nói chung, và hợp tác trong
lĩnh vực kinh tế nói riêng, như: Indonesia – China trade relations: The deepening of
economic integration amid uncertainty? của Alexander C. Chandra và Lucky A.
Lontoh (2011), Indonesia Responds to China’s Rise trong cuốn sách Middle Powers
and the Rise of China của Ann Marie Murphy (2014), The Impacts of ACFTA to
Indonesia ‐China Trade của ICRA Indonesia Comment (2015), The growing
‘Strategic partnership’ between Indonesia and China faces difficult challenges của
Leo Suryadinata (2017)… Đóng góp quan trọng của các nghiên cứu này là đã đưa
ra và phân tích quan điểm từ góc độ của Indonesia, hoặc góc độ trung lập, giúp
người đọc có cái nhìn khách quan và toàn diện về mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Indonesia trên các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Đáng chú ý, trong nghiên cứu The growing ‘Strategic partnership’ between
Indonesia and China faces difficult challenges, tác giả Leo Suryadinata (2017) đã
chỉ ra những tiến triển trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia dưới thời kỳ Tổng
thống Yudhoyono (2004-2014) và thời kỳ Tổng thống Jokowi (2014-nay). Tác giả
lý giải những tiến triển trong quan hệ hai nước trong thời kỳ Tổng thống
Yudhoyono là do Yudhoyono lúc này nhận được nhiều sự ủng hộ từ các đảng chính
trị lớn, bao gồm cả các đảng Islam, hình ảnh Trung Quốc ở Indonesia trong thời kỳ
này vẫn tốt đẹp, không có sự thù địch đối với Trung Quốc về vấn đề Islam, cũng
không có nhiều mâu thuẫn đối với người Hoa Indonesia, đồng thời, căng thẳng về
các vấn đề trên Biển Đông còn tương đối thấp. Tác giả cũng cho rằng, sự hợp tác
giữa hai nước có ý nghĩa về mặt chính trị nhất trong thời kỳ Jokowi, do sự bổ sung,
tương đồng về chiến lược phát triển biển của hai nước. Bên cạnh đó, Suryadinata
cũng chỉ ra một số vấn đề chính sẽ ảnh hưởng đến xu hướng phát triển tích cực của
25
hai nước trong tương lai, bao gồm: (i) vấn đề lao động Trung Quốc trong các dự án
hợp tác; (ii) sự chồng lấn lãnh thổ xung quanh vùng EEZ của quần đảo Natuna; (iii)
sự nổi lên của chủ nghĩa bản địa bài ngoại tại Indonesia; (iv) trào lưu chống Trung
Quốc tại Indonesia; (v) thay đổi trong chính sách của Trung Quốc đối với người
Trung Quốc ở nước ngoài.
Nghiên cứu quan điểm của các nhóm chính trị trong Chính phủ Indonesia về
quan hệ với Trung Quốc có các bài viết Torn Between America and China: Elite
Perceptions and Indonesian Foreign Policy của Daniel Novotny (2010) và How the
Indonesian Elite Regards Relations with China của Johanes Herlijanto (2017). Tác
giả Novotny đã làm nổi bật nhận thức của giới lãnh đạo Indonesia về sự cần thiết
phải giữ vững sự cân bằng quyền lực giữa các chủ thể nhà nước khác nhau trong hệ
thống toàn cầu, đặc biệt là sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc [Clark, 2012, tr.91-
93]. Trong khi đó, Herlijanto đã phân chia quan điểm tầng lớp tinh hoa Indonesia
thành hai nhóm: ủng hộ và nghi ngờ Trung Quốc [Herlijanto, 2017, tr.7]. Về chính
sách, chiến lược của Indonesia đối với Trung Quốc, Tiola Javadi (2016) lập luận
rằng Indonesia hiện đang áp dụng chính sách phòng ngừa linh hoạt. Indonesia
không có nhiều lý do để lựa chọn chính sách cân bằng với Trung Quốc bởi: (i) mối
đe dọa Trung Quốc đối với lợi ích của Indonesia trong các vùng biển của Natuna
vẫn còn hạn chế; (ii) Indonesia vẫn bị giằng xé giữa lợi ích của nước này ở Natuna
và những nỗ lực của họ nhằm duy trì vị thế trung lập trong tranh chấp ở Biển Đông;
(iii) Indonesia thiếu các nguồn tài chính để tiến hành tăng cường quân đội quy mô
lớn, đặc biệt là dưới thời một chính quyền phần lớn tập trung vào việc xây dựng cơ
sở hạ tầng trong nước [Javadi, 2016].
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu của học giả Trung Quốc đi sâu phân tích vào
các nội dung như quá trình đồng hóa và duy trì bản sắc trong tiếp xúc văn hóa, vấn
đề bài Hoa ở Indonesia, vị trí và vai trò của người Hoa ở Indonesia. Việc xây dựng
và mở rộng mạng lưới khu vực thương mại của người Hoa Indonesia không những
đã góp phần tăng cường sự trao đổi về thương mại giữa hai nước, mà còn tăng
cường giao lưu văn hóa giữa hai bên [郑一省, 2016, tr.67]. Về vị trí và vai trò của
26
người Hoa tại Indonesia trong lịch sử, nhiều học giả khẳng định mâu thuẫn về kinh
tế là nguyên nhân chủ yếu [Bùi Huy Thành, 2007, tr.69-70; Châu Thị Hải, 2001,
tr.44-46]. Trong khi đó, học giả Trung Quốc 温北炎 (2012) không cho rằng người
Hoa “nắm giữ” kinh tế Indonesia, do người Hoa chỉ nắm giữ 70% các doanh nghiệp
của 13% doanh nghiệp tư bản trong nước Indonesia, chứ không phải nắm giữ 70%
doanh nghiệp Indonesia [温北炎, 2012, tr.64]. Một số học giả nêu cao vai trò của
người Hoa và Hoa kiều trong việc phát triển quan hệ hai nước, thể hiện trên các
khía cạnh như: đề cao mô hình phát triển của Trung Quốc, kế thừa và truyền bá văn
hóa truyền thống Trung Quốc, tìm hiểu và giải thích về thể chế và các chính sách
của Trung Quốc... [许梅, 黄丽嫦, 2010, tr.34]. Các học giả Trung Quốc đều khẳng
định, từ đầu thế kỷ XXI trở lại đây đã xuất hiện trào lưu văn hóa Trung Hoa tại
Indonesia, có tác dụng quan trọng đối với việc gia tăng ảnh hưởng sức mạnh mềm
văn hóa Trung Hoa [郑一省, 2012, tr.67; 张小倩, 2016, tr.89-91].
Quá trình tiếp xúc văn hóa, lai tạo, bị đồng hóa, và quá trình “tái Hán hóa”
sau thời kỳ Suharto của văn hóa Trung Quốc tại Indonesia được nhiều tác giả phân
tích dưới nhiều góc độ. Sự hồi sinh các đặc tính Trung Hoa Thời kỳ hậu Suharto
cho thấy sức sống của các yếu tố văn hóa Trung Hoa vẫn được duy trì, ngay cả khi
bị tấn công hà khắc bởi các chính sách đồng hóa trong Thời kỳ Trật tự Mới. Theo
Charlotte Setijadi (2016), việc “Hán hóa” cũng tiềm ẩn những nguy cơ đối với
người Hoa Indonesia, như kéo giãn khoảng cách giữa người người totok và
peranakan, hay biến những vấn đề mới phát sinh trong quan hệ hai nước thành nguy
cơ khiến người Hoa Indonesia rơi vào tình trạng “dễ bị tổn thương” như trong lịch
sử [Setijadi, 2016, tr.9-10]. Các vấn đề gây ảnh hưởng đến quan hệ hai nước cũng
như sức ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc ở Indonesia được các học giả đề cập
bao gồm: vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia [潘玥, 2017], vấn đề quần đảo
Natuna thuộc Vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, viết tắt: EEZ)
của Indonesia, sự nổi lên của chủ nghĩa bản địa bài ngoại ở Indonesia, trào lưu
chống Trung Quốc trong nước, và những thay đổi trong chính sách của Trung Quốc
27
đối với người Hoa ở nước ngoài [Setijadi, 2016, tr.6-7; Leo, 2017, tr.25].
Nhìn chung, các nghiên cứu kể trên tuy chưa chỉ rõ những chuyển biến trong
quan hệ Trung Quốc và Indonesia trên các lĩnh vực qua các thời kỳ, nhưng những
đánh giá của các học giả về thực trạng quan hệ hai nước trong các lĩnh vực chính trị
- an ninh và kinh tế đã góp phần tạo nền tảng để Luận án tiến hành so sánh, làm rõ
sự chuyển biến trong mối quan hệ này. Bên cạnh đó, với những phân tích đa chiều
về những nhân tố ảnh hưởng và các chính sách đối ngoại của hai nước, đặc biệt là
cách ứng phó của Indonesia sẽ góp phần tạo cơ sở dữ liệu cho việc nghiên cứu về
cách ứng xử của một cường quốc tầm trung trong mối quan hệ bất đối xứng với một
cường quốc trên thế giới. Trong khi đó, các nghiên cứu về quan hệ văn hóa của học
giả Trung Quốc chủ yếu tập trung phân tích vai trò người Hoa ở Indonesia và những
tác động tích cực mà trào lưu văn hóa Trung Hoa tại Indonesia từ đầu thế kỷ XXI
đối với quan hệ hai nước. Còn học giả Indonesia tập trung phân tích cách nhìn nhận
và ứng xử của Indonesia đối với Trung Quốc, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc
trỗi dậy và gia tăng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á. Các học giả nước khác lại
đặt quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, trong
thế tương quan với ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực và tại Indonesia, đồng thời đánh
giá khách quan quan hệ kinh tế song phương, các quan điểm của Chính phủ
Indonesia đối với Trung Quốc, lý giải nguyên nhân Indonesia lựa chọn chính sách
phòng ngừa linh hoạt.
1.2. Đ n i tìn ìn n hiên cứu và những vấn đề Luận án sẽ làm rõ
Hiện nay, Trung Quốc đang triển khai cùng lúc nhiều chính sách ngoại giao
mang tầm chiến lược như xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh, xây dựng mạng
lưới quan hệ đối tác trên thế giới, thúc đẩy Sáng kiến Vành đai và Con đường...
nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình trên toàn thế giới nói chung và trong khu vực
Đông Nam Á nói riêng. Việc nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại
của Trung Quốc, của Indonesia và chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia đã trở thành chủ đề được nhiều học giả trong và ngoài nước đặc biệt quan
tâm, nhất là từ đầu thế kỷ XXI khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ và sau khi Trung
28
Quốc và Indonesia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005.
Luận án đã tiếp cận được nhiều nguồn tư liệu, bao gồm cả tư liệu sơ cấp và tư
liệu thứ cấp, do đó, có được những căn cứ khoa học để hình thành nên một khung
phân tích hợp lý khi tiến hành nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc
– Indonesia. Không chỉ thế, Luận án tiếp cận được các tư liệu của nhiều nhóm học giả
khác nhau, gồm học giả Việt Nam, học giả Trung Quốc, học giả Indonesia và học giả
các nước khác (thông qua các bài viết bằng tiếng Anh). Điều này sẽ giúp Luận án có
được cách nhìn khách quan từ cả hai phía trong quá trình phân tích và giải mã các vấn
đề liên quan đến sự thay đổi chính sách đối ngoại của hai nước.
1.2.1. Những kết quả các nghiên cứu đã đạt được
Thứ nhất, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã xác định
được nhân tố chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến
quan hệ Trung Quốc – Indonesia chính là những thay đổi trong chính sách ngoại giao
láng giềng. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu đã nhận diện được những thay đổi trong
việc định vị chính sách ngoại giao láng giềng trong tổng thể chiến lược ngoại giao
của Trung Quốc, đồng thời lý giải được những thay đổi này từ góc độ của Trung
Quốc.
Thứ hai, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Indonesia đã xác định
được nhân tố chính trong chính sách đối ngoại Indonesia có nhiều tác động đến quan
hệ Trung Quốc – Indonesia chính là đặc điểm “cân bằng năng động”, hay đặc trưng
chính sách của cường quốc tầm trung. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu đã nhận diện và
lý giải được những ưu tiên chính sách đối ngoại của Indonesia tại các thời điểm và
trong các lĩnh vực cụ thể.
Thứ ba, những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia từ sau năm 2005 đã nhận diện được thực trạng và những vấn đề tồn tại
trong quan hệ hai nước trong các giai đoạn khác nhau, trên các lĩnh vực cụ thể bao
gồm chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng
đã nhận diện được phần nào “phong cách” ngoại giao, và văn hóa chính trị của Trung
Quốc và Indonesia, đây cũng sẽ là cơ sở để lý giải các chính sách cụ thể mà hai nước
29
áp dụng trong các trường hợp nhất định. Tuy nhiên, trong khi các nghiên cứu về
chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung Quốc tương đối phong phú, thì các
nghiên cứu chuyên sâu về chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia trong giai
đoạn hiện nay vẫn còn vắng bóng.
Thứ tư, nếu như các công trình của học giả Trung Quốc tập trung phân tích
những thành tựu và vấn đề trong quan hệ kinh tế giữa hai nước, về việc kết nối giữa
Chiến lược “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc với Chiến lược “Trục hàng hải
toàn cầu” của Indonesia, thì các công trình của học giả Indonesia và học giả các nước
khác tập trung nhiều vào khía cạnh chính trị - an ninh, phân tích những thách thức
trong quan hệ chính trị - an ninh mà hai nước đang và sẽ gặp phải trong thời gian tới.
Đáng chú ý, các nghiên cứu của học giả Indonesia và các nước khác đã đi sâu phân
tích sự phân hóa trong giới lãnh đạo chính trị Indonesia về cách nhìn nhận và ứng xử
đối với Trung Quốc – đây là một cơ sở quan trọng để lý giải và dự báo chính sách
ngoại giao của Indonesia đối với Trung Quốc. Các nghiên cứu về quan hệ hai nước
trong lĩnh vực văn hóa – xã hội đã chỉ ra vấn đề người Hoa Indonesia đã tồn tại trong
suốt lịch sử phát triển quan hệ hai nước.
Trên cơ sở đa dạng về các lĩnh vực nghiên cứu, đa dạng về các cách tiếp cận
cũng như cách luận giải vấn đề, những kết quả nghiên cứu từ những công trình trước
đây trở thành nguồn tham khảo quý giá đối với quá trình khảo cứu tư liệu để thực
hiện Luận án.
1.2.2. Những vấn đề Luận án sẽ làm rõ
Mặc dù các nghiên cứu trong và ngoài nước là rất phong phú, tuy nhiên, vẫn
còn thiếu vắng một công trình mang tính hệ thống và chuyên sâu về chuyển biến
trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên các lĩnh vực, nhằm làm rõ chính sách
đối ngoại cũng như mô hình quan hệ đối tác của Trung Quốc trong thế kỷ XXI và
cách ứng xử của Indonesia với tư cách là một cường quốc tầm trung. Do đó, từ góc
nhìn của chuyên ngành Trung Quốc học, trên cơ sở xử lý nguồn tài liệu đã tiếp cận,
Luận án sẽ làm rõ một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, Luận án sẽ lý giải những thay đổi trong chính sách đối ngoại của hai
30
nước thông qua việc vận dụng các luận điểm của Thuyết bất đối xứng và chính sách
của cường quốc tầm trung. Trong đó, lý thuyết về cường quốc tầm trung không chỉ
được sử dụng với vai trò làm rõ hành vi, ứng xử của cường quốc tầm trung, mà còn
được dùng để phân tích vai trò của các quốc gia này trong chiến lược phát triển của các
cường quốc (với trường hợp cụ thể là Trung Quốc), từ đó lý giải các chính sách mà
Trung Quốc áp dụng đối với Indonesia. Bên cạnh việc kế thừa và phát triển những luận
điểm hiện có về chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung Quốc, Luận án đi
sâu phân tích và nhận diện chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia trong tổng thể
chính sách ngoại giao láng giềng, trong chính sách với Đông Nam Á, trong chiến lược
ngoại giao đối tác chiến lược, và trong bối cảnh Trung Quốc đang thúc đẩy Sáng kiến
Vành đai và Con đường. Đặc biệt, Luận án chú trọng phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến chính sách đối ngoại của cả hai nước, trong đó có vai trò lãnh đạo của người đứng
đầu mỗi nước.
Thứ hai, trong bối cảnh các nghiên cứu hiện có về quan hệ Trung Quốc –
Indonesia chủ yếu phân tích thực trạng quan hệ hai nước trong từng giai đoạn, chứ
chưa tập trung phân tích những bước chuyển biến trong mối quan hệ, Luận án sẽ phân
tích một cách hệ thống và toàn diện về: (i) những chuyển biến trong quan hệ Trung
Quốc – Indonesia trên các lĩnh vực trong giai đoạn từ năm 2005 tới nay, nhận diện
tính chất của sự chuyển biến qua các giai đoạn; (ii) lý giải nguyên nhân dẫn đến các
chuyển biến, tìm ra quy luật tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài đối
với chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005. Cụ thể,
tìm ra nhân tố nào dẫn đến sự chuyển biến tiệm tiến; nhân tố nào chỉ dẫn đến sự chuyển
biến mang tính đột biến trong quan hệ hai nước.
Thứ ba, không chỉ dừng lại ở việc phân tích chuyển biến trên các lĩnh vực
trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, Luận án sẽ khái quát nhằm nhận diện đặc
điểm và bản chất quan hệ giữa hai nước, đặc biệt nhận diện tính bất đối xứng trong
quan hệ, sự không cân bằng trong quan hệ giữa các lĩnh vực khác nhau, và tính chất
đặc trưng của quan hệ ngoại giao của Trung Quốc đối với một quốc gia láng giềng.
Luận án phân tích và đánh giá vị thế của Indonesia trong vai trò một cường quốc tầm
31
trung trước trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, nhằm lý giải tốt hơn mức độ
quan hệ và cách Trung Quốc ứng xử với một quốc gia tầm trung trong khu vực Đông
Nam Á.
Thứ tư, là một nghiên cứu thuộc chuyên ngành Trung Quốc học được thực hiện
tại Việt Nam, Luận án sẽ đánh giá những tác động của chuyển biến trong quan hệ
Trung Quốc – Indonesia đối với khu vực Đông Nam Á và Việt Nam, nhất là từ sau khi
Trung Quốc điều chỉnh chiến lược ngoại giao, đặt “ngoại giao xung quanh” lên vị trí
hàng đầu. Từ đó, Luận án sẽ đánh giá xu hướng quan hệ hai nước tới năm 2030 nhằm
32
đưa ra cơ sở tham chiếu cho các chính sách đối ngoại của Việt Nam.
C ư n 2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA
Quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia là quan hệ đối tác chiến lược giữa
một cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới với một quốc gia có vai trò quan trọng
trong khu vực Đông Nam Á. Do đó, nghiên cứu mối quan hệ này cần dựa trên
những cơ sở lý luận và thực tiễn mang tính đặc thù của hai nước. Những đặc điểm
riêng biệt trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia được quyết định một phần bởi vai
trò, vị trí của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và trong khu vực, đồng thời bởi lợi
ích của mỗi nước khi tăng cường quan hệ với đối phương.
2.1. C sở lý luận
Quan hệ Trung Quốc – Indonesia là một cặp quan hệ đặc biệt, bởi Trung
Quốc được coi là một cường quốc trên thế giới, trong khi Indonesia là một cường
quốc tầm trung, cũng có vai trò quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, do đó, quan
hệ giữa hai quốc gia này sẽ có tính chất bất đối xứng, tuy nhiên mức độ bất đối
xứng sẽ được quyết định một phần bởi vị trí, vai trò của cường quốc tầm trung
Indonesia. Bên cạnh đó, đây là một nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ đối
tác chiến lược giữa hai nước, do đó các lý thuyết, khái niệm cần phân tích cũng bao
gồm lý thuyết về chuyển biến, về quan hệ đối tác chiến lược.
2.1.1. Các khái niệm liên quan đến chuyển biến trong quan hệ Trung
Quốc - Indonesia
Nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, chúng ta
cần làm rõ một số khái niệm như: “chuyển biến”, “quan hệ đối tác chiến lược”,
“cường quốc tầm trung”.
Thứ nhất, khái niệm “chuyển biến”
Theo Từ điển Tiếng Việt, “chuyển biến” là sự biến đổi sang trạng thái khác
với trước (thường nói về lĩnh vực tư tưởng, hoạt động của con người, và thường
33
theo hướng tích cực) [Từ điển Tiếng Việt, 2007, tr.302]; “biến chuyển” là “chuyển
sang, thay đổi sang trạng thái khác trước” [Từ điển Tiếng Việt, 2007, tr.106]. Đến
nay, trong khoa học xã hội của Việt Nam, vẫn chưa có khái niệm chính thức về
“chuyển biến/ biến chuyển” trong quan hệ giữa hai quốc gia.
Về khái niệm tương ứng trong tiếng Anh, Luận án sử dụng khái niệm
“change” chứ không dùng “transformation” hay “transition”, vì hai khái niệm sau
thường mang nghĩa sự thay đổi lớn, biến đổi về chất. “Transition” thường được
dùng để chỉ sự thay đổi cơ bản về xã hội, công nghệ, thể chế và kinh tế từ một chế
độ xã hội hoặc trạng thái cân bằng động này sang một chế độ xã hội hay trạng thái
cân bằng khác [Rotmans, Kemp, van Asselt, 2001, tr.16]. Còn “transformation”
được một số học giả định nghĩa là: sự thay đổi triệt để, quy mô lớn và dài hạn, là sự
chuyển đổi từ trên xuống về mặt chính trị [Stirling, 2014, tr.13]. Cả “transition” và
“transformation” đều được coi là “sự thay đổi/ chuyển biến trong một hệ thống
thích ứng phức tạp” [Hölscher, Wittmayer, Loorbach, 2018, tr.1]. Trong khi đó, sự
chuyển biến trong quan hệ hai nước được đề cập trong Luận án chỉ đơn giản là
những thay đổi (change) trong mối quan hệ mà tác giả sẽ làm rõ trong quá trình
phân tích, xem đó là sự thay đổi trong lĩnh vực gì, là thay đổi về chất hay về lượng.
Về các dạng thức của sự “chuyển biến”, Gilpin (1981) trong tác phẩm War
and Change in World Politics cho rằng, có 3 dạng thức của chuyển biến, bao gồm:
(i) thay đổi/ chuyển biến cả hệ thống (systems change): trong đó, có sự thay đổi về
bản chất của các nhân tố, hoặc các thực thể đa dạng tạo nên một hệ thống quốc tế;
(ii) thay đổi/ chuyển biến một cách hệ thống (systemic change), trong đó, có sự thay
đổi về hình thức kiểm soát hoặc quản trị của một hệ thống quốc tế; (iii) thay đổi/
chuyển biến ở cấp độ tương tác (interaction change), trong đó, có sự thay đổi diễn ra
dưới hình thức tương tác hoặc quy trình thường xuyên giữa các thực thể trong một
hệ thống quốc tế [Gilpin, 1981, tr.39-40] (Xem Bảng 2.1). Chuyển biến ở cấp độ
tương tác là những thay đổi về chính trị, kinh tế và các tương tác hoặc quy trình
khác giữa các chủ thể trong một hệ thống quốc tế. Loại chuyển biến này không đòi
hỏi phải thay đổi các quyền và quy tắc thể hiện trong một hệ thống quốc tế. Tuy
34
nhiên, những chuyển biến kiểu này thường xuất phát từ nỗ lực của các quốc gia
hoặc chủ thể khác nhằm tăng cường hoặc kiểm tra những thay đổi cơ bản trong một
hệ thống, và có thể dự báo trước được những thay đổi đó [Gilpin, 1981, tr.43]. Như
vậy, những chuyển biến trong quan hệ song phương sẽ được xếp vào loại thay đổi
thứ 3, tức ở cấp độ tương tác.
Bảng 2.1. Các dạng thức chuyển biến trong quan hệ quốc tế
Dạng thức
Nhân tố có sự chuyển biến
Chuyển biến cả hệ thống
Bản chất của các nhân tố
Chuyển biến một cách hệ thống
Cách thức quản trị của hệ thống
Chuyển biến ở cấp độ tương tác
Quá trình tương tác giữa các quốc gia
Nguồn: Gilpin (1981), War and Change in World Politics,
Cambridge University Press, America, p.40.
Tuy nhiên, cũng theo Gilpin, không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt
được ba loại chuyển biến này. Ví dụ, chuyển biến hệ thống cũng liên quan đến cả
chuyển biến một cách hệ thống và chuyển biến trong tương tác. Hơn nữa, những
chuyển biến ở mức độ tương tác giữa các quốc gia bên trong có thể là sự khởi đầu
cho những chuyển biến một cách hệ thống, và cuối cùng dẫn đến chuyển biến của
cả hệ thống. Những chuyển biến ở cấp độ tương tác diễn ra thường xuyên, những
xung đột, quan hệ đồng minh và những tương tác ngoại giao giữa các nhân tố trong
một hệ thống cũng góp phần định hình nên đặc điểm của hệ thống đó [Gilpin, 1981,
tr.40]. Trên thực tế, gần như chưa có nghiên cứu nào tập trung phân tích về lý
thuyết liên quan đến chuyển biến trong quan hệ song phương (tức chuyển biến ở
mức độ tương tác). Do đó, khi nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ giữa hai
nước, Luận án về cơ bản dựa vào khung phân tích về chuyển biến của hệ thống.
Dựa trên những khái niệm và quan điểm nêu trên, Luận án cho rằng: “chuyển
biến” trong quan hệ hai nước là là sự thay đổi về hình thức tương tác hoặc quy trình
thường xuyên giữa các quốc gia, diễn ra khi có sự thay đổi cơ bản về động lực, mô
hình, kết quả, vị trí và bản chất của mối quan hệ. Chuyển biến trong quan hệ hai
nước là chuyển biến ở mức độ tương tác (interaction change), cấp độ cơ bản nhất
35
trong các dạng thức chuyển biến của quan hệ quốc tế, có thể dẫn đến những hình
thức chuyển biến cao hơn, tức chuyển biến một cách hệ thống (systemic change) và
chuyển biến của cả hệ thống (systems change).
Về mức độ của chuyển biến, chúng ta cần phân biệt chuyển biến đột ngột và
sắc nét (hay còn gọi là “đột biến”), hoặc chậm và tăng dần (hay còn gọi là “tiệm
tiến”) [Sinha, 2018, tr.5]. Theo Pierson (2003), loại quá trình nhân quả chuyển biến
chậm đơn giản nhất được gọi là “gia tăng”, “tích lũy”, hay “tiệm tiến”, trong đó, sự
chuyển biến là liên tục nhưng từ từ [Pierson, 2003, tr.181]. Trong quá trình này, sự
chuyển biến sẽ diễn ra chậm cho đến khi đạt đến ngưỡng tới hạn hoặc điểm tới hạn,
sau đó sẽ kích hoạt những thay đổi lớn [Pierson, 2003, tr.182]. Lý thuyết quan hệ
quốc tế cần tìm hiểu xem loại chuyển biến tiệm tiến nào có thể trở thành yếu tố
quan trọng trong sự thay đổi lớn của một khu vực hoặc giai đoạn nào đó.
Về các nhân tố làm nên sự chuyển biến, theo Holsti (1998) các nhân tố có thể
dẫn tới sự chuyển biến bao gồm: Xu hướng (trends), Các sự kiện lớn (Great Events),
Những thành tựu lớn (Great Achievements) hoặc Những cải tiến đáng kể về xã hội/
công nghệ (Significant Social/Technological Innovations). Vận dụng lập luận của
Holsti về các nhân tố dẫn đến chuyển biến, với đối tượng nghiên cứu là những
chuyển biến trong quan hệ song phương chứ không phải chuyển biến của cả hệ
thống, Luận án lựa chọn phân tích các nhân tố bao gồm: xu hướng, các sự kiện lớn
và các thành tựu lớn (trong quan hệ song phương) để nhận diện những chuyển biến
trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005. Từ đó, phân tích xem
những chuyển biến trong quan hệ hai nước là những thay đổi tiệm tiến hay đột biến,
kết quả khiến quan hệ hai nước tiếp tục duy trì hay có sự thay đổi trong hệ thống.
Thứ hai, khái niệm “quan hệ đối tác chiến lược”
Theo John Egan (2001), “đối tác” (partnership) bao gồm “hai hay nhiều bên
hành động cùng nhau để nâng cao hợp tác bằng việc thực hiện những mục tiêu chung.
Đối tác sẽ cùng xây dựng những cơ chế giải quyết các bất đồng, các biện pháp thúc
đẩy quan hệ hợp tác và phương pháp đánh giá tiến bộ cũng như chia sẻ những thành
tựu hợp tác [Egan, 2001, tr.3]. Về thuật ngữ “chiến lược”, Sean (2000) cho rằng:
36
“chiến lược” (strategic) theo nghĩa rộng là sự quan trọng có tính toàn cục, then chốt
và có giá trị tương đối lâu dài về mặt thời gian, đặc biệt, trong các bối cảnh liên
quan đến việc sử dụng sức mạnh quân sự [Sean, 2000, tr.16]. Trong nhiều tình
huống, từ “chiến lược” thường liên quan đến các lĩnh vực an ninh - quân sự mặc dù
không hoàn toàn là một thuật ngữ chỉ dùng trong lĩnh vực an ninh - quân sự [Đinh Công Tuấn, 2013, tr.4].
“Quan hệ đối tác chiến lược” (Strategic Partnership) là một công cụ được sử
dụng bởi một quốc gia hoặc các quốc gia hùng mạnh, để tối đa hóa sự thống trị
chính trị, kinh tế và quân sự trong hệ thống quốc tế. Do đó, quan hệ đối tác chiến
lược là một phương tiện để định hình môi trường quốc tế cho phù hợp với lợi ích
sống còn của nhà nước [Sean, 2000, tr.16]. Đặc điểm của quan hệ đối tác chiến
lược là không có giới hạn về không gian, thời gian; không hạn chế về đối tượng áp
dụng; không hạn chế về lĩnh vực hợp tác, và không nhất thiết phải mang nội dung
an ninh - quân sự. Đối tác chiến lược là một dạng quan hệ hợp tác phong phú,
trong đó thành phần, nội dung, hình thức, mức độ… hoàn toàn tùy thuộc vào sáng
kiến của các bên [Đinh Công Tuấn, 2013, tr.4-5].
Như vậy, có thể coi “quan hệ đối tác chiến lược” là tổng hợp các dạng quan
hệ hợp tác và có khả năng đẩy sự hợp tác nói chung giữa các bên tham gia mối quan
hệ này lên mức độ cao hơn. Tuy nhiên, nếu các bên không còn tìm thấy lợi ích trong
việc thúc đẩy quan hệ, hoặc quá trình tương tác có những va chạm quyền lợi, hoặc
hai bên không thỏa mãn về khả năng của nhau, khi đó quan hệ hợp tác có thể sẽ
không phát triển tiếp. Nhưng điều đó không nhất thiết dẫn đến tan vỡ trong quan hệ
đối tác, bởi vì thông qua quan hệ đối tác – nhất là với tính từ “chiến lược” và các
tính từ khác – khả năng duy trì quan hệ tốt vẫn cao hơn. Những yếu tố như số lượng
dự án hợp tác thực tế, độ dài của quá trình hợp tác và sự tăng cường hiểu biết của
các bên được coi là những “chốt hãm” không cho quan hệ phát triển theo hướng xấu
đi [Nguyễn Vũ Tùng, Hoàng Anh Tuấn, 2006, tr.54]. Do có tính linh hoạt và thực tế,
mô hình đối tác chiến lược đã được áp dụng ngày càng nhiều trong quan hệ quốc tế.
Đối với Trung Quốc, do nước này thực hiện chính sách không kết đồng minh,
37
nên trong quan hệ đối ngoại không có mối quan hệ song phương nào cao hơn “quan
hệ đối tác”. Như vậy, chỉ cần có cụm từ “đối tác” trong tên gọi về mối quan hệ giữa
Trung Quốc với một nước hoặc tổ chức nào đó, cũng đồng nghĩa với việc hai bên đã
đạt đến mức độ tin tưởng nhất định, đồng thời không có xung đột căn bản trong
những vấn đề quan trọng [周淇隽, 2013]. “Quan hệ đối tác” là quan hệ hợp tác
quốc tế độc lập tự chủ được xây dựng giữa các quốc gia dựa trên những lợi ích
chung, thông qua những hành động chung, nhằm thực hiện những mục tiêu chung
[门洪华,刘笑阳, 2015, tr.66].
Căn cứ vào các chỉ tiêu định tính và định lượng, Gajauskai (2013) trong
nghiên cứu “Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative Analysis of
Polish—Ukrainian and Lithuanian-Ukrainian Strategic Partnerships” đã chia quan
hệ đối tác chiến lược thành các loại bao gồm: hình thức (formal), kết nối chặt chẽ
(formal relevant), thực chất (real) và thực chất hiệu quả (real effective), với mức độ
quan hệ tăng dần (Xem Bảng 2.2) [Gajauskai, 2013, tr.200].
Bảng 2.1. Các mức độ của quan hệ đối tác chiến lược
Lĩn ực hợp
Yếu tố hợp tác
Cấu trúc bên
Việc thực hiện
Mứ độ của đối
tác
trong của quan
các kỳ vọng của
tác chiến lược
hệ
đối tác
Chính trị/ ngoại
Chính trị/ ngoại
Thiết lập vai trò
Lập kế hoạch
Hình thức
giao
giao
của đối tác
chung
An ninh/ Quốc
Cơ quan/ tổ chức
Hiệp định
trên
Tham gia
thực
Hình
thức/ Kết
phòng
chính phủ
các lĩnh vực và
hiện
nối chặt chẽ
nhân tố hợp tác
Kinh tế/ thương
Khu vực kinh tế
Thiết lập các quy
Tuyên bố chung Kết nối chặt chẽ
tư nhân
tắc, luật lệ
mại
Văn hóa/ Giáo
Cơ quan/ tổ chức
Hình
thành các
Hành động chung Thực chất
phi chính phủ
thể
chế
song
dục
phương hiệu quả
Xã hội
Xã hội
Giám sát thường
Vị trí chung trên
Thực chất hiệu
xuyên
trường quốc tế
quả
Nguồn: trích từ nghiên cứu Ieva Gajauskaite (2013), Strategic Partnerships in Foreign
Policy: Comparative Analysis of Polish—Ukrainian and Lithuanian-Ukrainian Strategic
Partnerships, Lithuanian Annual Strategic Review, 1 (11), p.197.
38
Theo Gajauskaite (2013):
Quan hệ đối tác chiến lược mang tính hình thức là quan hệ trong đó vai trò
của quan hệ đối tác được xác định trong chính sách đối ngoại của hai nước, tuy
nhiên, hợp tác thường chỉ được thực hiện ở cấp độ chính trị.
Quan hệ đối tác chiến lược kết nối chặt chẽ: Lĩnh vực quan trọng trong hợp
tác là an ninh/ quốc phòng và hợp tác không chỉ bao gồm các yếu tố của cấp chính
trị/ ngoại giao, mà còn của các tổ chức và cơ cấu chính phủ. Hơn nữa, quan hệ hợp
tác kiểu này cho phép tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và năng lượng.
Quan hệ đối tác chiến lược thực chất: các đối tác không chỉ đạt được các
mục tiêu ngắn hạn cụ thể mà còn có thể thực hiện các lợi ích quốc gia dài hạn. Cả
hai đối tác cùng cam kết cung cấp hỗ trợ và biện minh cho những kỳ vọng không
chỉ liên quan đến các lĩnh vực hợp tác chức năng cụ thể, mà còn có kỳ vọng chung
về trật tự quốc tế/ trật tự khu vực. Tuy nhiên, các đối tác hợp tác trên trường quốc tế
(có ý kiến chung, hỗ trợ cho các quyết định và đề xuất của nhau trên các diễn đàn,
tổ chức quốc tế) chỉ khi nó rất có lợi và tác động trực tiếp đến lợi ích của chính họ.
Quan hệ đối tác chiến lược thực chất hiệu quả là quan hệ được liên tục đánh
giá và cải thiện quy trình, khi đó, lợi ích xung đột dần dần được điều chỉnh. Các đối
tác tích cực tìm cách thực hiện tầm nhìn chung về cấu trúc quốc tế và củng cố vị trí
của cả hai nước trong cấu trúc này. Xã hội của cả hai quốc gia tích cực tham gia vào
quá trình hợp tác, họ không chỉ bày tỏ sự ủng hộ để thúc đẩy hợp tác, mà còn đóng
vai trò là nhóm áp lực trong trường hợp cần thay đổi giới tinh hoa chính trị để có
thể phát triển hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược với một nước cụ thể.
Về những tiêu chí xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, tác giả Trần
Thọ Quang (2015) cho rằng các tiêu chí chủ yếu bao gồm: (i) lợi ích quốc gia (trên
cả ba mặt an ninh, kinh tế, tăng cường vị thế); (ii) bề dày quan hệ và nền tảng hợp
tác cơ bản tốt; (iii) khi các bên có sự tương đồng trong quan điểm, nhận thức về lợi
ích chiến lược tương hỗ, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu
39
vực quan trọng [Trần Thọ Quang, 2015, tr.70].
Luận án sẽ vận dụng kết quả nghiên cứu của những người đi trước về quan
hệ đối tác, phân tích nhu cầu tăng cường quan hệ song phương của Trung Quốc và
Indonesia, đối chiếu với các tiêu chí xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược
để lý giải vì sao hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005. Quan
trọng hơn, Luận án sẽ phân tích thực trạng hợp tác giữa hai nước trong các giai
đoạn, từ đó đánh giá xem mức độ quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước trong
từng giai đoạn là thuộc loại hình nào trong 4 loại quan hệ đối tác chiến lược kể trên,
qua đó thấy được sự chuyển biến qua các giai đoạn.
Thứ ba, khái niệm “cường quốc tầm trung”
Thuật ngữ “cường quốc tầm trung” (middle power) được Giovanni Botero -
nhà chính trị học người Italia thế kỷ thứ XVI xác định là: những quốc gia đủ lớn để
duy trì địa vị của mình mà không cần sự hỗ trợ của các quốc gia khác [Lee, 2017,
tr.24-25]. Khái niệm “cường quốc tầm trung” được phát triển từ cách giải thích về
các nước nhỏ/ yếu, theo đó, trên cơ sở những định nghĩa đã được chấp nhận rộng rãi
về “nước lớn” và “nước nhỏ” trong quan hệ quốc tế, các cường quốc tầm trung là
những quốc gia không có địa vị của các nước lớn (great powers), nhưng có ảnh hưởng quốc tế (international influence) [Flemes , 2007, tr.4; Lê Đình Tĩnh, 2018,
tr.24; Jordaan, 2003, tr.165]. Robert Keohane cho rằng: một cường quốc tầm trung
cho rằng họ không thể hành động hiệu quả một mình, nhưng có thể có tác động
mang tính hệ thống đến một nhóm nhỏ hoặc thông qua một tổ chức quốc tế
[Keohane, 1969, tr.269].
Về cơ bản, các tiêu chí cơ bản để nhận diện cường quốc tầm trung bao gồm:
(i) sức mạnh, năng lực quốc gia: cụ thể, thông qua các chỉ số như dân số, sức mạnh
kinh tế và sức mạnh quân sự [Treverton, Jones, 2005, tr.10]; (ii) Hành vi, ứng xử
ngoại giao, uy tín quốc tế, thể hiện qua ba vai trò chính: vai trò xúc tác (catalyst),
vai trò điều phối, hỗ trợ (facilitator) và vai trò quản lý (manager) [Lee, 2017,tr.25-
26]; (iii) Bản sắc, giá trị: để phân biệt cường quốc tầm trung với các quốc gia còn
lại, các nhà nghiên cứu còn dựa vào các đặc điểm như: coi trọng vai trò của ngoại
40
giao; ủng hộ cách tiếp cận đa phương, tham gia nhiều vấn đề quốc tế với phong
cách ngoại giao “biết mình, biết người”, cũng không chọn lối “phòng thủ” tiêu cực,
“trung lập tuyệt đối” như nước nhỏ [Lê Đình Tĩnh, 2018, tr.27-28].
Theo các tiêu chuẩn nêu trên, Indonesia tự định vị và được cộng đồng quốc
tế công nhận là một cường quốc tầm trung, bởi:
Xét về sức mạnh, năng lực quốc gia, Indonesia là quốc gia quần đảo với hơn
17.500 hòn đảo, có diện tích lớn thứ 17 thế giới (hơn 1,8 triệu km2), dân số đông
thứ tư thế giới (259 triệu người) [Central Intelligence Agency, 2015]. Kinh tế
Indonesia từ sau năm 2004 đã tăng trưởng ở mức 5-6%; GDP năm 2014 đạt hơn
888 tỷ USD, là nền kinh tế lớn thứ 16 của thế giới [Statistics Times, 2015], và là
thành viên của nhóm G20. Chi tiêu quân sự của Indonesia năm 2015 là 7,641 tỷ
USD, đứng thứ 29 trên toàn thế giới [SIPRI, 2015].
Xét về hành vi, chính sách ngoại giao “cân bằng năng động” (dynamic
equilibrium) của Indonesia là minh họa rõ nét cho kiểu hành vi đặc thù của một
cường quốc tầm trung ở khu vực, thể hiện ở: Một là, vai trò xúc tác: Indonesia là một trong 5 nước sáng lập Phong trào Không liên kết từ năm 1961,1 là một nước
sáng lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967 và Tổ chức Hội
nghị Islam (OIC) năm 1969… Hai là, vai trò điều phối, hỗ trợ: Indonesia đã thúc
đẩy mạnh mẽ hợp tác khu vực thông qua việc đưa ra tầm nhìn chiến lược về Cộng
đồng ASEAN từ những năm 1980, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong quá
trình xây dựng Hiến chương ASEAN… Ba là, vai trò quản trị thông qua hỗ trợ xây
dựng thể chế đa phương: Indonesia cùng các nước ASEAN đã nỗ lực duy trì, nâng
cao vai trò trung tâm của tổ chức ASEAN, dựa trên các cơ chế do ASEAN khởi xướng như ASEAN+1,2 ASEAN+3,3 Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn
1 Phong trào không liên kết (Non-Aligned Movement – NAM) được thành lập chính thức năm 1961, là một tập hợp bao gồm các quốc gia tự xem là không liên kết với hay chống lại khối xã hội chủ nghĩa lẫn khối tư bản chủ nghĩa trong Chiến tranh Lạnh. Phong trào xuất phát từ Hội nghị Bangdung (hay còn gọi là Hội nghị Á-Phi) - là cuộc gặp gỡ quy mô lớn đầu tiên của 29 quốc gia châu Á và châu Phi, diễn ra từ 18–24/4/1955 tại Bandung, Indonesia. 2 ASEAN + 1: khuôn khổ hợp tác song phương của ASEAN với từng đối tác bên ngoài. Hiện nay, ASEAN duy trì quan hệ với 10 đối tác gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, Mỹ, Liên minh châu Âu, Nga và New Zealand. 3 ASEAN + 3: cơ chế hợp tác giữa ASEAN và ba quốc gia Đông Bắc Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc
41
Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng
(ADMM+), Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng (EAMF)… [Vũ Thái Lê Hoàng, Lê
Linh Lan, 2014, tr.117-120].
Xét về bản sắc, giá trị: Thứ nhất, tư tưởng đối ngoại độc lập, tự chủ, và chính
sách “triệu người bạn, không kẻ thù”; Thứ hai, Indonesia chú trọng thúc đẩy ngoại
giao đa phương theo mô hình “vòng tròn đồng tâm” với ASEAN là tâm điểm; Thứ
ba, ủng hộ mạnh mẽ việc chia sẻ và nhân rộng những giá trị, nguyên tắc, quy chuẩn
và luật lệ chung ở khu vực, thông qua Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương
ASEAN, Luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc
năm 1982 (UNCLOS), 10 nguyên tắc Bandung của Phong trào Không liên kết, Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC), Tuyên bố ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC)…; Thứ tư, trong hơn hai thập kỷ qua, Indonesia đã tự định vị là
bên đóng vai trò trung gian hòa giải trong các tranh chấp trên Biển Đông giữa
ASEAN và Trung Quốc…[Vũ Thái Lê Hoàng, Lê Linh Lan, 2014, tr.120-122].
Xác định Indonesia là một cường quốc tầm trung sẽ giúp việc nghiên cứu
những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có cách tiếp cận từ góc
nhìn quan hệ giữa một cường quốc với một cường quốc tầm trung, từ đó sẽ lý giải
sâu sắc hơn những chính sách đối ngoại của hai nước trong quan hệ song phương,
đặc biệt là chính sách đối ngoại của Trung Quốc với một cường quốc tầm trung
trong khu vực Đông Nam Á.
2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến quan hệ Trung Quốc - Indonesia
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Trung Quốc với một nước láng giềng
trong khu vực Đông Nam Á, cụ thể trong nghiên cứu này là quan hệ Trung Quốc –
Indonesia, cần phải thiết lập một khung lý thuyết phù hợp. Luận án sử dụng Thuyết bất
đối xứng và lý thuyết về cường quốc tầm trung làm khung lý thuyết cho nghiên cứu.
Một là, Thuyết bất đối xứng (Asymmetry theory).
Quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia là mối quan hệ giữa một nước lớn và
một nước nhỏ hơn, sự chênh lệch về sức mạnh tổng hợp quốc gia, về vị trí và vai trò
42
của hai nước trên trường quốc tế tạo nên sự bất đối xứng trong quan hệ. Vấn đề bất
đối xứng đã được Robert Keohane và Joseph Nye (1997) nhắc tới trong nghiên cứu
“Interdependence in World Politics”: “Trong quan hệ phụ thuộc lẫn nhau tồn tại sự
bất đối xứng, sự bất đối xứng này rất có thể tác động tới các thành tố trong quan hệ
giữa các nhân tố với nhau. Nhân tố ít phụ thuộc hơn có thể sử dụng mối quan hệ phụ
thuộc như một nguồn lực để mặc cả về một vấn đề và có thể gây ảnh hưởng đến cả
các vấn đề khác” [Keohane, Nye, 1997, tr.125].
Người phát triển Thuyết bất đối xứng là Womack với nghiên cứu “China
and Vietnam: The Politics of Asymmetry” (2006), trong đó nêu lên hai luận điểm cơ
bản của Thuyết bất đối xứng là: (i) sự chênh lệch về năng lực của mỗi nước tạo ra
sự khác biệt mang tính hệ thống về lợi ích và nhận thức giữa các mặt mạnh hơn và
yếu hơn của mỗi nước trong mối quan hệ; (ii) các mối quan hệ bất đối xứng hiếm
khi không có vấn đề, và thường có xu hướng mạnh mẽ, vì sự khác biệt về lợi ích và
nhận thức giữa hai nước liên tục trở thành nguồn của sự căng thẳng [Womack,2006,
tr.17-18]. Nhà nước b (nước nhỏ hơn) không chiếm nhiều sự quan tâm ở nhà nước
A (nước lớn hơn), do đó, có thể có sự hiểu lầm xảy ra khi b nhạy cảm với bất kỳ
thay đổi nào, dù lớn hay nhỏ, từ A. Ngoài ra, bất kỳ sự cố nào trong mối quan hệ
song phương sẽ có tác động lớn hơn đến nước b so với nước A do sự khác biệt lớn
về quy mô [Womack, 2006, tr.79]. Hình 2.3 cho thấy sự chú ý của A đối với b
chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với các mối quan tâm chung của A và so với sự chú ý
của b đối với A. Hơn nữa, A ít sợ b hơn, và nó có tương đối ít lợi ích từ b. Ngược
lại, A chiếm nhiều sự quan tâm của b, nhưng b ít có khả năng ảnh hưởng đến hành
vi của A. Bất kỳ sự kiện nào trong mối quan hệ dù có lợi hay hại đều có tác động
lớn hơn đối với b. Do đó, mối quan hệ được trải nghiệm mạnh mẽ hơn bởi b. Niềm
hy vọng và nỗi sợ hãi của b về mối quan hệ song phương sẽ sống động hơn so với A
43
[Womack, 2006, tr.79-80].
Hình 2.3. Sự chú ý bất đối xứng
Nguồn: trích nguồn từ nghiên cứu của Brantly Womack (2006), China and Vietnam: The Politics of
Asymmetry, Cambridge University Press, pp.79.
Theo Womack, lãnh đạo của b sẽ cố gắng tiếp xúc trực tiếp với A, thông qua
một số phương pháp như: (i) cùng tham gia các tổ chức hoặc hiệp định đa phương;
(ii) tham gia với các quốc gia nhỏ hơn trong các tổ chức khu vực, hoặc trong cùng
những vấn đề lợi ích chung; (iii) liên minh với một quyền lực C đủ mạnh để thách
thức với A (đây được coi là phương pháp nhiều rủi ro) [Womack, 2006, tr.83]. Hình
2.4 cho thấy, một số phương pháp để quản lý quan hệ bất đối xứng, bao gồm: (i)
dựa vào tiền lệ trong quá khứ để định hình những kỳ vọng chung về cách tiến hành
mối quan hệ song phương; (ii) thông qua "nghi thức ngoại giao" hoặc trao đổi các
phái đoàn cấp cao, qua đó mỗi bên trấn an bên kia; (iii) loại bỏ các vấn đề gây tranh
cãi khỏi mặt trận chính trị (thông qua các diễn ngôn chính trị) [Womack, 2006,
tr.89-92].
Hình 2.4. Các phương pháp quản lý quan hệ bất đối xứng Nguồn: trích nguồn từ nghiên cứu của Brantly Womack (2006), China and Vietnam: The Politics of
Asymmetry, Cambridge University Press, pp.89.
44
Dựa trên những lập luận của Womack về quan hệ bất đối xứng, Luận án sẽ:
(i) phân tích sự quan tâm của Trung Quốc đối với Indonesia, so sánh với lý thuyết
của Womack để thấy mức độ bất đối xứng trong mối quan tâm của hai nước; (ii)
phân tích và đánh giá phương pháp hai nước sử dụng để quản lý mối quan hệ bất
đối xứng. Trong đó, điểm mới của Luận án khi vận dụng Thuyết bất đối xứng bao
gồm: (i) tập trung luận giải một khía cạnh chưa được Womack nhắc tới, đó là vị trí
địa chính trị của nước nhỏ hơn (Indonesia) trong chiến lược chung của nước lớn
hơn (Trung Quốc); và (ii) phân tích “tiền lệ” trong lịch sử quan hệ hai nước, không
phải để để định hình những kỳ vọng chung về cách tiến hành mối quan hệ song
phương, mà là để giải thích chính sách của nước nhỏ hơn (Indonesia) đối với nước
lớn (Trung Quốc).
Hai là, Lý thuyết li n q an đến ường quốc tầm trung.
Lý thuyết liên quan đến cường quốc tầm trung thường được luận giải thông
qua các lý thuyết về cường quốc, về bá quyền, hay trật tự thế giới. Holbraad (1984)
cho rằng hệ thống quốc tế hiện nay cũng như nhiều hệ thống lịch sử hiện đại trước
đây, có tồn tại một số thực thể rõ ràng không phải là nước lớn, cũng không phải là
nước nhỏ. Theo Holbraad, trong lịch sử, mặc dù các cường quốc tầm trung phần lớn
được hiểu là kém hơn so với các cường quốc về mặt vật chất, nhưng họ vẫn được
coi là những người bảo vệ sự cân bằng quyền lực cũng như người duy trì hòa bình
và trật tự [Holbraad, 1984, tr.3].
Còn Robert Cox (1981) đã giải thích về quyền bá chủ bao gồm sự liên quan
giữa các lực lượng xã hội về tài nguyên vật chất, ý tưởng và các thể chế [Cox, 1981,
tr.141-144]. Cox (1989) cho rằng, các cường quốc tầm trung có vai trò giúp định
hình trật tự thế giới thông qua cách tiếp cận từ dưới lên, với khả năng tầm trung của
họ và với một số đặc điểm ngoại giao nhất định. Các nước bá quyền phải phụ thuộc
vào sự công nhận của các nước khác, bao gồm cả các quốc gia nhỏ, cường quốc tầm
trung và các cường quốc [Cox, 1989, tr.829]. Các cường quốc tầm trung tham gia
vào các tổ chức quốc tế để thực hiện các lợi ích nhất định, đặc biệt là sự ổn định
45
toàn cầu. Chúng ta cần nhìn nhận rằng, trật tự thế giới hiện nay, nơi mà Trung Quốc
trỗi dậy đang bước vào, đã, đang và sẽ được định hình bởi các lực lượng xã hội
khác nhau, bao gồm cả các cường quốc tầm trung. Điều đó đồng nghĩa với việc,
Indonesia với tư cách là một cường quốc tầm trung, cũng là một phần cấu tạo và
định hình nên trật tự thế giới hiện có.
Ngoài ra, Holbraad cũng nhấn mạnh rằng, trong tình huống trật tự thế giới là
lưỡng cực, các cường quốc tầm trung buộc phải đưa ra lựa chọn giữa việc gia nhập
một trong hai bên, hoăc có nguy cơ trở thành đối tượng của cuộc cạnh tranh giữa
hai cường quốc, hoăc trở thành một nhân tố quốc tế không liên quan đến trật tự
lưỡng cực này. Tuy nhiên, do thực tế rằng các cường quốc tầm trung không phải là
các quốc gia chuyên quyền, nên họ sẽ không tự bó buộc bản thân với bất kỳ cường
quốc nào, mà sẽ trở thành đối tượng cạnh tranh của các nước lớn [Holbraad, 1984,
tr.119]. Mặt khác, trong cuộc cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc, các cường
quốc tầm trung thường là đối tượng mà các bên muốn thu hút và ràng buộc trong
những cam kết, bởi các quốc gia tầm trung có khả năng lớn hơn các nước nhỏ,
nhưng lại không gây ra mối đe dọa trực tiếp cho các cường quốc, do những hạn chế
về vai trò quốc tế và khả năng về vật chất so với các cường quốc. Trong quan hệ
quốc tế, các cường quốc thường ưu tiên việc phát triển quan hệ nhằm nhận được sự
trung thành của một cường quốc tầm trung hơn là cố gắng giành được sự trung
thành của một cường quốc khác, vì điều này ít rủi ro hơn.
S đồ 2.5. Cân bằng quyền lực giữa ường quốc B (thông qua sự iú đỡ của
ường quốc tầm t n ) đối với ường quốc A
Nguồn: Fels Enrico (2016), Shifting Power in Asia-Pacific? The Rise of China, Sino-US
Competition and Regional Middle Power Allegiance, Springer, Singapore. p.217.
46
Sơ đồ 2.5 cho thấy vai trò của các cường quốc tầm trung trong sự chuyển đổi
cán cân quyền lực tại khu vực. Việc có được sự trung thành của một cường quốc
tầm trung sẽ mang lại những động lực lớn cho các cường quốc trong thời kỳ cạnh
tranh với các cường quốc khác, đồng thời, sự ủng hộ của các cường quốc tầm trung
cũng góp phần giúp các cường quốc tăng cường ảnh hưởng tại khu vực và trên toàn
thế giới [Fels, 2016, tr.219]. Chính vì lẽ đó, sử dụng lý thuyết liên quan đến các
cường quốc tầm trung trong nghiên cứu quan hệ Trung Quốc – Indonesia sẽ lý giải
được vì sao Indonesia lại trở thành một động lực quan trọng đối với chiến lược gia
tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực.
Về chính sách của cường quốc tầm trung trong quan hệ với các cường
quốc, Luận án sử dụng khung phân tích của Kuik C.C (2008), theo đó, tác giả
phân chia thành nhiều nhóm phản ứng nhỏ trong chính sách “phòng bị nước đôi”,
bao gồm: (i) cân bằng gián tiếp (indirect balancing); (ii) từ chối sự thống trị
(dominance denial); (iii) chủ nghĩa thực dụng kinh tế (Economic pragmatism); (iv)
ràng buộc – can dự (binding engagement); (v) “phù thịnh” có giới hạn (limited
bandwagoning) [Kuik, 2008, tr.165-171] (Xem Bảng 2.6).
Bảng 2.6. Phản ứng của một số nước ASEAN với sự trỗi dậy của Trung Quốc
Trong đó, Chủ nghĩa thực dụng về kinh tế (Economic-Pragmatism) là chính
sách khi một quốc gia tìm cách tối đa hóa tăng trưởng về kinh tế từ những tương tác về
47
thương mại trực tiếp và đầu tư với một nước lớn, dù cho giữa hai nước có thể tồn tại
các vấn đề chính trị. Chủ nghĩa thực dụng kinh tế được coi là một điểm trung lập trên
thang đo mức độ chấp nhận hay từ chối quyền lực. Đây là một trong những chính sách
được tất cả các quốc gia ASEAN sử dụng [Kuik, 2008, tr.167]. Ràng buộc – can dự
(Binding-Engagement): “Ràng buộc” là chính sách nhằm thiết lập và duy trì mối liên
hệ với một cường quốc lớn, để tạo ra các kênh liên lạc, tăng cường “cơ hội phát ngôn”
và tầm ảnh hưởng đến các lựa chọn chính sách của một đất nước. Còn “can dự” là hành
động của một quốc gia khi tìm cách thể chế hóa các mối quan hệ của mình với một
nước khác bằng cách đưa mối quan hệ vào khuôn khổ hoạt động ngoại giao thường
xuyên. Khi kết hợp giữa ràng buộc và can dự, mối quan hệ được xã hội hóa và đưa vào
một trật tự đã được thiết lập, nhằm mục tiêu vô hiệu hóa khuynh hướng xét lại của
nước lớn [Kuik, 2008, tr.167]. “Phù thịnh” có giới hạn (Limited-Bandwagoning) là
chính sách khi một quốc gia, với mong muốn đạt được lợi ích trong hiện tại hoặc tương
lai, đã chọn cách liên minh với một cường quốc lớn có triển vọng đạt được ưu thế. Một
quốc gia có thể lựa chọn chính sách phù thịnh có giới hạn đối với một quyền lực đang
lên, trong khi vẫn duy trì quan hệ với quốc gia bá quyền khác. Mặt khác, khi áp dụng
phù thịnh có giới hạn, quốc gia nhỏ hơn sẽ tránh để mất quyền tự trị hay trở nên quá
phụ thuộc [Kuik, 2008, tr.168-169]. Từ chối sự thống trị (Dominance-Denial) là chính
sách nhằm ngăn chặn và từ chối sự xuất hiện của một quyền lực chiếm ưu thế có thể
can thiệp quá mức vào quốc gia nhỏ hơn. Các quốc gia, chủ thể, tập thể nhỏ hơn tìm
cách đạt được mục tiêu này bằng cách: (i) gắn kết với một nước lớn khác trong các vấn
đề khu vực; (ii) phát triển khả năng phục hồi của chính mình và tăng cường sức mạnh
ngoại giao tập thể [Kuik, 2008, tr.169-170]. Cân bằng gián tiếp (Indirect-Balancing) là
thông qua những nỗ lực quân sự như tăng cường sức mạnh quân đội và củng cố hợp tác
quốc phòng với các nước khác để đối phó với những mối đe dọa tiềm ẩn (trái ngược
với mối đe dọa cụ thể trong trường hợp cân bằng đơn thuần) [Kuik, 2008, tr.170].
Luận án sẽ vận dụng lý thuyết liên quan đến cường quốc tầm trung để lý giải
tầm quan trọng của Indonesia trong chiến lược tăng cường ảnh hưởng của Trung
Quốc tại khu vực, đồng thời, nhằm giải thích những mâu thuẫn trong cách ứng xử
48
của Indonesia đối với Trung Quốc trong các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó, Luận
án cũng phân tích chính sách của Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc, nhằm
nhận diện và đánh giá mức độ áp dụng chiến lược “phòng ngừa rủi ro” (hedging)
của Indonesia, từ đó nhận diện đặc điểm bản chất mối quan hệ Trung Quốc –
Indonesia.
2.1.3. Khung phân tích của Luận án
Với đối tượng nghiên cứu là “chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia từ sau năm 2005”, Luận án sử dụng khung phân tích về những chuyển
biến diễn ra trên 3 nội dung lớn có quan hệ Nguyên nhân – Hệ quả, bao gồm: (i)
chuyển biến về bối cảnh; (ii) chuyển biến về chính sách đối ngoại của mỗi nước;
(iii) chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia.
Hình 2.7. Khung phân tích những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc-Indonesia
Nguồn: tác giả chế tác
Trong đó, chuyển biến về bối cảnh bao gồm các phân tích về thay đổi tình
hình quốc tế, khu vực Đông Nam Á, những thay đổi trong tình hình nội bộ Trung
Quốc và Indonesia, và thay đổi về mặt tư tưởng, phong cách chính trị của các cá
nhân lãnh đạo của hai nước. Những chuyển biến về bối cảnh tất yếu sẽ dẫn đến
49
chuyển biến trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Trong nghiên cứu này, Luận
án sẽ tập trung phân tích chuyển biến trong chính sách ngoại giao xung quanh của
Trung Quốc, và chuyển biến trong chính sách của cường quốc tầm trung Indonesia.
Những chuyển biến trong chính sách đối ngoại của mỗi nước sẽ tác động và gây ra
những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, thể hiện trên các lĩnh
vực chính như kinh tế, chính trị - an ninh, văn hóa. Cuối cùng, tất cả những phân
tích trên nhằm nhận diện: (i) chính sách của Trung Quốc đối với một quốc gia tầm
trung; và (ii) ứng phó của nước tầm trung trong quan hệ với Trung Quốc.
2.2. C sở thực tiễn
Nghiên cứu những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia cần
dựa trên cơ sở thực tiễn của mối quan hệ này, cũng chính là nhìn nhận lại lịch sử
quan hệ hai nước trước khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ Trung
Quốc – Indonesia từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến trước khi xây dựng
quan hệ đối tác chiến lược có thể được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn 1950-1967
là giai đoạn đầu trong quan hệ song phương; giai đoạn 1967-1990 cắt đứt quan hệ
ngoại giao và giai đoạn 1990-2005 là giai đoạn khôi phục quan hệ.
Thứ nhất, giai đoạn đầu trong quan hệ song phương (1950-1967)
Sau khi giành độc lập vào năm 1949, Chính phủ Indonesia đã tìm cách xây
dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các yếu tố kinh tế
chiếm ưu thế trong thời kỳ trước, bao gồm các yếu tố liên quan đến Hà Lan và người Hoa. Các biện pháp mà Chính phủ mới áp dụng như Chương trình Benteng1
năm 1950 chống lại lợi ích kinh tế của Hà Lan và Trung Quốc và Quy định Số 10 của Tổng thống2 năm 1959 cấm người Hoa tiến hành kinh doanh bán lẻ bên ngoài
thành phố…, cũng gây nhiều bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng người Hoa,
cũng như làm hạn chế sự phát triển của các yếu tố Trung Hoa.
1 Chương trình Benteng (Benteng System, hay “chính sách thành lũy”): chính sách được Chính phủ Indonesia ban hành năm 1950, theo đó, yêu cầu các nhóm kinh tế mạnh (không bao gồm người Indonesia bản địa, nhưng bao gồm người Hoa ở Indonesia) chuyển quyền vận chuyển, nhập hàng cho người Indonesia bản địa. 2 Quy định Số 10 của Tổng thống: là quy định mang tính pháp lệnh được ban hành ngày 18/10/1959, nghiêm cấm người Hoa buôn bán ở các thôn xóm, đồng thời quy định cụ thể về việc chuyển nhượng và chấm dứt việc bán lẻ của người Hoa.
50
Quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong giai đoạn này chịu nhiều ảnh hưởng
bởi nhân tố người Hoa tại Indonesia. Sau khi giành độc lập, nhà nước Indonesia được
thừa hưởng một cấu trúc giai cấp từ thời thuộc địa Hà Lan, trong đó quyền lực tập
trung trong bộ máy nhà nước, do đó bị giới hạn trong bộ máy quan liêu và quân đội –
nơi được cung cấp một mức độ tự chủ nhất định, do sự yếu kém về kinh tế của người
bản địa, và do sự yếu thế về chính trị của giai cấp tư sản Hà Lan và người Hoa. Đối
với người Hoa, việc duy trì cấu trúc giai cấp này đồng nghĩa với việc tiếp tục địa vị
như những người ngoài (aliens/ others). Họ trở thành “tiêu chí” cần thiết để Chính
phủ Indonesia mới được thành lập xác định “cộng đồng tưởng tượng” không phải
người Hoa. Nói cách khác, người Hoa không có vị trí hợp pháp trong nước cộng hòa
Indonesia mới giành độc lập, dù vẫn giữ vai trò quan trọng về kinh tế. Sự kết hợp
giữa sức mạnh kinh tế và sự bất lực về chính trị này đã khiến giai cấp tư bản người
Hoa vô hại đối với chính quyền Indonesia trong giai đoạn này. Sự tẩy chay của xã hội
Indonesia đối với tư bản Trung Quốc giai đoạn này nhằm phục vụ hai mục đích: tận
dụng tối đa sức mạnh kinh tế của người Hoa nhằm phục vụ toàn bộ nền kinh tế
Indonesia; và làm suy yếu khả năng kết nối giữa các nhà tư bản người Hoa với các
quan chức bản địa đã từng đảm nhận các vị trí chính trị trong thời kỳ thuộc địa [Chua,
2008, tr.35].
Bước sang đầu thế kỷ XX, sự nhiệt thành của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc
khi thành lập nhà nước Trung Quốc mới cũng ảnh hưởng tới người Hoa ở nước ngoài,
làm tăng niềm tin vào giá trị bản thân và bản sắc dân tộc Trung Hoa. Bên cạnh đó,
việc Trung Quốc thúc đẩy sự phát triển của các đảng cộng sản tại các nước Đông
Nam Á trong những năm 50-60 thế kỷ XX cũng được nhận định là một quá trình gia
tăng ảnh hưởng tại khu vực [Hau, 2012, tr.176]. Vào thời điểm phong trào cộng sản
quốc tế bị chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Xô, ĐCS Indonesia (PKI) là đảng cộng
sản lớn thứ ba thế giới đã công khai đứng về phía Bắc Kinh. Cuộc đảo chính bất
thành của một nhóm chính trị Indonesia diễn ra vào tháng 9-1965 bị Chính phủ nước
này quy kết trách nhiệm do ĐCS Indonesia phát động, với sự hỗ trợ của ĐCS Trung
51
Quốc [Manan, 2013]. Tướng Suharto đã tiến hành một cuộc thanh trừng ĐCS trên
quy mô lớn, trong đó, người Hoa bị mặc định là người của ĐCS, bị coi là mối đe dọa
đối với an ninh và sự thống nhất quốc gia [Chua, 2008, tr.42]. Chính điều này là mầm
mống cho những mâu thuẫn về sắc tộc ở Indonesia trong suốt ba thập kỷ tiếp theo.
Thứ hai, giai đoạn cắt đứt quan hệ ngoại giao (1967-1990)
Sau sự kiện ĐCS Indonesia tiến hành đảo chính bất thành vào ngày
30/9/1965, quan hệ ngoại giao giữa hai nước chuyển biến theo hướng ngày càng
xấu đi do Chính phủ Indonesia cho rằng Trung Quốc ủng hộ ĐCS Indonesia phát
động cuộc đảo chính. Tướng Suharto trong cuộc thanh trừ ĐCS Indonesia, ngoài
việc tiêu diệt các phần tử của ĐCS Indonesia, còn hành quyết đông đảo người Hoa
bị nghi ngờ có liên quan đến ĐCS. Hai nước chính thức cắt đứt quan hệ vào năm
1967. Các quan hệ kinh tế trực tiếp giữa hai bên cũng không được tiếp tục. Tuy
nhiên, hai nước vẫn trao đổi mậu dịch thông qua Hong Kong và Singapore [Đàm
Huy Hoàng, 2011, tr.33].
Trong suốt 30 năm tiếp đó, cho dù người Hoa Indonesia vẫn giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Indonesia, nhưng một loạt các chính sách phân biệt đối xử với
người Hoa tại nước này vẫn được thi hành nghiêm ngặt. Trường học của người Hoa
bị buộc đóng cửa vào tháng 7 năm 1966 [Tan, 1991, tr.117], người dân bị cấm học
tiếng Hoa. Các trường đại học hạn chế số lượng học sinh là người Hoa, các cơ hội
việc làm cũng bị hạn chế đối với người Hoa Indonesia [Chua, 2008, tr.40]. Năm
1966, Hội đồng tư vấn nhân dân Cộng hòa Indonesia (MPR) cấm sử dụng
phương tiện truyền thông bằng tiếng Trung Quốc [Tan, 1991, tr.117]. Chữ Trung
Quốc bị cấm tại các cửa hàng và các màn hình công cộng. Báo chí, thơ văn hay
tài liệu tiếng Trung Quốc đều bị hạn chế nhập khẩu [Christian Chua, 2008, tr.40].
Việc nói tiếng Hoa tại các nơi công cộng cũng bị hạn chế. Chính quyền địa
phương Pontianak thậm chí đã tổ chức “Tuần lễ ngôn ngữ Indonesia” và kêu gọi
công dân Indonesia gốc Hoa từ bỏ việc sử dụng tiếng Trung Quốc [Leo, 1976,
tr.780].
Chính phủ mới của Indonesia đã ban hành một nghị định trong đó kêu gọi
52
người Trung Quốc đổi tên thành tiếng Indonesia nhằm đẩy nhanh quá trình đồng
hóa. Nhằm tránh khỏi sự phân biệt đối xử, nhiều người Trung Quốc đã nhanh chóng
tuân thủ điều luật này. Đến giữa năm 1969, khoảng 250.000 người Trung Quốc đã
bỏ tên tiếng Trung của họ [Chua, 2008, tr.40]. Về tôn giáo, việc thực hành công
khai tôn giáo Trung Quốc như Nho giáo, Phật giáo đều bị cấm. Nhiều người Hoa
Indonesia còn chủ động đổi sang đạo Islam để tránh bị coi là cộng sản. Đến năm
1979, Nho giáo đã mất đi vị trí là tôn giáo chính thức của Indonesia. Kết quả của
những chính sách này là đã kiềm chế nghiêm trọng sự phát triển của văn hóa
Trung Hoa tại Indonesia và chỉ còn khoảng 3% người Indonesia tự nhận là người gốc Hoa [Chua, 2008, tr.40].
Thứ ba, giai đoạn khôi phục quan hệ song phương (1990-2005)
Mặc dù hai nước đã thiết lập lại quan hệ ngoại giao vào năm 1990, nhưng sự
căng thẳng chủng tộc giữa người Indonesia gốc Hoa và người bản địa đã lên đến đỉnh
điểm vào tháng 5/1998. Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
đã kéo theo khủng hoảng kinh tế tại Indonesia, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giàu
nghèo giữa người bản địa với người Hoa Indonesia, do sự chênh lệch quá lớn trong
phân phối sản phẩm xã hội giữa người bản địa và người Hoa thiểu số ở Indonesia.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa hai hệ thống kinh tế, với một bên là mô hình kết cấu
hợp tác xã của người dân Indonesia và các nhà doanh nghiệp người bản địa nắm phần
ít sản phẩm xã hội, và bên kia là hệ thống quan hệ cộng sinh giữa các nhà tư bản lớn
người Hoa và cơ chế gia đình trị của Tổng thống Suharto nắm trong tay phần lớn tài
sản xã hội cũng là một nguyên nhân quan trọng. Vì vậy, những bất mãn của người
dân Indonesia đối với hệ thống chính trị đã dẫn đến phản ứng của họ đối với người
Hoa – chỗ dựa kinh tế quan trọng của cơ cấu kinh tế thượng tầng nằm trong tay
những người thống trị ở quốc gia này [Châu Thị Hải, 2001, tr. 48]. Sự bất mãn này đã
thổi bùng lên cuộc bạo động tháng 5, khi tất cả người Hoa ở Indonesia đều trở thành
đối tượng tấn công nhằm “trút giận” của người bản địa [Châu Thị Hải, 2001, tr.39-
42]. Đây đã trở thành một “vết sẹo” trong lịch sử Indonesia cũng như trong quan hệ
giữa người Indonesia bản địa với người Hoa ở Indonesia. Trong suốt một khoảng thời
53
gian dài, tầng lớp tinh hoa Indonesia luôn coi Trung Quốc đại lục, ĐCS Indonesia và
người Hoa Indonesia là “ba sự uy hiếp” đối với sự ổn định của Indonesia [Sukma,
1999, tr.197-199].
Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia chỉ thực sự đáng kể sau
khi Tổng thống Abdurrahman Wahid lên nắm quyền vào năm 1999. Với những thay
đổi trong chính quyền mới, các quyền lợi của người Hoa bắt đầu được coi trọng.
Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại Indonesia, người Hoa được hưởng mức độ tự
do cao nhất. Người Hoa Indonesia đang dần từng bước giành lấy quyền lợi của tộc
người mình. Chính phủ Indonesia cũng không còn nhấn mạnh chính sách đồng hóa,
dần dần nới rộng các hoạt động văn hóa đối với người Hoa. Tổng thống
Abdurrahman Wahid đã xóa bỏ Sắc lệnh số 14 của Tổng thống năm 1967 về việc
cấm người Hoa Indonesia công khai tổ chức các ngày lễ tết của người Hoa tại các khu
vực công cộng. Năm 2000, Tết nguyên đán của người Hoa được phép tổ chức ở
những nơi công cộng tại Indonesia, đồng thời, Nho giáo được chính thức công nhận là một trong những tôn giáo hợp pháp của Indonesia. Đến năm 2002, Tổng thống
Megawati Sukarnoputri phê duyệt để Tết cổ truyền Trung Quốc trở thành ngày lễ
quốc gia Indonesia bắt đầu từ năm 2003. Ngoài ra, các quyền về chính trị dành cho
người Hoa đã được khôi phục, thậm chí hiện nay họ có quyền chạy đua cho vị trí
Tổng thống, khác với quy định trước đây rằng Tổng thống phải là người bản địa
[Refworld, 2006]. Chính phủ mới của Indonesia đã quan tâm nhiều hơn đến việc phát
triển kinh tế với Trung Quốc, thậm chí coi nước này đối tác tiềm năng. Quan hệ kinh
tế và chính trị giữa hai nước được mở rộng đến các lĩnh vực an ninh, quốc phòng
cũng như năng lượng.
Trong lĩnh vực kinh tế, sau khi hai nước tái lập quan hệ, hai nước đã ký kết
nhiều hiệp định hợpt ác trong nhiều ngành nghề như mỏ, rừng, du lịch, đánh cá, vận
tải nông nghiệp, tài chính... Hai nước cũng đã thành lập Ủy ban chung về Hợp tác
kinh tế, thương mại và công nghệ. Nhờ tái lập quan hệ và xây dựng những cơ chế hợp
tác khung, thương mại giữa hai nước có điều kiện để phát triển nhanh. Năm 1990,
tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 545,7 triệu USD, đến năm 1997, con số
54
này đã tăng lên 9 lần, đạt 4514,2 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính từ Trung
Quốc sang Indonesia là các sản phẩm công nghiệp và hàng hóa bán chế tạo như máy
móc, thiết bị điện, vật tư hóa chất, gạo, ngô... Còn Indonesia xuất khẩu sang Trung
Quốc chủ yếu là dầu thô, gỗ tấm, quặng, các sản phẩm cao su và vật tư hóa chất.
Đáng chú ý, cán cân thương mại luôn nghiêng về Indonesia trong giai đoạn này [Đàm
Huy Hoàng, 2011, tr.34].
Tóm lại, quan hệ Trung Quốc – Indonesia trước năm 2005 chưa có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển, đặc biệt khi hai nước trải qua 23 năm cắt đứt quan hệ
ngoại giao. Trong ba giai đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc – Indonesia trước năm
2005, tâm lý chống lại người Hoa Indonesia và “chống cộng sản” là các nhân tố chính
dẫn đến những “Sự kiện lớn” trong quan hệ hai nước, bao gồm sự kiện thanh trừng
ĐCS Indonesia năm 1965 và bạo loạn chống lại người Hoa Indonesia vào năm 1998.
Tuy nhiên, từ sau Chiến tranh Lạnh, cùng với xu hướng hợp tác trong quan hệ quốc tế,
thế hệ lãnh đạo mới của Indonesia, bao gồm các Tổng thống Wahid, Megawati và
Yudhoyono đã có quan điểm và chính sách tích cực trong quan hệ với Trung Quốc,
góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển hợp tác ngày càng mở rộng
giữa hai nước [Đàm Huy Hoàng, 2011, tr.37-38].
2.3. Các nhân tố t độn đến q an ệ T n Q ố – Indonesia
Các nhân tố tác động đến quan hệ Trung Quốc – Indonesia bao gồm các nhân
tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Trong đó, các nhân tố chủ quan là các yếu
tố mang tính quyết định chiều hướng trong quan hệ hai nước.
Một là, các nhân tố khách quan tác động đến quan hệ Trung Quốc -
Indonesia
Thứ nhất, xu thế phát triển của quan hệ quốc tế, có thể nói, xu thế hòa bình,
hợp tác phát triển cùng có lợi là đặc điểm bao trùm của quan hệ quốc tế những năm
đầu thế kỷ XXI. Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ tập trung lực lượng vào cuộc chiến
chống khủng bố, giảm bớt sự quan tâm đến khu vực Châu Á, tạo ra khoảng trống
tạm thời về quyền lực tại khu vực này. Trung Quốc cũng đã tranh thủ được cơ hội hiếm
có này để đẩy mạnh gia tăng ảnh hưởng của mình đối với khu vực mang nhiều ý nghĩa
55
địa chính trị và địa chiến lược này. Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã tăng cường
xây dựng quan hệ đối tác với một loạt quốc gia, trong đó có ASEAN và các quốc gia
thành viên của tổ chức này.
Thứ hai, vai trò của ASEAN trong phát triển chung của khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương và thế giới. Dù chịu nhiều thiệt hại của cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997, ASEAN vẫn là một nhân tố mà các nước lớn muốn gia tăng ảnh
hưởng, do đây là một khối kinh tế, chính trị, an ninh với 581 triệu dân [Lương Quang Đảng, 2016],1 đồng thời sở hữu vị trí địa chiến lược quan trọng ở Biển Đông.
Tiến trình nhất thể hóa khu vực của các quốc gia Đông Nam Á đã đạt được những
thành tựu đáng kể, trở thành mô hình mẫu trong phát triển các tập đoàn quốc gia
vừa và nhỏ. Mô hình hợp tác cùng thắng theo công thức “ASEAN+X”, như ASEAN
+ 1, ASEAN + 3... do tổ chức này sáng lập trong hợp tác với các nước lớn có tác
dụng tích cực trong việc xây dựng cơ chế an ninh khu vực và nhất thể hóa khu vực,
hạn chế những hành vi bá quyền của nước lớn, góp phần tạo sự ổn định và hòa bình
trong khu vực.
Thứ ba, quan hệ Trung Quốc – ASEAN cũng đang có những chuyển biến rõ
rệt. Hiệp định Tự do thương mại ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) ký kết năm 2002
và Chương trình thu hoạch sớm (EHP) được thực hiện với ASEAN-5 (bao gồm
Indonesia, Malaysia, Philipinnes, Thái Lan và Việt Nam) từ năm 2004, đặc biệt việc
Trung Quốc và ASEAN thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng
vào năm 2003 đã tạo nền tảng cho Trung Quốc phát triển quan hệ song phương với
ASEAN cũng như với các nước thành viên của tổ chức này. Với việc ký kết Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác (TAC) vào năm 2003, quan hệ đối tác an ninh Trung Quốc –
ASEAN đã có thêm những động lực phát triển mới. Việc ký kết TAC có tác dụng nhất
định trong việc thuyết phục một số quốc gia khác trong khu vực thúc đẩy quan hệ cở
mở hơn với Trung Quốc. Một trong những dẫn chứng là việc Trung Quốc và Việt Nam
đã tiếp cận vấn đề phân định biên giới trên bộ và biên giới trên biển ở Vịnh Bắc Bộ
theo cách thức hợp tác hơn; quan hệ Trung Quốc – Philippines cũng phát triển với
chuyến thăm của Tổng thống Arroyo vào năm 2004. Kết quả là, vị thế của Trung Quốc
1 Số liệu năm 1999 – năm đầu tiên ASEAN có 10 thành viên.
56
trong khu vực đã được tăng cường nhờ hiệu quả của khung hợp tác ARF [Sriyanto,
2018, tr.74].
Thứ tư, sự tăng cường ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực và Indonesia. Dưới
thời kỳ Tổng thống Obama, Mỹ và Indonesia đã ký kết quan hệ đối tác toàn diện
vào năm 2010. Chính quyền Barack Obama cho rằng Indonesia là một đối tác kinh
tế và an ninh quan trọng, hy vọng rằng Indonesia sẽ là một phần quan trọng của
chiến lược tái cân bằng ở châu Á. Những năm giữa của thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21,
trong quá trình đẩy mạnh chính sách “quay trở lại châu Á” nhằm củng cố lại địa vị
và ưu thế tại khu vực này, việc Mỹ tìm kiếm sự ủng hộ từ phía Indonesia với tư
cách là quốc gia lớn nhất ASEAN về diện tích và dân số là lựa chọn dễ hiểu. Về
phía Indonesia, trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng tại khu vực và gây
nhiều sức ép đối với một số quốc gia ASEAN về các vấn đề trên biển, Indonesia
cũng cần tăng cường quan hệ với Mỹ để tạo thế cân bằng trong các vấn đề trên biển.
Nhu cầu tăng cường quan hệ song phương đã thúc đẩy hai nước Mỹ và Indonesia
nâng cấp lên thành quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2015 trong chuyến thăm Mỹ
của Tổng thống Indonesia Jokowi. Về mặt an ninh, trong chuyến viếng thăm của
Jokowi năm 2015, quan hệ quốc phòng giữa hai nước đã được tăng cường với việc
ký kết một tuyên bố chung về hợp tác quốc phòng toàn diện, bao gồm hợp tác trong
các lĩnh vực như cùng phát triển và hợp tác sản xuất thiết bị quốc phòng. Hai bên
cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác hàng hải, điều phù hợp với chiến lược
“quay trở lại châu Á” của Mỹ và chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” mà Tổng
thống Jokowi đang thúc đẩy.
Từ sau khi chính quyền Trump lên điều hành nước Mỹ, đã có 2 chuyến thăm
cấp cao của chính phủ Mỹ đến Indonesia: chuyến thăm của Phó Tổng thống Mike
Pence (20/4/2017) và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis (22/1/2018). Điều
này phần nào cho thấy nhu cầu mạnh mẽ trong việc thúc đẩy quan hệ với Indonesia
của chính quyền Trump. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis diễn
ra trong bối cảnh các hoạt động gây hấn của Trung Quốc (triển khai hải quân, chiếm
57
đảo san hô, xây dựng đảo và pháo đài) đang diễn ra nhằm giúp nước này giành
quyền kiểm soát tốt hơn trên phần lớn Biển Nam Trung Hoa. Đối với Mỹ, tham
vọng của Trung Quốc ở Biển Đông là một thách thức trực tiếp đối với sự hiện diện
quân sự Mỹ trong khu vực. Nếu Mỹ muốn duy trì vị trí của mình trong các vấn đề
hàng hải của khu vực này trong khi tham vọng bành trướng của Trung Quốc tại
vùng biển này đang ngày càng thể hiện rõ, chắc chắn Washington sẽ cần sự hỗ trợ
tích cực từ Indonesia. Ngược lại, nếu Indonesia muốn bảo vệ thành công lợi ích
hàng hải của mình (và khu vực Đông Nam Á rộng lớn hơn), chắc chắn sẽ cần sự hỗ
trợ đáng kể của Mỹ. Hỗ trợ quốc phòng của Mỹ tập trung vào việc tăng cường lực
lượng bảo vệ bờ biển của Indonesia bằng cách cung cấp đào tạo và máy móc thiết bị
cứng [Izzuddin, 2018]. Nhiều người trong giới tinh hoa chính trị Indonesia tiếp tục
coi Mỹ như một đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đông Nam Á, đồng
thời cho rằng Trump có nhiều khả năng ngăn chặn hành vi hung hăng của Trung
Quốc trong khu vực hơn là người tiền nhiệm [Harding, Sutton, 2017].
Thứ năm, cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực. Trong những thập niên
cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, châu Á – Thái Bình Dương trở thành một trong
những động lực chủ yếu cho sự phát triển của thế giới, thế kỷ XXI được dự báo là “Thế
kỷ châu Á – Thái Bình Dương”. Chính bởi thế, rất nhiều nước lớn trên thế giới đều coi
trọng và điều chỉnh chiến lược đối với khu vực này nhằm tăng cường, cạnh tranh ảnh
hưởng với các nước lớn khác. Đầu năm 2011, Mỹ tuyên bố chuyển trọng tâm chiến
lược toàn cầu sang châu Á – Thái Bình Dương, nhằm tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo thế
giới, đặc biệt với khu vực đầy tiềm năng phát triển này. Trung Quốc cũng tiến hành
điều chỉnh chính sách đối ngoại, đưa ra chiến lược “Vành đai và Con đường” (tháng
10/2013), nhằm tăng cường sức ảnh hưởng trong khu vực và trên toàn thế giới. Bên
cạnh đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn đưa ra “quan điểm an ninh châu Á
mới” (tháng 5/2014), chủ trương “công việc của châu Á cần dựa vào nhân dân châu Á
để giải quyết” [习近平, 2014], nhằm tìm kiếm vai trò chủ đạo trong hệ thống an ninh
khu vực. Trong khi đó, kể từ khi Tổng thống V.Putin lên cầm quyền vào năm 2000,
Nga đã tiến hành chiến lược hướng Đông nhằm: khai thác tiềm năng các nền kinh tế
58
đang phát triển để đầu tư cho phát triển trong nước; tiếp cận thị trường lớn về tài
nguyên năng lượng ở châu Á; mở rộng thị trường vũ khí ở châu Á [Đồng Xuân Thọ,
2016, tr.104].
Đối với Nhật Bản, Đông Nam Á là khu vực nắm giữ vị trí địa chiến lược quan
trọng, việc phát triển quan hệ với khu vực này giúp Nhật đảm bảo được các mục tiêu về
an ninh, phát triển và tăng cường vị thế trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Cụ
thể, về mục tiêu an ninh, việc tăng cường quan hệ với khu vực Đông Nam Á tạo điều
kiện thuận lợi cho Nhật đối phó với những tác động tiêu cực từ sự trỗi dậy của Trung
Quốc với sự kiện Trung Quốc vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới, đồng thời, công khai thể hiện tham vọng về Biển Đông và Biển Hoa Đông. Về
mục tiêu phát triển, khu vực Đông Nam Á là một thị trường có thể bổ sung cho những
ngành công nghiệp nội địa đang bị thu hẹp của Nhật, đồng thời, là một nguồn cung lao
động giá rẻ, dồi dào và thị trường tiêu thụ rộng lớn. Về mục tiêu ảnh hưởng, Đông
Nam Á là khu vực mà Nhật Bản có thể gia tăng ảnh hưởng nhằm phục vụ cho ngoại
giao nước lớn, đồng thời, góp phần giảm thiểu tác động từ khó khăn trong quan hệ với
các nước Đông Bắc Á, và giúp độc lập hơn với Mỹ… [Nguyễn Vũ Tùng, Nguyễn
Thùy Anh, 2017, tr.94-96].
Còn đối với Ấn Độ, nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia Đông Bắc Á,
Đông Nam Á, Ấn Độ cũng thực hiện “chính sách hướng Đông” (công bố năm 1992),
và thay thế bằng chính sách “Hành động phía Đông” từ năm 2014. Với chính sách mới
này, Ấn Độ công khai lợi ích của mình tại Biển Đông, thể hiện trên cả lĩnh vực kinh tế
và an ninh. Về kinh tế, phần lớn hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu của Ấn Độ được vận
chuyển bằng đường biển, trong đó, 55% được vận chuyển qua eo biển Malacca tới các
thị trường châu Á – Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Ấn Độ còn có lợi ích về năng
lượng trong các dự án hợp tác dầu khí. Về an ninh, sự an toàn của tuyến đường vận tải
biển qua Biển Đông có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Ấn Độ, do đó nước
này luôn tìm cách tăng cường hiện diện hải quân và “quyền tiếp cận” ở Biển Đông
[Đồng Xuân Thọ, 2016, tr.105]. Tóm lại, khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó
59
có Đông Nam Á, đang chứng kiến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các cường
quốc trong khu vực trên tất cả các lĩnh vực, bao gồm chính trị ngoại giao, an ninh, kinh
tế…
Như vậy, có thể thấy, những biến đổi trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương
nói chung, khu vực Đông Nam Á nói riêng những năm đầu thế kỷ XXI, như những tiến
triển trong hợp tác kinh tế Trung Quốc – ASEAN, cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn tại khu vực Đông Nam Á ... đã tạo ra không ít cơ hội và thách thức đối với
các quốc gia thành viên ASEAN. Điều này đòi hỏi các nước ASEAN, trong đó có
Indonesia, cần lựa chọn chiến lược trong hợp tác với các nước lớn, đặc biệt với Trung
Quốc, nhằm thu được tối đa lợi ích về kinh tế, đồng thời phát huy được những ưu thế
về địa chính trị của mình.
Hai là, các nhân tố chủ quan tác động đến quan hệ Trung Quốc -
Indonesia
Về phía Trung Quốc, từ năm 1990, Trung Quốc bắt đầu tiến hành chính sách
ngoại giao láng giềng, nhằm mục đích tăng cường quan hệ đối với các nước láng
giềng. Chính sách này vừa nhằm mục đích giành sự ủng hộ của các nước Đông
Nam Á trong bối cảnh Trung Quốc đang bị các nước phương Tây chỉ trích vì sự
kiện Thiên An Môn, vừa nhằm giữ được vai trò lớn hơn về kinh tế trong khu vực
Đông Nam Á. Mặt khác, trong bối cảnh Trung Quốc trở thành “công xưởng thế
giới”, với mức độ phụ thuộc vào kinh tế đối ngoại là 70%, nước này cần kết hợp thu
hút vốn đầu tư nước ngoài và đưa doanh nghiệp của mình ra bên ngoài nhằm chủ
động điều chỉnh kết cấu ngành nghề, phân phối nguồn lực ở một không gian rộng
lớn hơn. Chiến lược “Đi ra ngoài” được Trung Quốc thúc đẩy mạnh bắt đầu từ năm
2002 nhằm mục đích đó. Bên cạnh đó, Trung Quốc tích cực thúc đẩy quan hệ với
các nước đang phát triển thông qua hợp tác Nam – Nam nhằm duy trì tăng trưởng
kinh tế, bởi các nước này sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô
phong phú và dồi dào.
Chiến lược “Đi ra ngoài” này tiếp tục được thúc đẩy với những hình thức
mới trong giai đoạn hiện nay. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau khi lên nắm
60
chính quyền một thời gian đã đưa ra sáng kiến “Vành đai và Con đường” (2013), với
hai trục chính là “Con đường tơ lụa trên bộ” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ
21”, nhằm phục vụ các công ty quốc doanh Trung Quốc ký kết hợp đồng đầu tư ở
nước ngoài, qua đó góp phần giải quyết tình trạng sản xuất dư thừa, lao động dư thừa
ở trong nước. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ
21” sẽ phục vụ cho sự phát triển hàng hải của các nước dọc theo tuyến đường, mở
rộng giao thương trên biển, đồng thời thúc đẩy sự thịnh vượng trong khu vực. Trong
khi đó, Indonesia có vị trí chiến lược quan trọng khi có tuyến hàng hải quan trọng
chạy qua khu vực eo biển Malacca - một vị trí có thể kiểm soát được tự do hàng hải
giữa Biển Đông và Ấn Độ Dương, cũng là con đường nhập khẩu dầu thô chính của
Trung Quốc. Chính vì thế, phát triển quan hệ với Indonesia, đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.
Mặt khác, nhiều ví dụ thực tế cho thấy, chính sách hiện nay Trung Quốc thường áp
dụng đối với các nước nhỏ là: cho phép các nước này thu lợi về kinh tế, đổi lại Trung
Quốc sẽ nhận được những quan hệ chính trị tốt đẹp. Điều này khiến BRI nói chung,
và chiến lược “Con đường tơ lụa trên biển” nói riêng của Trung Quốc gặp phải nhiều
nghi ngờ từ các nước xung quanh. Nếu nhận được sự ủng hộ của Indonesia – quốc gia
đứng đầu ASEAN - trong việc xây dựng BRI sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
Trung Quốc trong việc triển khai Sáng kiến này.
Về phía Indonesia, trước những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính năm
1997, Indonesia cần vay vốn nhiều hơn từ nước ngoài để phục hồi kinh tế. Trong
khi Quỹ IMF được coi là nguồn đáng tin cậy nhất đã không phản ứng kịp thời, thì
Trung Quốc đề nghị giúp đỡ bằng cách viện trợ Indonesia và hứa sẽ không tăng giá
đồng NDT. Bên cạnh đó, phản ứng của Trung Quốc đối với cuộc thảm sát tháng 5 -
1998 được coi là ngoại giao hơn so với những lần trước đó. Ngoài ra, việc Tổng
thống Suharto từ chức cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn để tăng cường
quan hệ Trung Quốc - Indonesia. Năm 1999, Tổng thống Indonesia Abdurrahman
Wahid đã đến Trung Quốc trong chuyến thăm ngoại giao đầu tiên của mình.
Chuyến đi này cũng nhằm mục đích gây ảnh hưởng để người Hoa Indonesia trở lại
61
và tái đầu tư vào Indonesia. Từ đó, chính phủ Indonesia đã bắt đầu thay đổi chính
sách đối với Trung Quốc. Các hoạt động văn hóa, trường học, tôn giáo và một số
quyền của người Trung Quốc được Chính phủ Indonesia công nhận. Đây cũng là
một trong những tiền đề thuận lợi cho việc nâng cấp quan hệ hai nước lên đối tác
chiến lược vào năm 2005.
Ngoài ra, sau khi lên nhậm chức không lâu, Tổng thống Indonesia Joko
Widodo đã đưa ra chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” (năm 2014), chuyển trọng tâm
phát triển chiến lược quốc gia từ đất liền hướng ra biển. Chiến lược này bao gồm hai
trụ cột chính là xây dựng cơ sở hạ tầng biển và bảo vệ chủ quyền biển. Chiến lược
được đưa ra trong bối cảnh suốt một thời gian dài, cơ sở hạ tầng của Indonesia ở
trạng thái đình trệ, thậm chí xuống cấp, về cơ bản không theo kịp tốc độ phát triển
kinh tế của nước này. Cơ sở hạ tầng yếu kém khiến chi phí vận chuyển ngay giữa các
đảo trong nội bộ Indonesia cao hơn nhiều so với chi phí vận chuyển từ các nước như
Trung Quốc, Singapore tới Indonesia. Với chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”, Tổng
thống Widodo không chỉ mong muốn biến Indonesia tăng cường liên kết bên trong
Indonesia, đồng thời muốn khiến Indonesia trở thành cửa ngõ kết nối Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương. Về mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, chiến lược sẽ triển
khai triển khai ngoại giao biển, tăng cường thực lực hải quân để bảo vệ quyền lợi tài
nguyên biển, phát huy ưu thế địa chính trị quốc gia quần đảo.
Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia và “Con đường tơ lụa trên
biển thế kỷ 21” của Trung Quốc đều nhằm thông qua hợp tác cùng thắng để giúp mỗi
nước nước phát triển tốt hơn. Hai chiến lược trên có nhiều điểm trùng khớp về phạm
vi và lĩnh vực, việc kết nối chiến lược cũng đã được lãnh đạo cấp cao hai nước đưa
vào Tuyên bố chung năm 2015. Một loạt các hiệp định hợp tác giữa chính phủ hai
nước về việc đảm bảo kết nối chiến lược đã được ký kết, với nội dung chủ yếu liên
quan đến quy hoạch phát triển 5 năm trong hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai
nước, Hiệp định cùng xây dựng Khu công nghiệp chung, các hợp tác về du lịch, về
ngư nghiệp, khí hậu... Có thể thấy, hai nước Trung Quốc và Indonesia có cơ sở hợp
tác tương đối vững chắc, khi hai nước có sự trùng khớp trong quy hoạch và chiến
62
lược phát triển kinh tế xã hội.
Tiểu kết ư n 2
Về cơ sở lý luận, việc khảo sát các vấn đề liên quan đến lý thuyết về quan hệ
đối tác, Thuyết bất đối xứng, cường quốc tầm trung, các khái niệm liên quan đến sự
chuyển biến… đã góp phần xây dựng một khung lý thuyết của Luận án. Theo đó,
các chương tiếp theo của Luận án sẽ thông qua việc phân tích thực trạng quan hệ
Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005 trong các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh
tế, văn hóa – xã hội, phân tích Xu hướng phát triển, Các sự kiện lớn, Các thành tựu
lớn, nhằm nhận diện sự chuyển biến trong quan hệ hai nước. Từ đó, Luận án đối
chiếu với các dạng thức của sự chuyển biến để đánh giá tính chất của sự chuyển
biến là thay đổi tiệm tiến hay đột biến, có dẫn đến sự thay đổi mang tính hệ thống
hay không. Từ thực trạng quan hệ hai nước trong từng lĩnh vực, đối chiếu với các
mức độ của quan hệ đối tác chiến lược do Gajauskaite (2013) đưa ra để đánh giá
mức độ của quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia thuộc thang độ
Chính thức, Chính thức – Mật thiết, Thực chất, hay Thực chất hiệu quả. Bên cạnh
đó, phân tích chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc, đánh giá mức độ thực
hiện chính sách “phòng ngừa rủi ro” của Indonesia thông qua các biểu hiện chính
sách cụ thể theo mô hình mà Kuik C.C (2008) đưa ra.
Về cơ sở thực tiễn, lịch sử phát triển quan hệ Trung Quốc – Indonesia đưa
ra một bức tranh tổng thể về những chuyển biến trong quan hệ, cùng những nhân
tố quan trọng dẫn đến sự chuyển biến này, bao gồm nhân tố người Hoa Indonesia
và tâm lý “chống cộng sản” ở Indonesia. Đây sẽ là cơ sở để sau khi nghiên cứu,
tác giả có thể tiến hành đối chiếu so sánh các nhân tố, nhằm nhận diện quy luật
xuất hiện nhân tố dẫn đến sự biến đổi. Ngoài ra, các nhân tố bên ngoài như tình
hình thế giới và khu vực, đặc biệt là quan hệ Trung Quốc – ASEAN, cùng các
nhân tố đến từ bên trong nội bộ Trung Quốc và Indonesia, là các nhân tố quan
trọng cần phân tích để tìm ra nguyên nhân của sự chuyển biến quan hệ trong thời
63
gian từ sau năm 2005 tới nay.
C ư n 3.
THỰC TRẠNG CHUYỂN BIẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA
TRONG CÁC LĨNH VỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY
Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia diễn ra trong bối cảnh môi
trường chính trị thế giới, khu vực và bản thân hai nước có nhiều biến đổi. Trước
những thay đổi của cả môi trường bên trong và bên ngoài, hai nước đã có sự điều
chỉnh trong các chính sách đối ngoại với nước đối tác, đồng thời, có những thay đổi
trong chính sách, biện pháp thực thi cụ thể trên từng lĩnh vực như chính trị - an
ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội.
3.1. Nhữn điều chỉnh về chính sách của Trung Quốc và Indonesia
trong quan hệ son ư n từ năm 2005 đến nay
Những điều chỉnh về chính sách của Trung Quốc và Indonesia được thể hiện
rõ nhất và trước tiên là trong các văn kiện chính thức, các tuyên bố chung của hai
nước. Ngoài ra, việc điều chỉnh chính sách này còn được thể hiện qua thay đổi trong
tư tưởng của lãnh đạo cấp cao hai nước, qua những ưu tiên chính sách mà hai nước
dành cho nhau.
3.1.1. Điều chỉnh trong phối hợp chính sách của hai nước
Như đã trình bày ở phần 2.2.2 Chương 2, từ những chuyển biến về bối cảnh
thế giới và khu vực, về tình hình trong nước của Trung Quốc và Indonesia, hai
nước đã có sự thay đổi trong cách đánh giá nước đối tác, nhu cầu tăng cường quan
hệ song phương cũng tăng lên. Trong các nhân tố có thể dẫn tới chuyển biến trong
quan hệ song phương mà Holsti (1998) đề cập đến, “các sự kiện lớn” (Great
Events) là nhân tố dễ nhận thấy nhất. Trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ
sau năm 2005, việc ký kết các tuyên bố chung được coi là các sự kiện lớn trong
quan hệ song phương. Hầu như trong các chuyến thăm chính thức của lãnh đạo
cấp cao hai bên, Trung Quốc và Indonesia đều ký kết Tuyên bố chung và các văn
bản hợp tác, trong đó, hai văn bản được coi là đánh dấu sự thay đổi trong quan hệ
64
hai nước, là Tuyên bố chung năm 2005 thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, và
Bản Quy hoạch phát triển quan hệ song phương năm 2013 nâng cấp quan hệ hai
nước lên thành đối tác chiến lược toàn diện.
Quan điểm chính sách của Trung Quốc và Indonesia về phát triển quan hệ
song phương được thể hiện trong Tuyên bố chung năm 2005. Nội hàm “quan hệ
đối tác chiến lược Trung Quốc - Indonesia” được hai nước xác định rõ trong
“Tuyên bố chung về việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa nước CHND
Trung Hoa và nước CH Indonesia” (năm 2005) là: “mối quan hệ không kết đồng
minh, không loại trừ, nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn thịnh của hai nước
và nhân dân hai nước”. Điều này báo hiệu rằng hai nước từ chối các liên minh
quân sự. Đáng chú ý, mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia được hai nước xác
định “là trụ cột quan trọng nhằm tăng cường quan hệ đối tác chiến lược Trung
Quốc – ASEAN, cũng là một nội dung quan trọng của hợp tác Nam – Nam giữa
các quốc gia đang phát triển”. Mối quan hệ này cần đóng vai trò “là nền tảng cho
các diễn đàn và tổ chức khu vực, liên khu vực và quốc tế triển khai sự điều phối và
hợp tác chặt chẽ”. Điều này cho thấy lãnh đạo hai nước đã xác định rằng mối quan
hệ Trung Quốc – Indonesia cần được đặt trong tổng thể các vấn đề khu vực và
quốc tế, đồng thời hai bên đều nhận thức rõ vai trò của mối quan hệ này đối với sự
phát triển chung của khu vực. Hai nước xác định các nội dung hợp tác bao gồm 28
điều, chia thành 3 lĩnh vực chủ yếu là: “tăng cường hợp tác chính trị an ninh, đi
sâu hợp tác kinh tế và phát triển, thúc đẩy hợp tác văn hóa xã hội, mở rộng giao
lưu nhân dân”. Như vậy, có thể chia nội dung quan hệ đối tác chiến lược Trung
Quốc – Indonesia thành 3 trụ cột chính bao gồm: chính trị - an ninh, kinh tế phát
triển và văn hóa - xã hội [Sina, 2005].
Đến tháng 1/2010, một Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố chung về
quan hệ đối tác chiến lược giữa Trung Quốc và Indonesia đã được ký kết giữa hai
nước, bổ sung thêm một số điều khoản, nêu bật các ưu tiên của hai nước trong giai
đoạn đó, bao gồm hợp tác về năng lượng, thủy sản và đầu tư [新华网, 2010]. Hợp
tác về kinh tế là vấn đề chủ yếu được đề cập trong Kế hoạch hành động, với hầu
65
hết các điểm xung quanh hợp tác thương mại và đầu tư (bao gồm cả những điểm
thúc đẩy tiến độ của một số dự án cơ sở hạ tầng). Kế hoạch hành động cũng đề
xuất hình thành một loạt các cuộc đối thoại và hội nghị thượng đỉnh giữa các quan
chức cấp cao hai nước, nhằm phối hợp chính sách và thực hiện các ưu tiên này.
Tuy nhiên, Kế hoạch hành động không đưa ra mục tiêu cụ thể mà hai nước cần đạt
được. Hầu hết các điều khoản trong Kế hoạch hành động chỉ đơn giản cho thấy
một cam kết đối với việc cải tiến đối thoại, hay thúc đẩy hợp tác, mà không chỉ ra
rõ ràng bất kỳ một con số hay cột mốc nào đo lường cho thành công của việc hợp
tác. Ví dụ, mặc dù mong muốn tăng cường hợp tác trong lĩnh vực du lịch và
thương mại, nhưng trong Kế hoạch hành động không chỉ ra con số cụ thể mà hợp
tác cần đạt tới [Priyandita, 2019, tr.16].
Trong chuyến thăm Indonesia của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình năm
2013, hai nước đã ký kết văn bản nâng cấp quan hệ hai nước lên thành “đối tác
chiến lược toàn diện”. Cả hai bên xác định chuyến thăm này “mang ý nghĩa lịch
sử”, “sẽ mở ra kỷ nguyên mới cho quan hệ hai nước” [新华网, 2013]. Nội hàm
Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc và Indonesia được hai nước xác
định với những bổ sung, nâng cấp về mặt nội dung so với lần ký kết năm 2005. Bản
Quy hoạch năm 2013 bao gồm 31 điều (từ Điều 6 đến Điều 36), chia thành 5 lĩnh
vực chính, bao gồm: (1) Chính trị, quốc phòng và an ninh; (2) Kinh tế và phát
triển; (3) Hợp tác trên biển, hàng không và khoa học kỹ thuật; (4) Hợp tác về xã
hội, văn hóa; (5) Hợp tác quốc tế và khu vực [新华网, 2013].
So sánh cách gọi mối quan hệ được Trung Quốc và Indonesia sử dụng trong
Tuyên bố chung năm 2005 và Bản Quy hoạch năm 2013, có thể thấy, sự thay đổi
từ “quan hệ đối tác chiến lược” thành “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” là kết
quả sự thay đổi trong cách định vị mối quan hệ song phương của cả Trung Quốc
và Indonesia. Rõ ràng, hai nước đã đặt mối quan hệ ở một tầng bậc cao hơn trong
chiến lược ngoại giao của mình. Bên cạnh đó, từ các điều khoản được ký kết trong
hai văn bản này, có thể thấy, nội dung Bản Quy hoạch năm 2013 phong phú hơn, cụ
thể hơn, chứng tỏ mối quan tâm và nhu cầu hợp tác song phương đã phát triển
66
theo cả chiều sâu và chiều rộng. Bản Quy hoạch năm 2013 đã tăng thêm 2 nội
dung so với Tuyên bố chung năm 2005, là “hợp tác trên biển, hàng không và khoa
học kỹ thuật” và “hợp tác quốc tế và khu vực”. Trong phần “hợp tác trên biển,
hàng không và khoa học kỹ thuật”, Bản Quy hoạch đã đưa ra một lĩnh vực mới
trong hợp tác song phương, trong đó chỉ rõ các cơ chế cụ thể triển khai hợp tác, ví
dụ như Ủy ban Hợp tác trên biển, Quỹ hợp tác trên biển Trung Quốc – Indonesia,
Ủy ban khoa học kỹ thuật Trung Quốc – Indonesia, các văn bản xây dựng khung
hợp tác như Bản ghi nhớ về hợp tác ngư nghiệp giữa Bộ Nông nghiệp nước CHND
Trung Hoa và Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp Indonesia... (từ Điều 19 đến Điều 22).
Việc tách “hợp tác quốc tế và khu vực” thành một nội dung độc lập, ngang hàng
với các lĩnh vực hợp tác khác cho thấy hai nước đã định vị cao hơn vai trò của
quan hệ song phương đối với cục diện hợp tác quốc tế và khu vực. Các hợp tác
quốc tế và khu vực được nhắc tới trong Bản Quy hoạch bao gồm: hợp tác Trung
Quốc – ASEAN, duy trì hòa bình và ổn định trên biển, thúc đẩy các hợp tác trong
khuôn khổ APEC, G20, trong vấn đề biến đổi khí hậu... (từ Điều 29 đến Điều 36) [
新华网, 2013].
Bên cạnh đó, trong nội dung ký kết có 3 mục liên quan đến đầu tư cơ sở hạ
tầng tại Indonesia (Điều 14, 15, 16), thể hiện định hướng hợp tác giữa hai nước
trong giai đoạn mới sẽ tập trung vào vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng tại Indonesia –
một lĩnh vực mà hai nước có điều kiện bổ sung cho nhau, do Indonesia cần tăng
cường xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ phát triển kinh tế, còn Trung Quốc cần
chuyển bớt sức lao động và sản xuất dư thừa ra bên ngoài thông qua các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng. Vấn đề duy trì ổn định hòa bình trên Biển Đông cũng được
nhắc tới cụ thể hơn trong Bản Quy hoạch (Điều 33). Trong Tuyên bố chung năm
2005, hai bên mới chỉ đưa ra việc “Thúc đẩy thực hiện ‘Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông’ (DOC), khiến biển Đông trở thành diễn đàn hợp tác và cầu
nối hữu nghị”, còn trong Bản Quy hoạch năm 2013 đã bổ sung thêm yêu cầu cần
“tăng cường tin cậy lẫn nhau” và việc thúc đẩy ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên
Biển Đông (COC). Nhìn lại bối cảnh khu vực, hai nước ký kết Bản Quy hoạch
67
2013 diễn ra trong lúc căng thẳng giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN đang
leo thang do vấn đề tranh chấp về chủ quyền biển đảo, đặc biệt vào tháng 5/2011
với Việt Nam, tháng 4/2012 với Philippines, và việc Philippines chính thức kiện
Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Quốc tế vào tháng 1/2013. Những sự kiện này đã
gây ảnh hưởng nghiêm trọng, làm giảm sút đáng kể hình ảnh của một nước Trung
Quốc luôn tuyên bố là “trỗi dậy hòa bình”. Không chỉ vậy, vấn đề Biển Đông còn
gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN, năm 2012, lần đầu tiên ASEAN không đưa ra
được Tuyên bố chung vì vấn đề này. Trước tình hình này, Indonesia đã phát huy vai trò trung gian hòa giải, chính sách “ngoại giao con thoi”1 đã giúp khôi phục
đoàn kết khu vực về vấn đề biển Đông bằng cách đặt ra Tuyên bố “Nguyên tắc 6 điểm về vấn đề Biển Đông”.2 Trong bối cảnh như vậy, việc đưa thêm nội dung
“tăng cường tin cậy lẫn nhau” vào Bản Quy hoạch phát triển quan hệ Trung Quốc
– Indonesia cho thấy nhu cầu của Trung Quốc trong việc muốn thông qua
Indonesia – quốc gia có vai trò trung gian hòa giải trong các tranh chấp trên biển –
để tăng cường lòng tin vốn đang ngày càng giảm sút đối với Trung Quốc của các
quốc gia ASEAN.
Tóm lại, với những thay đổi trong tình hình quốc tế và khu vực, cùng sự
thay đổi từ bản thân Trung Quốc và Indonesia, hai nước đã có những điều chỉnh
kịp thời trong chính sách chung về quan hệ song phương, thể hiện qua hai văn
kiện mang tính cột mốc trong quan hệ hai nước. Những điều chỉnh, nâng cấp về
nội dung trong Bản Quy hoạch ký kết năm 2013 cho thấy trong bối cảnh mới,
Trung Quốc và Indonesia cần tăng cường hợp tác song phương không chỉ vì vai
trò quan trọng của hai nước đối với khu vực, mà còn vì hai bên cần nhau hơn
trong các chiến lược phát triển quốc gia của riêng mình. Bản Quy hoạch nâng cấp
1 “Ngoại giao con thoi”: được sử dụng khi hai bên xảy ra tranh chấp không thể công khai công nhận lẫn nhau về mặt ngoại giao, khiến cho việc đàm phán trực tiếp giữa hai bên khó có thể xảy ra. Hoạt động ngoại giao con thoi được sử dụng giúp một bên thứ ba truyền đạt thông tin qua lại giữa hai bên xảy ra tranh chấp (theo Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2013), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Khoa Quan hệ quốc tế - Đại học KHXH&NV Tp HCM, tr.164-165). 2 Tuyên bố “Nguyên tắc 6 điểm về vấn đề Biển Đông”: Ngày 13/7/2012, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Campuchia đã không thể đưa ra tuyên bố chung do có điểm bất đồng trong cách giải quyết đối với vấn đề Biển Đông. Ngay sau đó, cựu Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa đã có những chuyến ngoại giao con thoi để vận động các quốc gia liên quan tránh không để xảy ra những bất đồng và tiếp tục thể hiện tình đoàn kết của ASEAN đối với những vấn đề lớn của khu vực. Ngày 20-7, các nước thành viên ASEAN đã nhất trí ra tuyên bố “Nguyên tắc 6 điểm về vấn đề Biển Đông”.
68
quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện chi tiết hơn so với Tuyên bố chung
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, cho thấy có sự tin tưởng ngày càng tăng giữa
hai nước để cùng làm việc trong các lĩnh vực vượt ra ngoài thương mại và an ninh truyền thống. Do đó các hạng mục hợp tác cũng được cụ thể hóa, với các cơ chế
hợp tác rõ ràng, thể hiện mong muốn hợp tác thực chất giữa hai nước, đặc biệt
trong lĩnh vực kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng.
3.1.2. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ
song phương giai đoạn 2005-2013
Giai đoạn 2005-2013 là giai đoạn Trung Quốc và Indonesia triển khai các
điều khoản, lĩnh vực hợp tác được xác định trong bản Tuyên bố chung thiếp lập
quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước. Trong khi chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đối với Indonesia giai đoạn này mang đậm dấu ấn cá nhân của Chủ tịch Hồ
Cẩm Đào, thì chính sách đối ngoại của Indonesia với Trung Quốc mang đậm dấu ấn
của Tổng thống Yudhoyono.
3.1.2.1. Chính sách của Trung Quốc thời kỳ Hồ Cẩm Đào
Từ khi nước CHND Trung Hoa được thành lập đến nay, đặc biệt từ sau cải
cách mở cửa, các chính sách ngoại giao của Trung Quốc luôn được xây dựng trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa Trung Hoa,
kết hợp với tình hình quốc tế và trong nước tại giai đoạn đó để đưa ra những lý luận
chiến lược quốc tế mang tính thời đại, giành được thế chủ động về chiến lược. Đặng
Tiểu Bình căn cứ vào những phán đoán về thay đổi trong tình hình quốc tế và trong
các xu thế chủ lưu, đã có những điều chỉnh kịp thời về chính sách đối ngoại, giúp
Trung Quốc chủ động nắm bắt được cơ hội thúc đẩy kinh tế phát triển. Giang Trạch
Dân khi lãnh đạo Trung Quốc bước vào thế kỷ XXI đã đưa ra tư tưởng chiến lược
“ba tập trung”, gồm: tập trung vào quan hệ nước lớn trong cục diện chiến lược thế
giới, tập trung vào địa chiến lược để tích cực phát triển quan hệ với xung quanh, tập
trung mở rộng không gian chiến lược và triển khai ngoại giao đa phương...[江泽民,
2006, tr.352-356]. Đến thời kỳ Hồ Cẩm Đào, trong 10 năm cầm quyền, ông đã đưa
69
ra yêu cầu cần nắm bắt đại cục trong nước và quốc tế, cho thấy tư tưởng chiến lược
quốc tế của Trung Quốc đã được mở rộng cả về mặt địa lý lẫn phạm vi lĩnh vực,
điều này cũng được lý giải bởi Trung Quốc thời điểm này đang chuyển đổi từ nước
lớn trong khu vực thành nước lớn trên toàn cầu [杨洁勉, 2018, tr.].
Chính sách của Trung Quốc trong quan hệ với Indonesia giai đoạn 2005-
2013 mang nhiều dấu ấn lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào (2002-2012) và được đặt trong
tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc, đặc biệt trong mối quan
hệ Trung Quốc – ASEAN. Với sự thay đổi của tình hình quốc tế, cùng với việc
Trung Quốc ngày càng củng cố được vị thế trong khu vực và trên thế giới, chính
sách đối ngoại trong thời kỳ Ôn Gia Bảo là “trỗi dậy hòa bình” (和平崛起) hay
“phát triển hòa bình” (和平发展) [温家宝, 2005].
Trong Đại hội Đảng lần thứ XVI năm 2002, chính sách đối ngoại của Trung
Quốc được Giang Trạch Dân nhắc đến theo thứ tự: (i) quan hệ với các nước phát
triển; (ii) quan hệ với các nước láng giềng; (iii) quan hệ với các nước đang phát triển;
(iv) ngoại giao đa phương [江泽民, 2008]. Đây là lần đầu tiên các nước láng giềng
được nhấn mạnh vai trò chính yếu trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc tại Đại
hội Đảng. Cụ thể, báo cáo Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc đã đề ra phương châm
ngoại giao láng giềng là: “thân thiện với láng giềng, làm bạn với láng giềng”. Trên cơ
sở đó, lãnh đạo khóa thứ 4 của Trung Quốc đã đề ra tư tưởng “tam lân” bao gồm:
“mục lân, an lân, phú lân” trong bài phát biểu của Thủ tướng Ôn Gia Bảo trong Hội
nghị thượng đỉnh đầu tư và thương mại ASEAN lần thứ nhất diễn ra ngày 7/10/2003
tại đảo Bali Indonesia: “Mục lân” là cùng xây dựng cấu trúc quan hệ ổn định, hài hòa
giữa các nước trên nguyên tắc cùng chung sống hòa bình với các nước xung quanh;
“an lân” là thông qua đàm phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp, cùng tạo ra
môi trường khu vực hòa bình ổn định đối với sự phát triển của châu Á; “phú lân” là
tăng cường hợp tác cùng có lợi với các nước láng giềng, đi sâu hợp tác khu vực và
tiểu khu vực, tích cực thúc đẩy nhất thể hóa kinh tế khu vực, thực hiện cùng phát triển
với các nước châu Á [温家宝, 2003].
Các quốc gia Đông Nam Á là các nước láng giềng quan trọng của Trung
70
Quốc. Xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng ổn định với các nước
Đông Nam Á, tăng cường hợp tác cùng có lợi song phương, đặc biệt với quốc gia
đông dân nhất ASEAN (tức Indonesia) là một nội dung quan trọng trong chính sách
ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Trung Quốc ủng hộ tích cực những nỗ lực của
khu vực Đông Nam Á trong việc duy trì hòa bình, ổn định và phồn thịnh, đồng thời
dựa trên năm nguyên tắc chung sống hòa bình đã xây dựng “quan hệ đối tác láng
giềng tin cậy, hướng tới thế kỷ XXI”. Trong đó, Khu Thương mại tự do Trung Quốc
– ASEAN là một trong những diễn đàn quan trọng để Trung Quốc thực hiện “chính
sách tam lân” của mình [周素勤, 2003, tr.18-19]. Chính sách ngoại giao láng giềng
của Trung Quốc thời kỳ này có mục tiêu cơ bản nhằm duy trì quan hệ hữu hảo, ổn
định tạo nền tảng cho Trung Quốc tập trung phát triển kinh tế; đồng thời nhằm xoa
dịu nỗi lo ngại của các quốc gia xung quanh về “Mối đe dọa Trung Quốc”, giúp Bắc
Kinh cải thiện quan hệ với láng giềng [温家宝, 2003].
Có thể thấy, trong bố cục chiến lược ngoại giao của Trung Quốc không có vị
trí của các cường quốc tầm trung. Điều này có thể lý giải bởi: (i) các cường quốc tầm
trung không có sức mạnh như các cường quốc, do đó không thể phát huy được vai trò
phân phối điều chỉnh lợi ích và thay đổi tương quan lực lượng trong cộng đồng quốc
tế như các nước lớn, do đó chính sách ngoại giao với các cường quốc tầm trung
không thuộc phạm trù ngoại giao nước lớn; (ii) nhìn từ góc độ ngoại giao láng giềng,
do các cường quốc tầm trung phân bố rải rác ở nhiều khu vực trên thế giới, số lượng
các cường quốc tầm trung xung quanh Trung Quốc còn hạn chế (chỉ có Hàn Quốc,
Indonesia, Pakistan), do đó, cũng không thể đưa chính sách ngoại giao với các cường
quốc tầm trung vào nhóm ngoại giao láng giềng, bởi không có tính đại diện rõ ràng;
(iii) các cường quốc tầm trung cũng không giống với các nước đang phát triển thông
thường, bởi sẽ không làm nổi bật được vai trò đặc thù của cường quốc tầm trung
trong nhóm các quốc gia đang phát triển; (iv) trong các cơ chế quốc tế đa phương
hiện nay, cường quốc tầm trung vẫn chỉ đóng vai trò phụ, sự hợp tác, phối hợp giữa
Trung Quốc với các cường quốc tầm trung trên diễn đàn đa phương còn nhiều hạn
chế về phạm vi và mức độ. Chính bởi thế, trong giai đoạn này, Trung Quốc chưa định
71
hình chính sách đặc thù với các cường quốc tầm trung [丁工, 2011, tr. 51-52].
Trong các năm từ 2002-2007, cũng là giai đoạn tìm tòi của ngoại giao quan
hệ đối tác của Trung Quốc, nước này chú trọng vào việc xây dựng các quan hệ đối
tác mới, đặc biệt là với các nước đang phát triển và các nước phát triển ở mức độ
trung bình [门洪华, 刘笑阳, 2013, tr.76]. Đáng chú ý, Indonesia là nước đầu tiên
trong khu vực Đông Nam Á được Trung Quốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược,
chứng tỏ Indonesia có vị trí quan trọng trong chiến lược ngoại giao quan hệ đối tác
của Trung Quốc tại khu vực này. Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (năm 2007) đề ra
thứ tự ưu tiên trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc là: các nước phát triển,
khu vực láng giềng và khu vực Đông Á, các nước đang phát triển, các tổ chức
quốc tế đa phương [温家宝, 2007]. Từ sau Đại hội XVII, Trung Quốc chủ yếu chú
trọng việc nâng cấp đối với các quan hệ đối tác đã có, việc lựa chọn đối tượng đã
linh hoạt hơn, trong đó, các nước láng giềng, các đối tác kinh tế quan trọng và có
vai trò quan trọng ở khu vực trở thành phương hướng chiến lược chính của Trung
Quốc [门洪华, 刘笑阳, 2013, tr.78]. Trong thời gian gian Hồ Cẩm Đào lãnh đạo,
Trung Quốc đã thiết lập quan hệ với hơn 40 đối tác trong khu vực và trên thế giới.
Điều này có thể lý giải bằng chủ trương đường lối “trỗi dậy hòa bình” mà Ban
lãnh đạo Trung Quốc đưa ra lúc đó. Tuy nhiên, việc xây dựng và nâng cấp một
lượng lớn các quan hệ đối tác trong một khoảng thời gian ngắn khiến cho chiến
lược ngoại giao quan hệ đối tác của Trung Quốc giai đoạn này chưa cụ thể hóa đối
với từng nhóm đối tượng. Trong bối cảnh đó, chính sách của Trung Quốc trong
quan hệ với Indonesia thời kỳ này chủ yếu nhằm tạo ra môi trường xung quanh ổn
định, hài hòa, tạo điều kiện cho sự phát triển của Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng
chính vì chiến lược ngoại giao quan hệ đối tác của Trung Quốc giai đoạn này chưa
được cụ thể hóa thành các chính sách riêng biệt với các nhóm nước khác nhau,
nên chính sách Indonesia thời kỳ Hồ Cẩm Đào chưa được thể hiện rõ nét trong
chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
3.1.2.2. Chính sách của Indonesia thời kỳ Yudhoyono
Chính sách của Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc giai đoạn 2005-2013
72
mang đậm dấu ấn của Tổng thống Susilo Yudhoyono (2004-2014). Tổng thống
Yudhoyono xây dựng tầm nhìn của mình dựa trên bốn trụ cột: thịnh vượng, hòa bình,
công bằng và dân chủ. Trong đó, sự “thịnh vượng” được Yudhoyono nhấn mạnh
trong các chiến dịch bầu cử của mình và tiếp tục thực hiện điều này trong hai nhiệm
kỳ Tổng thống (2004-2009 và 2009-2014). Trụ cột “thịnh vượng” liên quan chặt chẽ
đến hợp tác chặt chẽ đến hợp tác kinh tế, trong đó hợp tác kinh tế giữa Indonesia và
Trung Quốc chiếm một phần không nhỏ. Trong hai nhiệm kỳ của mình, Tổng thống
Yudhoyono đã lựa chọn định hướng chính sách đối ngoại hướng ra bên ngoài: xây
dựng quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác để thúc đẩy phát triển kinh tế,
và thể hiện Indonesia là một quốc gia lớn trên toàn cầu. Với phương châm chính sách
đối ngoại “triệu người bạn, không kẻ thù”, Yudhoyono đã đề xuất ý tưởng về trạng
thái cân bằng động (dynamic equilibrium), với sự tham gia của tất cả các cường quốc
có liên quan trong một khuôn khổ hợp tác cởi mở hơn, làm cơ sở cho sự phát triển
của một kiến trúc khu vực. Để thu hút đầu tư và đẩy mạnh hợp tác, Tổng thống
Yudhoyono đã thúc đẩy chính sách kinh tế mở cửa, tập trung vào tăng trưởng và phát
triển thông qua tăng cường xuất khẩu, thương mại, đầu tư và hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng [Yudhoyono, 2009].
Khi bắt đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Yudhoyono vào cuối năm 2004,
Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ năm của Indonesia. Với chính
sách đối ngoại mở cửa của Tổng thống Yudhoyono, quan hệ giữa Trung Quốc và
Indonesia phát triển nhanh chóng. Khu vực hợp tác đã được mở rộng bao gồm
không chỉ khu vực chính như năng lượng, an ninh và quốc phòng. Tổng thống
Yudhoyono đã thiết lập một cơ sở vững chắc cho Indonesia và Trung Quốc bằng
cách ký hai thỏa thuận quan trọng vào tháng 4/2005 và tháng 10/2013. Việc hai
nước ký kết hai tuyên bố chung quan trọng này cũng chính là hai mốc sự kiện lớn
(Great Events) trong quan hệ Trung Quốc – Indoesia. Ngoài ra, dưới thời kỳ Tổng
thống Yudhoyono, nhiều hiệp định song phương và đa phương, cùng nhiều bản
ghi nhớ (MoU) mới đã được ký kết giữa Indonesia và Trung Quốc. Chính sách đối
ngoại của Tổng thống Yudhoyono với Trung Quốc có thể chịu ảnh hưởng bởi
73
chính sách ngoại giao láng giềng và chính sách cải cách mở cửa của Trung Quốc.
Có thể nói, quyết định xây dựng mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ với Trung Quốc
của ông xuất phát từ sự thừa nhận và nhận thức đặc biệt của ông về tầm quan
trọng của vai trò Trung Quốc đối với sự phát triển kinh tế của Indonesia.
3.1.3. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong
quan hệ song phương giai đoạn từ 2013 đến nay
Giai đoạn từ 2013 đến nay ghi nhận nhiều sự điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Trung Quốc và Indonesia, với dấu ấn lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình và
Tổng thống Jokowi. Quan hệ hai nước trong giai đoạn này cũng mang nhiều dấu ấn
của việc thúc đẩy thực hiện BRI của Trung Quốc tại Đông Nam Á và Indonesia.
3.1.3.1. Chính sách của Trung Quốc thời kỳ Tập Cận Bình
Chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia giai đoạn từ 2013 đến nay
mang đậm dấu ấn Tập Cận Bình (2013- nay). Từ sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên
nắm chính quyền cũng luôn coi trọng việc phân tích chiến lược quốc tế một cách
khách quan và khoa học. Trong công tác đối ngoại từ sau Đại hội XVIII, Tập Cận
Bình đề ra yêu cầu “muốn nắm bắt tình hình quốc tế cần xây dựng được quan niệm
đúng đắn về lịch sử, về đại cục và vai trò” [习近平, 2018, tr.1]. Trong đó, quan niệm
đúng đắn về lịch sử cần biết học các kinh nghiệm từ lịch sử, quan niệm đúng đắn về
đại cục cần nắm vững được bản chất và toàn cục tình hình, quan niệm đúng đắn về
vai trò là cần có định vị chiến lược chính xác đối với Trung Quốc. Chính những quan
điểm này đã giúp thế hệ lãnh đạo thứ 5 của Trung Quốc nhận diện được khoa học và
khách quan tình hình thế giới, khu vực và các nước đối tác trong quá trình xây dựng
chính sách đối ngoại của mình.
Thế hệ lãnh đạo thứ năm do Tập Cận Bình làm đại diện đặc biệt chú trọng vào khu vực láng giềng xung quanh. Tháng 10/2013, Hội nghị Công tác Trung ương ĐCS
Trung Quốc về chủ đề ngoại giao láng giềng do Tập Cận Bình chủ trì được xem là
hội nghị quy mô lớn chưa từng có trong tiền lệ về chính sách ngoại giao đối với khu
vực láng giềng đã được tổ chức [习近平, 2013b]. Nội hàm của chính sách ngoại giao
láng giềng được Trung Quốc phân loại thành hai mức độ: ngoại giao “chu biên”
74
(láng giềng gần) và “đại chu biên” (láng giềng mở rộng). Các định hướng chính
sách nhằm thực hiện ngoại giao láng giềng thời kỳ này được Tập Cận Bình nhắc
đến bao gồm: (i) tăng cường thiện ý chính trị (mục lân); (ii) làm sâu sắc hội nhập
kinh tế khu vực (phú lân); (iii) cải thiện hợp tác an ninh khu vực (an lân); (iv) thực
hiện quan điểm ngoại giao “thân, thành, huệ, dung”1 [习近平, 2018]. Ngoài ra, đáng
chú ý, việc Tập Cận Bình đưa ra khái niệm “Cộng đồng chung vận mệnh”2 [习近
平,2013a] nhằm mục đích ràng buộc, đòi hỏi sự phục tùng từ các quốc gia xung
quanh, để tránh hiện tượng “kinh tế dựa vào Trung Quốc, an ninh dựa vào Mỹ” của nhiều quốc gia trong khu vực [Phí Hồng Minh, 2016, tr.19].
Trong bối cảnh chung của chính sách đối ngoại Trung Quốc thời kỳ Tập Cận
Bình như trên, chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia dường như được chú
trọng hơn so với các giai đoạn trước, do vị thế và vai trò của Indonesia trong khu
vực cũng như trên trường quốc tế ngày càng tăng lên, phù hợp với những lợi ích mà
Trung Quốc tìm kiếm. Trong giai đoạn này, chính sách của Trung Quốc đối với các
cường quốc tầm trung cũng trở nên rõ nét hơn. Việc Kazakhstan và Indonesia là nơi
Tập Cận Bình lần đầu tiên đề xuất xây dựng “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa thế
kỷ XXI” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” vào tháng 9 và 10-2013 cho
thấy các cường quốc tầm trung sẽ đóng vai trò đặc biệt trong bố cục chiến lược BRI
của Trung Quốc. Việc kết nối giữa “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” và
Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia đã lần đầu tiên được đưa vào
Tuyên bố chung giữa hai nước năm 2015: “Hai bên cho rằng, Sáng kiến quan trọng
Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21 mà Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra và Chiến
lược Trục hàng hải toàn cầu do Tổng thống Jokowi khởi xướng có nhiều điểm
tương đồng. Hai bên đồng ý phát huy ưu thế của mỗi bên, tăng cường giao lưu
chiến lược và kết nối chính sách, thúc đẩy kết nối liên thông cơ sở hạ tầng trên biển,
đi sâu hợp tác trong các lĩnh vực như đầu tư ngành nghề, xây dựng các công trình
1 Thân, thành, huệ, dung (亲、诚、惠、容): thân thiện, chân thành, cùng có lợi, bao dung độ lượng. 2 Cộng đồng chung vận mệnh (人类我中有你的命运共同体): Theo Tập Cận Bình (2013a), trong thế giới này, mức độ liên quan, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng được tăng cường, con người sống trong cùng một “thôn địa cầu”, cùng chung sống trong một khoảng không gian thời gian giao hòa về lịch sử và hiện thực, ngày càng trở thành một Cộng đồng chung vận mệnh ‘trong bạn có tôi, trong tôi có bạn’” [习近 平, 2013a].
75
quan trọng, thúc đẩy hợp tác thực chất trên các lĩnh vực như kinh tế biển, văn hóa
biển, du lịch biển, chung tay xây dựng “đối tác phát triển biển” [新华网, 2015].
Như vậy, có thể thấy, dưới thời kỳ Tập Cận Bình, chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đối với Indonesia đã trở nên rõ nét hơn, đóng vai trò quan trọng hơn trong
tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc.
3.1.3.2. Chính sách của Indonesia thời kỳ Jokowi
Chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc giai đoạn từ 2013 đến nay
đánh dấu sự chuyển biến trong chính sách đối ngoại Indonesia từ Tổng thống
Yudhoyono sang Tổng thống Jokowi (2013-nay). Chính sách đối ngoại của nước
này đối với Trung Quốc thời kỳ Tổng thống Jokowi hiện đang bởi phân hóa thành
những quan điểm chính như sau:
(i) Tổng thống Jokowi quan tâm đến lợi ích kinh tế với trọng tâm là việc cải
thiện cơ sở hạ tầng và kết nối hàng hải. Cơ sở vật chất yếu kém đang gây cản trở
cho phát triển kinh tế, bên cạnh đó, việc hoàn thành sớm các dự án cơ sở hạ tầng sẽ
giúp Tổng thống Jokowi củng cố niềm tin trong nhân dân, nhằm tăng cơ hội tái đắc
cử vào năm 2019. Đây có thể là một trong những lý do khiến Tổng thống Jokowi bỏ
qua tình cảm chống Trung Quốc của một bộ phận dân chúng, bỏ qua những hạn chế
trong đầu tư của Trung Quốc, quyết định trao một số dự án quan trọng cho Trung
Quốc, như dự án đường sắt cao tốc Jakarta – Bandung.
(ii) Bộ Ngoại giao ưu tiên hợp tác với Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ
của nước này trong khu vực ASEAN cũng như trên trường quốc tế. Do Trung Quốc
có vai trò quan trọng trong các tổ chức toàn cầu như Liên hiệp quốc, G20, cũng như
đối với các tổ chức khu vực như ASEAN… nên ưu tiên hàng đầu của Bộ Ngoại
giao Indonesia là đảm bảo tiếp tục tăng cường quan hệ với nước này.
(iii) Bộ Thủy sản và Hàng hải triển khai chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”
như một vấn đề bảo vệ tài nguyên biển, đặc biệt đề cao việc hạn chế các hoạt động
đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng lãnh thổ Indonesia. Bộ trưởng Bộ Hàng hải và
Ngư nghiệp Susi Pudjiastuti đã thực hiện chính sách “đánh chìm tàu” đối với các
76
tàu đánh cá nước ngoài đánh bắt bất hợp pháp tại vùng biển Indonesia.
(iv) Hải quân với mối quan tâm lớn nhất là việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ
đất nước, bao gồm lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế EEZ. Trong chiến lược “Trục
hàng hải toàn cầu” mà Tổng thống Jokowi đề ra có nội dung yêu cầu bảo vệ chủ
quyền Indonesia trên biển, và Hải quân Indonesia là cơ quan phụ trách vấn đề này.
Hải quân muốn dùng “Trục hàng hải toàn cầu” là phương tiện để nâng cao năng lực
hải quân. Việc coi Trung Quốc là mối đe dọa sẽ là cách để đảm bảo việc tăng ngân
sách cho Hải quân, từ đó tăng cường sức mạnh của lực lượng này, nhằm đối phó với
việc các nhóm ngư dân Trung Quốc đánh bắt trái phép và Cảnh sát biển Trung
Quốc hoạt động ngày càng nhiều trên Biển Đông.
(v) Quân đội Indonesia hiện coi Trung Quốc là mối đe dọa đối với chủ quyền
cũng như một số vấn đề an ninh của Indonesia. Một nhóm các tướng trong quân đội
Indonesia vẫn còn nghi ngờ về mối đe dọa của hệ tư tưởng cộng sản Trung Quốc tại
Indonesia. Ở trên biển, “đường chín đoạn” do Trung Quốc đưa ra chồng chéo với
vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia tại đảo Natuna, gây ra sự e ngại về tranh chấp
chủ quyền giữa nước này với Trung Quốc [Herlijanto, 2017, tr.7].
Tóm lại, trong nội bộ Chính phủ Indonesia hiện đang chia thành hai quan
điểm đối lập khi nhìn nhận Trung Quốc cũng như xem xét việc tăng cường quan hệ
với quốc gia này. Với các mối quan tâm, ưu tiên khác nhau, cũng như mâu thuẫn về
lợi ích giữa các nhóm nói trên, chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung
Quốc giai đoạn này đang thiếu sự nhất quán giữa các lĩnh vực hợp tác cụ thể.
3.2. Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ năm 2005
đến nay t n lĩn ực
Thực trạng chuyển biến trong quan hệ hai nước chủ yếu diễn ra trên ba lĩnh
vực lớn, bao gồm chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội.
3.2.1. Chuyển biến trong quan hệ chính trị - an ninh
Những chuyển biến về quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong lĩnh vực chính
trị - an ninh từ năm 2005 đến nay có thể chia làm hai giai đoạn phát triển, với dấu
mốc là khi hai nước nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vào năm
77
2013.
3.2.1.1. Giai đoạn năm 2005 – 2013
Trong lĩnh vực chính trị - an ninh, quan hệ giữa hai nước có tiến triển so với
giai đoạn trước, tuy rằng vẫn còn khiêm tốn. Quan hệ thân thiện giữa Indonesia với
Trung Quốc được cho là bắt đầu trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm
Đào và Tổng thống Susilo Yudhoyono. Về ngoại giao, hợp tác chủ yếu thể hiện qua
các chuyến thăm viếng ngoại giao và ký kết các văn kiện khuôn khổ. Trong đó, quan
trọng nhất là Tuyên bố chung về việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa
nước CHND Trung Hoa và nước CH Indonesia được ký kết vào tháng 4/2005, chỉ
một thời gian ngắn ngay sau khi Tổng thống Yudhoyono lên nắm quyền vào tháng
10/2004. Việc ký kết quan hệ đối tác chiến lược được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố từ cả
phía Trung Quốc lẫn Indonesia.
Về phía Trung Quốc, việc quốc gia này thúc đẩy quan hệ mới với các nước
khác từ những năm 1990 là nhằm thoát khỏi sự cô lập của các nước phương Tây và
xây dựng lại hình ảnh Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn. Trung Quốc đang cố
gắng sử dụng các phương pháp mới để thúc đẩy an ninh: đầu tiên, thúc đẩy các tương
tác thương mại, sau đó xây dựng các hình thức đối thoại linh hoạt và đa dạng, cuối
cùng, tìm kiếm một kết quả có lợi về an ninh khu vực [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.26-
27]. Đối với khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc vẫn giữ một số mục tiêu chiến lược:
(1) giảm ảnh hưởng của các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là Mỹ; (2) tạo vùng
đệm chiến lược thông qua các quốc gia thân thiện trong khu vực; (3) bảo vệ lãnh thổ
Trung Quốc ở Biển Đông [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.32]. Ngoài ra, khi Trung Quốc
vươn lên trở thành một quốc gia thương mại lớn với nhu cầu ngày càng tăng đối với
việc nhập khẩu dầu và khí đốt tự nhiên, và với phần lớn năng lượng nhập khẩu đi qua
eo biển Malacca, an ninh của các tuyến đường biển Đông Nam Á rất quan trọng đối
với an ninh của Trung Quốc. Trong khi đó, Indonesia là nền kinh tế lớn trong khu
vực Đông Nam Á, lại có tiếng nói và vai trò dẫn dắt trong khu vực, đồng thời sở hữu
vị trí chiến lược quan trọng khi kiểm soát được tuyến đường biển đi qua eo biển
Malacca, do đó, trở thành lựa chọn thích hợp để Trung Quốc tăng cường quan hệ hợp
78
tác.
Về phía Indonesia, việc ký kết quan hệ đối tác chiến lược được thúc đẩy bởi 3
yếu tố từ phía Indonesia: (i) Indonesia muốn đa dạng hóa sự phụ thuộc của mình đối
với các cường quốc, và Trung Quốc được coi là mục tiêu để cân bằng sự phụ thuộc
kinh tế của Indonesia vào Mỹ và Nhật Bản; (ii) mong muốn tăng cường các kênh liên
lạc và trao đổi, đảm bảo rằng xu hướng đi lên trong quan hê ngoại giao sẽ thúc đẩy
các kết nối về kinh tế và xã hội; (iii) nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu
vực bằng cách đưa Trung Quốc vào các thể chế và chuẩn mực do ASEAN lãnh đạo
[Priyandita, 2019, tr.10-12]. Việc Trung Quốc ký kết Tuyên bố về Bộ Quy tắc ứng xử
ở Biển Đông với các quốc gia thành viên ASEAN vào năm 2002 đã gửi tín hiệu tới
Jakarta rằng Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với ASEAN trong việc quản lý các xung đột trên biển.
Trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2013, việc Tổng thống Indonesia
Yudhoyono thăm Trung Quốc 5 lần cho thấy nỗ lực tích cực của Chính phủ Indonesia
trong việc tiến gần lại Trung Quốc, nhằm tận dụng lợi thế phát triển nhanh chóng của
kinh tế Trung Quốc. Trong khi đó, lãnh đạo cấp cao nhất phía Trung Quốc cũng đến
thăm Indonesia 2 lần (Chủ tịch Hồ Cẩm Đào năm 2005 và Thủ tướng Ôn Gia Bảo
năm 2011). Có thể thấy, trong giai đoạn này, “nghi thức ngoại giao” đã được cả hai
nước sử dụng để quản lý mối quan hệ bất đối xứng, trong đó, với tần suất các chuyến
thăm nhiều hơn của phía Indonesia, thể hiện sự tích cực của Chính phủ Yudhoyono
trong việc xây dựng nền tảng hợp tác song phương. Ngoài ra, để duy trì kênh hợp tác
chính trị, Trung Quốc và Indonesia đã khởi động cơ chế đối thoại cấp Phó Thủ tướng
vào tháng 7/2005 nhằm trao đổi những vấn đề cùng quan tâm như chính trị, an ninh,
nhằm xây dựng lòng tin chính trị, triển khai hợp tác và tham vấn về chính trị. Mặc dù
vậy, đến tháng 1/2010, hai nước mới bắt đầu cơ chế đối thoại cấp Phó Thủ tướng lần
thứ 2. Có thể thấy, dường như sau 5 năm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, hai
nước mới có đủ lòng tin chính trị và nhu cầu triển khai hợp tác để thúc đẩy cơ chế
ngoại giao nguyên thủ này.
Đáng chú ý, việc ký kết các văn kiện hợp tác giữa Trung Quốc và Indonessia
79
thường diễn ra trong những bối cảnh đặc thù, khi hai nước cần có sự hậu thuẫn nhiều
hơn từ đối phương. Ví dụ, Kế hoạch hành động (ký kết ngày 21/1/2010) bao gồm nội
dung cùng thúc đẩy xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (ACFTA),
cùng thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, diễn ra trong bối
cảnh, ngay sau khi ACFTA chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2010, thì ngày
5/1/2010, Bộ trưởng Thương mại Indonesia đưa ra đề nghị “đàm phán lại” để “hàng
hóa nhập khẩu rẻ không tràn vào làm lụt thị trường mà không bị ngăn chặn” [BBC,
2010]. Rõ ràng, Trung Quốc muốn thông qua lần ký kết này để giành được nhiều hơn
sự ủng hộ của Indonesia trong việc thúc đẩy xây dựng ACFTA, bởi Indonesia có vị
thế là quốc gia đứng đầu ASEAN. Hay như Thông cáo chung (ký kết ngày 29/4/2011)
diễn ra trong bối cảnh Indonesia giữ vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2011, đồng thời
vừa thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ vào tháng 11/2010. Điều này thể hiện
tính “cân bằng năng động” trong chính sách ngoại giao Indonesia, nhằm cân bằng ảnh
hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ. Đồng thời, Thông cáo chung năm 2011 cũng thể hiện
mong muốn của Trung Quốc thông qua Indonesia để đẩy mạnh hơn nữa hợp tác với
ASEAN. Việc ký kết các văn kiện chung các năm 2005, 2010, 2011, và các cơ chế
hợp tác song phương cho thấy trong mối quan hệ bất đối xứng này, Indonesia đang sử
dụng chính sách Ràng buộc – Can dự (Binding-Engagement) – một biện pháp trong
chính sách phòng ngừa rủi ro đã được nhắc tới trong Chương 2, nhằm thể chế hóa các
mối quan hệ của Indonesia với Trung Quốc bằng cách đưa mối quan hệ vào khuôn khổ
hoạt động ngoại giao được chính quy hóa.
Trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng, hợp tác giữa hai nước giai đoạn này
khá khiêm tốn. Từ năm 2005, giữa hai nước đã diễn ra một loạt các chuyến thăm cấp
cao của Bộ Quốc phòng và quân đội hai bên. Năm 2005, hai nước cũng đã ký kết
“Bản ghi nhớ về phát triển nghiên cứu và hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự”,
theo đó, Trung Quốc chính thức bán vũ khí cho Indonesia [Đàm Huy Hoàng, 2018,
tr.14]. Đặc biệt, tháng 11/2007, hai bên đã ký Bản ghi nhớ về Hợp tác quốc phòng
nhằm thúc đẩy thành lập diễn đàn tham vấn quốc phòng và hợp tác quân sự song
phương [林立平, 2007]. Hợp tác giữa hai Bộ Quốc phòng sẽ mang lại nhiều lợi ích
80
cho cả hai quốc gia, đặc biệt trong việc thiết lập ổn định trong khu vực và bảo vệ Eo
biển Malacca, đồng thời giúp đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng từ và đến Trung
Đông cũng như việc vận chuyển hàng hóa từ các nước công nghiệp đến châu Á và
châu Âu. Tuy nhiên, phải đến năm 2010, hai bên mới thông qua Kế hoạch hành động
để triển khai hợp tác quốc phòng theo thỏa thuận đối tác chiến lược. Giai đoạn này có
rất ít hợp tác về quốc phòng và an ninh giữa Trung Quốc và Indonesia được triển khai
trên thực tế: “Bắc Kinh dường như miễn cưỡng đầu tư vào ngành công nghiệp quốc
phòng của Indonesia”, “trao đổi quân sự Trung Quốc – Indonesia cũng hạn chế” [Storey, 2009, tr.7-8].
Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu do Indonesia vẫn muốn gia tăng
quan hệ quốc phòng an ninh với phương Tây mà đứng đầu là Mỹ. Indonesia nhận
thấy rằng sự cân bằng quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ là một yếu tố quan trọng
trong việc duy trì hòa bình và ổn định an ninh trong khu vực. Hội nghị thượng
đỉnh Đông Á (EAS) tại Bali (tháng 11/2011) là một ví dụ cụ thể. Dưới sự dẫn dắt
của Indonesia với tư cách là chủ tịch ASEAN năm 2011, các nước có tư cách
thành viên EAS đã không còn giới hạn trong ASEAN + 3 (bao gồm ASEAN và
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) như ban đầu Malaysia khởi xướng, mà còn bao
gồm Mỹ, Nga, New Zealand và Ấn Độ. Với việc mở rộng phạm vi các nước thành
viên EAS, Indonesia đã tìm cách đưa ASEAN trở thành trung tâm quyết định
hướng đi của kiến trúc chính trị trong an ninh trong khu vực, chứ không phải Mỹ
hay Trung Quốc [Wuryandari, 2018, tr.87]. Có thể thấy, trong khía cạnh này,
Indonesia đã sử dụng biện pháp Từ chối sự thống trị (Dominance-Denial) thông
qua tăng cường sức mạnh ngoại giao tập thể. Ngoài ra, cũng trong năm 2011,
Indonesia đã đưa ra sáng kiến giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua các diễn
đàn đa phương thay vì các thỏa thuận song phương như Trung Quốc và các bên
yêu sách khác sử dụng trước đây. Sáng kiến này cũng đã thể hiện rõ vai trò của
cường quốc tầm trung Indonesia.
Như nhận thấy được băn khoăn của Indonesia giữa việc lựa chọn hợp tác giữa
hai cường quốc, Trung Quốc đã có những động thái thể hiện những “thế mạnh” của
81
mình trong quan hệ với Indonesia. Ngay trước chuyến thăm của Obama đến
Indonesia vào tháng 11/2010, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Ngô Bang Quốc đã tới
thăm Jakarta và ký một thỏa thuận đầu tư vào cơ sở hạ tầng trị giá 6,6 triệu USD.
Điều này như truyền tải thông điệp rằng: quan hệ song phương với Trung Quốc khiến
Indonesia có lợi nhuận kinh tế cao hơn so với quan hệ với Mỹ - một siêu cường thế
giới [Brown, 2011, tr.3].
Trong vấn đề Biển Đông, Indonesia tuyên bố không có tranh chấp với Trung
Quốc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ khu vực biển này. Tuy nhiên, Indonesia có lợi ích
trực tiếp trong việc đảm bảo an ninh hàng hải đi qua khu vực Biển Đông. Bên cạnh
đó, yêu sách chủ quyền theo “đường chín đoạn” của Trung Quốc đã chồng lấn một
phần lên vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia. Có thể khái quát chính sách
Biển Đông của Indonesia dưới thời kỳ Tổng thống Yudhoyono là: (i) không có yêu sách; (ii) trung gian hòa giải; (iii) xây dựng lòng tin [Laksmana, 2018b, tr.153].
Indonesia không phải là một bên yêu sách trong các tranh chấp chủ quyền trên biển.
Các chính sách này không phải là kết quả của tầm nhìn Yudhoyono, mà bắt nguồn từ
bối cảnh lịch sử và cách tiếp cận tổng thể của Indonesia đối với vấn đề Biển Đông kể
từ những năm 1990. Học giả người Indonesia Evan A. Laksmana (2018) cho rằng có
4 nhân tố định hình chính sách Biển Đông của Indonesia dưới thời Tổng thống
Yudhoyono, bao gồm: (1) chủ quyền và tài nguyên thiên nhiên; (2) quân sự và an
ninh; (3) quan hệ song phương Indonesia – Trung Quốc; (4) tính trung tâm và sự gắn
kết của ASEAN [Laksmana, 2018b, tr.153-154]. Về mặt đa phương, bất kỳ giải pháp
khu vực nào trong tương lai về các tranh chấp trong vấn đề Biển Đông cũng sẽ đều
được xuất phát từ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được ký kết
giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002. Đây là kết quả của sáng kiến được coi là
thành công nhất của Indonesia trong việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Trung
Quốc với các nước ASEAN [Laksmana, 2018b, tr.168]. Về mặt đơn phương, việc
Trung Quốc không cố gắng thách thức quyền lợi của Indonesia tại quần đảo Natuna
cho thấy thành công nhất định của Indonesia trong việc quản lý vấn đề Biển Đông.
Nếu như cách tiếp cận đa phương đã tạo sự chủ động về mặt ngoại giao cho
82
Indonesia, thì cách tiếp cận đơn phương lại mang tính phòng ngừa cao hơn. Chiến
lược tiếp cận song song này của Indonesia là sự tiếp nối cho các chính sách đối ngoại
của Indonesia từ những năm 1990, và được đánh giá là hoàn hảo với cách tiếp cận
không xung đột trong giải quyết vấn đề và với mong muốn đạt được sự công nhận
quốc tế của Tổng thống Yudhoyono [Fitriani, 2015, tr.77]. Trong vấn đề Biển Đông,
có thể thấy rõ Indonesia đã thể hiện rõ vai trò của cường quốc tầm trung, thông qua
vai trò điều phối – hỗ trợ các nước ASEAN trong việc quản lý và giải quyết tranh
chấp trên biển, và vai trò quản lý những bất đồng trong việc phân định chủ quyền
giữa Trung Quốc và Indonesia. Để quản lý mối quan hệ bất đối xứng trong lĩnh vực
này, Indonesia đã tạo ra vùng trung lập, bằng các diễn ngôn chính trị, luôn tuyên bố
“không có tranh chấp” với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ tại khu
vực biển này.
Trước các yêu sách lãnh thổ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc tại Biển
Đông, một số nước Đông Nam Á cũng như Đông Bắc Á đã tăng cường liên minh với
Mỹ, còn Indonesia đã chọn không đứng về bên nào. Chính sách đối ngoại Indonesia
dưới thời kỳ Yudhoyono đã khiến Indonesia trở nên quan trọng hơn trên trường quốc
tế. Thông qua chiến lược “phòng ngừa rủi ro/ phòng bị nước đôi” (hedging),
Indonesia đã góp phần chủ động định hình cấu trúc địa kinh tế và địa chính trị của
khu vực, bằng cách giữ khoảng cách cân bằng giữa các cường quốc [Laksmana, 2018b, tr.165]. Indonesia đã tìm cách xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và quan
hệ an ninh với các cường quốc khác trong khu vực, bao gồm: Australia, Mỹ, Ấn Độ,
Nga và Nhật Bản. Trong giai đoạn 1999-2014, Indonesia đã ký 86 thỏa thuận song
phương về an ninh – quốc phòng và quan hệ đối tác với 31 quốc gia [Laksmana,
2015, tr.37]. Indonesia cũng đã tiến hành 88 hoạt động ngoại giao quốc phòng từ
năm 2003 đến 2008, chủ yếu nhằm xây dựng lòng tin, tăng cường năng lực quốc
phòng và phát triển công nghiệp quốc phòng [Laksmana, 2018b, tr.165]. Những
mối quan hệ đối tác này cho thấy định hướng của Indonesia trong việc xây dựng
một mạng lưới quan hệ đối tác mạnh mẽ, đồng thời tăng cường năng lực của chính
83
mình, nhằm đối phó với những xung đột có thể có trong tương lai xung quanh vùng
biển Natuna. Đây cũng là biểu hiện của biện pháp Cân bằng gián tiếp (Indirect-
Balancing) mà Indonesia sử dụng trong chiến lược “phòng ngừa rủi ro” của mình.
3.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
Quan hệ chính trị giữa hai nước có xu hướng được tăng cường, củng cố hơn từ
năm 2013 đến nay. Trung Quốc và Indonesia đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược từ
năm 2005, tuy nhiên, mối quan hệ này được nhận xét là “im lìm” đến tận năm 2010, khi
hai nước ký kết Kế hoạch hành động, và Thông cáo chung vào năm 2011. Đến năm 2013,
hai nước đã quyết định tăng thêm động lực cho mối quan hệ bằng cách nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược lên thành đối tác chiến lược toàn diện. Thông qua ký kết quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện, Trung Quốc hi vọng xây dựng được bầu không khí chính trị
tốt đẹp với quốc gia lớn nhất Đông Nam Á, thông qua các trao đổi về thương mại,
làm giảm bớt sự quan tâm của các nước đối với các vấn đề trên biển. Còn Indonesia
hy vọng sẽ tạo ra mức độ tin cậy ở Bắc Kinh rằng, mặc dù căng thẳng đang leo thang
tại Biển Đông, Indonesia vẫn không bị ảnh hưởng trong việc phát triển hợp tác kinh
tế, ngoại giao và xã hội với Trung Quốc [Priyandita, 2019, tr.17]. Đồng thời, Indonesia
vẫn cam kết duy trì trật tự khu vực đa nguyên trên nền tảng cân bằng ảnh hưởng giữa các cường quốc tại ASEAN.
Tổng thống Indonesia đương nhiệm là Jokowi cũng chọn Trung Quốc là điểm
đến trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi nhậm chức (tháng 11/2014),
khác với truyền thống đến thăm các nước ASEAN đầu tiên sau khi nhậm chức của
các Tổng thống Indonesia tiền nhiệm. Điều này cho thấy sự trọng thị cũng như mong
muốn mạnh mẽ trong việc hợp tác với Trung Quốc của Tổng thống Jokowi. Ngay
sau đó ngày 27/11/2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính Indonesia đã ký kết Bản ghi nhớ để
thành lập Ngân hàng AIIB, Indonesia chính thức trở thành nước thứ 22 tham gia
Ngân hàng này [New York Times, 2014]. Điều này đánh dấu sự ủng hộ và tham gia
bước đầu của Indonesia vào việc cùng xây dựng “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ
21” do Trung Quốc đề xướng.
Tháng 4/2015, trong chuyến thăm Indonesia của Chủ tịch Tập Cận Bình, hai
84
nước đã ký kết Tuyên bố chung về việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện. Lần ký kết này diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đang đẩy mạnh thực hiện
BRI, Indonesia đang thúc đẩy Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”, đồng thời, Cộng
đồng Kinh tế ASEAN cũng sẽ được thành lập vào cuối năm 2015. Có thể thấy việc
xích lại gần nhau hơn nữa giữa Trung Quốc và Indonesia hoàn toàn phù hợp với nhu
cầu tự thân mỗi nước và với bối cảnh các nước trong khu vực đang muốn xây dựng
mô hình “hợp tác cùng thắng”. Việc ký kết với Trung Quốc nhiều dự án đầu tư cơ sở
hạ tầng cho thấy sự thay đổi trọng tâm ngoại giao khi Indonesia “trải thảm đỏ” cho
đầu tư của Trung Quốc, đáng chú ý là việc lựa chọn các nhà đầu tư Trung Quốc để
xây dựng đường sắt cao tốc Jakarta –Bandung, thay vì các nhà đầu tư Nhật Bản
[Kyodo, 2015]. Sở dĩ có sự thay đổi trọng tâm ngoại giao như trên, là do Indonesia
và Trung Quốc có nhiều điểm bổ sung cho nhau trong chiến lược phát triển của mỗi
nước, cụ thể, “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” của Trung Quốc và Chiến lược
“Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia có nhiều điểm tương đồng về không gian,
thời gian, cách thức triển khai chiến lược, trong khi Trung Quốc cần đưa các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng và nhân công “đi ra ngoài”, thì Indonesia cần kêu gọi các
nước “vào đầu tư” để hỗ trợ Chính phủ cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu
kém của Indonesia.
Giống như điều Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã khẳng định khi
tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia đến thăm Trung Quốc (tháng 2/2018): Trung
Quốc muốn quan hệ chặt chẽ với Indonesia để kết nối tốt hơn BRI với chiến lược
phát triển của các quốc gia Đông Nam Á. Indonesia cũng khẳng định, Trung Quốc
đóng vai trò đối tác quan trọng đối với Indonesia, và hợp tác về kinh tế có lợi cho cả
hai bên [Xinhua, 2018]. Chuyến thăm Trung Quốc của Bộ trưởng ngoại giao
Indonesia Retro diễn ra sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là James Mattis đến thăm
Jakarta – chuyến thăm được coi là một nỗ lực để củng cố quan hệ quốc phòng giữa
Mỹ và Indonesia để chống lại sự hiện diện và ảnh hưởng quân sự ngày càng tăng của
Trung Quốc trong khu vực [Noi, 2018]. Sau đó, tháng 5/2018, trong bối cảnh căng
thẳng thương mại Trung – Mỹ bị thổi bùng lên từ tháng 4, Thủ tướng Trung Quốc Lý
85
Khắc Cường đến thăm Indonesia và ký kết Tuyên bố chung về việc tăng cường quan
hệ thương mại song phương, cam kết “kết nối và giúp đỡ về chiến lược trong các vấn
đề nóng của khu vực và các vấn đề mang tính toàn cầu” [新华网, 2018b].
Có thể thấy, trong bối cảnh mới, Mỹ vẫn là nhân tố quan trọng, có nhiều tác
động trực tiếp đến diễn biến quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Các chuyến thăm cấp
cao giữa Trung Quốc và Indonesia, giữa Mỹ và Indonesia không chỉ thể hiện cạnh
tranh chiến lược Trung – Mỹ diễn ra khá gay gắt tại Indonesia, đồng thời, còn cho
thấy chính sách “phòng ngừa rủi ro” được Indonesia áp dụng xuyên suốt quá trình
quan hệ với hai cường quốc này. Tần suất và bối cảnh các chuyến thăm của lãnh đạo
cao nhất của chính phủ hai nước Trung Quốc và Indonesia cho thấy, hai bên đang
nỗ lực đẩy mạnh những tiến triển trong quan hệ hai nước thông qua các cuộc gặp
cấp cao. Các nhà lãnh đạo khóa mới của hai nước đều đánh giá cao việc tăng cường
hợp tác song phương nhằm hỗ trợ thực hiện các chiến lược quốc gia của riêng mình,
cũng như cùng giải quyết, đối mặt với những vấn đề chung của thế giới và khu vực.
Trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng
Trong giai đoạn mới, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đã duy
trì đà phát triển, việc hợp tác quốc phòng hai nước được sự đồng thuận từ phía các lãnh
đạo hai bên nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Bộ trưởng Quốc
phòng Indonesia Mitchowo Subianto đã có chuyến thăm làm việc tại Bắc Kinh, Trung
Quốc trong thời gian từ 17-19/12/2019. Mặc dù Trung Quốc được coi là đối tác trong
việc hiện đại hoá hệ thống vũ khí của Indonesia, nhưng đây là chuyến thăm cấp cao
đầu tiên tới Trung Quốc của Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia nhằm thảo luận về
những nỗ lực tăng cường hơn nữa trong hợp tác quốc phòng của hai nước. Cũng trong
chuyến thăm này, ông Mitchowo Subianto đã hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng
Trung Quốc Nguỵ Phượng Hoà tại Bắc Kinh vào ngày 16/12/2019. Hai bộ trưởng
Quốc phòng cho rằng: “Trung Quốc và Indonesia (...) có triển vọng hợp tác quốc
phòng rộng mở. Quân đội Trung Quốc sẽ cùng với quân đội Indonesia thực hiện nhận
thức chung của nguyên thủ hai nước, tăng cường trao đổi cấp cao, làm sâu sắc hoá lòng
tin chiến lược, hiệp tác đa phương mật thiết, tiếp tục tăng cường tập trận chung, gia lưu
86
hợp tác trong việc bồi dưỡng huấn luyện nhân viên quốc phòng, cùng nhau có những
cống hiến trong việc duy trì hoà bình ổn định khu vực”; “Indonesia coi trọng phát triển
quan hệ với Trung Quốc, muốn tăng cường hợp tác thực chất trên các lĩnh vực với
Trung Quốc, trong đó có lĩnh vực an ninh – quốc phòng, không ngừng thúc đẩy quan
hệ quân sự hai nước ngày càng phát triển” [新华网, 2019c].
Trong lĩnh vực an ninh, từ sau khi Trung Quốc và Indonesia nâng cấp quan hệ
lên thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, vấn đề biển Đông vẫn là nút
thắt trong quan hệ hai nước. Trong giai đoạn mới, Trung Quốc và Indonesia đang có
những thay đổi trong cách tiếp cận những tranh chấp trên biển.
Về phía Trung Quốc, đầu tiên, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, vị
thế quốc tế và sự tự tin dân tộc của Trung Quốc cũng tăng lên đáng kể, đồng thời,
điều này cũng gây ra áp lực đối với chính phủ Trung Quốc trong việc bảo vệ các giá
trị mà nước này cho là cốt lõi. Trong vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, Trung Quốc
tin rằng, nếu không áp dụng các biện pháp cưỡng chế, nước này sẽ bị các quốc gia
khác, cũng như người dân của chính nước mình coi là yếu kém. Mối quan tâm này
đặc biệt trở nên gay gắt khi hành động của các bên tranh chấp trên Biển Đông, như
Việt Nam (năm 2011) và Philippines (năm 2012) được các phương tiện truyền thông
quốc tế coi trọng. Điều này làm tăng áp lực đối với Trung Quốc, khiến nước này lựa
chọn sử dụng biện pháp cứng rắn, nhằm thể hiện quyết tâm của mình [Zhang, 2020].
Thứ hai, quan sát hành động của Trung Quốc trong tranh chấp tại Biển Đông,
có thể thấy cách thức chung của nước này là: từng bước “biến giả thành thật” nhằm
hiện thực hóa “đường chín đoạn”, một mặt coi mục tiêu cốt lõi là kiểm soát thực tế
trên biển đông, một mặt đưa ra một loạt các tuyên bố về mặt ngoại giao mang tính
hình thức. Hàng loạt vụ tranh chấp đã diễn ra giữa Trung Quốc với một số nước
Đông Nam Á, như với Philippines xung quanh bãi Scarborough/Hoàng Nham (năm
2012), với Việt Nam xung quanh sự kiện giàn khoan HD-981 (năm 2014) và sự kiện
3 lần đưa tàu khảo sát Địa chất Hải Dương số 8 và các tàu Hải cảnh xâm phạm vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam (từ đầu tháng 7/2019), và các
hành động xâm phạm trái phép thềm lục địa của Philippines và Malaysia… Tất cả các
87
sự kiện này cho thấy, việc hiện thực hóa cơ sở pháp lý của “đường chín đoạn” bằng
việc tạo ra các tranh chấp tại các vùng biển nằm trong phạm vi đường lưỡi bò, thậm
chí là vùng EEZ của các nước khác đã được Trung Quốc tính toán từ lâu, và được
thực hiện bài bản, nhằm giành quyền kiểm soát thực tế trên Biển Đông [多维新闻网,
2020a].
Thứ ba, Trung Quốc muốn thông qua các tranh chấp để thăm dò phản ứng,
nhằm nhận diện “giới hạn đỏ” của Indonesia đối với Trung Quốc trong bối cảnh sự
hiện diện kinh tế của Bắc Kinh tại Jakarta ngày càng tăng. Trung Quốc muốn “đo
lường” mức độ chấp nhận của Indonesia trong việc “ủng hộ chính trị để đổi lấy lợi
ích về kinh tế”. Thứ tư, Trung Quốc cũng muốn thông qua các tranh chấp trên Biển
Đông để thử phản ứng của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ đối với vấn đề Biển Đông.
Việc “tạo ra tranh chấp”, quan sát phản ứng của Mỹ sẽ giúp Trung Quốc phán đoán
được mức độ quan tâm cũng như mức độ can thiệp của cường quốc này đối với vấn
đề Biển Đông, trên cơ sở đó, phán đoán khó khăn và thuận lợi để triển khai các hành
động tiếp theo trên Biển Đông với mức độ và tiến độ phù hợp, nhằm đạt lợi ích tối đa
cho Trung Quốc tại khu vực này.
Về phía Indonesia, Chính phủ Jokowi ngày càng thể hiện quan điểm cứng rắn
của mình trong các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, như vấn đề Biển Đông hay
chính sách đánh chìm các tàu cá nước ngoài hoạt động bất hợp pháp trên vùng biển
của Indonesia. Tháng 5/2015, lần đầu tiên Indonesia đã phá hủy một tàu cá Trung
Quốc sau 6 năm bắt giữ [Today Online, 2015]. Trong năm 2016, giữa Indonesia và
Trung Quốc đã xảy ra 3 lần va chạm trong vùng EEZ 200 hải lý ngoài khơi quần đảo
Natuna. Bộ trưởng ngoại giao Retno Marsudi cho biết: Indonesia muốn duy trì quan
hệ tốt với Trung Quốc nhưng sẽ không đàm phán về các vi phạm chủ quyền và quyền
tài phán của Indonesia đối với vùng EEZ và thềm lục địa [Dewi, 2016]. Đáng chú ý,
Trung Quốc đã không phản ứng mạnh mẽ trước những sự kiện này như cách đã làm
trong các sự cố tương tự liên quan đến Nhật Bản hay Philippines. Có thể thấy, cả hai
nước dường như có thể quản lý được quan hệ bất đối xứng, ngăn chặn các sự cố đó
88
ảnh hưởng đến các mối quan hệ kinh tế, dù cho có sự lo ngại về tính quyết đoán ngày
càng tăng của Trung Quốc, tuy nhiên, không đến mức khiến quan hệ bị đóng băng
[Hughes, 2018, tr.4] .
Một sự kiện quan trọng trong quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Trung
Quốc và Indonesia là việc Indonesia đã đặt lại tên biển, tăng cường hợp tác trên
biển với các nước khác. Tháng 7/2017, Indonesia công bố bản đồ, trong đó đặt
tên mới vùng biển gần quần đảo Natuna là “Biển Bắc Natuna”. Với việc đặt lại
tên một phần vùng biển tranh chấp, Indonesia đã “gián tiếp trở thành một bên có
tuyên bố chủ quyền ở khu vực này, nguyên nhân là vì tính toàn vẹn lãnh thổ”
[Cochrane, 2017]. Thái độ cứng rắn hơn của Indonesia đối với Trung Quốc trong
vấn đề biển Đông cũng có thể giải thích bằng việc Indonesia nhận được nhiều sự
hậu thuẫn hơn từ Mỹ sau khi ký kết hiệp định tăng cường đối tác chiến lược vào
cuối năm 2015 [Usindo, 2015]. Không chỉ vậy, tháng 3/2019, trong hội nghị
thượng đỉnh Australia-Asean ở Sydney, Jokowi thậm chí còn kêu gọi tuần tra
chung ở Biển Đông trong bối cảnh mối lo ngại ngày càng tăng đối với việc
Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các đảo vẫn còn đang là tranh chấp trong khu
vực. Tuy nhiên, đúng với truyền thống chính sách đối ngoại không liên kết của
mình, Jakarta đang trốn tránh bất kỳ liên minh khu vực nào chống lại Bắc Kinh
một cách rõ ràng, do Indonesia coi Trung Quốc là “một bên liên quan quan trọng
trong việc tạo ra một trật tự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ổn định và thịnh
vượng” [Heydarian, 2018]. Hội nghị đầu tiên giữa các cơ quan chấp pháp trên
biển của Trung Quốc và Indonesia được tổ chức tại Bắc Kinh ngày 22/3/2018 đã
thống nhất hai bên sẽ tăng cường đi sâu trao đổi ý kiến hợp tác thực chất về chấp
pháp trên biển [新华社, 2018a]. Sự kiện này cho thấy hai nước đang tìm cách
giải quyết những mâu thuẫn trên biển bằng cách tạo ra vùng trung lập, chuyển
các vấn đề tranh cãi thành chức năng công tác của các nhóm chuyên trách (để trở
thành vấn đề thường xuyên) – một trong những biện pháp quản lý mối quan hệ
bất đối xứng thường gặp.
Tuy nhiên, căng thẳng giữa Jakarta và Bắc Kinh đã leo thang sau sự kiện
89
Trung Quốc cho tàu cảnh sát biển, tài hải giám và tàu cá của họ vào hoạt động trong
một vùng biển ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia cuối tháng 12/2019. Từ
ngày 19-24/12/2019, Cục an toàn hàng hải Indonesia (Bakamla) cho biết có ít nhất
63 tàu cá của Trung Quốc đã thâm nhập bất hợp pháp vào khu vực biển Natuna,
trong đó có hàng chục tàu tuần duyên của Trung Quốc hộ tống tàu cá [The Jakarta
Post, 2019]. Trước việc Trung Quốc xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của
quần đảo Natuna của Indonesia, nước này đã thể hiện một loạt phản ứng bao gồm:
(i) Cứng rắn về mặt ngoại giao: triệu đại sứ Trung Quốc, gửi phản đối ngoại
giao với Bắc Kinh ngày 30/12/2019 đối với các báo cáo vi phạm lãnh thổ của các
tàu Cảnh sát biển và 63 tàu cá Trung Quốc ở vùng EEZ của Indonesia; khẳng định
yêu sách chủ quyền của Trung Quốc là “không có cơ sở pháp lý” [Reuters, 2020a],
Indonesia không có yêu sách chồng chéo với Trung Quốc và Indonesia sẽ không
bao giờ công nhận yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc, vốn không phù
hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) cũng như phán
quyết của toà án quốc tế năm 2016;
(ii) Vạch ra “ranh giới đỏ” trong việc sử dụng các lực lượng vũ trang nhằm
bảo vệ chủ quyền: lực lượng hải quân và không quân Indonesia đã được điều động
để bảo vệ chủ quyền quốc gia, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc đã bị tàu của Hải
quân Indonesia đuổi ra khỏi vùng biển Indonesia. Ngoài ra, ngày 7/1/2020, 04 máy
bay chiến đấu F-16 đã thực hiện các chuyến bay tuần tra thường xuyên trên quần
đảo Natuna để bảo vệ khu vực có chủ quyền [Reuters, 2020b]. Ngày 11/1/2020,
theo thông tin từ phía Indonesia, nước này vẫn có 3 tàu hải quân tại khu vực biển
xảy ra tranh chấp và phát hiện 6 tàu cảnh sát biển, 1 tàu hải giám và 48 tàu đánh cá
của Trung Quốc [多维新闻网, 2020b];
(iii) Đích thân Tổng thống Jokowi - người đứng đầu đất nước đến khu vực
căng thẳng, điều này có ý nghĩa biểu tượng quan trọng trong việc khẳng định chủ
quyền quốc gia. Ngày 08/01/2020, đích thân Tổng thống Joko Widodo đã đi tàu
đến thăm một hòn đảo trong vùng biển bị Trung Quốc tranh chấp để khẳng định
chủ quyền của Indonesia. Trước đó, ngày 06/01/2020, ông Jokowi mạnh mẽ tuyên
90
bố rằng, đối với vấn đề chủ quyền không có chỗ cho việc mặc cả với Trung Quốc,
“nước ngoài nếu không có sự đồng ý của chính phủ chúng tôi không thể giẫm lên
lãnh thổ nước tôi, một chút cũng không được”; Indonesia có chủ quyền “không thể
đàm phán” đối với khu vực biển quần đảo Natuna [多维新闻网, 2020b];
(iv) Kêu gọi sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ chủ quyền:
Tổng thống Indonesia cũng huy động sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, nhất là các
quốc gia như Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc. Cụ thể, ngày 10/01/2020, nhân dịp ngoại
trưởng Nhật Bản Toshimitsu Motegi ghé thăm Jakarta, tổng thống Indonesia Joko
Widodo đã yêu cầu Nhật Bản đẩy mạnh đầu tư vào ngành thủy sản và năng lượng
tại vùng quần đảo Natuna, nơi vừa có căng thẳng với Trung Quốc, ông Jokowi nhấn
mạnh rằng: “tôi muốn mời Nhật Bản đầu tư vào Natuna” [Reuters, 2020c]. Bên
cạnh đó, hai bên cũng đồng ý tăng cường phối hợp trong lãnh vực tuần duyên. Đồng
thời, Bộ trưởng Indonesia Retno cũng yêu cầu Nhật Bản hợp tác để phát triển các
hòn đảo bên ngoài Indonesia, bao gồm quần đảo Natuna [Minister for Foreign
Affairs of Japan, 2020]. Ngoài ra, Mỹ và Hàn Quốc đều muốn đầu tư vào quần đảo
Natuna, vào lúc tổng thống Joko Widodo gia tăng nỗ lực bác bỏ các yêu sách của
Trung Quốc đối với vùng biển giầu nguồn tài nguyên ở Biển Đông. Theo Bộ trưởng
Điều phối các vấn đề Hàng hải và Đầu tư Luhut Pandjaitan: “các nhà đầu tư Mỹ đã
bày tỏ sự quan tâm của họ, cùng với các nhà đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc và
Trung Quốc” [Aditya, Suhartono, 2020].
Có hai yếu tố đã thúc đẩy chính sách hàng hải ngày càng chủ động và cứng
rắn của Indonesia trong giai đoạn từ 2013-nay. Đầu tiên, đối với Jokowi, mối quan
tâm hàng đầu là sự phát triển, cụ thể là bảo vệ sinh kế của cộng đồng ngư dân
Indonesia bao gồm khoảng 2,4 triệu người. Trước tình hình đánh bắt cá bất hợp
pháp của các tàu cá nước ngoài đã khiến Indonesia thiệt hại ít nhất 1 tỷ USD mỗi
năm, Chính phủ Jokowi đã bổ nhiệm bà Susi Pudjiastuti là Bộ trưởng Bộ Hàng hải
và Thủy sản, người đã áp dụng chính sách cho đánh chìm các tàu đánh cá nước
ngoài bất hợp pháp tại ngư trường truyền thống của Indonesia. Với chính sách
cứng rắn này, trữ lượng cá của Indonesia đã tăng gấp đôi, đồng thời, hầu hết
91
10.000 tàu đánh ca bất hợp pháp của nước ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc và Việt
Nam đã biến mất [Heydarian, 2018]. Tiếp đến, Indonesia lo ngại về việc “đường
chín đoạn” trong yêu sách của Trung Quốc chồng lấn một phần lên vùng biển giàu
năng lượng của quần đảo Natuna. Những năm gần đây, Indonesia đã tăng cường
sự hiện diện quân sự tại Quần đảo Riao trong khu vực, và nhanh chóng tăng ngân
sách quốc phòng, với trọng tâm ngày càng tăng trong việc xây dựng hải quân tiên
tiến và củng cố không quân. Trong năm 2014, Indonesia đã tăng chi tiêu quốc phòng lên mức 14% [Heydarian, 2018]. Đặt trong bối cảnh chính quyền Indonesia
luôn nhạy cảm trước vấn đề chủ quyền cũng như mối lo ngại ngày càng tăng của
Indonesia về yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc trên Biển Đông, chính
sách đánh chìm tàu và việc tăng cường chi tiêu quốc phòng, cũng như phản ứng
gay gắt của Indonesia trước sự gây hấn của Trung Quốc vào tháng 12/2019 cho
thấy, Jakarta sẽ không nhân nhượng nếu quá trình bành trướng của Trung Quốc
gây hại đến quyền lợi của nước này.
Từ những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung
Quốc thời kỳ Tổng thống Jokowi, có thể thấy mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Indonesia rất phức tạp, và sẽ vẫn tiếp diễn như vậy trong thời gian tới [Dewi,
2016]. Chính quyền Tổng thống Jokowi đang đấu tranh để khẳng định mình là
một quốc gia hàng hải, họ đã làm được điều đó bằng cách đặt lại tên biển Natuna,
và thổi bay các tàu đánh cá bất hợp pháp của nước ngoài trong vùng biển truyền
thống của mình, điều khiến Bộ Ngoại giao Trung Quốc phải lên tiếng phản đối.
Tuy nhiên, Indonesia vẫn cần Trung Quốc với vai trò một đối tác thương mại và
nguồn đầu tư lớn. Cả hai vấn đề này sẽ vẫn còn tồn tại trong quan hệ hai nước
mà không dễ gì biến mất.
3.2.2. Chuyển biến trong quan hệ kinh tế
Tương tự lĩnh vực chính trị - an ninh, những chuyển biến trong quan hệ kinh
tế giữa Trung Quốc và Indonesia có thể chia làm hai giai đoạn phát triển, với dấu
mốc là năm 2013, khi hai nước nâng cấp quan hệ, cũng là năm Trung Quốc chính
thức đưa ra Sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” tại Quốc hội
92
Indonesia vào tháng 10/2013.
3.2.2.1. Giai đoạn năm 2005 – 2013
Sau khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005, kim
ngạch thương mại giữa hai nước cũng như đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia
không ngừng tăng mạnh, hợp tác năng lượng có nhiều điểm nhấn do hai nước có tính
bổ sung cho nhau; tuy nhiên cán cân thương mại còn bất hợp lý, tỷ lệ thực hiện các
dự án đầu tư còn thấp. Đến năm 2013, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu
lớn thứ hai của Indonesia, và là nguồn nhập khẩu lớn nhất của nước này. Kim ngạch
thương mại Trung Quốc - Indonesia đạt hơn 68 tỷ USD năm 2013, tăng gấp 4 lần so với năm 2005 (hơn 16,7 tỷ USD) [Nargiza, Iaco, 2015, tr.17-20] (Xem Hình 3.1).
Từ năm 2007, cán cân thương mại giữa hai nước đã chuyển từ việc Indonesia có thặng dư
trở thành thâm hụt thương mại với Trung Quốc, đặc biệt, mức thâm hụt này có xu hướng
ngày càng tăng. Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là máy móc
thiết bị, đồ gia dụng, hàng may mặc; trong khi Indonesia xuất khẩu sang Trung
Quốc chủ yếu là nguyên liệu như dầu khí và khí thiên nhiên, than đá, khoáng sản,
dầu cọ… Nếu kết cấu hàng hóa giữa Trung Quốc và Indonesia không có sự điều
chỉnh nhất định, chắc chắn tình trạng thâm hụt thương mại của Indonesia sẽ không
được cải thiện, đây sẽ là nút thắt khó cần được tháo gỡ để giúp quan hệ kinh tế
thương mại hai nước phát triển lành mạnh.
(http://www.mofcom.gov.cn) từ năm 2005 đến 2013;
năm 2013: http://cn.chinagate.cn/news/2014-08/13/content_33225825.htm, ngày 13/8/2014;
93
Nguồn số liệu: Tác giả tổng hợp số liệu từ trang web của Bộ Thương mại Trung Quốc
năm 2012: http://images.mofcom.gov.cn/www/201304/20130418103919707.pdf, ngày 18/4/2013;
năm 2011: http://yzs.mofcom.gov.cn/article/t/201302/20130200027455.shtml, ngày 16/2/2013;
năm 2010: http://template1.mofcom.gov.cn/article/bv/ae/201110/20111007781843.shtml;
năm 2009: https://it.szu.edu.cn/local/D/7B/74/DDEBEB8CB8661F587E435CA7502F4F2197D297
D9AA.pdf;
năm 2008: 《2008 年印尼中贸易 315 亿美元》, 《千岛日报》(印尼) ngày 3/7/2009, dẫn lại 吴
崇伯 (2010), “战略伙伴关系框架下中国与印尼经济关系的发展与对策研究”, 南洋问题研究,3
(143), tr.10-19;
năm 2007: http://www.sinotf.com/ GB/News/1003/2008-01-21/109840B63.html, ngày 21/1/2008;
năm 2006: http://images.mofcom.gov.cn/ trb/accessory/200704/1177552066478.pdf;
năm 2005: China Ministry of Commerce, via CEIC database, trích lại từ Nargiza Salidjanova,
Iacob Koch-Weser, Jason Klanderman (2015), “China’s Economic Ties with ASEAN: A Country-
by-Country Analysis”, U.S.-China Economic and Security Review Commission, trang 18, ngày 17/3/2015.
Trong thời gian từ tháng 4/2005 đến tháng 1/2013, có tất cả 34 thỏa thuận và MoU
đã được ký kết giữa hai bên, đây là kết quả của các cuộc họp nhằm thúc đẩy triển khai
quan hệ đối tác chiến lược. Trong số đó, 23 thỏa thuận là kết quả hợp tác giữa hai bên sau
khi Kế hoạch hành động được ký kết vào tháng 1/2010. Như vậy, trong khoảng thời gian 5
năm từ lúc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, hai nước mới chỉ ký kết 9 thỏa thuận hợp
tác, cho thấy hợp tác diễn ra chậm ngay từ việc xây dựng các văn bản xác định khung và
cơ chế hợp tác. Về cơ bản, hợp tác kinh tế trong giai đoạn này không đáp ứng được kỳ
vọng cao của nhà lãnh đạo hai nước khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược năm 2005 [Priyandita, 2019, tr.16].
Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, sau khi hai nước xây dựng quan hệ đối tác
chiến lược vào năm 2005, đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia tăng mạnh. Kể từ
khi Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN được thành lập năm 2010 đến nay,
đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Indonesia tăng lên nhanh chóng. Năm 2012,
Indonesia đứng vị trí thứ 16 trong số 20 nước nhận lượng FDI nhiều nhất của Trung
quốc, chiếm 10,97% tổng lượng vốn FDI của Trung Quốc dành cho các nước
ASEAN [商务部 , 2016b]. Trong khoảng thời gian 5 năm từ 2010-2014, Trung
94
Quốc đầu tư 11 tỷ USD vào 36 dự án tại Indonesia, trong khi Nhật đã đầu tư tổng
18 tỷ USD vào 218 dự án [Courtney, 2015]. Tuy nhiên, từ năm 2005-2014, mới chỉ
có 7% các dự án được Trung Quốc hứa hẹn trở thành hiện thực ở Indonesia, đây là tỷ
lệ rất thấp, so với con số này ở Nhật Bản là 62% [Chilkoti, 2015]. Điều này đã góp
phần gây ra cách nhìn nhận tiêu cực về Trung Quốc cũng như các dự án đầu tư của
nước này tại Indonesia.
Trong lĩnh vực năng lượng, hợp tác giữa Trung Quốc và Indonesia cũng có
những điểm nhấn. Lượng nhập khẩu than đá từ Indonesia của Trung Quốc không
ngừng tăng mạnh, trong thời gian từ năm 2001 - 2008 đã tăng gấp 8 lần [吴崇伯,
2014, tr.87]. Indonesia đã trở thành nguồn nhập khẩu than lớn nhất của Trung
Quốc. Đây là một trong những lĩnh vực hợp tác có tiềm năng nhất giữa hai nước
bởi hai bên có khả năng bổ sung lợi thế cho nhau. Trung Quốc cần dầu mỏ, than
đá và khí đốt của Indonesia. Ngược lại, Indonesia cần thị trường tiêu thụ lớn và
ổn định của Trung Quốc.
Trong lĩnh vực tài chính, cơ chế hợp tác tài chính giữa Trung Quốc và
Indonesia chủ yếu thông qua việc ký kết các hiệp định trao đổi tiền tệ với quy mô
ngày càng tăng, và thông qua việc thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại các nước
đối tác. Tháng 10-2005, hai nước tiếp tục ký kết hiệp định trao đổi tiền tệ, theo đó,
khi Indonesia cần những khoản chi trả lưu động ngắn hạn, có thể dùng hình thức
dùng đồng Rp đổi sang USD để nhận khoản hỗ trợ tài chính không vượt quá 2 tỷ
USD từ Trung Quốc. Năm 2006, quy mô này đã tăng lên thành 4 tỷ USD. Tháng 3-
2008, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương Indonesia đã ký
kết hiệp định hoán đổi tiền tệ song phương với trị giá 100 tỷ RMB. Điều này đã
giúp tăng nhu cầu về đồng Nhân dân tệ trong thị trường Indonesia, có lợi cho việc
giảm bớt độ phụ thuộc của đồng Rp vào đồng USD. Ngoài ra, việc ký kết Hiệp định
hoán đổi tiền tệ chắc chắn sẽ làm tăng thương mại và đầu tư trực tiếp của hai nước,
kích thích tăng trưởng kinh tế Indonesia, đồng thời làm tăng tính lưu động ngắn hạn
cho việc ổn định thị trường tiền tệ [吴征兰,胡列曲, 2015, tr. 298]. Tháng 7-2010,
Ủy ban Quản lý giám sát ngành ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương
95
Indonesia đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác quản lý giám sát song phương, đồng ý
tăng cường hợp tác trong quản lý giám sát như trao đổi thông tin giữa hai ngân hàng
[许利平, 2011, tr.57]. Trong giai đoạn từ 2005-2013, mặc dù hai nước đã ký kết
một số hiệp định, đạt được một số thỏa thuận, song hợp tác trong lĩnh vực tài chính
giữa hai nước vẫn còn khá khiêm tốn, số lượng và tổng giá trị các hiệp định hoán
đổi tiền tệ còn chưa cao, số lượng các ngân hàng có vốn đầu tư của Trung Quốc/
Indonesia hoạt động tại nước đối tác chưa nhiều.
3.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
Việc Trung Quốc và Indonesia nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến
lược toàn diện vào năm 2013 đã thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước có những tiến
triển mạnh mẽ. Giai đoạn này cũng chính là lúc Trung Quốc đưa ra và thúc đẩy
thực hiện BRI, do đó, quan hệ kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn này gắn nhiều
với việc triển khai BRI tại Indonesia. Từ khi chiến lược này được thúc đẩy tại
Indonesia, hợp tác thương mại giữa Trung Quốc và Indonesia không ngừng được
tăng cường theo cả chiều rộng và chiều sâu. Trong bản Tầm nhìn và hành động
thúc đẩy cùng xây dựng Vành đai kinh tế con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa
thế kỷ XXI đã xác định rõ: tăng cường kết nối chính sách là bảo đảm quan trọng,
hợp tác thương mại đầu tư là nội dung trọng điểm; cần sáng tạo các phương thức
thương mại, phát triển chuỗi ngành nghề mới như thương mại điện tử qua biên
giới; kết hợp thống nhất giữa đầu tư và thương mại, dùng đầu tư dẫn dắt sự phát
triển thương mại; hợp tác cùng xây dựng các khu công nghiệp như khu hợp tác
thương mại ngoài biên giới, các khu hợp tác kinh tế qua biên giới; thúc đẩy sự
phát triển các chuỗi ngành nghề [商务部 , 2016a]. Những năm gần đây, Trung
Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Indonesia. Tổng kim ngạch
thương mại hai chiều năm 2016 đạt 52 tỷ USD, và đạt mốc 72,48 tỷ USD năm
2018 [对外贸易, 2019], con số này tăng nhẹ lên mức 72,7 tỷ USD vào năm 2019
[对外贸易, 2020] (xem Hình 3.2). Bước sang năm 2020, do ảnh hưởng nặng nề từ
dịch bệnh Covid-19, tổng kim ngạch hai chiều giữa Trung Quốc và Indonesia
trong quý I mới chỉ đạt 17,66 tỷ USD, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước, và
96
chỉ đứng thứ 5 về tổng lượng kim ngạch thương mại với Trung Quốc trong số 10
nước ASEAN [商务部, 2020]. Về các thỏa thuận thương mại, theo số liệu thống
kê, tính đến cuối năm 2017, đã có 36 MoU được ký kết giữa Trung Quốc và
Indonesia dưới Chính quyền Jokowi [Andika, Aisyah, 2017, tr.165]. Số lượng 36
thỏa thuận được ký kết giữa hai nước trong một khoảng thời gian ngắn cho thấy sự
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ trang web của Bộ Thương mại Trung Quốc
(http://www.mofcom.gov.cn) từ năm 2013 đến 2019.
Năm 2019: http://www.cic.mofcom.gov.cn/article/economicandtrade/staticaldata/202001/41597
8.html; năm 2018: http://www.mofcom.gov.cn/dl/gbdqzn/upload/yindunixiya.pdf ;
năm 2017: http://finance.people.com.cn/n1/2018/0509/c1004-29973652.html, ngày 9/5/2018;
năm 2016: https://fair.china.cn/guowai/49345.html;
năm 2015: http://yzs.mofcom.gov.cn/article/t/201602/20160201252490.shtml;
năm 2014: http://yzs.mofcom.gov.cn/article/t/201506/20150601008693.shtml;
năm 2013: http://cn.chinagate.cn/news/2014-08/13/content_33225825.htm, ngày 13/8/2014.
nghiêm túc và nỗ lực của cả hai nước nhằm thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn.
Những năm gần đây, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
Indonesia, tuy nhiên thâm hụt thương mại vẫn là vấn đề nổi cộm cần tháo gỡ.
Trong vòng 1 năm, từ 2013-2014, mức thâm hụt đã tăng gần gấp 3 lần, từ mức
khoảng 5,5 tỷ USD tăng lên hơn 14 tỷ USD, đến năm 2018 thì con số này đã lên
tới hơn 20 tỷ USD (Xem Hình 3.3). Theo đó, năm 2018, Trung Quốc trở thành đối
97
tác thâm hụt thương mại lớn nhất của Indonesia trong top 10 quốc gia thâm hụt
thương mại của nước này [Workman, 2019].1 Chính sách khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc theo BRI được đưa ra từ cuối năm
2013, các lĩnh vực khuyến khích đầu tư chủ yếu là cơ sở hạ tầng với nguồn vốn
lớn, thương mại hai nước lại có tính chất bổ sung cho nhau..., đây chính là những
yếu tố chủ yếu khiến mức thâm hụt thương mại giữa hai nước ngày càng tăng cao,
Nguồn Tác giả tổng hợp số liệu từ trang web của Bộ Thương mại Trung Quốc
(http://www.mofcom.gov.cn) từ năm 2013 đến 2019 (Xem nguồn số liệu Hình 3.2.)
với cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Về cơ chế hợp tác thương mại, các cơ chế không ngừng được hoàn thiện. Từ
khi hai nước xây dựng cơ chế đối thoại kinh tế cấp cao vào năm 2015 đến nay, Trung
Quốc và Indonesia đã tổ chức thành công 3 hội nghị đối thoại kinh tế cấp cao. Hội
nghị này trở thành diễn đàn quan trọng của hai chính phủ trong việc giao lưu hợp tác
kinh tế thương mại. Tháng 7-2016, Hiệp định thư về bản nâng cấp Khu thương mại tự
do kinh tế Trung Quốc – ASEAN chính thức có hiệu lực, góp phần thúc đẩy hơn nữa
hợp tác kinh tế thương mại Trung Quốc – Indonesia. Hiện nay, trong 20 khu hợp tác
thương mại cấp quốc gia của Trung Quốc ở nước ngoài đã được phê duyệt, có 7 khu
được xây dựng tại các nước ASEAN. Trong đó, tại Indonesia có 3 khu, bao gồm:
Khu hợp tác thương mại Trung Quốc – Indonesia, Khu Công nghiệp Thanh Sơn
thuộc Khu Công nghiệp tổng hợp Trung Quốc – Indonesia và Khu hợp tác nông
1 Số liệu trong nghiên cứu của Daniel Workman có sự chênh lệch với số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc do các tiêu chí khác nhau.
98
nghiệp Tụ Long Trung Quốc – Indonesia. Các khu thương mại này không chỉ tạo
công việc cho hàng nghìn người, mà còn đóng góp cho sự phát triển kinh tế hai bên
thông qua lượng sản phẩm và tiền thuế thu nộp [龙安山, 2018, tr.177-179].
Trong lĩnh vực đầu tư, sau khi việc kết nối BRI và chiến lược “Trục hàng hải
toàn cầu” được đưa vào Tuyên bố chung của hai nước năm 2015, đầu tư trực tiếp của
Trung Quốc vào Indonesia tăng lên nhanh chóng. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp
Trung Quốc lựa chọn đầu tư tại Indonesia, bao gồm các doanh nghiệp hàng đầu của
Trung Quốc trong lĩnh vực IT như Baidu, Tengxun, Alibaba, và các hãng điện thoại
lớn như Oppo, Vivo... Nếu như năm 2010, FDI của Trung Quốc vào Indonesia đứng
thứ 9, thì đến năm 2016 đã vươn lên thứ 3, đến năm 2017 đã đứng vị trí thứ 2, chỉ sau
Singapore [Suryadinata, 2017a, tr.6]. Hiện nay, Trung Quốc đóng vai trò quan trọng
đối với Indonesia khi chiếm 16,2% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Indonesia trong
nửa đầu năm 2019 [Antarnews, 2019], là nhà đầu tư lớn thứ hai ở Indonesia trong cả
Đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như
năm 2019 chỉ sau Singapore [Marketscreener, 2020].
nuôi trồng kinh tế, gia công, khai khoáng, điện lực, chế tạo điện gia dụng và các sản
phẩm điện tử, kinh tế kĩ thuật số [王立平, 2018]. Theo thống kê 5 năm gần đây, các dự
án của Trung Quốc về điện lực, thủy lợi có vốn đầu tư lớn nhất, chiếm 23% tổng vốn
đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia; tiếp theo đó là lĩnh vực khai khoáng và gia công
kim loại chiếm 21%. Có thể thấy, năng lượng, công nghiệp kim loại và cơ sở hạ tầng
vẫn là những lĩnh vực chủ yếu trong đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia [谭璟婧,
2017, tr.14]. Ngoài ra, Trung Quốc và Indonesia đã thống nhất cùng phát triển các dự
án cơ sở hạ tầng tại ba tỉnh dọc theo BRI là tỉnh Bắc Sumatra, Bắc Kalimantan và Bắc
Sulawesi. Quỹ Con đường tơ lụa sẽ đầu tư cho 3 lĩnh vực là giao thông vận tải, công
nghiệp và du lịch, bao gồm xây dựng các cảng, sân bay, đường sắt và bến tàu du lịch
[Maulia, 2018].
Năm 2015, các doanh nghiệp Trung Quốc đăng ký đầu tư vào Indonesia với
tổng giá trị các dự án lên tới 27.759 tỷ Rp (khoảng 2,2 tỷ USD), chiếm 22,96% tổng
99
số FDI dự kiến đầu tư vào Indonesia. Tuy nhiên, giá trị các dự án trúng thầu mới chỉ
thể hiện mong muốn đầu tư vào Indonesia của Trung Quốc, số vốn đầu tư thực tế
mới là tiêu chuẩn đo lường mức độ đầu tư của Trung Quốc vào quốc đảo lớn nhất
thế giới này. Từ số liệu của Bảng 3.4, có thể thấy tuy tiềm năng đầu tư của Trung
Quốc vào Indonesia là rất lớn, nhưng hiệu quả đầu tư thực tế thấp hơn rất nhiều, chỉ
đạt mức 2,83% năm 2015 [谭璟婧, 2017, tr.18]. Điều này cũng góp phần gây ra
cách nhìn nhận tiêu cực về hình tượng Trung Quốc cũng như các dự án đầu tư của
nước này tại Indonesia. Về nguyên nhân: Thứ nhất, doanh nghiệp Trung Quốc đầu
tư vào Indonesia tập trung nhiều trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án
này thường có các đặc điểm như chu kỳ xây dựng dài, vốn đầu tư lớn, dễ bị tác
động bởi các nhân tố về môi trường, khiến các dự án thường phải kéo dài thời hạn
hoặc khó thực hiện. Thứ hai, do rủi ro đến từ môi trường đầu tư của Indonesia, như
khó khăn trong việc giải tỏa đền bù đất đai, tham nhũng trong chính quyền, cơ sở hạ
tầng lạc hậu..., cản trở không ít đến quá trình thực hiện các dự án của các doanh
nghiệp Trung Quốc [谭璟婧, 2017, tr.19]. Thứ ba, bản thân nước nhận đầu tư, trong
trường hợp này là Indonesia, cũng lo ngại trước “bẫy nợ” mà đầu tư của Trung
Quốc có thể đem lại. Theo Phạm Sỹ Thành (2019), khi Trung Quốc cho vay vốn lớn
để đầu tư vào một dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, nhưng năng lực trả nợ và sinh
lợi của dự án ở mức thấp, không đủ trả nợ thì chính cơ sở hạ tầng đó sẽ được bàn
giao cho Trung Quốc quyền vận hành, kinh doanh trong một thời gian dài (ví dụ 99 năm) như một cách để hạch toán khoản nợ vay [Phạm Sỹ Thành, 2019].
Bảng 3.4. Tình hình thực hiện đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia từ năm 2010-2015
Năm
Số lượng dự án
Số lượng dự án
Tỉ lệ thực hiện đầu tư
cấp phép (IP)
đầ tư t ực tế
(%)
(IU+LKP)
430
174
40,4
2010
1457
128
8,8
2011
1858
141
7,6
2012
3822
297
7,8
2013
15680
800
5,10
2014
100
22217
628
2,83
2015
45464
2168
4,77
Tổng hợp
Nguồn số liệu: BKPM, dẫn lại từ 谭 璟 婧 (2017), tr.18-19
Trong lĩnh vực năng lượng, sau khi hai nước nâng cấp quan hệ lên thành đối
tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, một số công ty Trung Quốc như SINOPEC,
Petrochina và CNOOC đã bắt đầu đầu tư vào dầu và khí đốt ở Indonesia. Các công
ty Trung Quốc cũng tham gia vào Dự án nhà máy điện 35.000 megawatt. Tuy nhiên,
một điểm đáng chú ý là, Diễn đàn hợp tác năng lượng Trung Quốc – Indonesia
được thành lập từ năm 2003, đến năm 2010 đã tổ chức được 4 lần hội nghị, nhưng
phải đến tháng 11-2017, Diễn đàn lần thứ 5 mới được tổ chức. Diễn đàn này đã bị
tạm ngừng tổ chức trong 7 năm, cũng là lúc những tranh chấp chủ quyền trên Biển
Đông diễn ra căng thẳng. Điều này cho thấy, dù Trung Quốc và Indonesia có tiềm
năng lớn trong hợp tác về năng lượng, nhưng hợp tác năng lượng bị chi phối mạnh
mẽ và trực tiếp bởi yếu tố an ninh. Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc
và Indonesia không những thể hiện tính chất bổ sung cho nhau, mà còn thể hiện tính
chất bất đối xứng. Thực trạng phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước hiện nay
đang diễn ra chủ yếu theo hình thức Trung Quốc “khai thác” nguồn lực của
Indonesia như tài nguyên năng lượng, bản chất của việc hợp tác tài chính cũng là
nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế cho các doanh nghiệp Trung Quốc khi đầu
tư ở Indonesia. Với vai trò là một nước lớn, rõ ràng Trung Quốc đang chiếm thế chủ
động và được nhiều lợi ích hơn trong mối quan hệ kinh tế này.
Trong lĩnh vực tài chính, sau khi hai nước nâng cấp quan hệ lên thành đối tác
chiến lược toàn diện, ngân hàng trung ương của hai nước đã ký kết Hiệp định hoán đổi
tiền tệ với tổng trị giá 15 tỷ USD [吴崇伯, 2014, tr.41], tăng gần gấp 4 lần so với con
số này năm 2006. Hiệp định có hiệu lực đến tháng 10-2016 tuy nhiên đến nay vẫn chưa
được tiếp tục ký kết. Hiện nay, nhiều ngân hàng lớn của Trung Quốc như Ngân hàng
Công thương (ICBC), Ngân hàng Phát triển quốc gia Trung Quốc (CDB), Ngân hàng
Xuất nhập khẩu Trung Quốc (CEXIM) … đã có mặt tại Indonesia, giúp Indonesia có
101
sự lựa chọn tài chính mang tính cạnh tranh và đa dạng hơn [人民网, 2017]. Như vậy,
có thể thấy, cùng với việc Trung Quốc và Indonesia đẩy mạnh các hoạt động thương
mại và đầu tư, nhu cầu hợp tác về tài chính cũng gia tăng, hiệp định hoán đổi tiền tệ có
tổng giá trị được ký kết tăng vọt so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, việc Hiệp định này
hết hiệu lực từ tháng 10-2016 đến nay vẫn chưa tiếp tục được ký kết, cho thấy vẫn còn
nhiều vướng mắc gây cản trở cho hoạt động hợp tác về tài chính giữa hai nước.
Sở dĩ hợp tác về tài chính giữa hai nước vẫn chưa thật sự phát triển, là do
trong lĩnh vực này còn tồn tại các nhân tố bất lợi như giá thành cao, hiệu quả thấp,
nhiều rủi ro. Nền tảng kinh tế của Indonesia yếu kém, năng lực hoàn trả các khoản
vay kém, nhiều khả năng sẽ vi phạm hợp đồng, trong khi đó bản thân các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng có đặc điểm thời gian thi công lâu, giá thành cao, chu kỳ thu hồi
vốn dài, làm tăng rủi ro cho các tổ chức tài chính của Trung Quốc khi thúc đẩy các
dự án tại Indonesia, đặc biệt đối với AIIB chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, Chính phủ Indonesia không đưa ra được sự bảo đảm về mặt chính quyền
đối với các ngân hàng địa phương. Một khi tính lưu động của vốn ngân hàng trong
giới doanh nghiệp Indonesia giảm, nợ xấu tăng lên, rất có khả năng xảy ra các vấn
đề như dòng tiền bị đứt đoạn, thậm chí dẫn đến hiện tượng đột biến rút tiền gửi. Bên
cạnh đó, những rủi ro về thanh khoản tương đối nổi cộm. Do dựa dẫm quá mức vào
bên ngoài, tính thanh khoản của Indonesia rất dễ bị tác động bởi sự thay đổi từ môi
trường quốc tế. Hiện nay, Indonesia duy trì ổn định ngoại hối và niềm tin của nhà
đầu tư bằng biện pháp can thiệp của chính phủ. Chính phủ Indonesia phá giá tiền tệ
để tăng cường xuất khẩu ra bên ngoài, kích thích nền kinh tế trong nước, do đó, rủi
ro phá giá đồng Rp là rất rõ [潘玥, 2018, tr.70].
Trong lĩnh vực thầu khoán công trình, đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng là
mối quan tâm chung của cả hai bên vì đây là lĩnh vực hai nước có khả năng bổ sung
cho nhau. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch Phát triển quốc gia Indonesia, trong giai
đoạn 2015-2020, nước này cần 7,2 triệu tỉ Rp để thực hiện kế hoạch nâng cấp cơ sở
hạ tầng Indonesia, trong khi Chính phủ Trung ương Indonesia chỉ có khả năng cung
cấp 25% tổng số vốn [中国商务, 2018]. Trong khi đó, Trung Quốc đang trong tình
102
trạng sản xuất dư thừa, cần chuyển dịch sức sản xuất và hàng hóa dư thừa ra bên
ngoài, đặc biệt thông qua các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Thời gian gần đây, BRI
bị đánh giá là sẽ gây gánh nặng chi phí tài chính cho một số quốc gia do các dự án cơ
sở hạ tầng thường đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Chẳng hạn như, các dự án BRI được
coi là tăng gánh nặng nợ cho Indonesia, hiện đã đạt 22 nghìn tỷ Rupiah (tương đương
khoảng 1,54 tỷ USD). Nhưng, Bộ trưởng Điều phối các vấn đề Hàng hải và Đầu tư
Luhut Pandjaitan tuyên bố rằng Indonesia sẽ không bị mắc kẹt trong bẫy nợ của BRI
bởi vì chính phủ không sử dụng Thoả thuận Chính phủ với Chính phủ (G-to-G:
goverment to goverment), vì vậy nước này không nợ trong dự án, mà hai công ty của
hai nước chịu trách nhiệm hoàn toàn cho các dự án. Ông cho biết: “có những người
hoài nghi sâu sắc về bẫy nợ xấu, nhưng chúng tôi không sử dụng mô hình G-to-G, mà
là doanh nghiệp với doanh nghiệp, điều này rất tốt cho việc giảm bẫy nợ và nguy cơ
bẫy nợ đối với nhân sách nhà nước” [The Insiders Stories, 2019].
Trong lĩnh vực cho vay tín dụng, trong khuôn khổ BRI, Ngân hàng Đầu tư cơ sở
hạ tầng châu Á (AIIB) đã đầu tư 216,5 triệu USD cho Dự án cải tạo các khu vực nhà ổ
chuột ở Indonesia. Trung Quốc cũng cam kết giúp đỡ tài chính cho xây dựng 5 đập
nước ở Indonesia, với tổng số tiền khoảng 10 tỷ USD [Edward, 2017]. Về cơ sở hạ
tầng đường sắt, Trung Quốc đã trúng thầu dự án đường sắt cao tốc Jakarta – Bandung,
với tổng vốn đầu tư 5,13 tỷ USD, được xây dựng tại đảo Java là nơi tập trung gần 60%
dân số của Indonesia. Về đường bộ và đường cao tốc phải kể đến dự án cao tốc
Manado – Bitung dài 39,9 km kết nối Manado và Bitung ở đảo Bắc Sulawesi, hỗ trợ
phát triển trong tương lai cho cảng Bitung và Đặc khu kinh tế Bitung. Về cảng biển,
một trong những dự án lớn nhận được đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia là cảng
Tanjung Sauh (đảo Batam) và dự án mở rộng Tanjung Priok - cảng biển lớn nhất nước
này. Trong tháng 4-2018, hai nước đã ký 5 hợp đồng trị giá 23,3 tỷ USD cho các dự án
cơ sở hạ tầng, bao gồm nhà máy thủy điện và cơ sở chuyển than thành dimetylether [Elmer, 2018]. Việc liên tiếp ký kết nhiều dự án liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng
cho thấy cả hai nước đều biết cách tận dụng tối đa tính chất bổ sung lẫn nhau trong lĩnh
vực này để tạo động lực phát triển kinh tế cho cả Trung Quốc và Indonesia.
103
Tóm lại, từ sau khi Trung Quốc và Indonesia nâng cấp quan hệ lên thành đối
tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, quan hệ song phương trong lĩnh vực kinh tế
đã chứng kiến một sự phát triển vượt bậc, từ tổng kim ngạch thương mại, đến các
chỉ số đầu tư, các cơ chế thương mại, các dự án hợp tác về năng lượng... Đặc biệt,
hợp tác trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý,
là kết quả của việc kết nối BRI của Trung Quốc với chiến lược “Trục hàng hải toàn
cầu” của Indonesia. Tuy nhiên, một số vấn đề tồn tại trong hợp tác kinh tế giữa
Trung Quốc và Indonesia đã nêu ở các phần trên, như thâm hụt thương mại lớn, tỷ
lệ thực hiện các dự án đầu tư còn thấp gây tác động xấu đến xã hội Indonesia. Kết
cấu thương mại giữa hai nước hiện nay khiến người dân Indonesia có ấn tượng rằng
Trung Quốc đang “bóc lột” nguồn tài nguyên thiên nhiên của Indonesia. Bên cạnh
đó, thương mại tự do với Trung Quốc đã gây nhiều lo lắng cho Indonesia, vì nguồn
hàng giá rẻ từ Trung Quốc như các sản phẩm dệt may có thể gây tổn hại đến công
nghiệp Indonesia, “mở rộng tự do thương mại với Trung Quốc sẽ tác động tiêu cực
đến khả năng cạnh tranh của Indonesia trong sản xuất và xuất khẩu” [Mishra, Sari, 2010, tr.5].
Về mặt đầu tư, Trung Quốc vẫn chưa thể xóa bỏ “ấn tượng xấu” khi mới chỉ
thực hiện 7% các dự án được hứa hẹn tiến hành tại Indonesia [Chilkoti, 2015]. Bên
cạnh đó, vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia là một trong những vấn đề tiềm
tàng nhiều bất ổn đối với xã hội nước này. Những năm gần đây, dư luận Indonesia
nhiều lần dấy lên những cuộc tranh luận về việc một số lượng lớn lao động Trung
Quốc (khoảng 10-20 triệu) đang ồ ạt tiến vào Indonesia, nhận mức lương thấp hơn
mức lương của người Indonesia, cạnh tranh sức lao động tại chính quê hương của
những người Indonesia... Tất cả những vấn đề tồn tại này không chỉ tác động xấu
đến quan hệ kinh tế giữa hai nước, mà còn tạo ra dư luận tiêu cực trong xã hội
Indonesia, hình thành nên lực cản trong việc phát triển tổng thể quan hệ hai nước.
3.2.3. Chuyển biến trong quan hệ văn hóa - xã hội
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, hợp tác giữa hai nước chưa thu được
thành tựu đáng kể. Tính đến năm 2010, sáu học viện Khổng Tử của Trung Quốc
104
được thành lập tại Indonesia trong các trường tư thục và các trường địa phương
[Suryadinata, 2017b, tr.105]. Hiện vẫn chưa có đánh giá về hiệu quả và tác động
của các học viện Khổng Tử ở Indonesia, nhưng xét về số lượng và vị trí của các
học viện (không có học viện nào được thành lập tại trường công lập), có thể thấy
hợp tác trong khía cạnh này vẫn chưa thu được nhiều thành tựu đáng kể.
Một điểm đáng chú ý, cuối nhiệm kỳ Tổng thống của mình, ngày 31/03/2014,
Tổng thống Yudhoyono đã ban hành Nghị định của Tổng thống (Keppres No.12
/2014) để điều chỉnh cách gọi liên quan đến CHND Trung Hoa và người Indonesia
gốc Hoa. Nghị định này đã vô hiệu hóa một cách hiệu quả Thông tư của Chính phủ
năm 1967 (Circular of Cabinet Presidium No.SE-06/Pre.Kab/6/1967) – văn bản sử
dụng thuật ngữ Tjina (hay Cina) với ý nghĩa xúc phạm để chỉ nước Trung Quốc cũng
như người Trung Quốc/ người gốc Hoa. Theo Nghị định Tổng thống năm 2014, tất cả
các hoạt động và văn bản trong phạm vi Chính phủ, thuật ngữ Tjina/ China/ Cina sẽ
được đổi thành người/cộng đồng Tionghoa, thuật ngữ Republik Rakyat China sẽ
được thay bằng Republik Rakyat Tiongkoki. Tổng thống Yudhoyono dường như có
hai mục tiêu trong việc ban hành sắc lệnh. Về đối nội, Tổng thống muốn cải thiện
quan hệ sắc tộc khi ông nhận ra rằng thuật ngữ Cina/Tjina mang nghĩa xúc phạm.
Trên bình diện quốc tế, bằng cách khôi phục tên gốc của CHND Trung Hoa tại
Indonesia, ông đang gửi tín hiệu tới Bắc Kinh rằng Jakarta sẵn sàng cải thiện hơn nữa
quan hệ ngoại giao [Suryadinata, 2014, tr.8-9]. Đây cũng được coi là một sự kiện lớn
dẫn tới sự thay đổi trong quan hệ Trung Quốc và Indonesia, do đã đánh dấu sự thay
đổi về nhận thức của người Indonesia đối với Trung Quốc và người Trung Quốc/
người gốc Hoa, dù mới chỉ ở khía cạnh hình thức.
Trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia, quan hệ giữa người với người thông
qua trao đổi sinh viên và du lịch đóng một vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ
những hiểu lầm liên quan đến việc đối xử với người Trung Quốc ở Indonesia hoặc
đối xử với người theo Islam ở Trung Quốc [Heriyanto, 2016]. Hợp tác trong du lịch
là một trong những điểm nhấn trong hợp tác Trung Quốc – Indonesia, đặc biệt từ khi
Trung Quốc đẩy mạnh triển khai BRI. Tổng thống Jokowi đã ký kết Bản ghi nhớ với
105
Trung Quốc, trong đó đưa ra mục tiêu đến năm 2019 sẽ thu hút 5 triệu du khách
Trung Quốc đến Indonesia [China Daily, 2017]. Đối với cả hai bên, hợp tác về du
lịch còn rất nhiều không gian phát triển [Balcita, 2017]. Chính phủ Jokowi muốn sử
dụng ngành du lịch như một cách nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Indonesia với
các quốc gia khác, Jokowi đặt ra mục tiêu cho ngành du lịch đạt mức 7,5% GDP vào
năm 2019 [Salna, 2017]. Trong năm 2016 và 2017, Trung Quốc đã trở thành nguồn
khách du lịch lớn nhất cho Indonesia. Lượng khách Trung Quốc đến Indonesia năm
2017 đạt hơn 2,09 triệu lượt người, tăng 275% so với năm 2013 [中国商务新闻网,
2018]. Năm 2018, khách du lịch Trung Quốc đến Indonesia đạt gần 2.14 triệu lượt,
tăng 2.1% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 13,5% tổng khách du lịch quốc tế đến
Indonesia, là nguồn cung cấp khách du lịch lớn thứ hai của quốc gia Đông Nam Á
này [新华网, 2019a]. Việc thúc đẩy ngành du lịch cũng sẽ giúp Indonesia củng cố
mối quan hệ song phương với Trung Quốc [Umagapi, 2017, tr.140]. Những năm gần
đây, số lượng khách du lịch ngày càng tăng ở cả hai quốc gia, bởi hai bên ngày càng
mở nhiều đường bay trực tiếp giữa Trung Quốc và Indonesia, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đi lại giữa hai nước [The Jakarta Post, 2017].
Bên cạnh đó, số lượng lưu học sinh Indonesia đến Trung Quốc đào tạo và
học tiếng Trung Quốc cũng gia tăng nhanh chóng. Tính đến tháng 5/2018, Trung
Quốc có 140.000 lưu học sinh người Indonesia đến học tập [中国政府网, 2018].
Đến tháng 7/2019, số lưu học sinh Indonesia đến Trung Quốc học tăng lên con số
150.000 người, trong đó 80% là lưu học sinh tự túc [新浪网, 2019a]. Trong Quốc
đã trở thành một trong những quốc gia chủ yếu thu hút lưu học sinh Indonesia.
Đồng thời, số lượng người học tiếng Trung Quốc ở Indonesia cũng gia tăng nhanh
chóng, theo như Tổng bộ Học viện Khổng Tử cho biết, ngày 27/10/2019, Bộ Văn
hoá Giáo dục Indonesia đã tổ chức Kỳ thi Năng lực tiếng Hán (HSK) tại hơn 10
địa điểm tại nước này, với tổng số thí sinh tham dự đạt 9.516 người [新浪网,
2019b].
Đáng chú ý, người Hoa Indonesia đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối
văn hóa giữa hai nước. Cũng giống như người Hoa và Hoa kiều tại các quốc gia
106
Đông Nam Á khác, cộng đồng người Hoa Indonesia đã trải qua những giai đoạn
phát triển phồn thịnh, cũng đã từng có những lúc bị suy thoái. Tuy nhiên, bước sang
những năm cuối của thập niên 90 thế kỷ XX, cùng với việc chấm dứt Thời kỳ Trật
tự mới, cộng đồng người Hoa Indonesia lại một lần nữa bước vào giai đoạn phát
triển thịnh vượng. Thời kỳ hậu Suharto, cộng đồng người Hoa Indonesia không
ngừng phát triển và tăng cường sức ảnh hưởng, đã xây dựng được hình tượng tốt
đẹp hơn trong xã hội Indonesia, đồng thời tạo nền tảng cho người Hoa Indonesia
trong việc tham gia xây dựng và phát triển sức mạnh mềm Trung Quốc. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh, để người Hoa Indonesia có thể hòa nhập hơn nữa vào xã hội
bản địa, điều quan trọng nhất là chính quyền bản địa cần thi hành những chính sách
dân tộc đúng đắn với người Hoa thiểu số, xã hội bản địa cần xóa bỏ cái nhìn phiến
diện, và người Hoa cần tích cực chủ động hòa nhập vào xã hội bản địa.
Thời gian gần đây, Trung Quốc nhấn mạnh vào sự bảo vệ đối với người Hoa ở
nước ngoài, đồng thời coi người gốc Hoa thiểu số là một phần của “dân tộc Trung
Hoa”, hay “con cháu Trung Hoa” (中华儿女). Chính sách mới này nhằm xóa mờ ranh
giới giữa những công dân Trung Quốc và người nước ngoài gốc Hoa, coi họ đều là
“người Trung Quốc” [Leo, 2017, tr.24]. Ngoài ra, việc Trung Quốc đang khẳng định vị
trí và vai trò tích cực của mình trong các vấn đề thế giới và khu vực đã kích thích niềm
tự hào dân tộc đối với tộc người Hoa thiểu số ở Indonesia. Những yếu tố kể trên đều
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa Trung Hoa tại Indonesia. Hiện nay,
đa số người Hoa Indonesia đã nhập quốc tịch, trở thành công dân Indonesia. Những
năm gần đây, việc người Hoa Indonesia chủ động, tích cực tham gia xây dựng chính
quyền địa phương cũng góp phần mở rộng tiềm năng phát triển văn hóa Trung Hoa
tại Indonesia. Trong đợt bầu cử tổng thống năm 2014, chính trị gia người Hoa Basuki
Tjahaja Purnama (tên tiếng Trung: 钟万学) đã trở thành Thống đốc thứ 17 của
Jakarta. Là một người Công giáo, lại thuộc nhóm người Hoa thiểu số, việc Basuki trở
thành thống đốc của đô thị hơn 10 triệu dân với chủ yếu là người theo Islam có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, mở ra những cơ hội loại bỏ những cái nhìn phiến diện của
người dân Indonesia đối với người Hoa thiểu số, đồng thời khuyến khích người Hoa
107
Indonesia mở rộng phạm vi hoạt động ngành nghề, từ lĩnh vực kinh tế truyền thống,
sang các lĩnh vực khác rộng hơn, tham gia tích cực hơn vào quá trình xây dựng quốc
gia dân chủ Indonesia [郑一省, 2012, tr.66].
Ngoài ra, việc các tổ chức xã hội của người Hoa Indonesia hoạt động tích
cực trong các lĩnh vực cũng tạo nền tảng cho việc mở rộng các yếu tố Trung Hoa tại
Indonesia. Bên cạnh đó, các tổ chức hoặc chính quyền địa phương Trung Quốc
cũng thường xuyên cùng các tổ chức đoàn thể người Hoa ở các địa phương thuộc
Indonesia cùng tiến hành các buổi biểu diễn, triển lãm và hội thảo học thuật, như
biểu diễn múa rối nước của tỉnh Tuyền Châu – Phúc Kiến, hội thảo Phúc Kiến học,
các đoàn ca múa nhạc tổ chức các buổi biểu diễn tại Indonesia vào dịp năm mới,
v.v... Những hoạt động này đều góp phần tăng cường hiểu biết của người Hoa đối
với văn hóa quê gốc của mình, đồng thời cũng góp phần tuyên truyền quảng bá
những đặc sắc văn hóa địa phương Trung Quốc đến toàn thế giới [张小倩, 2016,
tr.91]. Ngoài ra, để thúc đẩy và tuyên truyền văn hóa Trung Hoa tại Indonesia,
người Hoa Indonesia đã chú trọng việc tuyên truyền các đặc trưng văn hóa có thể
khiến xã hội sở tại, thậm chí xã hội quốc tế cùng tạo ra giá trị cộng hưởng. Ví dụ,
tháng 11/2007, tại Jakarta đã tổ chức Hội thảo Nho học quốc tế lần thứ 4 với chủ đề
chính là phát hiện lại giá trị của Khổng giáo nhằm tăng cường hòa bình và sự hài
hòa của thế giới [张小倩, 2016, tr.91]. Việc tổ chức thành công Hội thảo này đã
phần nào thúc đẩy ảnh hưởng và việc mở rộng các học viện Khổng Tử và sức mạnh
mềm văn hóa Trung Hoa tại nước ngoài.
Một số vấn đề tồn tại trong quan hệ văn hóa – xã hội Trung Quốc - Indonesia
Tuy nhiên, quan hệ Trung Quốc – Indonesia còn tồn tại một vấn đề mang
tính bản chất. Đây là quan hệ giữa một nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất thế giới với
một quốc gia Islam lớn nhất thế giới. Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Indonesia,
đặc biệt sự không dung hòa giữa tính chất của chủ nghĩa cộng sản, và chủ nghĩa
Islam đã tạo ra sự khác biệt trong văn hóa chính trị của hai nước.
Đầu tiên, lịch sử đã chứng minh, khó có thể tồn tại sự kết hợp giữa chủ nghĩa
cộng sản và Islam, dù ở Indonesia hay bất cứ nơi nào khác. Bởi một chính phủ
108
Cộng sản – nơi mà mô hình chính trị là mô hình độc đảng, là kinh tế chỉ huy với
nền nông nghiệp tập thể, và nhà nước sẽ kiểm soát tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội – bao gồm cả tôn giáo. Trong khi đó, chủ nghĩa Islam lại là một nền tảng
rộng lớn, cởi mở hơn đối với sự tham gia chính trị [Sidel, 2017]. Theo đó, những
người theo chủ nghĩa Islam có thể ủng hộ chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản
hoặc chủ nghĩa tư bản.
Trong lịch sử Indonesia, đã nhiều lần mâu thuẫn xảy ra giữa những người cộng
sản và những nhà lãnh đạo Islam. Từ đầu thập niên 1920, căng thẳng đã xảy ra khi phe
cộng sản kêu gọi đình công và biểu tình, còn các nhà lãnh đạo Islam ủng hộ việc chung
sống cùng chính quyền thuộc địa Hà Lan. Cuối những năm 1940, trong cuộc đấu tranh
giành độc lập, các đảng Islam đã đứng ở phía đối lập với ĐCS Indonesia. Phe Islam
không cùng quan điểm với phe Cộng sản trong việc đòi độc lập khỏi chế độ thực dân
Hà Lan đồng thời với việc từ bỏ các đặc quyền quý tộc và thiết lập các hình thức sở
hữu xã hội đối với đất đai và công nghiệp. Ngoài ra, trong sự kiện năm 1965, các tổ
chức Islam cũng đã tham gia cuộc thảm sát chống cộng sản, góp phần phá hủy ĐCS
Indonesia. Có thể thấy, mô hình đối kháng với chủ nghĩa cộng sản đã ăn sâu vào thế
giới Islam tại Indonesia. “Ranh giới thể chế và tư tưởng giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Islam ngày một sâu sắc” [Sidel, 2017].
Mặt khác, yếu tố Islam cũng là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến quan hệ
Trung Quốc – Indonesia trong những năm gần đây, đặc biệt khi Trung Quốc cũng
đang vướng mắc với vấn đề Islam ở Tân Cương. Tân Cương là cầu nối giữa Trung
Quốc với các nước Trung Á, Trung Đông và châu Âu, có ý nghĩa quan trọng trong
chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc. Tuy nhiên, đây cũng là một trong
những khu vực bất ổn nhất ở Trung Quốc, thường xuyên xảy ra tình trạng căng
thẳng và bạo lực sắc tộc. Một trong những nguyên nhân gây căng thẳng sắc tộc
nơi đây là các chính sách tôn giáo mang tính đàn áp của chính quyền Trung ương
của Trung Quốc thông qua việc kiểm soát nghiêm ngặt các hoạt động tôn giáo của
người Uyghur. Sau một loạt các vụ bạo lực và tấn công khủng bố từ năm 2013 đến
2014, chính phủ Trung Quốc đã kết hợp đàn áp nặng tay và song song thực hiện
109
các chính sách kinh tế, xã hội [Wei, 2019]. Sách trắng Trung Quốc về “Một số
vấn đề lịch sử của Tân Cương” được Chính phủ Trung Quốc ban hành tháng
7/2019 đã khẳng định “Islam không phải là lựa chọn tự nguyện ban đầu của người
dân, mà là kết quả của chiến tranh tôn giáo và do giai cấp thống trị áp đặt” [新华
网, 2019]. Ngoài ra, việc dạy tiếng phổ thông được thúc đẩy, các trại cải tạo được
sử dụng như những “trung tâm đào tạo nghề tự nguyện”, nhằm chống lại phong
trào Islam cực đoan. Việc giam giữ nhiều người Islam trong các trại cải tạo ở Tân
Cương đã bị nhiều nước phương Tây lên án gay gắt trong thời gian gần đây [The
Economist, 2019].
Trong khi đó, Indonesia là quốc gia Islam đông dân nhất thế giới, dân số
Indonesia năm 2019 là hơn 271 triệu dân, trong đó có hơn 87% người dân theo
đạo Islam (theo điều tra dân số năm 2010) [World Population Review, 2019]. Sở
hữu số dân theo Islam đông nhất thế giới, lại là quốc gia có tầm ảnh hưởng nhất
định trong khu vực, chắc chắn quan điểm của Indonesia về các vấn đề Islam sẽ tác
động đến cộng đồng người theo Islam trên thế giới. Vấn đề Tân Cương bắt đầu
nhận được sự quan tâm rộng rãi ở Indonesia khi nhiều nhân vật Islam kêu gọi một
cuộc điều tra về các vi phạm nhân quyền đối với người Uyghur (hay còn gọi là
người Duy Ngô Nhĩ) ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chính quyền Indonesia không
muốn đề cập nhiều đến chuyện đàn áp người Uyghur vì điều đó có thể làm “tăng
sức mạnh của phe Islam cực đoan trong cánh đối lập”. Theo cố vấn cấp cao của
Tổng thống Jokowi là Munajat Stain, các vấn đề tồn tại trong ngoại giao giữa
Indonesia với Trung Quốc là các hành vi bành trướng của Trung Quốc ở Biển
Đông, và việc gây mất ổn định an ninh cho vùng Đông Nam Á, “chứ không phải
là người Uyghur” [Septiari, 2019]. Phản ứng này của Indonesia hoàn toàn trái
ngược với hành động quyết đoán của Jakarta trước đó hai năm, khi cuộc khủng
hoảng tị nạn Islam Rohingya leo thang ở Myanmar. Khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao
Indonesia Retno Marsudi đã gặp nhà lãnh đạo Myanmar Aung San Suu Kyi và đề
xuất những cách có thể đảm bảo viện trợ và bảo vệ nhân đạo trong cuộc khủng
hoảng Rohingya [Kyodo, 2017]. Sự im lặng của chính phủ Jokowi có thể được lý
110
giải bằng hai nguyên nhân: (i) không muốn các phần tử Islam cực đoan trong phe
đối lập nhân cơ hội gây ảnh hưởng đến chính trị nội bộ; (ii) không muốn gây ảnh
hưởng đến tổng thể quan hệ với Trung Quốc, khi Indonesia đang hưởng lợi nhiều
từ hợp tác kinh tế với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.
Tuy nhiên, phong trào chống lại Thống đống Jakarta là Basuki Ahok – một
người gốc Hoa theo Kito giáo, bị cáo buộc phân biệt chủng tộc và tôn giáo vào năm
2017, và việc vai trò và vị trí của Islam trong xã hội Indonesia trở thành một chủ đề
trọng tâm trong cuộc bầu cử Tổng thống Indonesia năm 2019 cho thấy tác động
mạnh mẽ của yếu tố Islam đối với chính trị nội bộ Indonesia, và khả năng tác động
đến quan hệ giữa Indonesia với Trung Quốc là không hề nhỏ. Mặc dù trong thời
điểm hiện tại, chính phủ Indonesia chưa lên tiếng về các vấn đề người Uyghur ở
Tân Cương, nhưng nếu những quốc gia như Indonesia và Malaysia cùng các nước
phương Tây lên tiếng về vấn đề này, có thể sẽ buộc Trung Quốc phải thay đổi chính
sách đối với khu vực Tân Cương, do các nước này là đối tác chủ yếu, và là trung
tâm của BRI mà Trung Quốc đang đẩy mạnh. Tất nhiên, ít có khả năng điều này
được thúc đẩy từ bản thân các nhà lãnh đạo Indonesia hay Malaysia, mà sẽ bởi người dân Indonesia và Malaysia yêu cầu điều đó [Nithin, 2019]. Ở một quốc gia
đông dân số theo Islam nhất thế giới, Indonesia hoàn toàn có khả năng đứng lên bảo
vệ người Uyghur ở Tân Cương, nếu điều này trở thành một trong những vấn đề bức
thiết của người dân Indonesia, hoặc nếu phe đối lập tạo sức ép yêu cầu Tổng thống
Jokowi có những hành động cụ thể hơn. Khi đó, yếu tố Islam cũng sẽ trở thành một
nhân tố gây cản trở cho hợp tác giữa hai nước.
Ngoài ra, một số vấn đề còn tồn tại đã và đang gây cản trở cho hợp tác hai nước
trên lĩnh vực văn hóa xã hội. Truyền thông Indonesia đã nhiều lần phát đi thông tin về
số lượng lớn người Trung Quốc đến nhập cư hoặc lao động tại Indonesia, ví dụ tháng
8/2015 [Tempo, 2015] và tháng 12/2016 [潘玥, 2017, tr.125]. Trước lo ngại về những
tác động tiêu cực đến người lao động Indonesia bản địa, dân chúng Indonesia thậm chí
yêu cầu Chính phủ hủy bỏ chính sách miễn thị thực đối với Trung Quốc, đồng thời
nghiêm cấm lao động Trung Quốc có tay nghề thấp đến Trung Quốc làm việc [潘玥,
111
2017, tr.125]. Bên cạnh đó, các công ty Trung Quốc đầu tư vào Indonesia thường yếu
trong việc tìm hiểu văn hóa địa phương. Theo nghiên cứu của Gong Xue (2018), các
nhà đầu tư Trung Quốc dường như gặp khó khăn trong việc hiểu và thích nghi với
phong cách làm việc của nhân viên địa phương [Gong Xue, 2018]. Không chỉ vậy, dù
sự kiện đảo chính năm 1965 đã diễn ra từ lâu, nhưng tình cảm công chúng chống lại tư
tưởng cộng sản vẫn còn nổi cộm trong xã hội Indonesia hiện nay. Khi được phỏng vấn,
nhiều học giả Indonesia, như TS.Rudolf Yuniarto, Tonny Dian Effendi… đều khẳng
định rằng, nhiều người dân Indonesia khi nhắc đến Trung Quốc đều nghĩ ngay đến tư tưởng cộng sản.1 Theo một cuộc khảo sát thuộc Dự án Khảo sát Quốc gia Indonesia
(Indonesia National Survey Project), nhiều người tiếp nhận phỏng vấn khi được hỏi
“Trung Quốc nổi tiếng về điều gì” cho rằng Trung Quốc nổi tiếng với “thuốc Đông y”,
“nền văn hóa mạnh mẽ” và “tư tưởng cộng sản” [Yuniarto, 2019, tr.9]. Ngoài ra, về
phía Trung Quốc, cũng tồn tại một số vấn đề gây trở ngại đến phát triển quan hệ văn
hóa xã hội hai nước, như quan hệ với Đảng Cộng sản Indonesia trong lịch sử, chủ
nghĩa Islam cực đoan, tranh chấp giữa người Indonesia bản xứ với người Hoa
Indonesia, và các phong trào chống Trung Quốc [Yuniarto, 2019, tr.8].
Có thể thấy, trong xã hội Indonesia vẫn tiềm ẩn một số nhân tố cản trở sự phát
triển quan hệ hợp tác về văn hóa xã hội giữa hai nước. Điều này có thể được lý giải
bằng những nghi ngờ vẫn còn tồn tại do những trải nghiệm đau thương trong lịch sử
tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc, đặc biệt khoảng cách ba thập kỷ khi ngôn ngữ,
trường học và phương tiện truyền thông Trung Quốc bị cấm tại Indonesia vẫn là một
rào cản trong việc phát triển quan hệ văn hóa giữa Trung Quốc và Indonesia [Tjhin,
2012, tr.313]. Sự phẫn nộ của người Indonesia bản địa đối với khoảng cách giàu
nghèo cách biệt lớn với người gốc Hoa tại Indonesia, sự lo ngại trước số lượng lớn
công nhân và tổ chức Trung Quốc ngày càng xâm nhập vào xã hội Indonesia theo các
dự án hợp tác về kinh tế giữa hai nước, và sự phẫn nộ trước chính sách đàn áp và
“đồng hóa” người theo Islam của Trung Quốc [Hughes, 2018, tr.5-6] đều là những
nhân tố có thể dẫn đến sự chuyển biến mang tính đột biến, thậm chí có thể dẫn đến
thay đổi về chất trong quan hệ hai nước. Những chuyển biến mang tính bước ngoặt
1 Tác giả trực tiếp phỏng vấn các học giả vào tháng 12/2019 tại Đài Loan
112
trong lịch sử quan hệ hai nước, như sự kiện năm 1965 và năm 1998 là minh chứng
cho thấy, nhân tố “cộng sản” và nhân tố “người Hoa Indonesia” hoàn toàn có thể là
tác nhân gây ra sự biến đổi mang tính đột biến, làm thay đổi cả quan hệ song phương.
Tiểu kết ư n 3
Việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005 đã mở ra một chặng
đường mới trong lịch sử quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Tuy nhiên, các hợp tác
kinh tế và chính trị giữa hai nước trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược diễn ra
chậm, không được như kỳ vọng của lãnh đạo hai nước. Trong bối cảnh mới, hai nước
đều có nhu cầu tăng cường quan hệ song phương, nhằm hỗ trợ cho các chiến lược
phát triển đất nước và nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới, khiến lãnh đạo
hai nước quyết định nâng cấp, thúc đẩy quan hệ hơn nữa. Việc nâng cấp quan hệ lên
thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013 đã tạo nền tảng cho những bước
nhảy vọt trong hợp tác kinh tế. Quan hệ ngoại giao chứng kiến nhiều cuộc viếng thăm
cấp cao giữa hai bên, và việc ký kết một loạt các văn kiện, tuyên bố chung và thỏa
thuận hợp tác trên các lĩnh vực. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất
của Indonesia, đồng thời trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai của nước này. Hợp tác kinh
tế nổi bật nhất là những thành tựu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, do hai nước có nhiều
điểm bổ sung cho nhau, đặc biệt khi Trung Quốc đang đẩy mạnh BRI, còn Indonesia
cần đầu tư cơ sở hạ tầng để thực hiện Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”.
Tuy nhiên, mối quan hệ đối tác chiến lược này vẫn còn nhiều vấn đề tiềm ẩn
chưa được giải quyết, khiến quan hệ an ninh quốc phòng và văn hóa xã hội tiến triển
rất khiêm tốn. Quan hệ an ninh quốc phòng chưa có những hợp tác thực chất, do yêu
sách chủ quyền “đường chín đoạn” của Trung Quốc chồng lấn lên vùng đặc quyền
kinh tế của Indonesia xung quanh hòn đảo Natuna. Bên cạnh đó, các vấn đề về kinh
tế - xã hội như các dự án do Trung Quốc tài trợ đã để lại hình tượng xấu trong xã hội
Indonesia, những lo ngại về tham nhũng và độ thiếu minh bạch, cũng như những lo
ngại về việc lao động Trung Quốc có thể làm gia tăng tình cảm chống Trung Quốc,
thậm chí gây ra các chiến dịch chống Trung Quốc tại Indonesia. Đây là những vấn đề
113
nếu không được xử lý đúng cách sẽ gây ảnh hưởng đến mối quan hệ hai nước. Với
truyền thống ngoại giao “tự do và linh hoạt” (free and active), trong ứng xử với Trung
Quốc – một cường quốc trên thế giới và trong khu vực, Indonesia đã luôn sử dụng
chính sách “phòng ngừa rủi ro”, với mức độ chấp nhận quyền lực ngày càng tăng, tuy
nhiên không sử dụng chiến lược “phù thịnh” (bandwagon), kể cả các biện pháp “phù
thịnh” có giới hạn. Đây cũng là nét độc đáo trong chính sách ngoại giao của
114
Indonesia với tư cách là một quốc gia tầm trung.
C ư n 4.
ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ XU THẾ CHUYỂN BIẾN
TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC – INDONESIA
Từ thực trạng chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ năm
2005 đến nay trên từng lĩnh vực, có thể rút ra một số đặc điểm về chuyển biến trong
quan hệ hai nước, từ đó thấy được đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng
như tác động của chuyển biến trong mối quan hệ này đến bản thân hai nước, đến thế
giới, khu vực và Việt Nam, qua đó, dự đoán được xu thế quan hệ hai nước trong
thời gian tới.
4.1. Đặ điểm chuyển biến đặ điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia
Qua phân tích thực trạng chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia
từ năm 2005 đến nay trên các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội,
chúng ta có thể nhận diện đặc điểm của sự chuyển biến, từ đó thấy được bản chất
của mối quan hệ giữa hai quốc gia này.
4.1.1. Đặc điểm chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia
Nhằm đánh giá tính chất của sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia từ năm 2005 đến nay, Luận án tìm ra những Sự kiện lớn (Great
Events), Thành tựu lớn (Great Achievements) mang dấu mốc trong quan hệ hai
nước, đặt mối quan hệ hai nước trong Xu hướng (Trends) chung của thế giới là
hợp tác “cùng thắng” (Xem Bảng 4.1).
Bảng 4.1. Chuyển biến chính trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia
Giai đoạn
Giai đoạn 2005-2013
Giai đoạn 2013 - nay
1990 - 2005
- Chiến tranh
- Mỹ giảm bớt quan tâm đến
- Khủng hoảng tài chính
Nhân
tố
Lạnh kết thúc,
CA-TBD sau sự kiện 11/9/2001
toàn cầu 2008 buộc các
bên ngoài
xu thế hợp tác
- Các nước lớn tăng cường ảnh
nước lớn điều chỉnh chiến
phổ biến
hưởng tại Đông Nam Á
lược phát triển
- Mỹ, Nga rút
- Quan hệ Trung Quốc –
- Mỹ chuyển
trọng
tâm
quân
khỏi
ASEAN có tiến triển: ký kết
chiến lược sang CA-TBD
115
Đông Nam Á,
ACFTA (2002), ký TAC (2003),
- Hợp tác Trung Quốc –
tạo
khoảng
ACFTA có hiệu lực từ 2010
ASEAN trong lĩnh vực kinh
trống
quyền
- Quan hệ Indonesia – Mỹ xấu đi
tế tương đối tốt
lực trong khu
sau khi Mỹ ủng hộ Đông Timor
-Tranh chấp chủ quyền biển
vực
độc lập
đảo giữa Trung Quốc và
một số quốc gia ASEAN
nổi cộm từ 2011
- Trung Quốc
- Trung Quốc thúc đẩy chiến
- Sau khủng hoảng tài chính
Nhân
tố
từ 1990
tiến
lược “đi ra ngoài” từ năm 2002
2008, vấn đề dư thừa năng
bên trong
hành
chính
- Indonesia sau khủng hoảng tài
lực sản xuất nổi cộm tại
sách
ngoại
chính 1997 cần vay vốn nhiều để
Trung Quốc
giao
láng
phục hồi kinh tế
- Trung Quốc thúc đẩy BRI
giềng
- Tổng thống Indonesia Suharto
(từ năm 2013)
từ nhiệm năm 1998 , kết thúc 30
- Indonesia cần vốn đầu tư
năm thi hành các chính sách kìm
cho cơ sở hạ tầng
hãm sự phát triển của người
- Indonesia thúc đẩy chiến
Indonesia gốc Hoa.
lược “Trục hàng hải toàn
cầu” (từ năm 2014)
- 1990: khôi
- 2005: Thiết lập quan hệ đối tác
- 2013: Nâng cấp thành
Chính trị
phục quan hệ
chiến lược (QHĐTCL)
QHĐTCL toàn diện
- an ninh
song phương
- Quan hệ song phương nhằm
- Quan hệ song phương vừa
sau 23 năm
thúc đẩy vai trò của mỗi nước
phục vụ vai trò mỗi nước
cắt đứt quan
trong ASEAN
trong các
tổ chức đa
hệ (từ 1967-
- 2007: ký Bản ghi nhớ về hợp
phương, vừa phục vụ chiến
1990)
tác quốc phòng, song trên thực
lược phát
triển của hai
tế ít triển khai hợp tác
nước.
- Tuyên bố không là bên tranh
- Thực hiện chính sách đánh
chấp trong vấn đề Biển Đông
chìm tàu cá nhằm bảo vệ lợi
ích của ngư dân Indonesia
- Đặt
lại
tên biển Bắc
Natuna (tháng 7/2017), tăng
cường hợp tác trên biển với
các nước khác
- Về cơ bản,
- Từ 2005 đến 2013, tổng kim
Kinh tế
116
Indonesia
ngạch thương mại tăng gấp 4 lần
luôn có thặng
- Indonesia từ chỗ xuất siêu sang
- Từ năm 2013-2014: thâm
dư
thương
Trung Quốc, đến năm 2013 đã
hụt thương mại tăng gần
mại với Trung
nhập siêu hơn 5,5 tỷ USD từ
gấp 3 lần đối với Indonesia
Quốc
Trung Quốc
- Đầu tư trực tiếp tăng vọt
- Đầu tư trực tiếp tăng từ từ
trong giai đoạn 2013- nay
trong giai đoạn 2006-2012
- 1993: thành
- 2010: sáu học viện Khổng Tử
-2014:
Tổng
thống
Văn óa –
lập Hội hợp
được thành lập tại Indonesia
Yudhoyono ban hành quy
Xã hội
tác kinh
tế,
định thay đổi thuật ngữ chỉ
văn hóa, xã
người Hoa
thiểu số và
hội
Trung Quốc
- Bạo
loạn
- Dư luận xã hội về “chủ đề
tháng 5/1998
Trung Quốc” liên quan đến
nhằm
vào
các dự án đầu tư của Trung
người Hoa
Quốc, lao động Trung Quốc
tại Indonesia…
Nguồn: Tác giả chế tác
Thứ nhất, về tính chất của sự chuyển biến. Nhìn lại lịch sử quan hệ Trung
Quốc – Indonesia, có thể thấy, sự kiện cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc
và Indonesia năm 1967 là chuyển biến mang tính đột biến, làm thay đổi tính chất
quan hệ hai nước sang quan hệ mang tính “thù địch”. Sự kiện hai nước thiết lập quan
hệ đối tác chiến lược năm 2005 là kết quả của sự chuyển biến từ từ trong quan hệ hai
nước từ sau khi khôi phục quan hệ song phương từ năm 1990, nhưng là dấu mốc
quan trọng làm thay đổi quan hệ hai nước, mở đầu cho những tiến triển trong quan hệ
song phương. Trong khi đó, việc nâng cấp quan hệ song phương lên quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện năm 2013, cùng những phát triển tăng vọt trong lĩnh vực kinh tế
(cũng chính là những thành tựu nổi bật – Great Achievements) là sự thay đổi đột
biến, dẫn đến những thay đổi vượt bậc về số lượng, nhưng chưa dẫn đến sự thay đổi
về chất trong quan hệ hai nước, do vẫn còn tồn tại những vấn đề như thâm hụt thương
mại, đầu tư, tranh chấp tại Biển Đông... Còn những tiến triển trong quan hệ văn hóa –
117
xã hội qua hai giai đoạn: từ 2005-2013 và từ 2013- nay là chuyển biến diễn ra chậm
và tăng dần với sự thay đổi quan điểm của xã hội và chính phủ Indonesia trong cách
nhìn nhận Trung Quốc cũng như người Hoa thiểu số ở Indonesia. Tuy nhiên, sự tiến
triển chậm trong quan hệ văn hóa – xã hội này cũng cho thấy những trở ngại trong
quan hệ song phương là khá lớn.
Tổng hợp các lĩnh vực, có thể thấy, sự chuyển biến trong quan hệ Trung
Quốc – Indonesia từ sau năm 2005 đến nay chủ yếu là chuyển biến tăng dần, riêng
trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ hai nước chứng kiến sự chuyển biến mang tính đột
biến, do hai nước có sự trùng khớp và bổ sung cho nhau trong chiến lược phát triển
quốc gia, đặc biệt là sự kết nối giữa BRI của Trung Quốc và chiến lược “Trục hàng
hải toàn cầu” của Indonesia.
Thứ hai, về các nhân tố gây ra sự chuyển biến trong quan hệ Trung
Quốc – Indonesia từ năm 2005 đến nay. Đối chiếu các nhân tố ảnh hưởng đến
quan hệ hai nước giai đoạn 2005-2013 và giai đoạn 2013- nay, có thể thấy, cả hai
giai đoạn này có một số nhân tố tương đồng, như: (i) tiến triển trong quan hệ
Trung Quốc – ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế; (ii) Trung Quốc thúc đẩy
chiến lược “đi ra ngoài” (iii) Indonesia cần huy động nguồn vốn từ bên ngoài để
phục vụ phát triển đất nước. Đây sẽ là những nhân tố “giữ” cho quan hệ Trung
Quốc – Indonesia phát triển theo hướng tích cực, tuy nhiên sự phát triển sẽ mang
tính chất “chậm và tăng dần”. Trong khi đó, sự phát triển đột biến trong lĩnh vực
kinh tế trong quan hệ hai nước là kết quả của nhiều nhân tố tác động, nổi bật bao
gồm: sự bổ sung và phù hợp về lợi ích chiến lược trong chiến lược phát triển
quốc gia của cả hai nước, đặc biệt là sự phù hợp giữa BRI của Trung Quốc và
chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia.
Đáng chú ý, trong khi quan hệ trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao và
kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia có những thành tựu rõ rệt (Great
Achievements), đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt, dù bản chất là tăng dần hay đột
biến, thì quan hệ song phương trong lĩnh vực an ninh và văn hóa – xã hội lại là
“chốt hãm” trong mối quan hệ hai nước. Lập trường cứng rắn hơn của Indonesia
118
trong vấn đề Biển Đông, cụ thể từ chỗ tuyên bố là nước không có tranh chấp về
chủ quyền trên biển với Trung Quốc, tới việc thi hành chính sách đánh chìm tàu
và đặt lại tên Biển Bắc Natuna cho thấy chuyển biến trong nhận thức của chính
phủ Indonesia trong việc bảo vệ lợi ích kinh tế của người dân và bảo vệ chủ
quyền quốc gia trước những hành động bành trướng trên biển của Trung Quốc
đối với một số quốc gia ASEAN khác. Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, tuy việc
Tổng thống Yudhoyono ban hành quy định thay đổi thuật ngữ chỉ người Hoa
thiểu số và chỉ Trung Quốc vào năm 2014 là một sự kiện quan trọng, nhưng sự
kiện này chưa dẫn đến sự thay đổi về bản chất trong quan hệ văn hóa – xã hội hai
nước, bởi những năm gần đây, dư luận xã hội Indonesia luôn tồn tại luồng quan
điểm phản đối các dự án đầu tư của Trung Quốc và số lượng lớn lao động Trung
Quốc thâm nhập vào Indonesia theo các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Có thể
thấy, chuyển biến trong quan hệ văn hóa – xã hội giữa hai nước diễn ra chậm, ít
thành tựu lớn, và trong nhiều trường hợp là nhân tố “kéo lùi” sự tiến triển của
tổng thể quan hệ Trung Quốc – Indonesia.
4.1.2. Đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia
Thông qua những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau
năm 2005, kết hợp với lịch sử quan hệ hai nước trước năm 2005, cùng việc vận
dụng các lý thuyết liên quan như Thuyết bất đối xứng, lý thuyết về cường quốc tầm
trung, về quan hệ đối tác chiến lược…, có thể rút ra một số đặc điểm của quan hệ
Trung Quốc – Indonesia như sau:
Đặ điểm thứ nhất, quan hệ Trung Quốc – Indonesia là quan hệ giữa một
cường quốc đang trỗi dậy lớn nhất với một quốc gia đang hướng tới xây dựng
cường quốc tầm trung. Từ thực trạng quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên các lĩnh
vực chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa phát triển đã nêu ở trên, có thể khẳng định
quan hệ Trung Quốc – Indonesia là quan hệ bất đối xứng, song tính chất bất đối
xứng ở mức độ vừa phải.
Trong thời kỳ Tập Cận Bình, mối quan tâm của Trung Quốc đối với
Indonesia đã được thể hiện rõ nét hơn trong tổng thể chính sách ngoại giao láng
119
giềng của Trung Quốc so với các thời kỳ trước. Tuy nhiên, Trung Quốc là một nước
lớn, do đó sự quan tâm của nước này đối với Indonesia dù đã được tăng cường về
mức độ trong thời gian gần đây, nhưng chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối
với Indonesia vẫn nằm trong tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng của Trung
Quốc, là một nội dung bên cạnh nhiều nội dung quan trọng khác của chính sách đối
ngoại Trung Quốc, như chính sách ngoại giao nước lớn, ngoại giao với các nước
đang phát triển, ngoại giao đa phương… Trong khi đó, mối quan tâm của Indonesia
đối với Trung Quốc thậm chí còn gây ảnh hưởng lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống
Indonesia diễn ra vào tháng 4/2019. Cụ thể, “chủ đề Trung Quốc” đã trở thành tâm
điểm tranh cử giữa đương kim Tổng thống Jokowi với đối thủ là Tướng Prabowo
Subianto, khi Tướng Prabowo nhiều lần tuyên bố sẽ xem xét lại các dự án đầu tư từ Trung Quốc [The Asean Post, 2019]. Như vậy có thể thấy, sự chú ý của Trung Quốc
đối với Indonesia chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với các mối quan tâm chung của
Trung Quốc, và so với sự chú ý của Indonesia đối với Trung Quốc.
Có thể thấy, giữa Trung Quốc và Indonesia còn một số trở ngại, nhất là tâm
lý “bài Hoa” ở nước này. Do đó, Indonesia nhạy cảm với bất kỳ thay đổi nào, dù lớn
hay nhỏ, từ Trung Quốc. Trước những lo ngại về việc hàng hóa giá rẻ của Trung
Quốc ồ ạt tràn vào Indonesia sau khi Hiệp định ACFTA chính thức có hiệu lực ngày
1/1/2010, khiến Bộ Thương mại Indonesia ngay lập tức đề nghị đàm phán lại vào
ngày 5/1/2010 cho thấy sự e ngại và mức độ “dễ bị tổn thương” của Indonesia trong
lĩnh vực kinh tế. Điều này cũng giải thích cho việc trì hoãn ký kết tham gia Ngân
hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) giai đoạn đầu và những phát ngôn thận
trọng của lãnh đạo Indonesia trong thời gian đầu Trung Quốc đưa ra Sáng kiến xây
dựng BRI. Cụ thể, ngày 24/10/2014, Indonesia quyết định không tham gia ký kết
Ngân hàng AIIB giai đoạn đầu với lý do chính phủ mới thành lập nên chưa có thời
gian để xem xét đề nghị của Bắc Kinh [Jin, Yudi, 2014]. Đến ngày 27/11/2014,
Indonesia mới chính thức trở thành nước thứ 22 tham gia Ngân hàng này [Feng,
2014]. Tháng 3/2015, trước chuyến thăm chính thức Trung Quốc, Tổng thống
Indonesia Jokowi cho biết: “Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa biết những chi tiết cụ thể
120
trong Sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển. Nhưng nếu nó đem lại lợi ích cho
người dân nước tôi, cho những mối quan tâm của nước tôi và của Trung Quốc, thì
chúng tôi đồng ý” [Ibrahim, 2015]. Tuy nhiên, Tổng thống Jokowi cũng nhấn mạnh
sẽ không cho phép hợp tác để thỏa hiệp chủ quyền và quyền tài phán của Indonesia
[Gosman, 2016].
Không chỉ thế, giống như trong lập luận mà Womack (2006) đưa ra, nhận
thức về mối đe dọa có thể được tăng cường bởi nhiều yếu tố bao gồm di sản lịch sử,
sự gần gũi, ý thức hệ và hành động. Việc truyền thông Indonesia những năm gần
đây không ít lần đưa thông tin cho rằng hiện có khoảng 10-20 triệu lao động Trung
Quốc đang tiến vào Indonesia, nhận mức lương thấp hơn, và cạnh tranh sức lao
động tại Indonesia cho thấy vấn đề tồn tại trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia
không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là những “di sản lịch sử” để lại trong
quan hệ hai nước [Tempo, 2015]. Lịch sử Indonesia đã chứng kiến nhiều giai đoạn
thi hành chính sách “bài Hoa”, do người dân Indonesia bất mãn với thực trạng phân
phối sản phẩm xã hội mất cân đối nghiêm trọng giữa một bên là đa số người dân
bản địa với một bên là thiểu số người Hoa [Châu Thị Hải, 2001, tr. 48; Christian
Chua, 2008, tr.44]. Có thể thấy, mâu thuẫn giữa người Indonesia và người Hoa tuy
là vấn đề do lịch sử để lại, nhưng lại gây nhiều ảnh hưởng trong đời sống xã hội
Indonesia hiện nay, chi phối nhiều đến tư tưởng tình cảm và quan điểm của người
dân Indonesia đối với người Trung Quốc và Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Có
thể thấy, các sự kiện trong mối quan hệ có tác động lớn hơn đối với Indonesia, hay
nói cách khác, mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia được trải nghiệm mạnh mẽ
hơn bởi Indonesia. Do đó, nỗi sợ hãi của Indonesia về mối quan hệ song phương
cũng sẽ sống động hơn so với Trung Quốc.
Tuy nhiên, so với các quốc gia khác trong khu vực, tính chất bất đối xứng
trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia thể hiện ở mức độ vừa phải, điều này thể
hiện rõ qua các sự kiện quan trọng diễn ra trong thời gian gần đây trong quan hệ
hai nước. Ví dụ, ngay sau khi Indonesia tuyên bố tạm dừng để “đàm phán lại” về
các điều khoản được ký kết trong văn bản xây dựng Khu Thương mại tự do
121
ACFTA (5/1/2010), thì tại Hội nghị lần thứ 2 cơ chế đối thoại cấp Phó Tổng thống
giữa hai nước, lãnh đạo hai bên đã ký kết Kế hoạch hành động (21/1/2010), theo
đó cam kết hai nước sẽ cùng thúc đẩy ACFTA. Ngoài ra, Indonesia là nơi Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình lựa chọn để đưa ra ý tưởng xây dựng “Con đường tơ
lụa trên biển thế kỷ XXI” vào năm 2013, điều này chứng tỏ Indonesia có vị trí đặc
biệt quan trọng trong thiết kế chiến lược của Trung Quốc. Bên cạnh đó, dù hai
nước có xảy ra va chạm trên Biển Đông, Indonesia thậm chí còn thực hiện chính
sách “đánh chìm tàu” cứng rắn, và đặt lại tên vùng biển có sự chồng lấn trong
phân định lãnh thổ là Biển Bắc Natuna. Phản ứng của Trung Quốc trước những sự
kiện này được cho là “mềm mỏng” hơn so với các tình huống tương tự giữa Trung
Quốc với một số quốc gia khác trong khu vực, như Philippines, Nhật Bản. Điều đó
chứng tỏ rằng, dù quan hệ Trung Quốc – Indonesia là một cặp quan hệ bất đối
xứng, nhưng không phải là Indonesia ít có khả năng ảnh hưởng đến hành vi của
Trung Quốc. Trái lại, thực tế đã chứng minh, dù Trung Quốc là nước lớn hơn
trong mối quan hệ bất đối xứng này, nhưng Trung Quốc vẫn dành một mối quan
tâm nhất định, thậm chí có sự cân nhắc về vị trí, tầm quan trọng và sức ảnh hưởng
của Indonesia trong khu vực khi đưa ra một số chính sách trong các trường hợp
đặc thù.
Gần đây nhất, căng thẳng giữa Trung Quốc và Indonesia tại khu vực quần
đảo Natuna vào cuối tháng 12/2019 và đầu tháng 1/2020 đã có những tác động
tiêu cực đến cục diện khu vực này, làm xói mòn lòng tin của các quốc gia trong
khu vực đối với Trung Quốc. Động thái của Trung Quốc trong vụ việc cuối tháng
12/2019 tại quần đảo Natuna có thể thúc đẩy quá trình chạy đua vũ trang ở khu
vực, đồng thời tạo động cơ mạnh mẽ hơn cho các nước trong khu vực tăng cường
hợp tác quốc phòng – an ninh với các đối tác bên ngoài, như Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ và Australia. Việc Indonesia kêu gọi các nước khác đầu tư vào quần đảo
Natuna nhằm ứng phó với các hành động của Trung Quốc là một trong những
minh chứng rõ nhất cho điều này. Mặt khác, phản ứng của Indonesia lần này đối
với hành vi bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông có ý nghĩa lớn, không chỉ
122
bởi Indonesia là một quốc gia ngày càng lớn mạnh ở cả Đông Nam Á và ngoài
khu vực, mà còn bởi, bất kỳ sự phản kháng nào của Indonesia chống lại Trung
Quốc về mặt ngoại giao và chiến lược đều có lợi trong việc áp đặt các giới hạn
hơn nữa đối với sức mạnh của Trung Quốc. Đồng thời, phản ứng của Indonesia
cũng góp phần thúc đẩy các quốc gia khác xung quanh Biển Đông cũng như các
quốc gia thành viên ASEAN ngày càng có tiếng nói chung thống nhất hơn trong
việc ứng phó với các nguy cơ an ninh đến từ Trung Quốc. Điều này tạo nên “sức
mạnh” của Indonesia, khiến nước này tuy có mối quan hệ bất đối xứng với Trung
Quốc, nhưng mức độ đối xứng vừa phải.
Đặ điểm thứ hai, về mứ độ quan hệ, quan hệ giữa Trung Quốc và
Indonesia hiện nay đang dao động ở mức giữa Hình thức và Kết nối chặt chẽ.
Như đã trình bày ở Chương 2, Luận án đối chiếu với các mức độ của quan hệ đối
tác chiến lược trong nghiên cứu Gajauskaite (2013, tr.197) so sánh với một số
trường hợp quan hệ với Trung Quốc (đã trình bày ở cuối chương 2), từ đó đưa ra
một số đánh giá về mức độ quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia.
Bảng 4.2. Đánh giá mức độ của quan hệ Trung Quốc – Indonesia
Lĩn ực
Yếu
tố
Cấu trúc bên
Việc thực hiện các kỳ vọng của đối tác Mứ
độ
hợp tác
hợp tác
trong
của
của đối tác
quan hệ
chiến lược
Chính trị/
Chính trị/
Thiết lập vai
- Năm 2005: thiết lập quan hệ đối tác chiến
Hình thức
ngoại
ngoại
trò của đối tác
lược;
giao
giao
- Năm 2013: nâng cấp lên thành quan hệ
đối tác chiến lược toàn diện
An ninh/
Cơ quan/
Hiệp định trên
- Năm 2007: ký Bản ghi nhớ về Hợp tác
Quốc
tổ
chức
các lĩnh vực
Quốc phòng;
phòng
chính phủ
và nhân
tố
- Năm 2010 mới thông qua Kế hoạch hành
hợp tác
động để triển khai hợp tác quốc phòng;
- Trong năm 2016: 3 lần va chạm trong
vùng đặc quyền kinh tế gần đảo Natuna;
- Tháng 7/2017: Indonesia công bố bản đồ,
đặt tên vùng biển gần quần đảo Natuna là
“Biển Bắc Natuna”
123
Kinh
tế/
Khu vực
Thiết lập các
- Việc kết nối BRI và chiến lược “Trục
Kết nối chặt
thương
kinh tế tư
quy tắc, luật
hàng hải toàn cầu” được đưa vào Tuyên bố
chẽ
mại
nhân
lệ
chung năm 2015;
- Thành lập 3 khu hợp tác thương mại giữa
hai nước;
- Thâm hụt thương mại ngày càng tăng;
hiệu quả đầu tư thực tế của Trung Quốc
vào Indonesia chưa cao; tỉ lệ thực hiện các
dự án đầu tư chưa nhiều.
- Hợp tác thể hiện tính chất bổ sung cho
nhau, đồng thời thể hiện tính bất đối xứng.
Văn hóa/
Cơ quan/
Hình
thành
- Chưa hình thành được các cơ chế, thể chế
Giáo dục
tổ
chức
các
thể chế
song phương hiệu quả;
phi chính
song phương
phủ
hiệu quả
Xã hội
Xã hội
Giám
sát
- Chưa tạo được vị trí chung trên trường
thường xuyên
quốc tế;
- Trong xã hội Indonesia còn tồn tại một số
bất đồng xoay quanh “chủ đề Trung Quốc”
Nguồn: Tác giả lập bảng dựa theo các tiêu chí trong nghiên cứu Ieva Gajauskaite (2013),
Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative Analysis of Polish—Ukrainian and
Lithuanian-Ukrainian Strategic Partnerships, Lithuanian Annual Strategic Review, 1 (11), pp.197.
Từ những so sánh đối chiếu thể hiện trong Bảng 4.2, có thể thấy, mức độ
quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia hiện nay đang dao động ở mức giữa
Hình thức và Kết nối chặt chẽ, do hai nước tuy có nhiều Tuyên bố chung và
hành động hợp tác trong các lĩnh vực Chính trị/ ngoại giao và Kinh tế/ thương
mại, song hợp tác trên các lĩnh vực khác vẫn chưa đạt được hiệu quả thực tế,
chưa hình thành được các cơ chế, thể chế phối hợp song phương. Bản thân hợp
tác trong lĩnh vực kinh tế/ thương mại cũng còn tồn tại nhiều vấn đề, thể hiện
tính bất đối xứng trong quan hệ hai nước. Đáng chú ý, những biểu hiện của mức
độ Kết nối chặt chẽ, như việc kết nối BRI với chiến lược “Trục hàng hải toàn
124
cầu”, việc thành lập các hợp tác khu thương mại giữa hai nước… chủ yếu mới
xuất hiện trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay. Đây cũng chính là sự chuyển
biến về mức độ quan hệ giữa hai nước trong hai giai đoạn trước và sau năm
2013: chuyển từ mức độ Hình thức dần sang mức độ Kết nối chặt chẽ. Thậm chí,
học giả Mohamad Zreik (2019) còn cho rằng mối quan hệ Trung Quốc –
Indonesia đang tiến gần đến mức độ “liên minh”: “Tất cả các chỉ số chính trị và
kinh tế chỉ ra rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia đang phát triển
nhanh chóng và có thể trở thành một liên minh, do đó Indonesia sẽ là đối tác
quan trọng của Trung Quốc trong một khu vực địa lý nhạy cảm quốc tế...”. Tuy
nhiên, Luận án cho rằng, vẫn tồn tại những “chốt hãm” trong quan hệ Trung
Quốc – Indonesia, khiến quan hệ hai nước này vẫn chưa thể gắn kết như quan hệ
liên minh.
So sánh với những đánh giá về quan hệ giữa Trung Quốc với một số nước
khác, có thể thấy, cùng là các nước ASEAN, nhưng mức độ kết nối chặt chẽ
trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia dường như thấp hơn mức độ này trong
quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, dù cho về tên gọi, cả hai nước đều là đối tác
chiến lược toàn diện của Trung Quốc. Đối với cặp quan hệ Trung Quốc – Việt
Nam, tuy giữa hai nước vẫn còn tồn tại một số vấn đề về lòng tin liên quan đến
lĩnh vực an ninh - quốc phòng, cụ thể là những tranh chấp chủ quyền trên biển
Đông, tuy nhiên hợp tác trong các lĩnh vực khác lại đạt được những hiệu quả
nhất định. Ví dụ, về lĩnh vực ngoại giao, quan hệ Trung Quốc – Việt Nam không
chỉ duy trì quan hệ giữa hai quốc gia, mà còn duy trì quan hệ giữa hai Đảng
Cộng sản; hợp tác trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục cũng có nhiều thuận lợi và
thành tựu do những tương đồng về hệ tư tưởng Nho giáo trong lịch sử cũng như
tương đồng trong thể chế chính trị.
Còn với trường hợp Malaysia, cả Indonesia và Malaysia đều là quốc gia
có vị trí chiến lược quan trọng đối với Trung Quốc khi kiểm soát eo biển
Malacca, đều là các quốc gia có ảnh hưởng lớn trong ASEAN và đều là các quốc
gia Islam. Cả hai nước đều tồn tại vấn đề người Hoa thiểu số trong lịch sử. Tuy
125
nhiên, trong lịch sử quan hệ với Trung Quốc, Malaysia đã nhiều lần áp dụng
chiến lược “phù thịnh” có giới hạn (Limited-bandwagoning) đối với Trung
Quốc, như khi coi Trung Quốc là một đối tác có giá trị trong việc thúc đẩy mục
tiêu hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nền kinh tế Đông Á. Một ví dụ khác, việc
Malaysia tái khởi động các dự án có liên quan đến BRI sau khi tạm dừng gần
một năm đã phần nào cho thấy sự “nhượng bộ” của Trung Quốc khi chấp nhận
sửa đổi một số thỏa thuận mà chính phủ Malaysia yêu cầu. Không chỉ vậy, sau
chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Mahathir tháng 4/2019, Malaysia tiếp tục
ủng hộ Huawei của Trung Quốc trong khi Mỹ tìm cách ngăn chặn tập đoàn này
bành trướng ra toàn cầu với những nghi ngại về an ninh mạng. Trong khi đó, mặc
dù đã có tiến triển hơn trong các chính sách mang tính Ràng buộc – Can dự với
Trung Quốc so với giai đoạn 2005-2013, nhưng hiện nay, Indonesia vẫn chưa có
những hành động mang tính “phù thịnh” có giới hạn như của Malaysia. Do đó, dù
cùng là đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, nhưng mức độ quan hệ Trung
Quốc – Indonesia vẫn kém mật thiết hơn so với quan hệ Trung Quốc – Malaysia.
Có thể thấy, quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc với một số nước
hiện nay trong tình trạng “tên gọi không phản ánh đúng thực chất”. Trong quan hệ
đồng minh, các thành viên trong hợp tác đồng minh thường phải ký kết các điều
ước mang ý nghĩa luật pháp quốc tế, cần chịu trách nhiệm và có tính ràng buộc cao,
đồng thời nhằm vào một số mục tiêu cụ thể để hợp tác. Còn quan hệ đối tác thường
không phải ký kết bất kỳ điều ước nào, hai bên không bị bó buộc bởi các điều ước
liên kết đồng minh hay phải chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ [张 锐, 2016, tr. 42-44].
Điều đáng nói là, các dạng thức quan hệ đối tác về tên gọi phản ánh được phần nào
quan hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia này, chứ không phản ánh hoàn toàn bản
chất các mối quan hệ đó, có những trường hợp “hữu danh vô thực”. Một số quốc
gia, ví dụ tại Đông Nam Á tuy trên danh nghĩa là “đối tác chiến lược toàn diện” hay
“đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, nhưng quan hệ hai nước gần đây đứng trước
nhiều nguy cơ và thách thức. Trong khi đó một số quốc gia khác, ví dụ ở Trung
Đông, do là nước đồng minh với Mỹ, nên không có tên gọi là quan hệ đối tác với
126
Trung Quốc, nhưng trên thực chất quan hệ hợp tác với Trung Quốc lại rất tốt. Chính
vì vậy, khi nghiên cứu quan hệ đối tác giữa Trung Quốc với một quốc gia/ tổ chức
quốc tế nào đó, không những cần căn cứ vào tên gọi của cặp quan hệ, mà còn cần
phân tích các yếu tố liên quan trên các lĩnh vực cụ thể để xác độ mức độ và bản chất
quan hệ.
Đặ điểm thứ ba, giữa các lĩnh vực trong quan hệ song phương có sự mất
cân đối, trong đó, quan hệ kinh tế phát triển nhanh, quan hệ chính trị chuyển biến
dần dần, quan hệ quốc phòng an ninh và giao lưu văn hóa – xã hội còn mờ nhạt.
Trong lĩnh vực kinh tế, do có sự bổ sung và kết nối giữa BRI của Trung Quốc với
chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia, hợp tác giữa hai nước đã chứng
kiến sự phát triển vượt bậc, đặc biệt từ sau khi hai nước nâng cấp lên quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện vào năm 2013. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều năm
2018 đạt mốc 72,48 tỷ USD, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn thứ hai ở Indonesia
trong cả năm 2019 chỉ sau Singapore. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược
chung của Trung Quốc trong đầu tư tại khu vực Đông Nam Á, như Michael
Sampson (2019) tổng kết: thông qua số lượng lớn các thỏa thuận thương mại mà
Trung Quốc đưa ra, các đối tác thương mại yếu thế hơn Trung Quốc đã trở nên phụ
thuộc hơn về kinh tế đối với Trung Quốc. Trung Quốc cũng đang tận dụng sự phụ
thuộc này để cải thiện vị thế thương lượng của mình trong các thỏa thuận thương
mại và cả trong các vấn đề ngoài thương mại (như chính trị, an ninh…) [Sampson,
2019, tr.22-23].
Trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, quan hệ ngoại giao giữa hai nước được
thúc đẩy bởi các chuyến thăm lãnh đạo cấp cao, cùng việc ký kết các văn bản hợp
tác quan trọng. Hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005, nhưng
phải đến năm 2010 và 2011, hai nước mới tiếp tục ký kết Kế hoạch hành động và
Thông cáo chung, nhằm thúc đẩy việc triển khai thực chất văn bản đã ký kết vào
năm 2005. Điều này phần nào cho thấy trong suốt 5 năm sau khi thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược, quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước chưa đạt được những
kết quả mà lãnh đạo cấp cao hai nước mong đợi. Việc ký kết nâng cấp quan hệ lên
127
thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013 nhằm thúc đẩy quan hệ phát triển
thực chất, hiệu quả hơn. Từ năm 2013 đến nay, các chuyến thăm cấp cao đã được
tiến hành với tần suất cao hơn, đồng thời, các văn bản hợp tác ở cấp lãnh đạo cao
nhất cũng diễn ra đều đặn hơn, với lần ký kết năm 2015 và 2018. Điều này cho thấy
nhu cầu hợp tác và kết nối chính sách giữa hai nước đã trở thành vấn đề mang tính
thường xuyên hơn, chứ không chỉ là những vấn đề mang tính chất cấp bách, “tình
thế”, khi Trung Quốc cần sự hậu thuẫn lớn hơn từ Indonesia như trong giai đoạn
2005-2013. Do đó, xét về tổng thể, từ năm 2005 đến nay, quan hệ chính trị ngoại
giao Trung Quốc – Indonesia chuyển biến với tính chất tiệm tiến.
Còn trong lĩnh vực quan hệ văn hóa – xã hội, sự khác biệt giữa Trung Quốc
và Indonesia, đặc biệt sự không dung hòa giữa tính chất của chủ nghĩa cộng sản, và
chủ nghĩa Islam đã tạo ra sự khác biệt trong văn hóa chính trị của hai nước. Nếu
như Trung Quốc luôn đề cao sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản đối với tất
cả mọi việc, đồng thời sử dụng các biện pháp cứng rắn để chống lại phong trào
Islam cực đoan, thì các nhà lãnh đạo Indonesia luôn phải tìm cách “làm vừa lòng”
số đông các tín đồ Islam tại quốc gia Islam đông dân nhất thế giới này. Sự khác biệt
trong văn hóa chính trị của hai nước, cùng diễn biến ngày càng phức tạp của phong
trào Islam trên thế giới và tại Indonesia, cùng việc các chính sách Tân Cương của
Trung Quốc hiện đang bị nhiều nước chỉ trích gay gắt, sẽ là những nhân tố có thể
gây ra những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia theo chiều hướng
xấu đi trong tương lai. Những vấn đề khác như ảnh hưởng tiêu cực từ quan hệ kinh
tế hai nước, mâu thuẫn giữa người Indonesia bản địa và người Hoa Indonesia, tình
cảm chống Trung Quốc của người dân Indonesia… đều là những rào cản khiến
quan hệ hai nước tiến triển chậm trong lĩnh vực văn hóa – xã hội.
4.2. T động của chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia
Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005
đến nay không chỉ gây nhiều tác động đối với bản thân Trung Quốc, Indonesia, mà
còn ảnh hưởng đến thế giới và khu vực, như tác động đến ASEAN, đến chiến lược
128
của các cường quốc khác, và tới Việt Nam.
4.2.1. Tác động đến Trung Quốc và Indonesia
Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có ảnh hưởng
trước nhất đến bản thân hai nước Trung Quốc và Indonesia, cụ thể, tác động đến
chính sách đối ngoại của hai nước. Với Trung Quốc, những chuyển biến trong mối
quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược Đông Nam Á của Trung Quốc. Với
Indonesia, những thay đổi trong mối quan hệ với quốc gia đứng thứ hai thế giới này
đã gây tác động đến chính sách ASEAN và chính sách nước lớn của Indonesia.
Thứ nhất, tác động đến Trung Quốc. Mối quan hệ song phương chặt chẽ giữa
Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN luôn là nền tảng thiết yếu cho ngoại
giao đa phương của Bắc Kinh. Mặt khác, sự tham gia ngày càng nhiều của Trung
Quốc vào các thể chế đa phương trong khu vực đã dần củng cố niềm tin chính trị của
ASEAN đối với Bắc Kinh, qua đó củng cố mối quan hệ song phương giữa Trung
Quốc và các thành viên ASEAN. Quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng không ngoại
lệ, cũng là nền tảng cho ngoại giao đa phương của Trung Quốc, tác động không ít đến chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc [Kuik, 2005, tr.114-115].
Đông Nam Á là khu vực chứa đầy cơ hội phát triển đối với Trung Quốc. Đây là
khu vực gần về mặt địa lý, hấp dẫn về kinh tế, tương đồng về lịch sử với Trung Quốc,
và có một số lượng người gốc Hoa lớn có ảnh hưởng về kinh tế tại các nước trong khu
vực. Đông Nam Á lại nằm trên các tuyến đường biển có ý nghĩa chiến lược về an ninh
năng lượng của Trung Quốc. Do ẩn chứa ý nghĩa chiến lược quan trọng như vậy, Trung
Quốc luôn muốn đạt được ưu thế trong khu vực Đông Nam Á. Các chính sách của
Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á nhằm thực hiện một số mục tiêu chiến lược như
sau: (i) làm giảm ảnh hưởng của các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là Mỹ; (ii) tạo
vùng đệm chiến lược thông qua các quốc gia thân thiện trong khu vực; (iii) bảo vệ lãnh
thổ của Trung Quốc tại Biển Đông. Bên cạnh đó, khi Trung Quốc trỗi dậy và trở thành
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhu cầu nhập khẩu dầu và khí đốt tự nhiên đang ngày
càng tăng lên, với phần lớn lượng nhập khẩu đi qua eo biển Malacca. Do đó, an ninh
129
của các tuyến đường biển ở khu vực Đông Nam Á có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh của Trung Quốc [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.32]. Mục tiêu của Trung Quốc trong
việc duy trì môi trường láng giềng ổn định là nhằm: tạo điều kiện thuận lợi cho tăng
trưởng kinh tế; tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại có lợi cho sự nghiệp hiện đại
hóa và ổn định kinh tế của Trung Quốc; thể hiện cho các nước Đông Nam Á thấy
Trung Quốc đóng vai trò là cường quốc quan trọng nhất ở châu Á; duy trì và mở rộng
các tuyến thương mại; phát triển quan hệ thương mại nhằm phục vụ các mục tiêu kinh
tế và chính trị, tiếp cận các nguồn năng lượng và nguyên liệu thô trong khu vực [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.33].
Tăng cường quan hệ với Indonesia trong bối cảnh hiện nay được xem như một
hướng trong chiến lược gia tăng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á của Trung Quốc.
Với vị thế là một nước lớn trên thế giới và trong khu vực, Trung Quốc dường như
chiếm thế chủ động trong việc đưa ra những chiến lược và chính sách trong hợp tác với
Indonesia. Thực tế đã chứng minh, dù giữa Trung Quốc và Indonesia vẫn tồn tại nhiều
vấn đề, dù chính sách biển của Indonesia đang ngày càng cứng rắn hơn đối với Trung
Quốc, nhưng các cuộc tiếp xúc ngoại giao cấp cao giữa hai nước vẫn được tăng cường,
và hợp tác kinh tế thu được nhiều kết quả vượt bậc. Những chuyển biến trong quan hệ
Trung Quốc – Indonesia đã cung cấp cho Trung Quốc một ví dụ thực tế về cách quản
lý mối quan hệ bất đối xứng với một quốc gia Đông Nam Á, nhằm tạm gác lại tranh
chấp đề cùng nhau khai thác các tiềm năng hợp tác. Thực tiễn quan hệ giữa Trung
Quốc với một quốc gia Đông Nam Á, trong trường hợp này là Indonesia, đã thúc đẩy
Trung Quốc áp dụng một số chính sách đối với Đông Nam Á, nhằm cải thiện hình ảnh
quốc tế, và loại bỏ nhận thức coi Trung Quốc như một mối đe dọa.
Các chính sách Đông Nam Á mà Trung Quốc triển khai trong giai đoạn hiện
nay chủ yếu bao gồm: Một là, tiếp tục thúc đẩy các khái niệm về phát triển hòa bình,
như “chính sách tam lân”, “ngoại giao xung quanh”, “Cộng đồng chung vận mệnh”…,
nhằm xóa bỏ ấn tượng rằng Trung Quốc đang mong muốn trở thành quốc gia thống trị
khu vực. Hai là, làm nổi bật các lợi ích kinh tế và chiến lược chung giữa Trung Quốc
với các quốc gia Đông Nam Á (trong trường hợp Indonesia là sự kết nối giữa BRI với
chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu). Ba là, tăng cường quan hệ với ASEAN bằng cách
130
tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau và giải quyết các khác biệt trong hợp tác, thông qua
tăng cường hợp tác song phương và đa phương với các nước ASEAN, củng cố vai trò
dẫn đầu trong hội nhập kinh tế khu vực. Cuối cùng, nỗ lực tăng cường ảnh hưởng của
sức mạnh mềm tại Đông Nam Á, thông qua việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa sang
khu vực Đông Nam Á, thành lập các học viện Khổng Tử, cung cấp nhiều chương trình học bổng cho học sinh các nước Đông Nam Á [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.38-39].
Bên cạnh đó, trong bối cảnh Trung Quốc đề xướng và thúc đẩy xây dựng
BRI, mặc dù ban đầu sự ủng hộ của Indonesia có đôi chút miễn cưỡng, nhưng là
quốc gia lớn nhất Đông Nam Á, nước này muốn tìm cách tăng cường vai trò quốc tế,
nhất là trong quan hệ song phương, đồng thời muốn thể hiện vai trò trung gian trong
các vấn đề liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Những thành tựu trong hợp tác
kinh tế giữa hai nước về đầu tư cơ sở hạ tầng, hợp tác năng lượng... có tác dụng
thúc đẩy tiến trình triển khai BRI tại Indonesia nói riêng, và tại Đông Nam Á nói
chung.
Đáng chú ý, leo thang căng thẳng trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia tại
khu vực quần đảo Natuna sau vụ việc cuối tháng 12/2019 đã tác động tiêu cực đối
với Trung Quốc. Cụ thể, hành động của Trung Quốc trong vụ việc này đã làm xói
mòn lòng tin của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc. Nhiều nước
ASEAN đang ngày càng nghi ngờ đối với ý đồ thực sự của Bắc Kinh đối với khu
vực, đặc biệt trong vấn đề Biển Đông. Hành động gây hấn của Trung Quốc có thể
với mục tiêu ban đầu là “thử phản ứng” cũng như thăm dò “giới hạn đỏ” của
Indonesia, nhưng phản ứng gay gắt của Indonesia cũng như của các nước khác có
thể thúc đẩy các quốc gia thành viên ASEAN đi đến tiếng nói chung thống nhất hơn
trong việc ứng phó với Trung Quốc. Đồng thời, việc Bắc Kinh tăng cường kiểm
soát thực tế ở Biển Đông sẽ càng thúc đẩy các quốc gia có tranh chấp với Bắc Kinh
ở khu vực này tiến lại gần các nước lớn khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và
Australia.
Thứ hai, tác động đến Indonesia. Quan hệ với Trung Quốc cũng gây tác
động đến chính sách đối ngoại của Indonesia, cụ thể, tác động đến vị trí của ASEAN
131
trong chính sách đối ngoại của nền kinh tế lớn nhất ASEAN này. Trong các giai đoạn
trước, ASEAN luôn được đặt ở vị trí ưu tiên, hoặc trung tâm trong các chính sách đối
ngoại của Indonesia. Thời kỳ Trật tự mới, ASEAN được xếp vào vòng tròn trong
cùng trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Suharto kiểu “các vòng tròn đồng
tâm” với ưu tiên đối ngoại được sắp xếp theo khoảng cách địa lý [Vũ Thái Lê Hoàng,
Lê Linh Lan, 2014, tr.119]. Dưới thời kỳ Tổng thống Susilo, Indonesia lần đầu tiên
đưa ra khái niệm “cân bằng năng động“ (dynamic equilibrium) về định hướng chính
sách đối ngoại trong năm làm Chủ tịch ASEAN (2011). Theo đó, các nước hợp tác
thông qua mạng lưới các cơ chế khu vực với vai trò trung tâm của ASEAN và các cơ
chế do tổ chức này dẫn dắt. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ ngày
càng gay gắt hiện nay, nội bộ Indonesia đã chia thành 2 trường phái khác nhau: một
nhóm “ủng hộ ASEAN” (pro-ASEANists) và nhóm “hậu ASEAN” (post-
ASEANists). Trong đó, nhóm “hậu ASEAN” cho rằng nếu quá coi trọng ASEAN
trong chính sách đối ngoại có thể sẽ cản trở những tham vọng đối ngoại lớn hơn của
Indonesia trên trường quốc tế, đồng thời những chia rẽ nội bộ kéo dài sẽ làm suy yếu
ASEAN, làm tổn hại lợi ích quốc gia của Indonesia. Do đó, nhóm này chủ trương
Indonesia cần mở rộng tầm ảnh hưởng vượt ra ngoài khuôn khổ ASEAN: “Chúng tôi
từng nói ASEAN là viên gạch nền cho chính sách đối ngoại của chúng tôi. Bây giờ
chúng tôi thay đổi lại rằng ASEAN là một trong những viên gạch nền trong chính
sách đối ngoại.” [Parameswaran, 2014c]. Sự thay đổi trong chính sách ASEAN của
Indonesia, mà một phần nguyên nhân do quan hệ với Trung Quốc đem lại những lợi
ích và hiệu quả nhất định, sẽ thúc đẩy Indonesia phát huy vai trò và củng cố vị trí tốt
hơn trong khu vực rộng lớn hơn và trên trường quốc tế.
Ngoài ra, chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia còn gây tác
động đến chính sách nước lớn của Indonesia. Như đã phân tích ở các nội dung trước,
Indonesia là một một quốc gia có ảnh hưởng nhất định trong khu vực và nhiều tổ
chức thế giới, lại có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có vị trí chiến lược
quan trọng là cầu nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, do đó, các nước lớn
luôn muốn gia tăng ảnh hưởng tại quốc gia quần đảo này, nhằm đạt được các lợi ích
132
chiến lược trong khu vực. Chính sách đối ngoại của Indonesia qua các thời kỳ cho
thấy quốc gia này luôn mong muốn cân bằng ảnh hưởng của các cường quốc. Quan
hệ đối tác chiến lược là một trong các nền tảng được các nhà hoạch định chính sách
Indonesia sử dụng nhằm đưa các cường quốc vào các quy tắc và thể chế khu vực, và
để không bị quá phụ thuộc vào bất cứ cường quốc nào. Việc mối quan hệ Indonesia –
Mỹ trở nên xấu đi sau Chiến tranh Lạnh do lệnh trừng phạt của Mỹ đối với các hành
vi vi phạm nhân quyền của chính quyền Suharto đã khiến Indonesia nhận thấy những rủi ro của việc phụ thuộc vào một cường quốc [Priyandita, 2019, tr.6-7]. Do đó, các
nhà lãnh đạo Indonesia đã cố gắng cải thiện quan hệ song phương với các cường
quốc khác. Chiến lược “phòng ngừa rủi ro”/ “phòng bị nước đôi” (hedging) này được
Indonesia áp dụng khá thành công khi cân bằng ảnh hưởng của các nước lớn.
Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, cụ thể, theo hướng
phát triển đột biến về kinh tế, buộc Indonesia phải có những chính sách phát triển
quan hệ với các cường quốc khác trong các lĩnh vực khác, để không quá bị phụ thuộc
vào cường quốc nào. Ví dụ, trong bối cảnh quan hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia
đang trên đà tăng vọt cùng với việc triển khai BRI của Trung Quốc và chiến lược
“Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia, năm 2015, Indonesia và Mỹ đã ký kết quan
hệ đối tác chiến lược. Theo đó, quan hệ quốc phòng Indonesia – Mỹ đã được tăng
cường với việc ký kết một tuyên bố chung về hợp tác quốc phòng toàn diện, bao gồm
hợp tác trong các lĩnh vực như cùng phát triển và hợp tác sản xuất thiết bị quốc phòng.
Hai bên cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác hàng hải, điều phù hợp với chiến
lược “quay lại Châu Á” của Mỹ và Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” mà Tổng
thống Jokowi đang thúc đẩy [The White House Office, 2015].
Một ví dụ khác, chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis
(22/1/2018) diễn ra trong bối cảnh các hoạt động hung hăng của Trung Quốc (triển
khai hải quân, chiếm đảo san hô, xây dựng đảo và pháo đài) đang diễn ra nhằm giúp
nước này giành quyền kiểm soát tốt hơn trên phần lớn Biển Đông. Những điểm nhấn
hợp tác mà Bộ trưởng Quốc phòng Mattis đã đề cập trong chuyến thăm bao gồm:
chống khủng bố, bán vũ khí, huấn luyện Lực lượng Đặc biệt Quân đội Indonesia
133
(Kopassus), và hợp tác an ninh hàng hải (bao gồm cả Biển Đông và Biển Sulu)
[Pangestu, 2017]. Đáng chú ý, Bộ trưởng Mattis trong chuyến thăm đã công nhận tên
Biển Bắc Natuna mà Indonesia đã chính thức sửa trên bản đồ nước này vào tháng
7/2017. Có thể thấy, cùng với những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –
Indonesia, Chính phủ Indonesia đã có những chính sách tương ứng với các cường
quốc khác, nhằm giữ cho chính sách đối ngoại của mình giữ ở điểm trung lập, không
áp dụng chính sách “phù thịnh” đối với bất kỳ cường quốc nào, kể cả biện pháp “phù
thịnh” có giới hạn mà một số quốc gia ASEAN như Malaysia và Thái Lan sử dụng
trong quan hệ với Trung Quốc. Điều này giúp cho Indonesia tận dụng được tối đa lợi
ích từ hợp tác với các cường quốc để phục vụ cho phát triển trong nước.
4.2.2. Tác động đến thế giới và khu vực
Quan hệ Trung Quốc - Indonesia là cặp quan hệ quan trọng đối với khu vực
Đông Nam Á, với một bên là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về diện tích và dân
số, và một bên là quốc gia láng giềng lớn, có tầm sức ảnh hưởng với hầu hết các
quốc gia thuộc khu vực này. Ngoài ra, cả Trung Quốc và Indonesia đều khởi xướng,
dẫn dắt và có nhiều ảnh hưởng tại nhiều diễn đàn đa phương, do đó, mức độ ổn định
của cặp quan hệ này có ảnh hưởng tới sự ổn định của khu vực.
Thứ nhất, tác động đối với ASEAN, thể hiện ở hai khía cạnh: góp phần thúc
đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN nói chung; gia tăng can dự của Trung Quốc với
ASEAN thông qua các thành viên, điều này gia tăng sự tác động của Trung Quốc đối
với đoàn kết nội bộ ASEAN.
Một mặt, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia góp phần
thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN nói chung phát triển theo chiều hướng tích cực.
Trong các tuyên bố chung giữa hai nước, các nhà lãnh đạo Indonesia đều cam kết sẽ
thúc đẩy sự phát triển quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Không phải ngẫu nhiên, Kế
hoạch hành động giữa Trung Quốc và Indonesia (ký kết ngày 21/1/2010) bao gồm nội
dung cùng thúc đẩy xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, cùng thúc
đẩy sự phát triển trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, diễn ra trong bối cảnh ngay sau
khi ACFTA có hiệu lực vào ngày 1/1/2010, thì ngày 5/1/2010, Bộ trưởng Thương mại
134
Indonesia đưa ra đề nghị “đàm phán lại” để “hàng hóa nhập khẩu rẻ không tràn vào
làm lụt thị trường mà không bị ngăn chặn” [BBC, 2010]. Rõ ràng, Trung Quốc muốn
giành được nhiều hơn sự ủng hộ của Indonesia với tư cách là quốc gia đứng đầu
ASEAN trong việc thúc đẩy xây dựng ACFTA. Bên cạnh đó, những tiến triển nhanh
chóng trong hợp tác giữa hai nước cũng như sự ủng hộ của Indonesia vào các cơ
chế mà Trung Quốc khởi xướng (như AIIB, chiến lược “Vành đai và Con đường”...)
đã góp phần khuyến khích sự phát triển của những thể chế kinh tế do Trung Quốc
dẫn dắt ở khu vực. Tiến triển rõ rệt trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước
cũng tạo nên sự ổn định và phát triển kinh tế của khu vực Đông Nam Á, cũng như
thúc đẩy quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN.
Mặt khác, chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng gây ảnh
hưởng tiêu cực đến ASEAN, cụ thể, làm gia tăng sự can dự của Trung Quốc đối với
ASEAN thông qua các thành viên, qua đó, làm tăng ảnh hưởng của Trung Quốc đối
với đoàn kết nội bộ của ASEAN. Việc Trung Quốc gây ảnh hưởng đến đoàn kết nội
bộ ASEAN thông qua các nước thành viên đã diễn ra không chỉ một lần. Hội nghị
Bộ trưởng ASEAN lần thứ 45 (năm 2012) lần đầu tiên không đưa ra được tuyên bố
chung khi nước Chủ tịch ASEAN năm đó là Campuchia không chấp nhận đưa vấn
đề tranh chấp lãnh hải giữa Việt Nam, Phillipines với Trung Quốc ở Biển Đông vào
tuyên bố chung. Năm 2016, trước những áp lực từ Trung Quốc, bản Thông cáo
chung của khối ASEAN về Biển Đông do Malaysia đưa ra ngày 14/6/2016 đã bị rút
lại chỉ sau vài giờ [外交部, 2016]. Tháng 7/2016, sau phán quyết của Tòa Trọng
Tài về vụ kiện Trung Quốc do Philippines thực hiện, theo đó các thẩm phán bác bỏ
yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông, nước chủ tịch ASEAN khi đó là Lào
thông báo rằng ASEAN sẽ không ra tuyên bố chung về phán quyết của Tòa Trọng
tài do thiếu sự đồng thuận [Chalermpalanupap, 2016]. Có thể thấy, cho đến nay,
trong các nguyên nhân khiến ASEAN vẫn chưa có tiếng nói chung về vấn đề tranh
chấp chủ quyền tại Biển Đông, ngoài sự khác biệt trong lợi ích quốc gia và mức độ tác
động khác nhau của vấn đề Biển Đông đến mỗi nước, còn do các nước ASEAN chịu
tác động mạnh mẽ của các nước đối tác lớn, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ trong việc
135
giải quyết vấn đề Biển Đông.
Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong thời gian
gần đây, đặc biệt là quan hệ kinh tế không ngừng được củng cố mạnh mẽ khiến
không ít người lo ngại đến khả năng gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc đối với
ASEAN thông qua Indonesia. Bởi các tiền lệ trong lịch sử cho thấy, khi nước chủ
tịch ASEAN là quốc gia có quan hệ hợp tác kinh tế khăng khít với Trung Quốc (như
trường hợp Campuchia và Lào), chương trình nghị sự của ASEAN rất có thể bị tác
động và chi phối để không đưa ra những tuyên bố chung không có lợi cho Bắc Kinh.
Và bởi với tư cách là quốc gia lớn nhất, có tiếng nói trong ASEAN và đã từng thể
hiện tốt vai trò của một cường quốc tầm trung trong việc trung gian hòa giải trong
vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, quan điểm và chính sách của Indonesia trong
khối ASEAN chắc chắn sẽ có tác động đến quan điểm chung của ASEAN cũng như
sự đoàn kết của khối. Một khi Indonesia đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu, triển khai
các hạng mục hợp tác với Trung Quốc, hoặc tạo điều kiện cho các công ty Trung
Quốc đầu tư khai thác năng lượng trong lãnh hải của mình, ASEAN sẽ mất đi một
tiếng nói có trọng lượng với vai trò “trung gian hòa giải”.
Thứ hai, tác động đến các cường quốc khác. Quan hệ Trung Quốc –
Indonesia góp phần làm gia tăng sự can dự của các nước lớn vào khu vực. Do
Indonesia sở hữu những ưu thế độc đáo không chỉ về vị trí địa chiến lược, mà còn về
vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế, các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ, Australia giai đoạn hiện nay đều thi hành chính sách tăng cường quan hệ với
Indonesia nói riêng, với Đông Nam Á nói chung theo các trọng tâm chiến lược khác
nhau. Nếu như Mỹ, Ấn Độ tập trung vào cán cân quyền lực, thì Nhật Bản nghiêng
nhiều hơn về kinh tế, trong khi Australia xuất phát từ lý do an ninh chính trị...
Đối với Mỹ, một Indonesia đang trỗi dậy sẽ đóng vai trò lớn hơn trong khu
vực và trên toàn cầu, Mỹ cần hành động để tận dụng các giá trị về kinh tế cũng như
dân chủ từ quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này. Trước thực trạng quan hệ Trung
Quốc – Indonesia ngày càng phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao và kinh tế,
Mỹ cần phát huy những thế mạnh cạnh tranh của mình, nhằm tạo sự cân bằng về
136
ảnh hưởng tại Indonesia. Mối quan hệ kinh tế Mỹ-Indonesia hiện đang có nhiều tiến
triển nổi bật hơn so với mối quan hệ kinh tế giữa Mỹ với hầu hết các nền kinh tế lớn
khác ở Đông Nam Á. Cách tiếp cận cứng rắn của chính quyền Trump đối với
thương mại, kết hợp với chủ nghĩa dân tộc kinh tế đang phát triển ở Indonesia, có
thể gây tổn hại thêm cho mối quan hệ thương mại trong ít nhất hai năm tới, cũng
chính là giai đoạn Indonesia vẫn cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn để duy trì tốc
độ tăng trưởng và thúc đẩy nền kinh tế Indonesia [Liaison, 2018]. Trong khi đó, các
công ty Mỹ đang bỏ lỡ một cơ hội nếu họ rời khỏi Indonesia – đất nước được dự
báo sẽ là một trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2050.
Trong khi đó, lĩnh vực dân chủ có thể là một điểm nhấn trong quan hệ giữa
Mỹ và Indonesia. Ví dụ, Mỹ có thể thúc đẩy việc Indonesia tổ chức một cuộc họp
giữa các nền dân chủ lớn khác, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, nhằm
củng cố các thể chế dân chủ, cũng như ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp và cải
thiện an ninh hàng hải, chống khủng bố, cải thiện an ninh mạng... Điều này không
phải nhằm tạo ra một liên minh vì mục đích chống lại một nhân tố đối lập nào, mà
nhằm giúp các nền dân chủ tìm ra cách đứng cùng nhau để thúc đẩy sự cân bằng
quyền lực và pháp quyền trên thế giới [Cronin, Burke, 2019].
Trong các chiến lược phát triển khu vực, Mỹ và Indonesia đã tiếp cận ý
tưởng về một “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” từ các điểm
thuận lợi khác nhau, cả hai đều cam kết với những giá trị chung, như: bình đẳng, có
đi có lại, tôn trọng các chuẩn mực quốc tế, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ [Cronin, Burke, 2019]. Để thúc đẩy chiến lược này triển khai rộng khắp,
Mỹ rất cần sự ủng hộ và tham gia tích cực của Indonesia với tư cách quốc gia lớn
nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, Mỹ cũng cần chấp nhận thực tế rằng, việc tham gia
hay những cam kết của Indonesia, hay bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào đối với
chiến lược này không đồng nghĩa với việc lựa chọn giữa Bắc Kinh và Washington.
Bởi các quốc gia này luôn muốn duy trì trạng thái cân bằng ảnh hưởng của các nước
lớn trong khu vực, dù giữa Trung Quốc và Indonesia vẫn tồn tại một số vấn đề như
Biển Đông.
137
Ngoài ra, thời gian gần đây, cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ tại các nước
Đông Nam Á, trong đó có Indonesia còn được thể hiện rõ trong cuộc chạy đua công
nghệ 5G. “Ai kiểm soát được công nghệ 5G sẽ có được ảnh hưởng to lớn trong các
vấn đề kinh tế, quân sự và chính trị toàn cầu”, do đó, một cuộc cạnh tranh lớn đang
diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ, nơi Mỹ muốn ngăn chặn Huawei trên mạng 5G
toàn cầu vì những rủi ro an ninh quốc gia [Radu, 2019]. Trong bối cảnh các nước
ASEAN đều tuyên bố về triển vọng sử dụng công nghệ 5G trong tương lai, như
Singapore, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Thái Lan...[ ATKearney, 2019], trong
đó, Thái Lan và Philippines là hai trong số các nước Đông Nam Á đầu tiên hào
hứng với kế hoạch 5G của Huawei. Một số lãnh đạo của quân đội Mỹ đã bày tỏ lo
ngại rằng, công nghệ 5G do Trung Quốc thiết kế sẽ cung cấp việc truyền dữ liệu
theo cách mà Chính phủ Trung Quốc mong muốn. Mạng 5G có thể thay đổi cách
thức hoạt động của quân đội trong tương lai. Mỹ sẽ không thể sử dụng các mạng
thông tin dùng công nghệ của Trung Quốc cho các hoạt động quân sự tại các nước
đồng minh truyền thống của Mỹ, hoặc trên lãnh thổ các đối tác mới nổi của Mỹ tại
châu Âu và châu Á. Bởi một trong những nội dung hợp tác quân sự là chia sẻ thông
tin tình báo, trong tương lai Mỹ sẽ phải rút bớt các nội dung hợp tác này với các
nước khác sử dụng công nghệ 5G của Trung Quốc. Có thể thấy, cuộc chiến công
nghệ 5G giữa Mỹ và Trung Quốc đang đẩy ngay cả các đồng minh cũ của Mỹ vào
tay Trung Quốc, điều này có thể làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc của các quốc gia
này đối với Trung Quốc, khiến các hợp tác như huấn luyện chung với Mỹ cũng trở
nên khó khăn [Tobin, 2019].
Đối với Nhật Bản, quan hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia ngày càng phát
triển khiến Nhật Bản mất vị thế là đối tác thương mại lớn nhất của Indonesia trong
thời gian dài trước đó. Do vậy, Nhật Bản luôn muốn tìm cách khôi phục quan hệ
hợp tác vốn có với Indonesia bằng cách tăng cường hợp tác kinh tế, đầu tư, viện trợ
phát triển chính thức (ODA) cho Indonesia. Từ năm 2010-2015, tổng số vốn FDI
của Nhật Bản đầu tư vào Indonesia tăng nhanh, đạt 14,9 tỉ USD [Lie, Masengi,
2017]. Ngoài ra, Nhật Bản muốn đẩy mạnh hợp tác kinh tế với Indonesia do eo biển
138
Malacca có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp vận chuyển hàng trăm tỉ USD hàng hóa
mỗi năm cho nước này. Indonesia đã đặt mục tiêu chọn Nhật Bản thay vì Trung
Quốc, là đối tác trong việc xây dựng tuyến đường sắt trị giá hàng tỷ đô la nối liền
Jakarta với Surabaya, đây là dự án cơ sở hạ tầng lớn thứ hai của Indonesia trên Java,
hòn đảo đông dân nhất Đông Nam Á. Theo Alvin Camba - nhà nghiên cứu đầu tư
của Trung Quốc vào châu Á-Thái Bình Dương – cho rằng, cần xem xét tổng thể các
dự án đầu tư trong cả một giai đoạn dài, và khẳng định “Nhật Bản đã là nhà đầu tư
lớn nhất của Đông Nam Á từ những năm 1980, thay thế cho Mỹ và nhiều cường
quốc thuộc địa trước đây. Rất nhiều người cho rằng Trung Quốc là một vấn đề lớn,
nhưng Nhật Bản không bao giờ biến mất, và nó luôn có ảnh hưởng đáng kể trong
kinh doanh và chính trị” [Yuniar, 2019]. Tại Indonesia, những năm gần đây, đầu tư
của Trung Quốc đã nhanh chóng đuổi kịp đầu tư của Nhật Bản: Bắc Kinh đã đầu tư
2,4 tỷ USD vào Indonesia trong năm ngoái, và đến quý II năm nay, con số này đã đạt 2,3 tỷ USD [Yuniar, 2019]. Bên cạnh đó, mặc dù Nhật Bản đã cung cấp nguồn
vốn đầu tư có lợi trong một thời gian dài, tuy nhiên, gần đây, nhiều quan điểm lo
ngại về khả năng Nhật Bản tiếp tục trong vai trò tích cực và tin cậy như trước đây.
Ngoài ra, hiện nay, các đối tác kinh tế của Đông Nam Á đã đa dạng hơn rất nhiều,
bao gồm cả châu Âu, Trung Quốc, Mỹ, Úc, New Zealand. Trong khi Indonesia cũng
bắt đầu cho rằng Nhật Bản có nhiều chính sách bảo vệ cho nền nông nghiệp của
mình, do đó, việc chuyển giao công nghệ bị hạn chế, và lao động nước ngoài trong
ngành nông nghiệp cũng bị giới hạn. Trước tình hình đó, việc tăng cường quan hệ
kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia đã gia tăng sức ép đối với Nhật Bản, buộc
Nhật Bản phải có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm hấp dẫn Indonesia
trong các hợp tác về kinh tế trong tương lai.
Đối với Ấn Độ, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia đông dân thứ hai thế giới và
quốc gia đông dân thứ tư thế giới (Indonesia) có thể đạt được mục tiêu “cùng có
lợi”. Lợi ích kinh tế ngày càng tăng trong hợp tác giữa hai nước cung cấp một nền
tảng vững chắc cho hợp tác trong lĩnh vực hàng hải. Cả hai quốc gia đều là những
thực thể hàng hải lớn, và đều muốn bảo vệ môi trường hàng hải ổn định. Trong khi
139
Tổng thống Indonesia Jokowi tìm cách xây dựng Indonesia thành một cường quốc
hàng hải thông qua chiến lược Trục hàng hải toàn cầu, thì Phó Tổng thống Modi đã
nêu rõ tầm nhìn chiến lược của mình là SAGAR (Security and Growth for all in the
Region: An ninh và tăng trưởng cho tất cả trong khu vực). Tháng 5/2018, Modi và
Jokowi đã công bố “Tầm nhìn chung của Ấn Độ và Indonesia về Hợp tác hàng hải
trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, trong đó nêu rõ các mục tiêu
chung để cải thiện kết nối hàng hải giữa các quần đảo Andaman, Nicobar và
Sumatra, và vấn đề phát triển tài nguyên biển của cả hai nước. Cam kết này cũng
nhấn mạnh thỏa thuận chung của hai nước trong việc tăng cường cấu trúc an ninh
hiện có trong các cơ chế ASEAN, và thực hiện các biện pháp cụ thể để thúc đẩy hòa
bình và an ninh trong khu vực, như thực hiện các cuộc tập trận hải quân song
phương thường xuyên [Chaturvedy, Ng, 2019]. Có thể nói, sự thừa nhận lẫn nhau
về lợi ích và thách thức chung trong lĩnh vực hàng hải đã đóng vai trò quan trọng
trong việc đưa hai nước xích lại gần nhau hơn. Cả hai nước có chung nhiều mối
quan tâm, từ sự phát triển của kinh tế hàng hải, đến các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống mới nổi, và đều đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của Trung Quốc, và
sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và Ấn Độ Dương.
Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, đặc biệt là việc
tăng cường mức độ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, và những tồn tại trên Biển Đông
cũng tác động nhiều đến chính sách của Ấn Độ. Cụ thể, những tiến triển trong quan
hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia sẽ tạo sức ép đối với Ấn Độ, buộc nước này phải
tìm ra những điểm tăng trưởng riêng biệt trong quan hệ kinh tế với Indonesia. Mặt
khác, những tồn tại trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên biển Đông sẽ là cơ
hội để Ấn Độ tăng cường hợp tác với Indonesia trong lĩnh vực hàng hải, khai thác
tiềm năng kinh tế hàng hải giữa hai nước như đã phân tích ở trên. Lịch sử 70 năm
quan hệ Ấn Độ - Indonesia đã cho thấy, sự tương đồng về lịch sử và thiện chí hợp
tác là cần thiết, nhưng không đủ điều kiện cho một mối quan hệ hữu ích. Một cam
kết về hợp tác kinh tế và một chiến lược có mục đích, cùng việc thực hiện kịp thời
theo các khuôn khổ đã thỏa thuận sẽ tạo nền tảng thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo
140
của mối quan hệ này [Chaturvedy, Ng, 2019].
Đối với Australia, cũng giống như Ấn Độ, Indonesia và Australia cũng chia
sẻ mối quan tâm chung về các vấn đề như an ninh hàng hải, thương mại, an ninh
mạng, các giá trị dân chủ và nền kinh tế cởi mở. Sự gần gũi về địa lý giữa
Australia và Indonesia đòi hỏi Australia phải liên tục theo dõi quốc gia láng giềng
của mình. Australia cần ngăn cản Indonesia theo đuổi các chính sách thù địch đe
dọa trực tiếp đến Canberra, ngoài ra, cần ngăn không để quốc gia quần đảo này trở
thành căn cứ tiền phương cho các cường quốc bên ngoài khu vực tấn công hoặc đe
dọa đến Australia. Bất kỳ mối đe dọa nào đối với Australia thường sẽ xâm nhập
trước tiên từ, hoặc qua Indonesia. Đồng thời, bất kỳ thất bại nào của Jakarta trong
nỗ lực duy trì quyền tự trị lãnh thổ trên biển sẽ cho phép các cường quốc bên
ngoài có thể tiếp cận phía Bắc của Australia. Chính vị trí chiến lược của Indonesia
đã thúc đẩy Australia triển khai các hợp tác về an ninh chiến lược với Indonesia.
Mặt khác, lợi ích chung của hai nước trong việc giải quyết chủ nghĩa Islam cực
đoan và thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương khiến Indonesia trở thành đối tác
chiến lược quan trọng của Australia.
Việc Trung Quốc gia tăng quan hệ với Indonsia, đồng thời cũng đem đến cho
Indonesia nhiều thách thức trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên biển cũng như mức
độ Indonesia phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc ngày càng tăng, sẽ vừa là cơ hội
vừa là thách thức đối với Australia. Những điểm tồn tại khó khăn trong hợp tác
Trung Quốc – Indonesia sẽ là cơ hội để Australia tăng cường hợp tác, nhằm bảo vệ
lợi ích an ninh chung của Australia và Indonesia tại khu vực biển mà Trung Quốc
đang gia tăng sức ép. Tuy nhiên, hợp tác song phương giữa hai nước sẽ bị hạn chế
do thiếu cách tiếp cận chiến lược chung. Tuy nhiên, khác với ứng xử của Australia
đối với Trung Quốc, Indonesia không sẵn sàng hỗ trợ Washington và đối đầu với
Bắc Kinh, do những cân nhắc về lợi ích có được từ quan hệ kinh tế với Bắc Kinh.
Do đó, Indonesia vẫn sẽ là một đối tác chiến lược hạn chế đối với Australia trong
những năm tới, do chưa có sự thống nhất về quan điểm chiến lược của hai bên. Việc
Trung Quốc kéo Indonesia lại gần phía mình thông qua các dự án đầu tư vào cơ sở
141
hạ tầng sẽ gia tăng sức ép lên chính sách của Australia đối với Indonesia. Australia
vẫn luôn cần theo dõi sát sao từng động thái của người láng giềng Indonesia trong
quan hệ với Trung Quốc, đồng thời đưa ra những điều chỉnh chiến lược thích hợp,
nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình tại khu vực cũng như tại Indonesia [Chai,
2018].
Tóm lại, trọng tâm địa chính trị hiện đang chuyển sang Ấn Độ-Thái Bình
Dương từ Bắc Thái Bình Dương. Nhiều quốc gia ở châu Á hiện đang đồng thời
củng cố, chuyển các mục tiêu địa chính trị. Trong bối cảnh này, hợp tác giữa các
quốc gia có lợi ích hội tụ vẫn là một chiến lược hợp lý trong ngoại giao [Flugge,
2018]. Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia không chỉ tác
động đến khu vực, góp phần thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN nói chung,
đồng thời cũng làm gia tăng sự can dự của Trung Quốc đối với ASEAN thông qua
các thành viên, từ đó làm ảnh hưởng đối với đoàn kết nội bộ của ASEAN. Những
chuyển biến trong mối quan hệ quan trọng này cũng tác động đến các cường quốc
khác, như Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Australia, gia tăng sức ép lên chiến lược của các cường
quốc này tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhằm cạnh tranh ảnh hưởng, đồng
thời thực hiện các chiến lược phát triển quốc gia của riêng minh.
4.2.3. Tác động đến Việt Nam
Đầu tiên, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có tác
động đến Việt Nam trước hết trong vấn đề Biển Đông. Khi được hỏi về vai trò của
Indonesia trong việc giải quyết các tranh chấp trong khu vực, ví dụ như giữa Việt
Nam và Trung Quốc, giữa Philippines và Trung Quốc, Bộ trưởng Bộ Điều phối
Hàng hải Indonesia là Luhut B. Pandjaitan khẳng định: lập trường và vai trò của
Indonesia là rõ ràng, Indonesia ủng hộ tự do hàng hải, và không muốn bất kỳ sự
cạnh tranh quyền lực nào diễn ra trong khu vực. Indonesia khẳng định rằng nước
này không là một bên tranh chấp về lãnh thổ trong khu vực Biển Đông [Saat, Negara, 2019, tr.5].
Suốt nhiều thập niên, Indonesia đã luôn khẳng định “không là bên tranh
chấp” trong các tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc. Indonesia
142
đã đóng vai trò trung gian hòa giải, thúc đẩy việc quản lý tranh chấp bằng con
đường hòa bình, thông qua các cơ chế ASEAN. Một trong những đóng góp lớn nhất
của Indonesia trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông chính là chính sách
ngoại giao con thoi mà nước này đã sử dụng, nhằm giúp ASEAN đưa ra được
Tuyên bố chung gồm 6 điểm liên quan đến vấn đề Biển Đông, sau khi Hội nghị Bộ
trưởng các nước ASEAN không đưa ra được tuyên bố chung vào năm 2012 khi
Campuchia là nước Chủ tịch ASEAN. Tuy nhiên, việc Indonesia đặt lại tên biển
xung quanh quần đảo Natuna là Biển Bắc Natuna vào năm 2017 sau khi tăng cường
quân sự tại khu vực này từ năm 2016, đã góp thêm một nhân tố mới trong tranh
chấp Biển Đông. Dù việc đặt lại tên biển có thể không chủ đích gây ra tranh chấp
với Trung Quốc, và “nền tảng pháp lý quốc tế đối với bản đồ mới của Indonesia là
rõ ràng”; Indonesia đang hành động dựa trên chủ nghĩa hợp pháp, trái với tuyên bố
không căn cứ của Trung Quốc khi cho rằng họ có “quyền đánh bắt truyền thống” tại
vùng biển này [Cochrane, 2017]. Thái độ ngày càng cứng rắn hơn của Indonesia
trong vấn đề Biển Đông nếu tiếp tục được duy trì, có thể sẽ tạo thêm sức mạnh cho
các nước hiện đang có tranh chấp lãnh thổ trên biển với Trung Quốc, trong đó có
Việt Nam. Cho dù Indonesia không lên tiếng chính thức ủng hộ Việt Nam, hay bất
kỳ quốc gia nào có tranh chấp trên biển với Trung Quốc, thì việc Indonesia đặt lại
tên biển cũng cho thấy một ví dụ về cách tiếp cận theo hướng xây dựng nền tảng
pháp lý cho các yêu sách về chủ quyền của các bên yếu hơn trong tương quan sức
mạnh với Trung Quốc.
Tuy nhiên, quan hệ kinh tế ngày càng gắn bó hơn giữa Trung Quốc và
Indonesia cũng khiến Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN có tranh chấp chủ
quyền trên biển khác chịu nhiều áp lực hơn. Các nước này có những lo ngại về việc
Trung Quốc hứa hẹn các khoản đầu tư lớn về kinh tế để đổi lấy các lợi thế trong
lĩnh vực chính trị và an ninh với các nước có tiếng nói trong ASEAN, trong đó có
Indonesia, Malaysia… Những lo ngại này là hoàn toàn có cơ sở, khi truyền thống
ngoại giao của Indonesia là “tự do và tích cực” (free and active) và “thực dụng” (pragmatic) [Effendi, 2019].1 Khi quan hệ hợp tác có lợi cho đất nước, đặc biệt
1 Tác giả phỏng vấn học giả Tonny Dian Effendi ngày 7/12/2019 tại Đài Loan.
143
trong lĩnh vực kinh tế, Indonesia có thể sẽ giảm bớt việc chỉ trích Trung Quốc trong
vấn đề Biển Đông. Điều này cũng đã được chứng minh trong thực tế, khi Indonesia
thường có mức độ phản ứng thấp hơn mức mong đợi trước các vấn đề mang tính
xung đột, như phản ứng của Indonesia trước việc Trung Quốc xây dựng và cải tạo trên các đảo đang có tranh chấp ở Biển Đông [Nguyễn Minh Ngọc, 2019]. 1 Bên
cạnh đó, là một trong những thành viên chủ chốt của ASEAN, việc Indonesia có thể
ít gay gắt hơn trong các tranh chấp trên biển có thể khiến ASEAN giảm bớt mức độ
gây sức ép đối với Trung Quốc về Biển Đông. Điều này sẽ khiến Việt Nam mất chỗ
dựa trong ASEAN, và trở nên đơn độc hơn trong việc giải quyết tranh chấp trên
biển trong một mối quan hệ bất đối xứng.
Thứ hai, những chuyển biến trong chính sách của Indonesia trong quan hệ
với Trung Quốc cũng gợi mở cho Việt Nam những ví dụ về cách thức quản lý mối
quan hệ bất đối xứng với Trung Quốc. Có thể nhận diện chính sách đối ngoại của
Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc từ sau năm 2005 là chính sách “phòng ngừa
rủi ro” (hedging). Đối chiếu với quan điểm của học giả Kuik Cheng-Chew (2008)
cho rằng Indonesia áp dụng một phần chính sách Ràng buộc – Can dự với Trung
Quốc, trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, chính sách Ràng buộc – Can dự
cũng được Indonesia áp dụng một cách đầy đủ, với việc ký kết nâng cấp quan hệ
hai nước lên thành đối tác chiến lược toàn diện, và với các văn bản tuyên bố
chung cam kết tăng cường hợp tác trong các cuộc trao đổi giữa lãnh đạo cấp cao
hai nước. Đây cũng chính là chuyển biến trong lựa chọn chính sách của Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc trước và sau năm 2013.2 Chuyển biến
này cũng cho thấy rằng, Indonesia đang dần dần tiến về phía chấp nhận quyền
lực trong quan hệ với Trung Quốc (Xem Bảng 4.3). Sở dĩ có chuyển biến này là
bởi sự thay đổi của các nhân tố tác động đến quan hệ Trung Quốc – Indonesia.
1 Tác giả phỏng vấn học giả Nguyễn Minh Ngọc ngày 7/12/2019 tại Đài Loan. 2 Điều này cũng được học giả Kuik xác nhận lại khi trả lời phỏng vấn vào ngày 5/12/2019 tại Đài Loan.
144
Bảng 4.3. Chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc
Giai đoạn Chiến
Chiến lượ “ òn bị nướ đôi”
Chiến
lược
lược
Lựa chọn phòng ngừa
Lựa chọn tối đa hóa trở lại
cân
“ ù
rủi ro
bằng
thịn ”
Cân bằng
Từ chối sự
Thực
Ràng
“Phù
(thuần
(thuần
gián tiếp
thống trị
dụng
buộc –
thịnh” có
túy)
túy)
kinh tế
Can dự
giới hạn
2005-2013
2013- nay
Mứ độ từ chối quyền lực Điểm trung lập Mứ độ chấp nhận quyền lực
Vận dụng đầy đủ Vận dụng một phần
Nguồn: Tác giả chế tác dựa trên nghiên cứu của Kuik Cheng-Chew (2008)
Tuy nhiên, trước sự leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Indonesia
trong vùng biển xung quanh quần đảo Natuna cuối tháng 12/2019, Indonesia đã có
những phản ứng gay gắt, bao gồm việc huy động lực lượng quân sự, đích thân Tổng
thống Jokowi tới chỉ đạo và họp tại khu vực có sự chồng lấn lãnh thổ, cùng việc
tăng cường hợp tác về quốc phòng với các nước khác trong khu vực, mời Nhật Bản
đầu tư vào khu vực đang có sự chồng lấn trong phân định lãnh thổ... Những biện
pháp này là biểu hiện của chính sách cân bằng gián tiếp, Indonesia đã tiến về phía
“từ chối quyền lực” trong vấn đề xung đột trên biển này. Điều này cho thấy “ranh
giới đỏ” của Indonesia trong việc sử dụng một loạt các biện pháp cứng rắn đối với
các vấn đề trên biển trong quản lý quan hệ với Trung Quốc.
Như vậy, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có những
tác động nhất định đối với Việt Nam, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua
ASEAN. Ngoài ra, những chuyển biến trong cách ứng xử của Indonesia đối với
Trung Quốc cũng đưa ra cho Việt Nam một ví dụ sống động về cách thức Indonesia
quản lý mối quan hệ bất đối xứng với Trung Quốc. Dù tình hình và vị thế của Việt
145
Nam và Indonesia là khác nhau, nhưng cách xử lý mối quan hệ của Indonesia với
Trung Quốc luôn được đánh giá là thông minh, đã góp phần tạo nên sức mạnh ngoại
giao của Indonesia. Do đó, những thay đổi trong cách ứng phó của Indonesia cũng có
thể gợi mở cho Việt Nam một số “quy tắc ứng xử” trong quan hệ với Trung Quốc.
4.3. Thuận lợi, thách thức và xu thế quan hệ ai nước
Trung Quốc và Indonesia đều đang trong giai đoạn quan trọng của chiến lược
phát triển của mỗi nước. Trong bối cảnh mới, quan hệ hai nước đang đối mặt với nhiều
nhân tố khách quan và chủ quan, tạo ra không chỉ thuận lợi mà còn nhiều thách thức
đối với việc phát triển quan hệ trong thời gian tới. Phân tích những thuận lợi và thách
thức trong quan hệ hai nước có thể góp phần dự báo xu thế quan hệ hai nước trong
tương lai gần.
4.3.1. Những thuận lợi trong quan hệ hai nước
Xét về các nhân tố quốc tế và khu vực, kinh tế thế giới đang ấm dần trở lại
sau một thời gian liên tục đi xuống. Các nền kinh tế phát triển đứng đầu là Mỹ đã
bắt đầu phục hồi, kinh tế Trung Quốc có điều kiện hạ cánh mềm. Xuất khẩu hàng
hóa của các quốc gia đang phát triển dự báo tăng lên, giá cả có xu hướng ổn định,
áp lực lạm phát giảm xuống. Theo dự báo của Liên hợp quốc, tại các nước thuộc
khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc và Indonesia, tốc độ tăng trưởng kinh tế
đang phát triển nhanh, do nhu cầu trong nước tăng mạnh và áp dụng kịp thời các
chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phục hồi,
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc ổn định ở mức hơn 6%, của Indonesia ở mức 5%,
đều tương đối cao so với mức 2% của thế giới. Hai nước nên tận dụng thời cơ này
để thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương phát triển hơn nữa [邱岳,
2017, tr.24]. Bên cạnh đó, hợp tác Trung Quốc – ASEAN cũng tạo tiền đề cho
phát triển quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia. Về hợp tác kinh tế, sau
25 năm phát triển, kim ngạch thương mại song thương từ 8 tỷ USD tăng lên 472,2
tỷ USD, tăng gần 60 lần [Tạp chí Cộng sản, 2017]. Quá trình nhất thể hóa hợp tác
kinh tế khu vực giữa ASEAN và Trung Quốc không ngừng được đi sâu. Năm
2010, Khu Tự do thương mại Trung Quốc – ASEAN được thành lập trở thành khu
146
tự do thương mại lớn nhất giữa các quốc gia đang phát triển. Tháng 9/2014, Trung
Quốc và ASEAN đã tiến hành đàm phán nâng cấp Khu tự do thương mại này.
Trong quá trình không ngừng đi sâu hợp tác, Trung Quốc và Indonesia đều không
ngừng nhận được lợi ích từ hợp tác Trung Quốc – ASEAN, hợp tác thương mại
giữa hai nước cũng thúc đẩy sự phát triển của quan hệ Trung Quốc – ASEAN.
Xét quan hệ song phương hai nước, hợp tác giữa hai nước được triển khai
theo nhiều cơ chế và cấp độ khác nhau, ở cả cấp chính phủ cấp cao, chính quyền địa
phương và cấp dân gian. Ở cấp độ chính phủ cấp cao, quan hệ chính trị – ngoại giao
đã tạo môi trường thuận lợi và nền tảng vững chắc cho hợp tác kinh tế thương mại
giữa hai nước. Nguyên thủ hai nước liên tục có các chuyến thăm viếng lẫn nhau,
đồng thời ký kết Tuyên bố chung và các hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Các
Tuyên bố chung này đã xây dựng nên khung hợp tác, trong đó kinh tế thương mại là
một trục quan trọng trong “cỗ xe tam mã (chính trị an ninh, kinh tế thương mại, văn
hóa xã hội) của quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở
các phần trên, các chiến lược phát triển đất nước mà hai quốc gia này đang thúc
đẩy, tức BRI của Trung Quốc và Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia
có nhiều điểm tương đồng về thời đoạn cũng như địa bàn triển khai. Tất cả những
điều này đã tạo môi trường thuận lợi để Trung Quốc và Indonesia thúc đẩy quan hệ
song phương, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế thương mại.
Ở cấp độ dân gian, vai t của người oa Indonesia là một nhân tố quan
trọng góp phần thúc đẩy hợp tác giữa hai nước. 30 năm trở lại đây, người Hoa ở
Indonesia đã mở rộng phạm vi kinh doanh trên đất nước Indonesia, từ ngành trồng
trọt và thương nghiệp dần dần phát triển hướng sang công nghiệp, tài chính, du lịch
và dịch vụ... Dưới Chính quyền Tổng thống Jokowi, thành phần kinh tế người Hoa
tại Indonesia càng có nhiều cơ hội phát triển hơn, do Jokowi giữ vững lập trường
“không thiên vị, không kỳ thị, đối xử công bằng“ với các tộc người thiểu số. Cũng
trong giai đoạn này, Indonesia có vị Chủ tịch thành phố đầu tiên là người Hoa
(Basuki Tjahaja Purnama). Người Hoa ở Indonesia không những có vai trò thúc đẩy
nền kinh tế Indonesia, mà còn là cầu nối quan trọng trong quan hệ giữa Trung Quốc
147
và Indonesia, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập tại địa phương của các doanh
nghiệp Trung Quốc đến đầu tư tại Indonesia. Ngược lại, với các chính sách mở cửa
của Indonesia, người Hoa Indonesia lại quay trở lại đầu tư vào Trung Quốc, góp
phần củng cố và quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước [潘玥, 2016, tr.77-78].
Một mặt, người Hoa Indonesia tích cực xây dựng môi trường thuận lợi cho giao lưu
thương mại giữa hai nước. Hiệp hội thương nhân người Hoa Indonesia đã tổ chức
các buổi tọa đàm về luật, nhằm tăng cường ý thức của nhà đầu tư về các kiến thức
pháp luật liên quan đến Trung Quốc và Indonesia. Khi có những thông tin gây ảnh
hưởng xấu đến quan hệ hai nước, Hiệp hội thương nhân người Hoa Indonesia cũng
tổ chức các buổi tọa đàm nhằm thảo luận tìm cách giải quyết những vấn đề vướng
mắc trong thương mại hai bên. Mặt khác, người Hoa Indonesia còn tổ chức các buổi
triển lãm, hội chợ tại Trung Quốc, tích cực thúc đẩy doanh nghiệp Indonesia bao
gồm các doanh nghiệp người Hoa Indonesia mở rộng thị trường Trung Quốc, nâng
cao tầm ảnh hưởng của hàng hóa Indonesia tại Trung Quốc, đồng thời tăng cường
hiểu biết của chính phủ và các doanh nghiệp Trung Quốc đối với sự phát triển
doanh nghiệp và chính sách đầu tư tại Indonesia, dẫn dắt các nhà đầu tư Trung
Quốc đến Indonesia đầu tư. Không chỉ thế, người Hoa Indonesia cũng góp phần tích
cực vào việc thúc đẩy giao lưu giữa các thương nhân hai nước [彭泳, 2016, tr.33-
35].
Xét các nhân tố bên trong, bước sang nhiệm kỳ tổng thống thứ hai (từ tháng
5/2019), ông Jokowi có xu hướng tiếp tục chính sách ngoại giao mềm dẻo và linh
hoạt của mình từ nhiệm kỳ trước, muốn tận dụng tối đa sự hiện diện của Indonesia
trên trường quốc tế vì lợi ích của người dân nước này, “kết quả là, ngoại giao kinh
tế, chẳng hạn như thương mại và đầu tư, sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn vào
mỗi dịp ngoại giao” [Saragih, 2014]. Một đặc điểm nổi bật là, trong nhiệm kỳ tổng
thống thứ hai, xử lý quan hệ với Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ
Jokowi, bởi dựa trên những kết quả hợp tác của nhiệm kỳ đầu, ông Jokowi có điều
kiện để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ với Trung Quốc, nhất là trong lĩnh vực
kinh tế. Theo đánh giá của chuyên gia quan hệ quốc tế Gilang Kembara “năng lực
148
kinh tế hiện tại không chỉ tập trung ở châu Á mà còn trên toàn thế giới, ông Jokowi
coi Indonesia là một phần liên kết chính giữa Trung Quốc, Indonesia với phần còn
lại của thế giới để phát triển chuỗi cung ứng toàn cầu” [America, 2019]. Điều này
cũng phù hợp với việc ông Jokowi mong muốn đẩy mạnh vai trò của Indonesia
trong chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay. Trong khi đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình cũng tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai từ cuối năm 2017, đồng thời, việc xóa bỏ chế
độ nhiệm kỳ của Chủ tịch nước trong Điều lệ Đảng có thể sẽ mở đường cho Tập
Cận Bình cầm quyền lâu hơn hai nhiệm kỳ. Điều này đảm bảo được tính nhất quán
và liên tục trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thời gian tới. Đặc biệt,
việc Trung Quốc thời gian gần đây không ngừng đề cao vai trò của Indonesia trong
các chiến lược phát triển của Trung Quốc, như BRI cho thấy ý muốn mạnh mẽ của
Trung Quốc trong việc tăng cường quan hệ với Indonesia trong tương lai.
Như vậy, có thể thấy, quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong giai đoạn
hiện nay gặp rất nhiều thuận lợi ở cả bối cảnh quốc tế và khu vực, được triển
khai trên nhiều cấp độ: cấp chính phủ, cấp địa phương và cấp nhân dân, đồng
thời, có được sự ủng hộ từ các chính sách của chính phủ Jokowi cũng như chính
phủ Tập Cận Bình.
4.3.2. Những thách thức trong quan hệ hai nước
Tuy nhiên, quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia cũng tiềm ẩn nhiều
nhân tố bất ổn, đến từ cả bên ngoài lẫn bên trong.
Xét các nhân tố thế giới và khu vực, sự phát triển trong quan hệ Trung
Quốc – Indonesia chịu nhiều ảnh hưởng từ quan hệ nước lớn, đặc biệt là xu hướng
quan hệ Trung – Mỹ. Sự ổn định của kết cấu hệ thống quốc tế phụ thuộc vào sự ổn
định tương đối của cục diện phân phối nguồn lực giữa các nước lớn chủ yếu. Từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay, sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến trật tự khu vực
Đông Á thay đổi rõ rệt. Sức mạnh quốc gia Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh
quân sự ngày càng mạnh hơn đã khiến chiến lược “Đi ra ngoài” có xu hướng ngày
càng rõ rệt. Cùng với việc đi sâu thúc đẩy chiến lược “Vành đai và Con đường” và
Kế hoạch “Kết nối liên thông”, những lo ngại của các quốc gia vừa và nhỏ về tính
149
không xác định trong ý đồ chiến lược của Trung Quốc ngày càng tăng cao. Do đó,
“cuộc tấn công quyến rũ” của Trung Quốc đối với các quốc gia vừa và nhỏ trên cơ
sở tư tưởng “giấu mình chờ thời” đã không còn phát huy tác dụng tích cực như
trước. Cùng với đó, để đảm bảo địa vị bá quyền của mình, Mỹ có xu hướng quân
sự hóa chiến lược “Tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương”. Trong bối cảnh đó,
áp lực đối với các quốc gia vừa và nhỏ trong việc cân bằng ảnh hưởng các nước
lớn trở nên ngày càng nặng nề hơn. Là một nước lớn cũng đang trỗi dậy nhanh
chóng trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia tuy nhận được không ít lợi ích từ
hợp tác kinh tế với Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng phải chịu không ít áp lực
cạnh tranh từ Trung Quốc. Một khi những lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc
tăng lên, nước này rất có thể sẽ sử dụng chiến lược cân bằng giữa các nước lớn.
Ngoài ra, cuộc chiến tranh thương mại Trung – Mỹ cũng đã đặt ra nhiều thách
thức đối với nền kinh tế Indonesia. Về lâu dài, cuộc chiến thương mại này sẽ gây
nhiều tác động tiêu cực đối với Indonesia. Nếu đồng đô la Mỹ biến động đáng kể,
nền kinh tế Indonesia sẽ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên, cuộc chiến
thương mại Mỹ - Trung cũng có thể đem lại lợi ích cho nền kinh tế Indonesia thông
qua các khoản đầu tư “tái định cư” và mở rộng các nhà máy từ Trung Quốc sang
Indonesia. Báo cáo của Văn phòng nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO)
công bố vào tháng 5 cho thấy khu vực Đông Nam Á đã trở thành điểm đến chính
cho việc di dời đầu tư từ Trung Quốc. Indonesia có thể được hưởng lợi từ cuộc
chiến thương mại nếu như nước này cải thiện được năng suất lao động và tạo môi
trường đầu tư thuận lợi để thu hút nhiều nhà đầu tư hơn [Maruti, 2019]. Tuy nhiên,
từ cuối năm 2019, đầu năm 2020 đến nay, cạnh tranh chiến lược và căng thẳng giữa
Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên gay gắt hơn, với mâu thuẫn trong hàng loạt
vấn đề, như vấn đề Hồng Kông, Tân Cương, hay do bất đồng về cách thức ứng phó
với bệnh dịch Covid-19 của hai nước. Trước tình hình đầy biến động như vậy, chắc
chắn Indonesia sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa trong việc giữ thế cân bằng giữa
hai cường quốc này, quan hệ Trung Quốc – Indonesia sẽ bị chi phối nhiều bởi cạnh
tranh chiến lược Trung – Mỹ.
150
Ở góc độ khu vực, vấn đề tranh chấp trên biển là một trở ngại quan trọng
trong phát triển quan hệ giữa hai nước. Dù không có tranh chấp trực tiếp trên
Biển Đông, nhưng những năm gần đây, thái độ của Indonesia với các vấn đề trên
biển ngày càng trở nên cứng rắn hơn, đặc biệt là việc đặt lại tên vùng biển chồng
lấn trong quan niệm của hai nước thành Biển Bắc Natuna. Đứng trước những
tranh chấp gay gắt giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, là một quốc gia có
tiếng nói trong ASEAN, Indonesia cũng cần đặt quan hệ với Trung Quốc và quan
hệ với ASEAN lên bàn cân, để có thể hài hòa giữa lợi ích kinh tế và việc duy trì
địa vị trong ASEAN. Việc Ngoại trưởng Indonesia là Retno Marsudi vẫn luôn
khẳng định “Indonesia không có yêu sách chồng chéo với Trung Quốc” đã phản
ánh quyết tâm của Jakarta trong việc tách biệt tranh chấp song phương trên Biển
Bắc Natuna khỏi vấn đế đa phương trên biển Đông [Massola, Rosa, 2020]. Việc
tồn tại tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc với một số quốc gia ASEAN nói
chung, và việc Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động bành trướng trên biển nói riêng
vẫn sẽ trở thành rào cản lớn đối với hợp tác kinh tế khi các bất đồng không được
quản lý hiệu quả.
Xét quan hệ song phương hai nước, một số vấn đề như Trung Quốc để lại
ấn tượng xấu trong đầu tư, hay vấn đề người lao động Trung Quốc tại Indonesia,
hay tình cảm chống lại tư tưởng cộng sản... cũng là những vật cản tiềm ẩn đối với
hợp tác kinh tế hai nước. Từ năm 2005 đến 2014, chỉ có 7% các dự án mà Trung
Quốc hứa hẹn được tiến hành, trong khi con số này của Nhật là 62%. Trong
khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2015, Bộ Điều phối đầu tư
Indonesia BKPM ghi nhận được tổng lượng có khả năng đầu tư của Trung Quốc
vào Indonesia là 83,2 tỷ USD, trong số đó chỉ có 4,6 tỷ USD dự án đầu tư là “có
vẻ nghiêm túc”, khi các nhà đầu tư đã đến khảo sát và sẵn sàng làm thủ tục xin cấp
giấy phép đầu tư [Chilkoti, 2015]. Bên cạnh đó, lao động người Trung Quốc đã và
đang trở thành vấn đề nổi cộm trong xã hội Indonesia hiện nay. Những lo ngại về
sự cạnh tranh việc làm, về hiệu quả đầu tư hay về vấn đề an ninh đã góp phần tạo
nên tình cảm chống Trung Quốc trong một bộ phận người dân Indonesia. Theo
151
một cuộc khảo sát của Viện Khảo sát Indonesia (Indonesia Survey Institute) công
bố vào tháng 1/2020, mặc dù ngày càng nhiều người Indonesia tin rằng Trung
Quốc là quốc gia có ảnh hưởng nhất ở châu Á (39% năm 2019 so với 19% năm
2011), nhưng nhận thức này cũng đi kèm với tâm lý tiêu cực đang tăng lên gấp đôi
so với cuộc khảo sát năm 2011 [Nirmala, 2020]. Kết quả khảo sát trên phần nào
cho thấy, tâm lý tiêu cực đối với Trung Quốc của nhiều người dân Indonesia chắc
chắn vẫn sẽ là trở ngại lớn đối với quan hệ hai nước trong thời gian tới.
Không chỉ vậy, sự leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Indonesia sau
sự kiện cuối tháng 12/2019 cùng những phản ứng gay gắt của Indonesia trước sự
bành trướng của Trung Quốc cho thấy, dù không công nhận có tranh chấp trên
biển, nhưng đây vẫn sẽ là rào cản lớn đối với việc phát triển quan hệ giữa Jakarta
và Bắc Kinh. Bên cạnh đó, do hậu quả của dịch bệnh Covid-19, kinh tế Trung
Quốc và Indonesia cũng không thể đứng ngoài xu thế suy thoái của kinh tế thế
giới, do nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, và nhiều nước phải thực hiện phong
tỏa để ngăn chặn sự lây lan của virus. Nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng của
Trung Quốc tại Indonesia vốn đang được hai bên thúc đẩy mạnh mẽ, đã bị trì
hoãn do công nhân Trung Quốc không thể quay lại Indonesia tiếp tục công việc.
Không chỉ vậy, hình ảnh Trung Quốc trên trường quốc tế cũng bị sụt giảm do bỏ
lỡ giai đoạn đầu kiểm soát và khống chế dịch bệnh. Khi dịch Covid-19 bùng phát
tại Trung Quốc vào đầu năm 2020, nhiều người dân Indonesia cho rằng
Indonesia sẽ sớm bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, và do đó, một số người đã sử dùng
thuật ngữ “virus Trung Quốc” khi đề cập đến Covid-19. Tuy vậy, có thể khẳng
định rằng, sau khi thế giới và khu vực kiểm soát được dịch bệnh, quan hệ Trung
Quốc – Indonesia vẫn sẽ tiếp tục được tăng cường, “Indonesia sẽ cần đầu tư của
Trung Quốc hơn bao giờ hết” [Rakhmat, 2020] để khôi phục kinh tế, bởi Trung
Quốc là nhà đầu tư hàng đầu và điểm đến xuất khẩu hàng đầu của nước này.
Hiện tại, những gì Trung Quốc viện trợ cho Indonesia để ngăn chặn sự bùng phát
của dịch bệnh Covid-19 đang được đánh giá cao, tuy nhiên, Trung Quốc vẫn cần
tiếp tục chiến lược xây dựng sức mạnh mềm và xây dựng hình ảnh quốc gia tại
152
khu vực Đông Nam Á, cũng như tại quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này, như vậy
mới có thể tăng cường hiểu biết, giảm thiểu trở ngại trong quan hệ hai nước.
Xét các nhân tố trong nội bộ Indonesia, sự phân hóa trong nội bộ Chính
phủ Indonesia dẫn đến sự thiếu thống nhất trong các chính sách đối ngoại của
nước này. Nếu như Tổng thống Jokowi chủ trương đẩy mạnh hợp tác kinh tế với
Trung Quốc do ưu tiên đặt các lợi ích về kinh tế lên hàng đầu, Bộ Ngoại giao ưu
tiên duy trì và đẩy mạnh quan hệ với Trung Quốc vì nước này có vai trò quan
trọng trong nhiều tổ chức thế giới và khu vực; thì các bộ ngành khác như Bộ
Thủy sản và hàng hải, hải quân và quân đội Indonesia lại chủ trương cần thận
trọng trong quan hệ với Trung Quốc, thậm chí có những chính sách khá cứng rắn
với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. Ví dụ, chính sách “đánh chìm tàu” của
Bộ Thủy sản và hàng hải cho phép làm nổ các tàu đánh cá bất hợp pháp trong
khu vực biển của nước này, trong đó có các tàu cá Trung Quốc. Ngoài ra, theo số
liệu từ Diễn đàn kinh tế thế giới, các nhân tố như tham nhũng, hiệu quả hành
chính thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, chính sách không ổn định là những những
nhân tố chính gây ảnh hưởng đến nền kinh tế Indonesia [邱岳, 2017, tr.37-39].
Những vấn đề như đầu tư có nhiều hạn chế, hiệu quả hành chính thấp, hệ thống
Bên cạnh đó, tâm lý bài Hoa trong xã hội Indonesia là một tác nhân cản trở
pháp luật chưa hoàn thiện... đã hạn chế sức hấp dẫn đầu tư của Indonesia.
hai nước đi sâu phát triển quan hệ giữa người dân với người dân (P2P). Dù sự kiện
đảo chính bất thành của ĐCS Indonesia năm 1965 đã diễn ra cách đây hơn 50 năm,
nhưng những ảnh hưởng sâu sắc của nó đối với xã hội Indonesia, cùng với chính
sách kìm nén sự phát triển đối với cộng đồng người Hoa thiểu số và văn hóa Trung
Hoa trong suốt 30 năm Suharto cầm quyền vẫn còn tác động đến đời sống xã hội
Indonesia ngày nay. Thậm chí, một nhóm các tướng trong quân đội Indonesia hiện
nay vẫn còn nghi ngờ về mối đe dọa của hệ tư tưởng cộng sản Trung Quốc tại
Indonesia. Sự nổi lên gần đây của những vụ việc như quân đội bắt giữ các thanh niên
mặc áo màu đỏ có in hình búa và liềm trong cốc cà phê, hay việc tịch thu sách về chủ
nghĩa cộng sản là minh chứng cho những lo lắng này [Fabi, Kapoor, 2016]. Tương tự,
153
dù cuộc bạo loạn tháng 5/1998 đã xảy ra cách đây hơn 20 năm, nhưng người dân
Indonesia vẫn chưa quên được những mâu thuẫn giữa người Indonesia bản địa với
người Hoa thiểu số tại Indonesia vốn đã tồn tại từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả những
vết tích lịch sử này đã góp phần khiến vấn đề người Hoa thiểu số cũng như tâm lý
bài Hoa của người Indonesia vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Trong khi đó, về phía Trung Quốc, nước này cũng đang ngày càng gia tăng
ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á, với những yêu sách và hành động ngày càng
cứng rắn hơn trên Biển Đông. Điều này góp phần làm xấu đi hình ảnh một nước
Trung Quốc xây dựng và bảo vệ hòa bình và ổn định tại khu vực, gây ảnh hưởng
tiêu cực đến quan hệ giữa Trung Quốc với một số quốc gia ASEAN có tuyên bố
tranh chấp chủ quyền hoặc chồng lấn về vùng lãnh thổ trên biển.
Như vậy, có thể thấy, bên cạnh những thuận lợi, quan hệ Trung Quốc –
Indonesia cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức đến từ quốc tế và khu vực, như
cạnh tranh Trung – Mỹ, tranh chấp trên biển; đến từ các vấn đề tồn tại trong quan hệ,
như tỷ lệ thực hiện đầu tư thấp, vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia; cũng như
sự thiếu nhất quán trong chính sách Trung Quốc do sự phân hóa trong chính phủ
Indonesia. Điều quan trọng là hai nước cần chọn được cách tiếp cận có thể tận dụng
được những thuận lợi về thời cơ chiến lược, để cùng phát triển, cùng hưởng thành quả
phát triển, cùng phát huy được vai trò tích cực trong khu vực và trên thế giới.
4.3.3. Xu thế quan hệ hai nước đến năm 2030
Quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005 tới nay về tổng thể phát triển
nhanh chóng, thu được những thành tựu đáng kể, đồng thời cũng còn một số vấn đề
cần tiếp tục tháo gỡ, giải quyết để hợp tác hiệu quả và thực chất hơn. Dựa trên
những thuận lợi và thách thức đang đặt ra đối với cặp quan hệ này, có thể dự đoán
xu thế phát triển trong thời gian ngắn hạn đến năm 2030 như sau:
Về xu thế chung, trong thời gian tới, quan hệ Trung Quốc – Indonesia chỉ có
thể gia tăng hợp tác về mặt kinh tế, quan hệ chính trị - ngoại giao duy trì ở mức độ
vừa phải, song các lĩnh vực khác như quốc phòng - an ninh, văn hoá – xã hội khó
có thể có những bước tiến lớn.
154
Trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ hai nước sẽ có xu hướng tăng cường hợp
tác, do hai nước có ưu thế bổ sung lẫn nhau trong lĩnh vực này. Tổng thống
Indonesia Jokowi tái đắc cử vào tháng 5/2019, tiếp tục tập trung phát triển cơ sở
hạ tầng nhằm phục vụ phát triển kinh tế Indonesia. Trong khi đó, Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình tiếp tục đẩy mạnh BRI, trong đó trọng tâm là xây dựng cơ sở
hạ tầng kết nối về giao thông trên biển và trên bộ, trong đó Indonesia là một điểm
trọng yếu trong “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” của Trung Quốc. Sự trùng
khớp về không gian và lĩnh vực trong hai chiến lược phát triển đất nước của Trung
Quốc và Indonesia khiến hai nước tiến gần nhau hơn trong các dự án hợp tác về
kinh tế. Tuy nhiên, đối mặt với các tồn tại trong hợp tác kinh tế đã trình bày trong
các nội dung trên, kết hợp ý kiến của Bộ trưởng Bộ Điều phối Hàng hải Indonesia
Luhut B. Pandjaitan trong bài trả lời phỏng vấn “Jokowi’s Second-term Priorities
and Challenges: An Interview with Luhut B. Pandjaitan” [Saat, Negara, 2019, tr.5-6] và học giả Vinsensio M.A.Dugis (Indonesia), 1
Luận án cho rằng hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia cần chú ý
một số điểm như sau: (i) đầu tư trực tiếp của Trung Quốc cũng như bất kỳ quốc
gia nào khác vào Indonesia cần mang theo những công nghệ tiên tiến, Indonesia
không cần những công nghệ lạc hậu vì lý do môi trường; (ii) mô hình kinh doanh
cần phải theo mô hình B2B (business to business: giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp). Indonesia không muốn mô hình G2G (government to government: giữa
chính phủ với chính phủ), bởi mô hình này thường đem đến tỉ lệ nợ cao, trong khi
Indonesia muốn duy trì tỉ lệ nợ chiếm dưới 30% GDP; (iii) Indonesia cũng tìm
kiếm các dự án sử dụng càng nhiều lao động địa phương càng tốt, giai đoạn đầu
của dự án có thể sử dụng các kỹ sư nước ngoài, tuy nhiên, quá trình chuyển giao
công nghệ phải được tiến hành dần dần, để các kỹ sư bản địa có thể tiếp nhận dự
án trong các giai đoạn sau; (iv) các dự án FDI phải mang đến những giá trị gia
tăng. Indonesia không muốn các khoản đầu tư chỉ khai thác và rồi xuất khẩu các
tài nguyên ra nước ngoài. Indonesia muốn thông qua hợp tác với Trung Quốc để trở thành một phần trong chuỗi giá trị toàn cầu.
1 Tác giả phỏng vấn học giả Vinsensio M.A.Dugis ngày 7/12/2019 tại Đài Loan.
155
Trong lĩnh vực ngoại giao, với xu thế quốc tế coi hợp tác là chủ đạo, quan hệ
Trung Quốc – Indonesia sẽ được tăng cường thông qua hàng loạt các chuyến thăm cấp
cao, thông qua các văn bản ký kết tăng cường hợp tác giữa hai nước. Do bản chất hai
nước đều đang tìm kiếm lợi ích tối đa cho bản thân mình, Trung Quốc ngoài mục tiêu
kinh tế còn muốn gia tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á, vì vậy chắc chắn không thể bỏ
qua quốc gia đứng đầu ASEAN này. Về phía Indonesia, do nhu cầu trong nước cần thu
hút ngày càng nhiều đầu tư nước ngoài, trong đó Trung Quốc là nhà đầu tư lớn thứ hai;
đồng thời, là quốc gia có vị trí nổi bật ở Đông Nam Á, Indonesia không thể đứng ngoài
chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực. Từ khi hai nước thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005 đến những năm đầu thập niên 2010, quan hệ
hai nước chưa có nhiều tiến triển nổi bật. Tuy nhiên, từ khi nâng cấp quan hệ lên thành
đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013 đến nay, ngoại giao nguyên thủ giữa hai
nước diễn ra với tần suất cao, số lượng văn bản ký kết ngày càng nhiều. Với sự phù
hợp về lợi ích kinh tế, cũng như sự cần thiết hỗ trợ trong các tổ chức và diễn đàn đa
phương, hai nước sẽ có xu hướng tăng cường các cam kết về mặt ngoại giao, nhằm tìm
cách giải quyết các vấn đề và khó khăn chung mà hai nước đang phải đối mặt.
Về mặt an ninh, vấn đề Biển Đông vẫn luôn là nút thắt trong quan hệ hai
nước. Học giả Jabin (Ấn Độ) cho rằng, Indonesia sử dụng khoảng cách địa lý để
quản lý mối quan hệ với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, dù thực thi một số
chính sách “không thân thiện” với Trung Quốc trên biển, như chính sách đánh chìm
tàu, hay việc đặt lại tên biển Bắc Natuna, nhưng Indonesia không quá lo sợ Trung Quốc, do cách Trung Quốc xa, chứ không gần như Việt Nam hay Philippines.1 Học
giả Tonny (Indonesia) cho rằng, cách ứng xử của Trung Quốc đối với Indonesia
tương đối cẩn trọng, bởi Indonesia có cách xử lý “không rõ ràng” đối với Trung Quốc. Đây cũng là truyền thống ngoại giao của Indonesia, đồng thời cũng thể hiện sức mạnh của Indonesia trong chính sách ngoại giao. 2 Do đó, trong tương lai gần,
quan hệ Trung Quốc – Indoneia trong vấn đề Biển Đông về cơ bản vẫn duy trì thực
1 Tác giả phỏng vấn học giả Jabin T.Jacob ngày 7/12/2019 tại Đài Loan 2 Tác giả phỏng vấn học giả Tonny Dani Effendi ngày 7/12/2019 tại Đài Loan
156
trạng như hiện nay: phức tạp, đôi lúc có va chạm và căng thẳng, nhưng không ảnh
hưởng đến hợp tác kinh tế giữa hai nước. Giống như học giả Nguyễn Minh Ngọc
(Australia) cho rằng: không bao giờ Indonesia để vấn đề Biển Đông đứng một mình, mà sẽ cân bằng với các vấn đề khác để đảm bảo lợi ích tối đa của mình. 1
Về mặt văn hóa – xã hội, quan hệ giữa người với người (P2P: people to
people) vẫn luôn là một vấn đề tồn tại trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Các
học giả Rudolf Yuniarto và Tonny Dani Effendi (Indonesia) đều cho rằng hiện nay người dân Indonesia vẫn tồn tại những định kiến về người Trung Quốc. 2 Cứ nhắc
đến Trung Quốc là người Indonesia lại nghĩ đến nỗi sợ cộng sản và những gì đã
diễn ra vào năm 1965. Đồng thời, nhắc đến Trung Quốc, người dân Indonesia cũng
nghĩ đến người Hoa thiểu số ở Indonesia, và sự kiện năm 1998. Tất cả những vấn đề
này có quan hệ mật thiết với nhau, đều đã tồn tại lâu dài trong lịch sử, gây cản trở
cho quan hệ hợp tác giữa hai nước phát triển theo chiều sâu. Những vấn đề trong
lịch sử không thể được hóa giải trong thời gian ngắn, và cần sự tương tác tích cực
giữa người dân hai bên trong một thời gian dài mới có khả năng thay đổi được. Tuy
nhiên, những năm sắp tới sẽ chứng kiến sự giao lưu, trao đổi và học tập lẫn nhau
giữa thanh niên hai nước – thế hệ ra đời sau năm 1998. Đây là thế hệ trẻ, không
phải trực tiếp chứng kiến và trải nghiệm nỗi đau do lịch sử quan hệ giữa người Hoa
và người Indonesia để lại, lại là những người được trang bị kiến thức, dễ dàng tiếp
nhận những tư tưởng cởi mở và hợp tác trong quan hệ hai nước. Do đó, trong giai
đoạn 10 - 20 năm tới, quan hệ Trung Quốc – Indonesia hoàn toàn có thể chứng kiến
sự phát triển đáng kể trong lĩnh vực văn hóa – xã hội.
Tiểu kết ư n 4
Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005 về cơ
bản là chuyển biến mang tính tiệm tiến (tăng dần), trong đó, sự kiện thiết lập quan
hệ đối tác chiến lược là kết quả của quá trình thay đổi từ từ dẫn đến làm thay đổi kết
quả, thay đổi mang tính hệ thống; còn những thay đổi trong quan hệ kinh tế giữa hai
1 Tác giả phỏng vấn học giả Nguyễn Minh Ngọc ngày 5/12/2019 tại Đài Loan 2 Tác giả phỏng vấn học giả Rudolf Yuniarto và Tonny Dani Effendi ngày 5&7/12/2019 tại Đài Loan
157
nước sau khi nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013
là thay đổi mang tính đột biến, nhưng chưa tạo ra biến đổi trong bản chất quan hệ.
Trong các nhân tố dẫn đến sự chuyển biến trong quan hệ, việc hai nước có nhu cầu
trong phát triển quan hệ song phương, cùng môi trường thuận lợi trong quan hệ
Trung Quốc – ASEAN là những nhân tố giữ cho quan hệ hai nước phát triển “chậm
và tăng dần” theo hướng tích cực. Trong khi đó, nhân tố về sự phù hợp trong BRI
và “Trục hàng hải toàn cầu” là nhân tố thúc đẩy sự chuyển biến mang tính đột biến
trong quan hệ kinh tế. Còn các nhân tố trong lĩnh vực an ninh và văn hóa – xã hội
lại là “chốt hãm” ngăn không cho quan hệ hai nước đi vào chiều sâu thực chất.
Quan hệ Trung Quốc – Indonesia là một cặp quan hệ bất đối xứng, thể hiện ở
sự bất cân xứng trong mối quan tâm của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ
song phương, cũng như ở độ nhạy cảm của Indonesia trước bất kỳ thay đổi nào từ
phía Trung Quốc. Chính sách mà Indonesia sử dụng trong quan hệ với Trung Quốc
hiện nay là chính sách phòng ngừa rủi ro (hedging), trong đó, về các biện pháp
chính sách cụ thể, từ sau năm 2013, Indonesia đã vận dụng đầy đủ biện pháp “Ràng
buộc – Can dự”, trong khi chỉ vận dụng một phần biện pháp này trong giai đoạn
2005-2013. Quan hệ Trung Quốc – Indonesia hiện nay đang dao động giữa mức
Hình thức và Kết nối chặt chẽ. Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia
từ sau năm 2005 đến nay chủ yếu là chuyển biến tăng dần, riêng trong lĩnh vực kinh
tế, quan hệ hai nước chứng kiến sự chuyển biến mang tính đột biến. Ngoài các nhân
tố giữ cho quan hệ hai nước phát triển theo hướng tích cực như tiến triển trong quan
hệ Trung Quốc – ASEAN, Trung Quốc thúc đẩy chiến lược “đi ra ngoài”, Indonesia
cần nguồn vốn đầu tư bên ngoài…; một số nhân tố gây ra sự phát triển đột biến
trong quan hệ hai nước có thể bao gồm: sự thay đổi môi trường quốc tế buộc các
nước phải chuyển đổi chiến lược, và sự bổ sung và phù hợp về lợi ích chiến lược
của hai nước. Trong khi đó, các nhân tố trong lĩnh vực an ninh và văn hóa – xã hội
lại là chốt hãm trong quan hệ hai nước.
Ngoài việc đóng góp giá trị kinh tế cho phát triển ở Indonesia, quan hệ này
158
còn làm thay đổi vị trí ASEAN trong ưu tiên chính sách đối ngoại của Indonesia.
Tuy nhiên, những vấn đề tồn tại trong quan hệ kinh tế hai nước lại gây ảnh hưởng
xấu cho dư luận Indonesia, gây bất ổn cho xã hội nước này. Bên cạnh đó, đây là
quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, do đó
ảnh hưởng của nó đến khu vực, các quốc gia trong khu vực là đa chiều. Quan hệ
Trung Quốc – Indonesia gây tác động mạnh mẽ đến quan hệ Trung Quốc – ASEAN,
làm gia tăng sự can dự của các nước lớn vào khu vực, đồng thời có thể tác động đến
quan điểm chung của ASEAN trong vấn đề biển Đông.
Trước những thuận lợi, thách thức mà quan hệ Trung Quốc – Indonesia phải
đối mặt cũng như tác động của nó hiện nay, hai nước sẽ có xu hướng tăng cường hợp
tác về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường các chuyến
thăm ngoại giao cấp cao và ký kết nhiều văn bản hợp tác. Tuy nhiên, các vấn đề an
ninh như tranh chấp trên Biển Đông, chính sách đánh chìm tàu cá của Indonesia có
khả năng vẫn tiếp tục duy trì thực trạng hiện nay. Vấn đề quan hệ giữa người dân hai
nước trong giai đoạn hiện tại vẫn còn là một nút thắt, nhưng trong vòng 10 năm tới có
thể ghi nhận sự phát triển đáng kể thông qua hợp tác giữa thế hệ trẻ hai nước không
159
trực tiếp chứng kiến và trải nghiệm những vấn đề do lịch sử để lại.
ẾT LUẬN
Thứ nhất, quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia là quan hệ đối tác chiến
lược giữa cường quốc lớn thứ hai thế giới với quốc gia lớn nhất ASEAN, do đó, chịu
nhiều tác động từ bối cảnh bên ngoài, bao gồm cạnh tranh các nước lớn trong khu
vực Đông Nam Á, đặc biệt là cạnh tranh ảnh hưởng Trung – Mỹ, và ảnh hưởng từ sự
phát triển của quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Mặc dù trước năm 2005, quan hệ hai
nước không có nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển, hai nước thậm chí
còn nhiều vấn đề tồn tại trong lịch sử, như vấn đề người Hoa Indonesia, hay tâm lý
“chống cộng sản” ở Indonesia từ những năm 60 thế kỷ trước, nhưng trước những tác
động từ tình hình quốc tế, khu vực và nhu cầu từ bản thân mỗi nước, hai nước đã
thúc đẩy quan hệ phát triển, thông qua việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào
năm 2005, và tiếp tục nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm
2013. Trung Quốc muốn tăng cường quan hệ với Indonesia bởi nước này là một
cường quốc kinh tế ở Đông Nam Á, có tiếng nói trong khu vực và nhiều tổ chức thế
giới; lại có vị trí chiến lược quan trọng cho mục đích thương mại và an ninh năng
lượng của Trung Quốc. Trong khi đó, Indonesia cần thị trường tiêu thụ rộng lớn của
Trung Quốc, cần nguồn vốn lớn từ Trung Quốc nhằm phục vụ nhu cầu phát triển
trong nước, và cần sự ủng hộ của Trung Quốc để giúp Indonesia giữ vững vai trò nổi
bật trong khu vực.
Thứ hai, quan hệ Trung Quốc – Indonesia thể hiện tính bất đối xứng, tuy
nhiên, do vai trò của Indonesia t ên t ường quốc tế ngày càng tăng với tư cách một
cường quốc tầm trung, tính chất bất đối xứng trong quan hệ hai nước duy trì ở
mức độ vừa phải. Sự bất đối xứng trong quan hệ hai nước thể hiện ở sự bất cân xứng
trong mối quan tâm của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ song phương, cũng
như ở độ nhạy cảm của Indonesia trước bất kỳ thay đổi nào từ phía Trung Quốc. Tuy
nhiên, do là một cường quốc tầm trung, lại có vị trí chiến lược quan trọng đối với
Trung Quốc, và sức ảnh hưởng nhất định trong khu vực, nên không phải lúc nào
160
Indonesia cũng bị “lép vế” trong quan hệ với Trung Quốc. Trái lại, trong một số
trường hợp, Trung Quốc chủ động tiến lại gần Indonesia, mong muốn thông qua quan
hệ với Indonesia để thúc đẩy những lợi ích trong nước cũng như lợi ích chiến lược
trong khu vực của Trung Quốc. Trải qua các giai đoạn lịch sử quan hệ hai nước, có
thể thấy, Indonesia vận dụng khá thành công chính sách phòng ngừa rủi ro (hedging)
để quản lý mối quan hệ bất đối xứng với cường quốc lớn thứ hai thế giới này.
Thứ ba, chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm
2005 đến nay về tổng thể là chuyển biến tăng dần, tuy nhiên, mức độ quan hệ
t ong các lĩnh vực có sự mất cân đối, trong đó quan hệ kinh tế phát triển nhanh,
quan hệ chính trị chuyển biến chậm và tăng dần, còn quan hệ an ninh – quốc phòng
và giao lưu văn hóa – xã hội đạt được ít tiến triển. Thương mại giữa hai nước phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt từ sau khi Trung Quốc đẩy mạnh thực hiện BRI. Đầu tư trong
cơ sở hạ tầng là một điểm nhấn trong quan hệ kinh tế hai nước do có tính chất bổ
sung tương hỗ lớn. Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, hai nước có xu hướng ngày
càng tiến lại gần nhau hơn, ngoại giao nguyên thủ diễn ra sôi nổi và có vai trò quan
trọng trong việc phát huy vai trò hỗ trợ giữa hai nước với nhau trong các vấn đề quốc
tế và khu vực. Tuy nhiên, hợp tác trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng giữa hai nước
chưa đạt được nhiều thành tựu, do sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông
không chỉ gây bất ổn về an ninh khu vực, mà còn tác động đến hoạt động đánh bắt cá
của Indonesia trong vùng biển xung quanh đảo Natuna. Tâm lý nghi ngờ Trung Quốc
của Chính phủ và người dân Indonesia xuất phát từ những trải nghiệm đau thương
trong lịch sử tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc ở các giai đoạn trước.
Thứ tư, một số nhân tố luôn giữ cho quan hệ hai nước phát triển theo chiều
hướng tích cực như tiến triển trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, nhu cầu thúc đẩy
chiến lược đầu tư ra bên ngoài của Trung Quốc, và nhu cầu thu hút đầu tư vào phát
triển quốc nội của Indonesia. Trong khi đó, một số nhân tố dẫn đến sự phát triển đột
biến trong quan hệ hai nước bao gồm: những sự kiện lớn làm thay đổi môi trường
quốc tế, buộc các nước phải chuyển đổi chiến lược phát triển (như cuộc khủng hoảng
kinh tế 2008); và sự bổ sung và phù hợp về lợi ích chiến lược của hai nước (như BRI
161
của Trung Quốc và chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia). Ngoài ra,
một số nhân tố được coi là “chốt hãm” ngăn không cho quan hệ hai nước có những
bước phát triển về chất, như vấn đề người Hoa ở Indonesia, tâm lý bài Hoa tại
Indonesia, hay yếu tố Islam…
Thứ năm, quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia phản ánh
chiến lược tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, với
cách thức chung là tăng cường và tận dụng những ưu thế về kinh tế để đổi lấy sự ủng
hộ về chính trị, từ đó tìm kiếm những lợi ích về an ninh chiến lược tại khu vực. Trong
vấn đề biển Đông, cách thức chung của Trung Quốc trong việc xử lý các tranh chấp,
bất đồng trên biển là: tạo ra các tranh chấp tại các khu vực nằm trong phạm vi “đường
chín đoạn”, thử phản ứng của các nước có tranh chấp và của các nước lớn khác, từng
bước biến giả thành thật, vừa tăng cường quyền kiểm soát thực tế trên biển, vừa đưa
ra một loạt các tuyên bố về mặt ngoại giao mang tính hình thức, nhằm hiện thực hóa
“đường chín đoạn”. Cách thức quản lý tranh chấp trên biển của Trung Quốc đã phát
huy tác dụng trong một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, một cường quốc tầm trung
như Indonesia có nhiều lựa chọn chính sách trong quản lý mối quan hệ bất đối xứng
với Trung Quốc, và lựa chọn gần đây nhất của Indonesia cho thấy, nước này sẵn sàng
sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ lợi ích cốt lõi, chứ không đổi lợi ích kinh tế lấy
những ưu đãi về chính trị như nhiều nước nhỏ khác. Cũng chính vì vậy, mức độ quan
hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia hiện nay mới chỉ ở giữa mức “Hình
thức” và “Kết nối chặt chẽ”, chứ chưa đạt đến mức độ “Thực chất” hay “Thực chất
hiệu quả”.
Thứ sáu, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia tác
động đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc, của Indonesia, cũng như của một
số cường quốc khác có ảnh hưởng tại khu vực này. Những thay đổi trong quan hệ
Trung Quốc – Indonesia đã thúc đẩy Trung Quốc thi hành chính sách tăng cường ảnh
hưởng tại Đông Nam Á, làm thay đổi việc coi ASEAN là trung tâm trong chính sách
đối ngoại của Indonesia, đồng thời cũng tác động đến chính sách ngoại giao của
Indonesia trong quan hệ với các cường quốc khác. Đồng thời, những chuyển biến
162
trong quan hệ hai nước một mặt góp phần thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN,
mặt khác, làm gia tăng sự can dự của Trung Quốc đối với ASEAN thông qua các
thành viên, tác động đến đoàn kết nội bộ của ASEAN. Xu hướng tiến lại gần nhau
giữa Trung Quốc và Indonesia đã gia tăng sức ép đối với một số cường quốc khác
như Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Australia…, buộc các nước này phải điều chỉnh chính sách,
thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực khác với Indonesia, nhằm cân bằng ảnh hưởng tại
quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này. Những tác động của quan hệ Trung Quốc –
Indonesia đối với Việt Nam thể hiện trước tiên trong vấn đề Biển Đông. Nếu như thái
độ của Indonesia đối với Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng cứng rắn hơn có thể
tạo thêm tiếng nói ủng hộ cho Việt Nam trong các tranh chấp trên biển, thì quan hệ
kinh tế ngày càng gắn bó giữa Indonesia với Trung Quốc cũng gây ra lo ngại về việc
Indonesia “lấy kinh tế đổi lấy chính trị”, giảm bớt sức ép đối với Trung Quốc về Biển
Đông, khiến Việt Nam mất đi chỗ dựa trong ASEAN.
Cuối cùng, trước những thuận lợi và thách thức về bối cảnh quốc tế, khu vực
và bản thân hai nước, Trung Quốc và Indonesia sẽ có xu hướng tăng cường hợp tác
về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường kết nối chính
sách thông qua các chuyến thăm ngoại giao cấp cao. Tuy nhiên, các vấn đề an ninh
và văn hóa – xã hội có khả năng vẫn tiếp tục duy trì thực trạng phức tạp như hiện nay.
Giao lưu giữa người dân hai nước tuy hiện nay vẫn còn là một nút thắt do những vấn
đề trong lịch sử, nhưng giai đoạn 10 - 20 năm tới có thể ghi nhận sự phát triển đáng
kể thông qua hợp tác giữa thế hệ trẻ không trực tiếp chứng kiến những giai đoạn lịch
163
sử đau thương giữa hai nước.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH HOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Thu Minh (2016), “Những tiến triển trong quan hệ đối tác chiến lược Trung
Quốc – Indonesia từ năm 2005 tới nay”, Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr.29-38.
2. Trần Thu Minh (2016), “Cái nhìn của Indonesia về Sáng kiến Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ XXI”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (10), tr. 64-69.
3. Trần Thu Minh (2018), “Sự phân hóa trong cách nhìn nhận Trung Quốc của giới
tinh hoa Indonesia”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (3), tr.46-51.
4. Trần Thu Minh (2018), “Thực tiễn triển khai Chiến lược “Vành đai và con đường”
tại Indonesia”, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới (4), tr.3-13.
5. Trần Thu Minh (2018), “Vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia trong bối
cảnh Chiến lược ‘Vành đai và con đường’”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (6),
tr.66-71.
6. Trần Thu Minh (2018), “Quan hệ Mỹ - Indonesia dưới thời Tổng thống
D.Trump”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (7), tr.50-56.
7. Trần Thu Minh (2018), “Quan hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005
đến nay”, Nghiên cứu Trung Quốc (10), tr.27-36.
8. Trần Thu Minh (2018), “Quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia:
Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Nghiên cứu Quốc tế (4), tr.139-159.
9. Trần Thu Minh (2019), “Ngoại giao quan hệ đối tác của Trung Quốc từ sau cải
cách mở cửa”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “40 năm cải cách mở cửa của Trung
Quốc: Nhìn lại và Triển vọng”, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Trần Thu Minh (2019), “Sự phục hồi của văn hóa Trung Hoa trong cộng đồng
người Hoa tại Indonesia sau thời kỳ Trật tự mới”, Nghiên cứu Đông Nam Á (8),
tr.73-81.
11. Trần Thu Minh (2019), “Chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung
Quốc thời kỳ Tổng thống Joko Widodo”, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế
164
giới (10), tr.42-50.
TÀI LIỆU THAM HẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Hữu Cát, Vũ Quang Đức (2018), “Trung Quốc thực hiện chính sách đối
ngoại và các tác động đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, Lý luận Chính
trị (9), tr.92-97.
2. Nguyễn Thùy Chi (2015), “Phân tích về quan hệ bất đối xứng qua so sánh
trường hợp quan hệ Đức – Séc và quan hệ Trung – Việt”, Nghiên cứu Châu Âu
(4), tr.30-42.
3. Phạm Thành Dung, Đinh Thanh Tú (2008), “Những tiền đề cơ bản định hướng
đường lối đối ngoại của Indonesia từ khi giành độc lập đến nay”, Khoa học
Chính trị, tr.74-79.
4. Lưu Việt Hà (2014), “Nhân tố ASEAN trong chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu Quốc tế (1), tr.199-214.
5. Nguyễn Văn Hà, Chu Trọng Trí (2015), “Điều chỉnh chính sách hợp tác của
Trung Quốc những năm gần đây và tác động của nó đến phát triển kinh tế
ASEAN”, Nghiên cứu Đông Nam Á (7), tr.12-20.
6. Châu Thị Hải (2001), “Người Hoa ở Indonesia với cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ”, Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.38-51.
7. Trần Hiệp (2012), “Quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia thời
gian gần đây”, Sự kiện và nhân vật nước ngoài (4), tr.47-50.
8. Nguyễn Huy Hoàng (2018), Đánh giá, dự báo tác động của điều chỉnh chiến
lược và phương thức phát triển mới của Trung Quốc đến ASEAN và gợi mở
chính sách cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Đàm Huy Hoàng (2011), “Quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ khi Chiến tranh
lạnh kết thúc tới nay”, Nghiên cứu Trung Quốc (5), tr.30-45.
10. Đàm Huy Hoàng (2018), “Sự tiến triển trong quan hệ chính trị ngoại giao, an
ninh quốc phòng giữa Trung Quốc và Indonesia giai đoạn 1990-2015”, Nghiên
165
cứu Đông Nam Á (1), tr.11-16.
11. Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan (2014), “Vai trò của ngoại giao đa phương
trong chính sách đối ngoại của quốc gia tầm trung: Trường hợp của Indonesia”,
Nghiên cứu Quốc tế (2), tr.109-138.
12. Lê Thị Thu Hồng, Phạm Hồng Thái (2010), “Chính sách ngoại giao láng giềng
của Trung Quốc nhìn từ ASEAN”, Nghiên cứu Đông Bắc Á (7), tr.11-16.
13. Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Khắc Nam (2006), Quan hệ quốc tế - Những khía
cạnh lý thuyết và vấn đề, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Dương Văn Huy (2014a), “Chính sách đối ngoại của tân Tổng thống Indonesia
sẽ ra sao”, Thế giới toàn cảnh (38), tr.31-32.
15. Dương Văn Huy (2014b), “Một số điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc trong
thời gian gần đây”, Sự kiện và Nhân vật (248), tr.50-57.
16. Trần Khánh, Đàm Huy Hoàng (2014), “Xu hướng gia tăng hợp tác kinh tế và
chiến lược của Trung Quốc với Đông Nam Á trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI”, Nghiên cứu Đông Nam Á (4), tr.3-10.
17. Trần Khánh (2002), “Nguyên nhân di cư và các dạng di trú của người Hoa
trong lịch sử”, Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr.44-53.
18. Nguyễn Đăng Khoa (2017), “Biển Đông và chính sách của Trung Quốc dưới
góc nhìn Quan hệ quốc tế”, Tạp chí Khoa học – Khoa học xã hội và nhân văn
(14), tr. 168-176.
19. Nguyễn Thanh Mai (2017), “Bàn về một số đặc thù của chính sách đối ngoại”,
Nghiên cứu Châu Âu (10), tr.64-73.
20. Phí Hồng Minh (2016), “Những điều chỉnh mới trong chính sách ngoại giao láng
giềng của Trung Quốc từ sau Đại hội Đảng lần thứ 18, Nghiên cứu Đông Bắc Á
(9), tr.11-20.
21. Lê Văn Mỹ (2013), Ngoại giao Trung Quốc trong quá trình trỗi dậy và những
vấn đề đặt ra cho Việt Nam, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
22. Hoàng Khắc Nam (2011), Quyền lực trong quan hệ quốc tế: Lịch sử và vấn đề,
166
NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.
23. Hoàng Khắc Nam (2014), Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn
lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Hoàng Khắc Nam (2016), “Điều kiện bên ngoài của Hợp tác quốc tế”, Nghiên
cứu Châu Âu (11), tr.51-61.
25. Hoàng Khắc Nam (2017), Lý thuyết quan hệ quốc tế, NXB Thế giới, Hà Nội.
26. Trần Thọ Quang, Đào Thị Nguyệt Hằng (2015), “Ngoại giao kinh tế - xu thế tất
yếu trong quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu Châu Âu (2), tr.12-20.
27. Trần Thọ Quang (2015), “Quan hệ đối tác chiến lược: Từ lý thuyết đến thực
tiễn”, Nghiên cứu châu Âu (7), tr.67-76.
28. Trần Thọ Quang (2016), “Vai trò của một số chủ thể thứ yếu trong hoạch định
và triển khai chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay”, Thông tin Khoa
học xã hội (5), tr.19-25.
29. Dương Văn Quảng (2016), “Bàn về một số thuật ngữ liên quan đến quan hệ
quốc tế”, Nghiên cứu Quốc tế (1), tr.158-168.
30. Bùi Huy Thành (2007), “Về một số nguyên nhân xung đột sắc tộc và tôn giáo ở
Indonesia trong những thập kỷ gần đây”, Nghiên cứu Đông Nam Á (3), tr.67-70.
31. Nguyễn Viết Thảo, Ngô Chí Nguyện (2017), “Quan hệ nước nhỏ - nước lớn
trong thế giới ngày nay”, Lý luận Chính trị (11), tr.109-115.
32. Đồng Xuân Thọ (2016), “Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu
vực châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Cộng sản (9), tr.101-105.
33. Nguyễn Quang Thuấn (2017), “Điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc: tác động
đến thế giới, khu vực và Việt Nam”, Khoa học Xã hội Việt Nam (3), tr.3-13.
34. Đỗ Thị Thủy (2010), “Nghiên cứu chính sách đối ngoại Trung Quốc từ góc độ lý
luận quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu Quốc tế (4), tr.53-73.
35. Lê Đình Tĩnh (2018), “Mục tiêu cường quốc tầm trung và viễn cảnh ngoại giao
Việt Nam sau năm 2030”, Nghiên cứu Quốc tế (2), tr.22-53.
36. Đỗ Ngọc Toàn (2008), “Sự điều chỉnh chính sách của một số nước Đông Nam
Á đối với người Hoa từ sau thập niên 60 của thế kỷ XX”, Nghiên cứu Đông
167
Nam Á (8), tr.64-70.
37. Đinh Công Tuấn (2013), “Quan hệ đối tác chiến lược trong quan hệ quốc tế hiện
nay: lý thuyết, thực tiễn thế giới và Việt Nam”, Nghiên cứu Châu Âu (7), tr.3-14.
38. Nguyễn Thanh Tuấn (2016), “Phân tích ban đầu về chính sách đối ngoại của
Indonesia dưới thời Tổng thống Joko Widodo”, Nghiên cứu Đông Nam Á (10),
tr.27-34.
39. Nguyễn Vũ Tùng, Hoàng Anh Tuấn (2006), Quan hệ đối tác chiến lược trong
quan hệ quốc tế: Từ lý thuyết đến thực tiễn, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
40. Nguyễn Vũ Tùng, Nguyễn Thùy Anh (2017), “Những điều chỉnh chính sách của
Nhật Bản với khu vực Đông Nam Á trong nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng Shinzo
Abe”, Nghiên cứu Quốc tế (2), tr.90-112.
41. Từ điển Tiếng Việt (2007), Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Tiếng Anh
42. Andika Muhammad Tri (2016), “An Analysis of Indonesia Foreign Policy
Under Jokowi’s Pro-People Diplomacy”, Indonesian Perspective (1), pp.1-13.
43. Andika Muhammad Tri, Aisyah Allya Nur (2017), “Analisis Politik Luar Negeri
Indonesia-China di Era Presiden Joko Widodo: Benturan Kepentingan Ekonomi
dan Kedaulatan?” (“Analysis Indonesia-China Foreign Policy in President Joko
Widodo's Era: Conflict of Economic Interest and Sovereignty?”), Indonesian
Perspective (2), pp.161-179.
44. Anwar Dewi Fortuna (2019), “Indonesia-China Relations: To Be Handled With
Care”, Yusof Ishak Institute, 28 Mar, pp.1-7.
45. Azra Azyumardi (2015), “Indonesia’s Middle Power Public Diplomacy: Asia
and Beyond”, in Jan Melissen, Yul Sohn eds., Understanding Public Diplomacy
in East Asia: Middle Powers in a Troubled Region, Palgrave Macmillan, New
York, pp.130-154.
46. Bolewski Wilfried, Rietig Candy M. (2008), “The Cultural Impact on China's
New Diplomacy”, The Whitehead Journal of Diplomacy and International
168
Relations (3), pp.83-96.
47. Booth Anne (2011), “China’s Economic Relations with Indonesia: Threats and
Opportunities”, Journal of Current Southeast Asian Affairs (2), pp.141-160.
48. Brown Jessica (2011), “Jakarta’s Juggling Act: Balancing China and America in
the Asia-Pacific”, Foreign Policy Analysis (5), pp.1-15.
49. Chapnick Adam (1999), “The Middle Power”, Canadian Foreign Policy (2),
pp.73–82.
50. Chua Christian (2008), Chinese Big Business in Indonesia: The state of capital,
Routledge, New York.
51. Clark M. (2012), “Torn between America and China: Elite Perceptions and
Indonesian Foreign Policy” Book Review, Australian Journal of International
Affairs (1), pp.91–93.
52. Connelly Aaron L. (2015), “Sovereignty and the Sea: President Joko Widodo’s
Foreign Policy Challenges”, Contemporary Southeast Asia (1), pp. 1-28.
53. Cooper Andrew F., Higgott Richard A., Nossal Kim Richard (1993), Relocating
Middle Powers: Australia and Canada in a Changing World Order, UBC Press,
Vancouver.
54. Cox R.W. (1981), “Social Forces, States and World Orders: Beyond
International Relations Theory”, Millennium: Journal of International Studies
(2), pp.126-155.
55. Cox R.W. (1989), “Middlepowermanship, Japan, and Future World Order”,
International Journal (4), pp. 823-862.
56. Cox. R.W. (1996), Approaches to World Order, University of Cambridge Press,
Cambridge.
57. Du Julan, Zhang Yifei (2018), “Does One Belt One Road initiative promote
Chinese overseas direct investment?”, China Economic Review (47), pp.189–
205.
58. Duan Fei, Ji Qiang, Liu Bing-Yue, Fan Ying (2018), “Energy investment risk
assessment for nations along China’s Belt & Road Initiative”, Journal of
169
Cleaner Production (170), pp.535-547.
59. Egan John (2001), Managing Partnership: Preventing and Solving Problems in
Strategic Partnership, Allen & Unwin, Sydney.
60. Farneubun Petrus K. (2017), “Explaining Yudhoyono’s Decision To Develop A
Strategic Partnership With China”, Social Science Education and Humanities
Research (ASSEHR) (129), pp.332-337.
61. Fealy Greg, White Hugh (2016), “Indonesia’s ‘Great Power’ Aspirations: A
Critical View”, Asia & the Pacific Policy Studies (1), pp. 92–100.
62. Fels Enrico (2016), Shifting Power in Asia-Pacific? The Rise of China, Sino-US
Competition and Regional Middle Power Allegiance, Springer, Singapore.
63. Feng Zhongping, Huang Jing (2014), “China’s strategic partnership diplomacy:
Engaging with a changing world”, European Strategic Partnerships
Observatory Working Paper (8), June, pp.1-19.
64. Fitriani, E. (2018), “Indonesian perceptions of the rise of China: Dare you, dare
you not”, The Pacific Review (3), pp.391–405.
65. Flemes. Daniel (2007), “Emerging Middle Powers’ Soft Balancing Strategy:
State and Perspectives of the IBSA-Dialogue Forum”, German Institute of
Global and Area Studies Working Paper (57), Aug, pp.1-31.
66. Fook Lye Liang (2019), “China-Malaysia Relations back on track”, Yusof Ishak
Institute Perspective (38), 15 May, pp.1-9.
67. Forbes Vivian Louis (2017), “China-Malaysia Relations: Navigating a Complex
Geopolitical Sea - Part Two: The South China Sea Issue”, Associate paper of
Future Directions international, 5 Sep, pp.1-7.
68. Friborg Nadja, Carlsson Patrik (2019), Middle powers and the rise of China - A
case study of Swedish policy formulations with respect to China, Bachelor’s
Thesis, University WEST School of Business, Economics and IT, Sweden.
69. Gajauskaite Ieva (2013), “Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative
Analysis of Polish—Ukrainian and Lithuanian-Ukrainian Strategic Partnerships”,
170
Lithuanian Annual Strategic Review (1), pp.199-204.
70. Gilpin Robert (1981), War and Change in World Politics, Cambridge University
Press, America.
71. Gindarsah Iis (2018), “Indonesia’s Strategic Hedging and the South China Sea”,
in Maintaining Maritime Order in the Asia-Pacific, The National Institute for
Defense Studies, Tokyo, pp.25-35.
72. Haas Ernst (1958), The Uniting of Europe: Political, Social and Economic
Forces, 1950–1957, Palo Alto, Stanford University Press, California.
73. Hamilton-Hart Natasha, McRae Dave (2015), Indonesia: Balancing the United
States and China, aiming for independence, The University of Sydney United
States Studies Centre, Sydney.
74. Hau Caroline (2012), “Becoming‘Chinese in Southeast Asia”, in Peter
J.Katzenstein ed., Sinicization and the Rise of China, Routledge, London & New
York, pp.175-206.
75. Herlijanto Johanes (2017), “How the Indonesian Elite Regards Relations with
China”, Yusof Ishak Institute, 10 Feb, pp.1-7.
76. Holbraad C. (1984), Middle powers in international politics, St. Martin’s Press,
New York.
77. Hölscher Katharina, Wittmayer Julia M., Loorbach Derk (2018), “Transition
versus transformation: What’s the difference?”, Environmental Innovation and
Societal Transitions (27), pp.1-3.
78. Holsti K.J. (1998), “The Problem of Change in International Relations Theory”,
Institute of International Relations - The University of British Columbia
Working Paper (26), Dec, pp.1-24.
79. Huang David W.F. (2016), Asia Pacific Countries and the US Rebalancing
Strategy, Palgrave Macmillan, London.
80. Hughes Lindsay (2018), “Indonesian Foreign Policy: The China Factor, Future
Directions”, International Strategic Analysis Paper, 13 Sep, pp.1-6.
81. Idris Aida (2008), “An Analysis of Malay-Sino Relations in Malaysia”, Asian
171
Social Science (4), pp.3-12.
82. Ikenberry John G. (2004), “American Hegemony and East Asian Order”,
Australian Journal of International Affairs (3), pp. 353–367.
83. Jordaan Eduard (2003), “The Concept of a Middle Power in International
Relations: Distinguishing between Emerging and Traditional Middle Powers”,
Politikon: South African Journal of Political Studies (1), pp.165-181.
84. Kai He (2008), “Indonesia’s foreign policy after Soeharto: International
pressure, democratization, and policy change”, International Relations of the
Asia-Pacific (8), pp.47–72.
85. Keohane Robert (1969), “‘Liliputians’ Dilemmas: Small States in International
Politics”, International Organization (2), pp. 291–310.
86. Keohane Robert, Nye Joseph S. (1997), “Interdependence in World Politics”, in
Crane George T. ed., The Theoretical Evolution of International Political
Economy: A Reader, Oxford University Press, Oxford, pp.122-131.
87. Keohane Robert, Nye Joseph S. (2001), Power and Interdependence, Longman,
New York.
88. Kuik C.C (2005), “Multilateralism in China’s ASEAN Policy”, Contemporary
Southeast Asia (1), pp.102–122.
89. Kuik C.-C. (2008), “The essence of hedging: Malaysia and Singapore’s response
to a rising China”, Contemporary Southeast Asia (2), pp.159–184.
90. Laksmana Evan (2017), “Pragmatic Equidistance: How Indonesia Manages Its
Great Power Relations”, in Denoon David B.H. ed., China, The United States,
and the Future of Southeast Asia, New York University Press, New York, pp.
113-135.
91. Laksmana Evan (2018a), “Promises and pitfalls of Indonesia’s faith in
multilateralism”, The Jakarta Post, 1 Feb, pp.2.
92. Laksmana Evan (2018b), “Drifting towards Dynamic Equilibrium: Indonesia’s
South China Sea Policy under Yudhoyono”, in Fionna Ulla, Negara Dharma,
172
Simandjuntak Deasy eds., Aspirations with Limitations: Indonesia's Foreign
Affairs under Susilo Bambang Yudhoyono, ISEAS–Yusof Ishak Institute,
Singapore, pp. 153-175.
93. Laksmana Evan A. (2015), “Indonesia’s strategic thinking: breaking out of its
shell?”, Regional Security Outlook 2015, pp.35-38.
94. Laksmana Evan, Supriyanto Ristian A. (2018), “Abandoned at Sea: The
Tribunal Ruling and Indonesia’s Missing Archipelagic Foreign Policy”, Asian
Politics & Policy (2), pp.300-321.
95. Lee. Ji yun (2017), “Hedging Strategies of the Middle Powers in East Asian
Security: the Cases of South Korea and Malaysia”, East Asia (34), pp.23–37.
96. Liow Chinyong Joseph (2000), “Malaysia-China Relations in the 1990s: The
Maturing of a Partnership”, Asian Survey (4), pp.672-691.
97. Madu Ludiro (2017), “Indonesia's Foreign Policy Under President Jokowi: More
Domestic and Nationalist Orientations”, International Journal of Scientific
Research in Science and Technology 2, pp.189-197.
98. McRae Dave (2014), “More talk than walk: Indonesia as a foreign policy actor”,
Lowy Institute for international policy, Feb, pp.1-21.
99. Nabbs-Keller Greta (2011), “Growing Convergence, Greater Consequence: The
Strategic Implications of Closer Indonesia-China Relations”, Security
Challenges (3), pp. 23-41.
100. Nargiza Salidjanova, Iacob Koch-Weser (2015), “China’s Economic Ties
with ASEAN: A Country-by-Country Analysis”, CEIC database, 17 Mar.
101. Novotny D. (2010), “Torn between America and China: Elite perceptions
and Indonesian Foreign Policy”, ISEAS, Singapore.
102. Pape Robert A. (2009), “Empire Falls”, The National Interest, Jan-Feb, pp.
21–34.
103. Parameswaran Prashanth (2014a), “Between Aspiration and Reality:
Indonesian Foreign Policy After the 2014 Elections”, The Washington Quarterly
173
(3), pp.153-165.
104. Parameswaran Prashanth (2014b), “Explaining US Strategic Partnerships in
the Asia-Pacific Region: Origins, Developments and Prospects”, Contemporary
Southeast Asia (2), pp.262-289.
105. Pattiradjawane Rene´L (2016), “The Indonesian perspective toward rising
China: Balancing the national interest”, Asian Journal of Comparative Politics,
Jun, pp.1–23.
106. Pierson Paul (2003), “Big, Slow Moving and Invisible: Macro Social
Processes in the Study of Comparative Politics”, in Mahoney James,
Rueschemeyer Dietrich eds., Comparative Historical Analysis in the Social
Sciences, Cambridge University Press, Cambridge, pp.177–207.
107. Pradt Tilman (2016), China’s New Foreign Policy: Military Modernisation,
Multilateralism and the ‘China Threat’, Palgrave Macmillan, London.
108. Pratt C. (1990), Middle Power Internationalism and Global Poverty, Middle
Power Internationalism: The North-South Dimension, McGill-Queen’s
University Press, Motreal.
109. Priyandita Gatra (2019), “From Rivals to Partners: Constructing the Sino-
Indonesian Strategic Partnership”, Jurnal Politik Internasional (1), pp.1-26.
110. Qin Yaqing (2012), “Culture and Global Thought: Chinese International
Theory in the Making”, Revista CIDOB d’Afers Internacionals (100), pp.67-90.
111. Rotmans J., Kemp R., van Asselt M. (2001), “More evolution than revolution:
transition management in public policy”, Foresight (1), pp. 15-31.
112. Saat Norshahril, Negara Siwage Dharma (2019), “Jokowi’s Second-term
Priorities and Challenges: An Interview with Luhut B. Pandjaitan”, ISEAS –
Yusof Ishak Institute Perspective (86), pp.1-9.
113. Sampson Michael (2019), “The evolution of China’s regional trade
agreements: power dynamics and the future of the Asia-Pacific”, The Pacific
Review, pp.1-32.
114. Schmitt. Gary J. (2016), “Challenges to the US Rebalance to Asia”, in Huang
174
D.W.F., Asia Pacific Countries and the US Rebalancing Strategy, pp.31-47.
115. Sean Kay (2000), “What is a Strategic Partnemhip?”, Problems of Post
Communism 3, pp.15 -24.
116. Setijadi Charlotte (2016), “Ethnic Chinese in Contemporary Indonesia:
Changing Identity Politics and the Paradox of Sinification”, ISEAS –Yusof Ishak
Institute (12), pp.1-11.
117. Shambaugh D. (2000), “Sino-American strategic relations: from partners to
competitors”, Survival (1), pp. 97-115.
118. Sinaga Lidya Christin (2018a), Six Decades of Indonesia-China Relations:
An Indonesian Perspective, Springer, Singapore.
119. Sinaga Lidya Christin (2018b), “The Dynamics of Indonesia–China
Relations in Politics, Defense-Security, and Economy in Southeast Asia: An
Indonesian Perspective”, in Sinaga Lidya Christin ed., Six Decades of Indonesia-
China Relations: An Indonesian Perspective, Springer, Singapore, pp.1-15.
120. Sinha Assema (2018), “Building a Theory of Change in International
Relations: Pathways of Disruptive and Incremental Change in World Politics”,
International Studies Review, pp.1–9.
121. Smith Anthony L. (2003), “From Latent Threat to Possible Partner:
Indonesia’s China Debate”, Asia-Pacific Center for Security Studies, pp.71-78.
122. Son Key-young (2014), “Middle Powers and the Rise of China: ‘Identity
Norms’ of Dependency and Activism and the Outlook for Japan–South Korea
Relations vis-à-vis the Great Powers Japanese”, Journal of Political Science (1),
pp 91 – 112.
123. Sriyanto Nanto (2018), “Indonesia–China Relations: A Political-Security
Perspective”, in Sinaga Lidya Christin ed., Six Decades of Indonesia-China
Relations: An Indonesian Perspective, Springer, Singapore, pp.65-77.
124. Stirling A. (2014), “Emancipating Transformations: From Controlling ‘the
Transition’ to Culturing Plural Radical Progress”, STEPS Working Paper (64),
175
pp.1-48.
125. Storey Ian (2009), “China and Indonesia: Militarysecurity Ties Fail to Gain
Momentum”. China Brief IX (4), February 20, pp.6-9.
126. Streeck Wolfgang, Kathleen Thelen (2005), Beyond Continuity: Institutional
Change in Advanced Political Economies, Oxford University Press, Oxford.
127. Strüver Georg (2016), “International Alignment between Interests and
Ideology: The Case of China’s Partnership Diplomacy”, GIGA Working Papers
(283), pp.1-36.
128. Strüver Georg (2017), “China’s Partnership Diplomacy: International
Alignment Based on Interests or Ideology”, The Chinese Journal of
International Politics, Jan, pp.31-65.
129. Sukma Rizal (1999), Indonesia and China: The Politics of Troubled
Relationship, Routledge, London.
130. Suryadinata Leo (2014), “An End to Discrimination for China and the
Chinese in Indonesia?”, ISEAS Perspective (26), ISEAS – Yusof Ishak Institute,
Singapore, pp.1-9.
131. Suryadinata Leo (2017a), “The growing ‘Strategic partnership’ between
Indonesia and China faces difficult challenges”, Trends in Southeast Asia (15),
pp.1-25.
132. Suryadinata Leo (2017b), “The Rise of China and the Chinese Overseas: A
Study of Beijing’s Changing Policy in Southeast Asia and Beyond”, ISEAS –
Yusof Ishak Institute, Singapore.
133. Swaine Michael D. (2014), “Chinese View and commentary on Periphery
Diplomacy”, China Leadership Monitor (44), pp.1-43.
134. Syailendra Emirza Adi (2017), “China in Indonesia’s Foreign Policy:
Maintaining a Nonbalancing Posture”, RSIS Commentary (168), 14 Sep.
135. Tan (1991), “The social and cultural dimensions of the role of ethnic Chinese
in Indonesian society”, in Ithaca A. Kahin ed., The role of the Indonesian
Chinese in shaping modern Indonesian life, Cornell Southeast Asia Program,
176
New York, pp. 113–25.
136. Thanh Trung Nguyen (2016), Accommodating the dragon: Vietnam's
enduring asymmetric entanglements with China, Doctor Thesis, Hong Kong
Baptist University, Hong Kong.
137. Thayer Carlyle A. (1994), “Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of
Ideology and National Interest”, Asian Survey (6), pp. 513-528
138. Thies Cameron G., Sari Angguntari C. (2018), “A Role Theory Approach to
Middle Powers: Making Sense of Indonesia’s Place in the International System”,
Contemporary Southeast Asia (3), pp. 397–421.
139. Tjhin Christine Susanna (2012), “Indonesia’s Relations with China:
Productive and Pragmatic, but not yet a Strategic Partnership”, China Report (3),
pp.303–315.
140. Treverton Gregory F., Jones Seth G. (2005), Measuring National Power,
RAND, Washington DC.
141. Tsai Tung-Chieh, Hung Ming-Te, Tony Tai-Ting Liu (2011), “China's
foreign policy in Southeast Asia: Harmonious worldview and its impact on good
neighbor diplomacy”, Journal of Contemporary Eastern Asia (1), pp.25-42.
142. Umagapi Juniar Laraswanda (2017), “The Rise of China-Indonesia
Relationship: Soft Power, Resources, and Prospect in the Future”, Indonesian
Perspective (2), pp.131-142.
143. Varrall Merriden (2015), “Chinese worldviews and China's foreign policy”,
Lowy Institute for International Policy, Nov, pp.1-23.
144. Vuving Alexander L. (2006), “Vietnam’s China Policy: A Changing Mixture
of Pathways”, Asian Survey (6), pp.805-824.
145. Waltz Kenneth N. (1986), “Reflections on Theory of International Politics: A
Response to My Critics”, in Keohane Robert O. ed., Neorealism and its Critics,
Columbia University Press, New York, pp. 322-345.
146. Wilkins Thomas S. (2008), “Russo—Chinese Strategic Partnership: A New
177
Form of Security Cooperation?”, Contemporary Security Policy (2), pp.358-383.
147. Wnukowski Damian (2015), “Balancing ASEAN, the U.S. and China:
Indonesia’s Bebas-aktif Foreign Policy in the 21st Century”, The Polish
Quarterly of International Affairs (4), pp.115-138.
148. Womack Brantly (2006), China and Vietnam: The Politics of Asymmetry,
Cambridge University Press, Cambridge.
149. Wuryandari Ganewati (2018), “The Prospects of Indonesia–China Relations”,
in Sinaga L. Christin ed., Six Decades of Indonesia-China Relations, Springer
Nature, Singapore, pp.79-93.
150. Xiao Xiongyi (2005), “Chinese Foreign Policy in Transition: Understanding
China’s ‘Peacefull Development’”, The Journal of East Asian Affairs (1), pp.74-
112.
151. Yuniarto Paulus Rudolf (2019), “Intercultural Gaps Between Indonesia and
China on the Belt and Road Initiative: Causes and Remedies”, China Quarterly
of International Strategic Studies (3), pp.1–22.
152. Zuhri Ahmad Syaifuddin (2015), “Indonesia-China’s Diplomatic Relations
after Normalization in 1990”, International Seminar and Conference 2015: The
Golden Triangle (Indonesia-India-Tiongkok), Indonesia.
Tiếng Trung
153. 陈跃, 马千里(2015), “新变局, 新内涵, 新常态 ——中国周边外交新战
略探析”, 理论探索 (6), tr. 59-65.
154. 丁工 (2011), “中等强国崛起极其对中国外交布局的影响“,现代国际关
系 (10),pp.47-53.
155. 丁工 (2014), “中等强国与中国周边外交”, 世界经济与政治 (7), tr. 24-41.
156. 江泽民 (2006), 江泽民文选 第2卷,人民出版社, 北京.
157. 孔志国, 罗建波 (2017) , “试论儒家文化在中国周边外交中的作用”, 哲学
178
-文化 (1), tr.116-122.
158. 林国治, 蒋洪池, 杨 媛 (2006), “新中国外交思想的衍沿与创新”, 中国石
油大学学报(社会科学版) (2), tr.50-55.
159. 刘艳峰, 邢瑞利 (2016), “印尼外交战略演进及其南海利益诉求”, 南洋问
题研究 (2), tr.56-65.
160. 龙安山 (2018), 21世纪海上丝绸之路”建设与中国——东盟经贸新合作,
上海社会科学出版社, 上海.
161. 门洪华, 刘笑阳 (2015), “中国伙伴关系战略 评估与展望”, 世界经济与政
治 (2), tr. 65-95.
162. 潘玥 (2016), “佐科维执政初期印尼华人社会状况初探”, 东南亚研究 (3),
tr.71-81.
163. 潘玥 (2017), “‘一带一路’背景下印尼的中国劳工问题”, 东南亚研究 (3),
tr.123-139.
164. 潘玥 (2018), “‘一带一路’背景下中印尼合作:成果、问题与对策”, 战略决
策研究 (1), tr.60-77.
165. 彭泳 (2016), 2000 年来中国与印尼绞贸合作研究, 广西师范大学硕士论
文, 广西.
166. 邱岳 (2017), 佐科执政后中国与印尼经贸合作探析, 华中师范大学硕士
论文, 上海.
167. 施雪琴, 叶丽萍 (2018), “契机与挑战: 当代中国与印尼新型互动关系的
构建--以“21 世纪海上丝绸之路”建设为背景”, 当代世界与社会主义 (3),
tr.144-153.
168. 宋秀琚 (2017), “21世纪海上丝绸之路”与中国——印尼战略合作研究,
华中师范大学出版社, 上海.
169. 宋秀琚, 王鹏程 (2018), “ 中等强国” 务实外交:佐科对印尼“ 全方位外交”
179
的新发展, 南洋问题研究 (3), tr.97-108.
170. 孙云飞 (2015), “中国周边外交调整的预期目标与大国反应 — 兼论中国
周边外交调整的突破口”, 世界经济与政治论坛 (4),tr.57-71.
171. 谭璟婧 (2017), “一带一路”背景下中国对印尼直接投资研究, 广西民族大
学硕士论文, 广西.
172. 王道征, 阮建平 (2018), “印度尼西亚 2019 年总统大选及其影响因素分析
”,东南亚纵横 (4), tr.46-55.
173. 温北炎 (2008), “印尼华人融入当地主流社会的现状、挑战和发展趋势”,
东南亚研究 (4) , tr.65-70.
174. 温北炎 (2012), “印尼民主改革时期华人社会几个热点问题”, 东南亚研
究 (6), tr.63-65.
175. 吴崇伯 (2014), “中国与印尼经济关系的发展与对策”, 江南社会学院学
报 (1), tr.39-43.
176. 吴征兰,胡列曲 (2015), “中国印尼金融合作问题研究”, 时代金融 (2),
tr.279-298.
177. 邢丽菊(2014), “从传统文化角度解析中国周边外交新理念 - 以’亲、诚、
惠、容’为中心”, 国际问题研究 (3), tr.9-20.
178. 习近平 (2018), “习近平在中央外事工作会议上强调 坚持以新时代中国
特色社会主义外交思想为指 导 努力开创中国特色大国外交新局面”,人民
日报, ngày 24-6, tr.1.
179. 许利平 (2011), “战略伙伴关系框架下的中国—印尼合作:基础、现状与
趋势”, 东南亚研究 (3), tr.55-60.
180. 许利平 (2013), “中国——印尼合作关系:现状与挑战, 载李向阳”, in 亚
太蓝皮书: 亚太地区发展报告 , 社会科学文献出版社, 北京.
181. 许梅, 黄丽嫦 (2010), “试析华侨华人在推动中国与印尼关系发展中的独
180
特作用”, Overseas Chinese Journal of Bagui (3), tr.34-38.
182. 薛松, 许利平 (2016), “印尼’海洋强国战略’与对华海洋合作”, 国际问题研
究 (3), tr.64-84.
183. 杨启光 (2006), “试论印尼华人文化”, 东南亚研究 (4), tr.71-78.
184. 杨洁勉 (2018), “改革开放 40 年中国外交理论建设”, 国际问题研究 (5),
tr.1-15.
185. 尹楠楠 (2018), “印尼佐科政府外交特点, 原因及挑战探析”, 江南社会学
院学报 (3), tr. 68-74.
186. 于志强 (2015), “佐科治下印度尼西亚的外交政策: 回归务实和民族主义”,
东南亚纵横 (7), tr.14-19.
187. 张清敏 (2014), “理解十八大以来的中国外交”, 外交评论:外交学院学
报 (2), tr.1-20.
188. 张 锐 (2016), “试论中国伙伴关系网络的政治安全效应”,国际展望 (5),
tr.40-59.
189. 张小倩 (2016), “二十一世纪以来印尼华人’再华化’现象研究”, 世界民族
(1), tr. 82-91.
190. 郑一省 (2012), “当代印尼华人社团与中国的软实力建设”, 东南亚南亚
研究 (3), tr. 62-68.
191. 郑 一 省 (2016), “ 海 上 丝 绸 之 路 历 史 中 的 印 尼 华 侨 华 人 ”, Overseas
Chinese Journal of Bagui (3), tr.27-33.
192. 周素勤 (2003), “三邻政策”与中国一东盟自由贸易区, 东南亚 (4) , tr.17-
20.
Website
193. BBC (2010), “ASEAN hoãn tự do mậu dịch với Trung Quốc?”, ngày 5/1,
http://www.bbc.com/vietnamese/business/2010/01/100105_china_
asean_delays.shtml, truy cập ngày 20/8/2019.
194. Lương Quang Đảng (2016), “Dân số ASEAN đang ở đâu trên bản đồ dân số
181
thế giới? (P1)”, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, ngày 11/4,
http://www.gopfp.gov.vn/news/-/details/18/2334159/dan-so-asean-%C4%91ang
-o-%C4%91au-tren-ban-%C4%91o-dan-so-the-gioi-p1, truy cập ngày
20/10/2019.
195. Phương Linh (2015), “Việt Nam nhập siêu hơn 32 tỷ USD từ Trung Quốc”,
VNExpress, ngày 26/12, https://vnexpress.net/kinh-doanh/viet-nam-nhap-sieu-
hon-32-ty-usd-tu-trung-quoc-3333807.html, truy cập ngày 25/9/2019.
196. An Nhi (2019), “Đường sắt Cát Linh – Hà Đông: một bảo tang về kinh
nghiệm thất bại”, VOV, ngày 12/6, https://vov.vn/vov-binh-luan/duong-sat-cat-
linh-ha-dong-mot-bao-tang-ve-kinh-nghiem-that-bai-920117.vov, truy cập ngày
25/9/2019.
197. Phạm Sỹ Thành (2019), “Bẫy nợ của Trung Quốc có đáng sợ?”, Nghiên cứu
Quốc tế, ngày 8/3, http://nghiencuuquocte.org/forums/topic/bay-no-cua-trung-
quoc-co-dang-so/, truy cập ngày 15/11/2019.
198. Đinh Tịnh (2019), “Bộ Giao thông vận tải bất lực trước tiến độ Dự án đường
sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông”, Vietnam Finance, ngày 26/8,
https://vietnamfinance.vn/bo-gtvt-bat-luc-truoc-tien-do-du-an-duong-sat-do-thi-
cat-linh-ha-dong-20180504224227999.htm, truy cập ngày 25/9/2019.
199. Tạp chí Cộng sản (2017), “Công bố Năm chỉ số liên kết giữa Trung Quốc và
các quốc gia ASEAN”, ngày 12/12, http://www.tapchicongsan.org.vn/
Home/PrintStory.aspx?distribution=48403&print=true, truy cập ngày 15/7/2018.
200. Aditya Arys , Suhartono Harry (2020), “U.S., Japan May Invest in Indonesia
Islands Near South China Sea”, Bloomberg, 17 Jan, https://www.bloomberg.com/
news/articles/2020-01-17/u-s-japan-may-invest-in-indonesia-islands-near-south-
china-sea, truy cập ngày 12/2/2020.
201. Allard Tom, Munthe Bernadette Christina (2017), “Asserting sovereignty,
Indonesia renames part of South China Sea”, Reuters, 14 Jul,
https://www.reuters.com/article/us-indonesia-politics-map/asserting-sovereignty
-indonesia-renames-part-of-south-china-sea-idUSKBN19Z0YQ, truy cập ngày
182
23/9/2019.
202. America (2019), “What Indonesia can expect from President Joko Widodo’s
second term”, 25 May, https://america.cgtn.com/2019/05/25/indonesia-election,
truy cập ngày 20/6/2019.
203. Associated Press (2018), “US may upset Beijing after it backs Indonesian
claim on South China Sea near Natuna islands”, South China Morning Post, 24
Jan, https://www.scmp.com/news/asia/southeast-asia/article/2130258/us-may-
upset-beijing-after-it-backs-indonesian-claim-south, truy cập ngày 15/8/2018.
204. ATKearney (2019), “5G in ASEAN: Reigniting Growth in Enterprise and
Consumer Markets”, http://www.southeast-asia.atkearney.com/documents/1781
738/3697768/5G+in+ASEAN+Reigniting+Growth+in+Enterprise+and+Consum
er+Markets.pdf/ccf1a9c7-1082-3bd3-b1ef-cfd2a39c2436?t=1568104453227,
truy cập ngày 03/12/2019.
205. Balcita Marilyn (2017), “China Backs BRI related Indonesian Tourism and
Infrastructure Plans”, HKTDC Resreach, 18 Oct, http://economists-pick-research
.hktdc.com/business-news/article/International-Market-News/China-Backs-BRI-
related-Indonesian-Tourism-and-Infrastructure-Plans/imn/en/1/1X000000/
1X0ABS4K.htm, truy cập ngày 20/8/2018.
206. Central Intelligence Agency (2015), “World Factbook: Central Asia:
Russia”, https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/rs.ht
ml, truy cập ngày 31/12/2017.
207. Chai Tommy (2018), “What Indonesia’s Rise Means to Australia”,
Australian Institute of International Affairs, 27 Dec, http://www.
internationalaffairs.org.au/australianoutlook/indonesias-rise-means-australia/,
truy cập ngày 15/9/2019.
208. Chalermpalanupap Termsak (2016), “No ASEAN Consensus on the South
China Sea”, The Diplomat, 21 Jul, https://thediplomat.com/2016/07/no-asean-
consensus-on-the-south-china-sea/, truy cập ngày 15/9/2019.
209. Chaturvedy Rajeev Ranjan, Ng Jefferson (2019), “Burgeoning India-
183
Indonesia Relations: Beyond Historical Nostalgia and Toward Strategic
Convergence”, The Diplomat, 8 Oct, https://thediplomat.com/2019/10/
burgeoning-india-indonesia-relations-beyond-historical-nostalgia-and-toward-
strategic-convergence/, truy cập ngày 15/9/2019.
210. Chilkoti Avantika (2015), “Indonesia struggles to boost foreign investment”.
Financial Times, 5 Aug, https://www.ft.com/content/72633a64-3669-11e5-
bdbb-35e55cbae175, truy cập ngày 20/8/2018.
211. China Daily (2017), “Indonesia keen to further expand tourism cooperation
with China”, China Daily, 17 Dec, http://www.chinadaily.com.cn/ a/201712/17
/WS5a390864a31008cf16da23f2.html, truy cập ngày 15/7/2018.
212. Cochrane Joe (2017), “Indonesia, Long on Sidelines, Starts to Confront
China’s Territorial Claims”, Newyorks Times, 10 Sep,
https://www.nytimes.com/ 2017/09/10/ world/asia/indonesia-south-china-sea-
military-buildup.html, truy cập ngày 24/6/2019.
213. Courtney Fingar (2015), “Indonesia bucks emerging market trend with rising
FDI”, Financial Times, 15 Oct, http://www.ft.com/intl/cms/s/3/1d64846e-7340-
11e5-bdb1-e6e4767162cc.html#axzz412D3YLxl, truy cập ngày 25/2/2016.
214. Cronin Patrick M., Burke Isabelle M. (2019), “Time to Take the US-
Indonesia Strategic Partnership Seriously”, The Diplomat, 30 Jul,
https://thediplomat.com/2019/07/time-to-take-the-us-indonesia-strategic-
partnership-seriously/, truy cập ngày 15/9/2019.
215. Dewi Kurniawati (2016), “Indonesia’s Complicated Relations with China”,
Asia Entinel, 5 Aug, https://www.asiasentinel.com/politics/indonesia-china-
complicat ed-relations/, truy cập ngày 15/9/2019.
216. Edward Ng (2017), “The rise of Chinese FDI into ASEAN”, Nikkoam, Oct,
https://en.nikkoam.com/articles/2017/10/the-rise-of-chinese-fdi-into-asean, truy
cập ngày 15/9/2019.
217. Elmer Keegan (2018), “Indonesia looks China it tries deal trade pressurt US”,
184
South China Morning Post, 21 Jul, https://www.scmp.com/news/china/
diplomacy-defence/article/2156284/indonesia-looks-china-it-tries-deal-trade-
pressure-us, truy cập ngày 20/8/2019.
218. Fabi Randy, Kapoor Kanupriya (2016), “Indonesia’s ‘Red Scare’ Stokes
Unease over Military’s Growing Influence,” Reuters, 18 May,
https://www.reuters.com/article/us-indonesia-military-idUSKCN0Y933F, truy
cập ngày 14/9/2019.
219. Feng Bree (2014), “印尼宣布加入中国主导的地区发展银行”, NewYork
Times, 27 Nov, https://cn.nytimes.com/asia-pacific/20141127/c27chinabank/,
truy cập ngày 15/7/2018.
220. Flugge Geoffrey (2018), “What about India, Indonesia, Australia: The new
trilateral?”, Brookings, 19 Sep, https://www.brookings.edu/blog/up-front/
2018/09/19/what-about-india-indonesia-australia-the-new-trilateral/, truy cập
ngày 16/9/2019.
221. Foreign Policy (2019), “For Uighur Muslims in China, Life Keeps Getting
Harder”, 26 Oct, https://foreignpolicy.com/2019/10/26/uighur-concentration-
camps-surv eillance-spies-china-control/, truy cập ngày 15/12/2019.
222. GBG Indonesia (2015), “What China’s Slowdown Means for Indonesia: A
Trade Perspective”, Global business guide Indonesia, 18 Sep,
http://www.gbgindonesia.com/en/main/business_updates/2015/what_china_s_sl
owdown_means_for_indonesia_a_trade_perspective_11313.php, truy cập ngày
15/7/2018.
223. Gong Xue (2018), “Why Some in South-east Asia still Have Reservations
about China’s Belt and Road Initiative,” Today Online, 20 March,
https://www.todayonline.com/commentary/why-some-south-east-asia-still-have-
reservationsabout-chinas-belt-and-road-initiative, truy cập ngày 15/9/2019.
224. Gosman Keith (2016), “Indonesia’s Widodo Tells China No Compromise on
Sovereignty”, Bloomberg, 4 Nov, https://www.bloomberg.com/news/articles/
2016-11-04/indonesia-tells-china-no-compromise-on-sea-sovereignty-smh, truy
185
cập ngày 20/8/2018.
225. Harding Brian, Sutton Trevor (2017), “U.S - Indonesia and U.S - Malaysia
Relations in the Trump Era”, Center for American Progress, 5 June,
https://www.americanprogress.org/issues/security/reports/2017/06 /05/433540/
u-s-indonesia-u-s-malaysia-relations-trump-era/, truy cập ngày 15/8/2019.
226. Heriyanto D. (2016), “Indonesian-Chinese people-to-people relations:
Growing but underdeveloped”, The Jakarta Post, 23 Nov,
https://www.thejakartapost.com/academia/2016/11/23/indonesian-chinese-
people-to-people-relations-growing-but-underdeveloped.html, truy cập ngày
23/9/2019.
227. Heydarian Richard (2018), “How Indonesia keeps maritime tensions from
defining its relationship with China”, South China Morning Post, 3 Nov,
https://www.scmp.com/news/china/ diplomacy/article/2170764/how-indonesia-
keeps-maritime-tensions-defining-its-relationship, truy cập ngày 15/8/2019.
228. Ibrahim Zuraidah (2015), “Indonesia to throw open doors to Chinese
investment; seeks details on maritime Silk road”, South China Morning Post, 25
Mar, http://www.scmp.com/news/asia/article/1746628/widodo-aims-use-china-
visit-boost-ties-and-seek-details-maritime-silk-road, truy cập ngày 03/03/2018.
229. Izzuddin Mustafa (2018), “US-Indonesia defence ties at a turning point: Old
friends, new realities”, Asia & the Pacific policy society, 5 Apr,
https://www.policyforum.net/us-indonesia-defence-ties-at-a-turning-point/, truy
cập ngày 10/1/2020.
230. Javadi Tiola (2016), “Indonesia’s China Strategy: ‘Flexible Hedging,’” The
National Interest, 20 April, http://nationalinterest.org/feature/indonesias-china-
strategy-flexible-hedging-15843, truy cập ngày 15/8/2019.
231. Jin Liqun, Yudi Pramadi (2014), “Indonesia Signs MoU to Join Asian
Infrastructure Investment Bank”, Indonesia Investments, 29 Nov,
http://www.indonesia-investments.com/news/todays-headlines/indonesia-signs-
mou-to-join-asian-infrastructure-investment-bank/item2663, truy cập ngày
186
15/7/2018.
232. Jokowi (2015), “Indonesian president says China's main claim in South
China Sea has no legal basis”, Reuters, 23 March, https://www.reuters.com/
article/us-indonesia-china-southchinasea/indonesian-president-says-chinas-
main-claim-in-south-china-sea-has-no-legal-basis-idUSKBN0MJ04320150323,
truy cập ngày 24/6/2019.
233. Kawashima Shin (2018), “A new norm in China–Japan relations?”, East Asia
Forum, 1 Nov, https://www.eastasiaforum.org/2018/11/01/a-new-norm-in-
china-japan-relations/, truy cập ngày 06/08/2019.
234. Kim Chi-wook (2009), “Middle Power as a Unit of Analysis of International
Relations: Its Conceptualization and Implications”, Korean Journal of
International Studies 49 (1), pp.7–36, dẫn lại từ Dong-min Shin (2015), “A
critical review of the concept of middle power”, E-International Relations, 4
Dec, https://www.e-ir.info/2015/12/04/a-critical-review-of-the-concept-of-middl
e-power/, truy cập ngày 15/8/2019.
235. Kyodo (2015), “China wins Indonesia high-speed rail project as Japan
laments ‘extremely regrettable’ U-turn”, South China Morning Post, 29 Sep,
https://www.scmp.com/news/asia/southeast-asia/article/1862459/china-wins-
indonesia-high-speed-rail-project-japan-laments, truy cập ngày 23/8/2019.
236. Kyodo (2017), “Indonesian foreign minister, Suu Kyi hold talks on Rohingya
crisis”, South China Morning Post, 4 Sep, https://www.scmp.com/news/asia/
southeast-asia/article/2109721/indonesian-foreign-minister-suu-kyi-hold-talks-
rohingya, truy cập ngày 03/12/2019.
237. Liaison Foreign (2018), “Improving US – Indonesia Relations”, Pinter
Politik, 22 Aug, https://www.pinterpolitik.com/improving-us-indonesia-
relations/, truy cập ngày 15/9/2019.
238. Lie Vincent, Masengi Yohanes (2017), “The Japanese overseas investmen
Report 2017: Indonesia”, International Financial Law Review, ngày 29/3,
http://www.iflr.com/Article/3673587/The-Japanese-Overseas-Investment-
187
Report-2017-Indonesia.html, truy cập ngày 03/08/2019.
239. MacDonald Adam (2015), “Analyzing China's Rise in International
Relations Theory”, CDA Institute, 8 Oct, https://cdainstitute.ca/analyzing-china-
s-rise-in-international-relations-theory-neo-realism-part-1/, truy cập ngày
15/8/2018.
240. Mana. Jimmy (2013), New book examines Communist rebellion Indonesia,
Aftermath, VOAnews, 27 Oct, https://www.voanews.com/a/new-book-examines-
communist-rebellion-indonesia-aftermath/ 1778158.html, truy cập ngày 15/8/2019.
241. Marketscreener (2020), “FDI into Indonesia falls below 2019 target, but
seen rising this year”, 29 Jan, https://www.marketscreener.com/news/FDI-into-
Indonesia-falls-below-2019-target-but-seen-rising-this-year--29905135/, truy
cập 10/2/2020.
242. Maruti Retno (2019), “How Indonesia finds itself in the middle of a US-
China trade war”, Lowy Institute, 18 Jul, https://www.lowyinstitute.org/the-
interpreter/indonesia-middle-us-china-trade-war , truy cập ngày 15/4/2020.
243. Massola James, Rosa Amilia (2020), “Natuna: an idyll on the front line
between Indonesia and China”, The Sydney Morning Herlad, 27 Jun,
https://www.smh.com.au/world/asia/natuna-an-idyll-on-the-front-line-between-
indonesia-and-china-20200617-p553g2.html, truy cập ngày 30/6/2020.
244. Maulia Erwida (2018), “China becomes Indonesia's No. 2 investor with
infrastructure drive”, Asia Review, 1 Feb, https://asia.nikkei.com/Politics/
International-relations/China-becomes-Indonesia-s-No.-2-investor-with-
infrastructure-drive, truy cập ngày 25/8/2018.
245. Minister for Foreign Affairs of Japan (2020), “Japan-Indonesia Foreign
Ministers’ Meeting (Japan-Indonesia Ministerial-Level Strategic Dialogue)”, 10
Jan, https://www.mofa.go.jp/s_sa/sea2/id/page3e_0011 51.html, truy cập ngày
12/2/2020.
246. Mofa (2008), “Joint Statement between the Government of Japan and the
Government of the People's Republic of China on Comprehensive Promotion of
188
a "Mutually Beneficial Relationship Based on Common Strategic Interests", 5
May, https://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/china/joint0805.html, truy cập
ngày 06/08/2019.
247. Nectar Gan (2018), “How China is trying to impose Islam with Chinese
characteristics in the Hui Muslim heartland”, South China Morning Post, 14
May, https://www.scmp.com/news/china/policies-politics/article/2145939/how-
china-trying-impose-islam-chinese-characteristics, truy cập ngày 15/9/2019.
248. Nirmala Ronna (2020), “Perception of Chinese Influence Rises in Indonesia,
Survey Shows”, Benar News, 13 Jan, https://www.benarnews.org/english/
news/indonesian/survey-results-01132020165219.html, truy cập ngày 15/6.
249. Nithin Coca (2019), “Are Indonesia and Malaysia Ready to Stand up for
China’s Muslims?”, The Diplomat, 28 Jan, https://thediplomat.com/2019/01/are-
indonesia-and-malaysia-ready-to-stand-up-for-chinas-muslims/, truy cập ngày
03/12/2019.
250. Nixon Stewart (2019), “Where does Malaysia stand on China’s Belt and
Road?”, Asian Correspondent, Apr, https://asiancorrespondent.com/2019/04/
where-does-malaysia-stand-on-chinas-belt-and-road/, truy cập ngày 20/10/2019.
251. Noi Goh Sui (2018), “China wants closer ties with Indonesia, says Premier
Li Keqiang”, Straits Times, 9 Feb, https://www.straitstimes.com/ asia/se-
asia/china-wants-closer-ties-with-indonesia-says-li, truy cập ngày 10/9/2019.
252. OEC (2019), “What is the trade balance for Malaysia to China (1995-
2004)”, https://oec.world/en/visualize/line/hs92/show/mys/chn/all/1995.2004/,
truy cập ngày 30/10/2019.
253. Pangestu Mari (2017), “How US, Indonesia can both win from strengthening
ties”, CNN, 22 Apr, https://edition.cnn.com/2017/04/22/opinions/us-indonesia-
pence-ties/index.html, truy cập ngày 15/9/2018.
254. Parameswaran Prashanth (2014c), “Is Indonesia Turning Away From
ASEAN Under Jokowi?”, The Diplomat, 18 Dec, https://thediplomat.com/
2014/12/is-indonesia-turning-away-from-asean-under-jokowi/, truy cập ngày
189
15/8/2019.
255. Radu Sintia (2019), “5G’s Collateral Winners: Southeast Asia”, US News, 12
Nov, https://www.usnews.com/news/best-countries/articles/2019-11-12/southe
ast-asia-will-be-a-collateral-winner-of-the-5g-race truy cập ngày 02/12/2019.
256. Rakhmat Muhammad Zulfikar (2020), “Coronavirus can strengthen China’s
ties with Indonesia”, South China Morning Post, 12 Apr,
https://www.scmp.com/week-asia/opinion/article/3079301/coronavirus-can-
strengthen-chinas-ties-indonesia, truy cập ngày 15/6/2020.
257. Refworld (2006), “Law of the Republic of Indonesia Number 12, 2006 on
Citizenship of the Republic of Indonesia”, https://www.ref
world.org/pdfid/4538aae64.pdf, truy cập ngày 15/10/2019.
258. Reuters (2020a), “Indonesia rejects China's claims over South China Sea”, 1
Jan, https://www.reuters.com/article/us-indonesia-china-southchinasea/ indonesi
a-rejects-chinas-claims-over-south-china-sea-idUSKBN1Z01RE, truy cập ngày
12/2/2020.
259. Reuters (2020b), “Indonesia deploys fighter jets in stand-off with China”, 7
Jan, https://www.reuters.com/article/us-indonesia-china/indonesia-deploys-
fighter-jets-in-stand-off-with-china-idUSKBN1Z61AM, truy cập ngày
12/2/2020.
260. Reuters (2020c), “Indonesia asks Japan to invest in islands near waters
disputed with China”, 10 Jan, https://www.reuters.com/article/us-indonesia-
japan-southchinasea/indonesia-asks-japan-to-invest-in-islands-near-waters-
disputed-with-china-idUSKBN1Z90IY, truy cập ngày 12/2/2020.
261. Salna K. (2017), “Like Bali? Indonesia wants to create 10 of them to draw
Chinese Tourist”, The Jakarta Post, 20 Oct, https://www.thejakarta
post.com/travel/2017/ 10/20/like-bali-indonesia-wants-to-create-10-of-them-to-
draw-chinese-tourists.html, truy cập ngày 23/9/2019.
262. Saragih Bagus BT (2014), “Jokowi people-based diplomacy”, The Jakarta
Post, 10 Sep, https://www.thejakartapost.com/news/2014/09/10/jokowi-people-
190
based-diplomacy.html, truy cập ngày 10/12/2019.
263. Septiari Dian (2019), “US raises China’s Uighur problem with Indonesian
Muslim groups”, The Jakarta Post, 16 Oct, https://www.thejakartapost.com/
news/2019/10/15/us-raises-chinas-uighur-problem-with-indonesian-muslim-
groups.html, truy cập ngày 03/12/2019.
264. Shin Dong-min (2015), “A Critical Review of the Concept of Middle Power”,
E-international Relations, 4 Dec, https://www.e-ir.info/2015/12/04/a-critical-
review-of-the-concept-of-middle-power/, truy cập 26/10/2019.
265. Sidel John T. (2017), “What Killed the Promise of Muslim Communism?”,
The New York Times, 9 Oct, https://www.nytimes.com/2017/10/09/opinion
/muslim-communism.html, truy cập ngày 15/9/2019.
266. Sina (2005), “中国和印尼关于建立战略伙伴关系的联合宣言”, ngày 26/4,
http://news.sina.com.cn/c/2005-04-26/18145757459s.shtml, truy cập ngày
20/8/2019.
267. Sriyanto Nanto (2015), “65 Years of Bilateral Relations Between Indonesia
and China: Strengthening and Building Constructive Relations through People-
to-People Relations”, Pusat Penelitian Politik, 4 Dec, http://www.politik.
lipi.go.id/kolom/kolom-1/politik-internasional/1035-65-years-of-bilateral-
relations-between-indonesia-and-china-strengthening-and-building-constructive-
relations-through-people-to-people-relations-volume-2, truy cập ngày 20/8/2019.
268. Statistics Times (2015), “World GDP (nominal) Ranking”, 21 Apr,
http://statisticstimes.com/economy/world-gdp-ranking.php, truy cập ngày
20/10/2019.
269. Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI) (2015), “SIPRI
Military Expenditure Database”, https://www.sipri.org/databases/milex, truy
cập ngày 31/9/2017.
270. Straits Times (2019), “Indonesia may be next Asian country to spurn China
in election”, 31 March, https://www.straitstimes.com/asia/se-asia/indonesia-
191
may-be-next-asian-country-to-spurn-china-in-election, truy cập ngày 25/9/2019.
271. Supriyanto Ristian Atriandi (2016), “A View from Indonesia”, The ASAN
Forum, 28 Apr, http://www.theasanforum.org/a-view-from-indonesia/, truy cập
ngày 11/6/2019.
272. Tempo (2015), “Thousands of Chinese Workers Enter Indonesia”, Tempo, 31
Aug, https://en.tempo.co/read/news/2015/08/31/055696470/Thousands-of-Chine
se-Workers-Enter-Indonesia, truy cập ngày 20/8/2018.
273. Tobin Meaghan (2019), “My way or Huawei: how US ultimatum over
China’s 5G giant fell flat in Southeast Asia”, South China Morning Post, 20 Apr,
https://www.scmp.com/week-asia/geopolitics/article/3006961/my-way-or-
huawei-how-us-ultimatum-over-chinas-5g-giant-fell, truy cập ngày 03/12/2019.
274. Today online (2015), “Indonesia sinks 41 illegal fishing boats, including one
from China”, 21 May, https://www.todayonline.com/world/asia/indonesia-sinks-
41-illegal-fishing-boats-including-one-china, truy cập ngày 24/6/2019.
275. The Asean Post (2019), “China in Indonesia election spotlight”, 15 Apr,
https://theaseanpost.com/article/china-indonesia-election-spotlight, truy cập
ngày 23/9/2019.
276. The Economist (2019), “Few Chinese officials are blushing at a damning
leak about Xinjiang”, 21 Nov, https://www.economist.com/china/2019/11/21/
few-chinese-officials-are-blushing-at-a-damning-leak-about-xinjiang, truy cập
ngày 03/12/2019.
277. The Insider Stories (2019), “Indonesia, China Signs 23 Investment and Trade
Agreements”, 29 April, https://theinsiderstories.com/indonesia-china-signs-23-
investment-and-trade-agreements/, truy cập ngày 22/2/2020.
278. The Jakarta Post (2017), “Indonesia, China cooperate to boost tourist
arrivals”, 11 Mar, https://www.thejakartapost.com/news/2017/03/11/indonesia-
china-cooperate-to-boost-tourist-arrivals.html, truy cập ngày 23/9/2019.
279. The Jakarta Post (2018), “Indonesia among top 10 destinations for Chinese
192
tourists in 2017”, 9 Mar, http://www.thejakartapost.com/travel/2018/03/09/
indonesia-among-top-10-destinations-for-chinese-tourists-in-2017.html, truy cập
ngày 20/8/2018.
280. The Jakarta Post (2019), “Bakamla eyes coordinated response to Chinese
activity in the Natunas”, 29 Dec, https://www.thejakartapost.com/news/2019/12/
29/bakamla-eyes-coordinated-response-to-chinese-activity-in-the-natunas.html,
truy cập ngày 12/2/2020.
281. The White House Office of the Press and Secretary (2015), “Strategic
Partnership Joint Statement”, The United States - Indonesia Society, 26 Oct,
http://www.usindo.org/assets/up/2017/07/Strategic-Partnership-Joint-
Statement.pdf, truy cập ngày 15/7/2018.
282. Vietnam News (2019), “Vietnam, China trade ties continue to develop”, 25
Apr, https://vietnamnews.vn/economy/519131/viet-nam-china-trade-ties-cont
inue-to-develop.html #WEwGSIxh7vivLBw4.97, truy cập ngày 25/9/2019.
283. Vulliamy Ed, Barnett Antony (1999), “US trained buchers of Timor”, The
Guardian, 19 Sep, https://www.theguardian.com/world/1999/sep/19/indonesia
.easttimor1, truy cập ngày 15/9/2019.
284. Wei Shan (2019), “Xinjiang casts uncertainty over the Belt and Road
Initiative”, East Asia Forum, 29 Nov, https://www.eastasiaforum.org/2019/
11/29/xinjiang-casts-uncertainty-over-the-belt-and-road-initiative/, truy cập
ngày 03/12/2019.
285. Wijaya Trissia, Osaki Yuma (2019), “Is this a true thaw in Sino – Japanese
Relations”, The Diplomat, 16 Feb, https://thediplomat.com/2019/02/is-this-a-
true-thaw-in-sino-japanese-relations/, truy cập ngày 06/08/2019.
286. Workman Daniel (2019), “Indonesia’s Top Trading Partners”, World’s Top
Exports, 24 Oct, http://www.worldstopexports.com/indonesias-top-15-import-
partners/, truy cập ngày 15/12/2019.
287. World Population Review (2019), “Indonesia Population 2019”, 6 Oct,
http://worldpopulationreview.com/countries/indonesia-population, truy cập ngày
193
15/11/2019.
288. Xinhua (2018), “Indonesian Foreign Minister to visit China”, 5 Feb,
http://www.xinhuanet.com/english/2018-02/05/c_136950977.htm, truy cập ngày
15/9/2018.
289. Yudhoyono Susilo (2009), “Susilo inaugurated as Indonesian president”,
CCTV, 20 Oct, http://english.cctv.com/20091020/103063_4.shtml, truy cập ngày
15/12/2019.
290. Yuniar Resty Woro (2019), “Indonesia set to choose Japan over China to get
second rail mega-project on track”, South China Morning Post, 13 Sep,
https://www.scmp.com/week-asia/politics/article/3026962/indonesia-set-choose-
japan-over-china-get-second-rail-mega, truy cập ngày 15/9/2019.
291. Zhang Ketian (2020), “Chinese Coercion in the South China Sea: Resolve
and Costs,” Policy Brief of Belfer Center for Science and International Affairs,
Harvard Kennedy School, January, https://www.belfercenter.org/publication/
chinese-coercion-south-china-sea-resolve-and-costs-0, truy cập ngày 15/6/2020.
292. Zreik Mohamad (2019), “Sino-Indonesian Relations: From Friendship to
Alliance”, Morden Diplomacy, 17 Jul, https://moderndiplomacy.eu/2019/07/17/
sino-indonesian-relations-from-friendship-to-alliance/, truy cập ngày 15/9/2019.
293. 对外贸易 (2019), “2018 年印尼对外贸易/中印尼双边贸易概况, 附印尼主
要进出口产品”, ngày 6/3, https://www.duiwaimaoyi.com/archives/3287.html,
truy cập ngày 23/9/2019.
294. 对外贸易 (2020), “2019 年印度尼西亚对外贸易及主要进出口产品,中
印尼双边贸易及主要进出口产品”, ngày 9/4, https://www.duiwaimaoyi.com/
2020/04/ 2518.html, truy cập ngày 26/6/2020.
295. 多维新闻网 (2020a), “中国最新轰6J 战巡南沙北京控九段线由虚变实”,
ngày 7/1, https://www.dwnews.com/中国最新轰 6J 战巡南沙北京控九段线由
194
虚变实, truy cập ngày 12/2/2020.
296. 多维新闻网 (2020b), “中 国 与 印 尼 南 海 对 峙 现 场 高 清 照 曝 光 ” ,
ngày 13/1, https://www.dwnews.com/中国与印尼南海对峙现场高清照曝光,
truy cập ngày 12/2/2020.
297. 凤凰网 (2019), “越南在万安滩钻探油气,外交部:应停止单方面侵权活
动” , ngày 18/9, https://news.ifeng.com/c/7q4W5EklBrM, truy cập ngày
23/9/2019.
298. 江泽民(2008),“江泽民在中国共产党第十六次全国代表大会上的报
告 ” , 中 华 人 民 共 和 国 中 央 人 民 政 府 网 站 , ngày 1/8,
http://www.gov.cn/test/2008-08/01/content_1061490_9.htm, truy cập ngày
23/9/2019.
299. 廖建裕 (2014), “印尼为何在此时废除“支那”称谓?”, 环球网, ngày 26/3,
http://opinion.huanqiu.com/opinion_world/2014-03/4932303.html?agt=15422,
truy cập ngày 13/8/2019.
300. 林立平 (2007), “曹刚川与印尼国防部长会谈 ”, 人民网, ngày 7/11,
http://politics.people.com.cn/GB/1026/6497887.html, truy cập ngày 20/8/2019.
301. 人 民 网 (2017), “ 中资银行助力印尼经济结硕果”, ngày 13/3,
http://world.people.com.cn/n1/2017/0313/c1002-29141676.html, truy cập ngày
20/9/2019.
302. 商务部 (2016a), “推动共建丝绸之路经济带和 21 世纪海上丝绸之路的愿
景与行”, ngày 26/1, http://www.mofcom.gov.cn/article/i/dxfw/ jlyd/201601/20
16010124334 2.shtml, truy cập ngày 23/8/2018.
303. 商 务 部 (2016b), “中国对外投资合作发展报告 2014”,
http://fec.mofcom.gov.cn/article/tzhzcj/tzhz/upload/duiwaitouzihezuofazhanbao
gao2014.pdf, truy cập ngày 25/2/2016.
304. 商务部 (2020), “2020 年 1-3 月中国与亚洲周边国家双边贸易统计”, 商
务部亚洲司, ngày 26/4, http://www.mofcom.gov.cn/article/tongjiziliao/sjtj/
195
yzzggb/202004/20200402958980.shtml, truy cập ngày 26/6/2020.
305. 外交部 (2016), “2016 年6 月15 日外交部发言人陆慷主持例行记者会”,
ngày 15/6, https://www.fmprc.gov.cn/web/wjdt_674879/fyrbt_674889/t137247
9.shtml, truy cập ngày 15/9/2018.
306. 外 交 部 ( 2019a ) , “中国同印度尼西亚的关系”, https://www.fmprc.
gov.cn/web/gjhdq_676201/gj_676203/ yz_676205/1206_677244/sbgx_677248/,
truy cập ngày 13/11/2019.
307. 外 交 部 (2019b), “中国同马来西亚的关系”, tháng 4 , https://www.
fmprc.gov.cn/web/gjhdq_676201/gj_676203/yz_676205/1206_676716/sbgx_67
6720/, truy cập ngày 15/7/2019.
308. 王立平 (2018), “推动中印尼经贸合作更上层楼”, 中国商务新闻网, ngày
8/5, http://www.gov.cn/xinwen/2018-05/08/content_5289200.htm, truy cập ngày
20/9/2018.
309. 温家宝 (2003), “中国发展将给亚洲各国带来机遇和利益”, 中国新闻网,
ngày 7/10, http://www.chinanews.com/n/2003-10-07/26/354264.html, truy cập
ngày 15/9/2019.
310. 温家宝 (2005), “2005 年政府工作报告(全文)”,中国发展门户网, ngày
7/3/2010, http://cn.chinagate.cn/reports/2010-03/07/content_19548964_8.htm,
truy cập ngày 15/9/2019.
311. 温家宝 (2007), “胡锦涛在党的十七大上的报告”, 人民网, ngày 24/10,
http://politics.people.com.cn/GB/8198/6429198.html, truy cập ngày 15/9/2019.
312. 习近平 (2013a), “国家主席习近平在莫斯科国际关系学院的演讲(全文)”,
新华网, ngày 24/3, http://www.xinhuanet.com//politics/2013-03/24/c_1244
95576.htm, truy cập ngày 20/10/2019.
313. 习近平 (2013b), “习近平在周边外交工作座谈会上发表重要讲话”,新华
网 , ngày 25/10, http://www.xinhuanet.com//politics/2013-10/25/c_11787
196
8897.htm, truy cập ngày 15/12/2019.
314. 习近平 (2014), “积极树立亚洲安全观 共创安全合作新局面”, 新华网,
ngày 21/5, http://www.xinhuanet.com//world/2014-05/21/c_126528981.htm,
truy cập ngày 15/9/2019.
315. 习近平 (2018), “五年来,习近平这样谈周边外交”, 新华网,ngày 25/10,
http://www.xinhuanet.com/politics/xxjxs/2018-10/25/c_1123609951.htm, truy
cập ngày 15/11/2019.
316. 新华网 (2010), “中印签署两国关于落实战略伙伴关系联合宣言的行动计
划”, ngày 22/1, http://www.asean-china-center.org/2010-01/22/c_13360815
.htm, truy cập ngày 20/8/2018.
317. 新华网 (2013), “中印尼全面战略伙伴关系未来规划(全文)”, ngày
4/10, http://news.xinhuanet.com/world/2013-10/04/c_117592330.htm, truy cập
ngày 20/8/2019.
318. 新华网 (2015), “中华人民共和国和印度尼西亚共和国关于加强两国全面
战略伙伴关系的联合声明”, ngày 26/3, http://news.xinhuanet.com/world/2015-
03/26/c_127625705.htm, truy cập ngày 20/8/2019.
319. 新华网 (2018a), “中国、印尼海上执法机构举行首次工作会晤”, ngày
31/3, http://sn.people.com.cn/n2/2018/0331/c378286-31408590.html, truy cập
ngày 20/8/2018.
320. 新华网 (2018b), “中华人民共和国政府和印度尼西亚共和国政府联合声
明”, ngày 8/5, http://www.xinhuanet.com/2018-05/08/c_1122797023.htm, truy
cập ngày 20/8/2018.
321. 新华网 (2019a), “2018 年访问印尼中国游客数量 213.75 万人”, ngày
18/3, http://www.xinhuanet.com/travel/2019-03/18/c_1124248294.htm, truy cập
ngày 17/3/2020.
322. 新华网 (2019b), “新疆的若干历史问题”, ngày 21/7, http://www.xinhuanet.
197
com/politics/2019-07/21/c_1124779069.htm, truy cập ngày 15/9/2019.
323. 新华网(2019c), “魏凤和与印度尼西亚国防部长举行会谈”, ngày 17/12,
http://www.xinhuanet.com/2019-12/17/c_1210398954.htm, truy cập ngày
16/2/2020.
324. 新浪网 (2019a), “印尼学生:到中国留学可以改变自己的命运”, ngày
27/7, https://k.sina.com.cn/article_1686546714_6486a91a02000qelt.html, truy
cập ngày 17/3/2020.
325. 新浪网 (2019b), “印尼举办HSK 考试暨中国留学就职展, 近万学生参加
汉 考 ”, ngày 27/10, https://news.sina.com.cn/o/2019-10-27/doc-
iicezuev5287670 .shtml, truy cập ngày 18/3/2020.
326. 中国商务(2018), “印尼营商环境不断改善以期吸引更多中企投资”, ngày
20/4, https://www.pressreader.com/china/chinas-foreign-trade-chinese/20 1804
20/281998968145932, truy cập ngày 20/8/2018.
327. 中国商务新闻网 (2018), “借力一带一路 中印尼两国经贸合作迎来新时
代”, ngày 8/5, http://www.gov.cn/xinwen/2018-05/08/content_5289198.htm,
truy cập ngày 16/3/2020.
328. 中国政府网 (2018), “专访:印尼和中国人文交流方兴未艾——访印尼新
任驻华大使乔哈里”, ngày 6/5, http://www.gov.cn/xinwen/2018-05/06/content
198
_5288421.htm, truy cập ngày 10/3/2020.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.
TUYÊN BỐ CHUNG CỦA NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG
HOA VÀ NƯỚC CỘNG HÒA INDONESIA VỀ VIỆC THIẾT LẬP QUAN
HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC
Xinhua.net tại Jakarta, ngày 26 tháng 4 đưa tin:
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Indonesia Susilo ngày 25
đã ký Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Indonesia tại Jakarta. Toàn văn tuyên
bố như sau:
Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia là để kỉ niệm 55 năm thiết lập quan hệ
ngoại giao giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia, 50 năm Hội
nghị Bandung, 60 năm thành lập Liên hợp quốc, chúng tôi là những người đứng đầu
nhà nước Trung Quốc và Cộng hòa Indonesia, đã cùng nhìn lại quá trình phát triển
của mối quan hệ song phương.
Chúng tôi thống nhất cho rằng Trung Quốc và Indonesia đã trở thành đối tác
quan trọng của nhau. Là hai nước đang phát triển lớn, chúng ta cần phải giải quyết
các lợi ích lâu dài từ tầm cao chiến lược, đưa mối quan hệ giữa hai nước lên một
tầm cao mới, mang lại lợi ích cho hai nước và nhân dân hai nước, và có những đóng
góp mới cho sự đoàn kết hợp tác của các nước đang phát triển và sự nghiệp phát
triển hòa bình của nhân loại.
Chính vì vậy, chúng tôi đã đồng ý thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia.
Mối quan hệ đối tác chiến lược này phải là mối quan hệ không liên kết,
không loại trừ nhau nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho hai nước
và nhân dân hai nước. Mối quan hệ đối tác chiến lược này cần phải dựa trên “Hiến
199
chương Liên hợp quốc”, Năm nguyên tắc chung sống hòa bình, Mười nguyên tắc
của Hội nghị Bandung, “Hiệp ước hợp tác hữu nghị ở Đông Nam Á” và các Luật
pháp quốc tế khác đã được công nhận.
Quan hệ đối tác chiến lược này phải là trụ cột quan trọng để tăng cường mối
quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN và cũng là một bộ phận cấu thành
quan trọng của hợp tác Nam-Nam giữa các nước đang phát triển. Quan hệ đối tác
chiến lược này phải trở thành một cơ sở để triển khai sự phối hợp và hợp tác chặt
chẽ giữa các diễn đàn và tổ chức trong khu vực, xuyên khu vực và quốc tế, nhằm cố
gắng xây dựng mối liên kết toàn diện và cùng có lợi, để đón nhận những thách thức
của thiên niên kỷ mới và thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực và
thế giới.
Quan hệ đối tác chiến lược này cần phải có ý nghĩa chính là tăng cường hợp
tác chính trị và an ninh, tăng cường hợp tác kinh tế và phát triển, thúc đẩy hợp tác
văn hóa xã hội và mở rộng giao lưu trong nhân dân.
Vì vậy, chúng tôi đã đạt được sự đồng thuận sau đây:
I. Hợp tác chính trị và an ninh
(1) Tăng cường các chuyến thăm và liên lạc cấp cao thường xuyên, thúc đẩy
các cuộc tiếp xúc và liên hệ với nhau, thúc đẩy đối thoại về các vấn đề của hai bên,
vấn đề khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm:
1. Xây dựng cơ chế đối thoại ở cấp ủy viên Quốc vụ và cấp bộ trưởng Bộ
Điều phối để tăng cường mối quan hệ và hợp tác song phương giữa Trung Quốc-
Indonesia;
2. Củng cố vai trò của Ủy ban liên kết hợp tác song phương Trung Quốc-
Indonesia do hai bộ trưởng ngoại giao lãnh đạo trong việc điều hành và xem xét các
cơ chế đối thoại hiện có;
3. Tăng cường vai trò của các cuộc tham vấn chính thức cấp cao Trung
Quốc-Indonesia trong việc thực hiện các quyết định mà cơ chế đối thoại song
phương ở tất cả các cấp đã đưa ra, và tìm hiểu bổ sung các cơ chế phù hợp trong các
200
lĩnh vực hợp tác trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên khi cần thiết;
4. Khuyến khích các cơ quan lập pháp của Trung Quốc và Indonesia trao đổi
trực tiếp, và duy trì sự phối hợp và hợp tác giữa các tổ chức của Hội nghị quốc tế
như Tổ chức hội nghị ASEAN, Hiệp hội Hòa bình của Hiệp hội châu Á và Liên
minh Nghị viện các nước…
(2) Tiếp tục thúc đẩy sự hiểu biết và ủng hộ lẫn nhau giữa hai nước trên
nguyên tắc tôn trọng nhau về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trung Quốc
ủng hộ những nỗ lực của Chính phủ Cộng hòa Indonesia trong việc bảo vệ sự thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Indonesia nhắc lại việc tiếp tục tuân thủ chính
sách một Trung Quốc và công nhận Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn bộ Trung Quốc, và Đài Loan
là một bộ phận không thể tách rời của Trung Quốc. Indonesia ủng hộ quá trình hòa
bình thống nhất của Trung Quốc.
(3) Tiếp tục nỗ lực trong tiến cải cách và dân chủ hóa hiệu quả của hệ thống
Liên Hợp Quốc, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, tăng cường vai trò của Liên hợp
quốc trong việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển bền vững của
quốc tế, và đảm bảo cho các nước đang phát triển có quyền tham gia và chia sẻ
nhiều hơn trong quá trình ra quyết định của Liên hợp quốc.
(4) Tăng cường hợp tác với các nước châu Á và châu Phi thông qua quan hệ
đối tác chiến lược châu Á - châu Phi mới, tăng cường hợp tác với các quốc gia
Phong trào không liên kết và Nhóm 77 nước, cùng đối phó với những thách thức đặt
ra bởi toàn cầu hóa và môi trường thế giới đang thay đổi liên tục, đảm bảo cho các
nước đang phát triển được hưởng lợi đầy đủ từ quá trình toàn cầu hóa.
(5) Khẳng định lại vai trò của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực
thông qua việc xây dựng Khối Cộng đồng ASEAN và tái khẳng định vai trò của
Trung Quốc trong việc hỗ trợ các công tác của ASEAN thông qua việc tham gia vào
các dự án như Khu vực tăng trưởng phía Đông ASEAN.
(6) Cùng khuyến khích tất cả các quốc gia có vũ khí hạt nhân ký Nghị định
thư về “Hiệp ước Khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á”. Một khi các
201
bên liên quan đã đạt được một giải pháp chấp nhận được cho tất cả các bên đối với
các vấn đề do Nghị định thư để lại thì Trung Quốc sẽ nhanh chóng ký Nghị định thư
về “Hiệp ước Khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á”.
(7) Thúc đẩy thực hiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển
Đông” DOC, và làm cho Biển Đông trở thành nền tảng hợp tác và cầu nối hữu nghị.
(8) Thúc đẩy hai bên sự tin tưởng lẫn nhau trong các lĩnh vực quốc phòng và
quân sự, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp quốc phòng của mỗi bên
và tích cực tìm hiểu thiết lập cơ chế tham vấn an ninh quốc phòng.
(9) Khuyến khích hai bên triển khai hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp
luật và cơ quan tình báo, thông qua việc thực hiện các hiệp nghị hợp tác hiện hành
để cùng nhau giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, buôn
lậu, buôn bán ma túy, buôn bán người, rửa tiền, tội phạm mạng và các hoạt động tội
phạm xuyên quốc gia khác; Tích cực tìm hiểu xây dựng cơ chế tham vấn, thúc đẩy
hợp tác trong các lĩnh vực thích hợp khác dựa vào luật pháp của mỗi nước.
(10) Thực hiện chặt chẽ hợp tác trên biển, tăng cường nâng cao năng lực và
thiết lập cơ chế tham vấn và hợp tác về các vấn đề trên biển.
(11) Tăng cường hợp tác trong việc chống lại các hình thức khủng bố khác
nhau. Hai nước phản đối sự kết nối của chủ nghĩa khủng bố với các tôn giáo và các
nhóm dân tộc cụ thể, chủ trương các hoạt động chống khủng bố cần phải tuân thủ
đầy đủ các mục đích và nguyên tắc của “Hiến chương Liên Hợp Quốc” và các quy
tắc khác của Luật pháp quốc tế đã được công nhận.
II. Hợp tác kinh tế và phát triển
(12) Thúc đẩy hơn nữa hợp tác song phương, khu vực và quốc tế, duy trì
tăng trưởng kinh tế bền vững dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bổ
sung ưu thế cho nhau và hình thức đa dạng, thúc đẩy quan hệ đối tác kinh tế và độc
lập kinh tế giữa hai bên.
(13) Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, đảm bảo cho các nước
đang phát triển được hưởng lợi đầy đủ từ hệ thống thương mại đa phương và tiến
202
trình tự do hóa thương mại trong tình hình công bằng và cân bằng. Hai bên nhấn
mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác trong việc thực hiện mục tiêu phát triển Thiên
niên kỷ của Liên hợp quốc và các mục tiêu phát triển khác đã được quốc tế nhất trí.
(14) Đẩy nhanh việc thực hiện “Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện
Trung Quốc – ASEAN”, mở cửa và thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ, đồng
thời tạo ra một hệ thống đầu tư minh bạch, tự do và thuận tiện.
(15) Củng cố cơ chế của các ủy ban kinh tế, thương mại và khoa học công
nghệ chung của hai bên, khám phá những ý tưởng mới, cách tiếp cận mới và cách
thức mới trong hợp tác ở các lĩnh vực khác nhau.
(16) Thúc đẩy hợp tác đầu tư, tăng cường hiểu biết và kết nối lẫn nhau giữa
các bộ ngành đầu tư và doanh nghiệp tư nhân của cả hai bên, tạo ra một môi trường
kinh tế, xã hội, chính trị và pháp lý thuận lợi hơn , đảm bảo dòng vốn đầu tư.
(17) Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của mỗi bên, thực hiện hợp tác
tài trợ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng tiếp cận thị trường và mở rộng các lĩnh
vực có thể triển khai hợp tác khác.
(18) Thúc đẩy sự ổn định tài chính, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật lẫn nhau trong
việc thúc đẩy thị trường vốn và hoàn thiện các cơ chế cảnh báo sớm cho dòng vốn.
(19) Đẩy nhanh việc thực hiện các cơ chế hiện có, tăng cường hợp tác trong
các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, nâng cao trình độ phát triển
nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, hỗ trợ khoa học công nghệ, năng
suất và đa dạng hóa, quản lý bền vững và xây dựng năng lực trong các lĩnh vực trên.
Tăng cường hợp tác giữa hai bên trong việc chống khai thác gỗ và đánh bắt cá bất
hợp pháp.
(20) Tăng cường đối thoại và tham vấn về các chính sách năng lượng, phát
huy hơn nữa vai trò trên Diễn đàn Năng lượng Trung Quốc-Indonesia, thực hiện
trao đổi chính sách, tăng cường trao đổi và hợp tác trong các lĩnh vực dầu khí và
khoáng sản, khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia vào thăm dò và phát triển
tài nguyên năng lượng chung, xây dựng mạng lưới vận chuyển năng lượng khu vực
203
mình có thể được thương mại để thúc đẩy phát triển năng lượng bền vững, bao gồm
phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, tiết kiệm năng
lượng và sử dụng năng lượng hạt nhân một cách hòa bình.
(21) Tăng cường hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, cầu, cảng, điện
lực và thông tin liên lạc. Indonesia hoan nghênh sự tham gia của Trung Quốc trong
lĩnh vực hợp tác này. Hai nước cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tận dụng triệt để
cơ chế hiện có và khám phá mở rộng hợp tác trong lĩnh vực vận tải đường bộ,
đường biển và đường hàng không.
(22) Tăng cường hợp tác khoa học và công nghệ, thực hiện phát triển nguồn
nhân lực và nghiên cứu chung trong các lĩnh vực thực phẩm, y sinh, năng lượng,
giao thông vận tải, thông tin, truyền thông và quốc phòng.
(23) Thúc đẩy trao đổi và hợp tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ
và công chúng hai nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
III. Hợ t ăn óa xã ội
(24) Trên cơ sở bình đẳn, công bằng, tôn trọng nhân quyền và tự do cơ bản,
tuân thủ nguyên tắc của “Hiến chương Liên hợp quốc” và các văn bản về nhân
quyền quốc tế khác, ra sức bảo vệ nhân quyền và tự do nói trên trong các tầng lớp
xã hội và xã hội quốc tế.
(25) Thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau về văn hóa, phát triển hợp tác song
phương về du lịch, nghệ thuật, tin tức, thể dục, đoàn thể thanh niên và các tổ chức
phi chính phủ.
(26) Tăng cường hợp tác giáo dục, tích cực thực hiện trao đổi đào tạo,
khuyến khích dạy và học ngôn ngữ của nhau.
(27) Tăng cường hợp tác và xây dựng năng lực phòng chống các dịch bệnh
lưu hành và không lưu hành.
(28) Tăng cường hợp tác khu vực và xuyên khu vực trong việc đề phòng và
xử lý thiên tai, xây dựng cơ chế cảnh báo, cứu nạn cứu trợ và khắc phục hậu quả sau
204
thiên tai.
Bản Tuyên bố này được ký kết vào ngày 24/4/2005 tại Jakarta, bản này được
nhân đôi, mỗi bản đều được viết bằng tiếng Trung, tiếng Indonesia và tiếng Anh,
văn bản ba ngôn ngữ này đều có giá trị như nhau.
Đại diện Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Hồ Cẩm Đào
205
Đại diện nước Cộng hòa Indonesia: Susilo Bambang Yudhoyono
Phụ lục 2.
KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG TRONG TƯƠNG LAI VỀ QUAN HỆ ĐỐI
TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN TRUNG QUỐC – INDONESIA
(Jaka ta, n y 3 t n 10 năm 2013)
1. Nhận lời mời của Susilo Bambang Yudhoyon - Tổng thống Cộng hòa
Indonesia, Chủ tịch Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình đã có
chuyến thăm cấp nhà nước tới Cộng hòa Indonesia từ ngày 2 đến ngày 3 tháng 10
năm 2013. Chủ tịch Tập Cận Bình cũng sẽ tới Bali để tham dự Hội nghị Lãnh đạo
không chính thức APEC lần thứ 21 từ ngày 5 đến 8/10.
2. Trong chuyến thăm, Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Susilo đã có
cuộc hội đàm trong bầu không khí thân mật và hữu nghị, đã trao đổi quan điểm sâu
rộng về quan hệ song phương và các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng
quan tâm, và đã đạt được sự đồng thuận quan trọng. Chủ tịch Tập Cận Bình cũng đã
gặp Phó Tổng thống Budiono, Chủ tịch Hội đồng tư vấn Nhân dân Sidarto và Chủ
tịch Quốc hội MaZuki. Cả hai bên đều hài lòng với kết quả của chuyến thăm và tin
rằng chuyến thăm lần này có ý nghĩa lịch sử và sẽ mở ra một kỷ nguyên mới trong
quan hệ hai nước.
3. Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Susilo đánh giá cao về những tiến
bộ tích cực đã giành được trong quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc-Indonesia,
và thống nhất cho rằng mối quan hệ giữa hai nước đã xuất hiện tình thế phát triển
tốt đẹp toàn diện, đa cấp và trình độ cao, mang lại lợi ích cho nhân dân của cả hai
nước.
4. Nguyên thủ quốc gia hai nước tin rằng sự gia tăng liên tục về vai trò của
Trung Quốc và Indonesia đối với kinh tế toàn cầu và các vấn đề quốc tế đã mang lại
cơ hội cho hai nước thúc đẩy kinh tế và xã hội phát triển nhanh chóng và chống lại
những thách thức khó khăn phức tạp trước mắt cần phải hợp tác đối phó. Trung
Quốc và Indonesia tiếp tục nỗ lực để thúc đẩy hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở
206
châu Á, phù hợp với lợi ích chung của cả hai nước.
5. Nhân dịp này, hai bên đã nhất trí rằng trên cơ sở "Tuyên bố chung của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia về việc thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược" được ký ngày 25 tháng 4 năm 2005 và "Kế hoạch hành động về việc
thực hiện Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược của Chính phủ Nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Nước Cộng hòa Indonesia”, sẽ nâng cấp
quan hệ song phương cấp thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Vì vậy, hai
nước sẽ tập trung vào việc tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sau:
Chính trị, quốc phòng và an ninh
6. Hai nguyên thủ quốc gia nhấn mạnh rằng sẽ tiếp tục hỗ trợ lẫn nhau về các
vấn đề liên quan đến lợi ích cốt lõi và mối quan tâm chính của nhau. Tổng thống
Susilo nhắc lại rằng Indonesia tuân thủ chính sách một Trung Quốc và ủng hộ sự
phát triển hòa bình của các mối quan hệ xuyên eo biển và sự nghiệp thống nhất hòa
bình của Trung Quốc. Chủ tịch Tập Cận Bình đánh giá cao lập trường của Indonesia
và nhắc lại rằng Trung Quốc tôn trọng và ủng hộ những nỗ lực của Indonesia trong
việc bảo vệ sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
7. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí duy trì thăm hỏi thường xuyên các
chuyến thăm giữa lãnh đạo hai nước, và phát huy hơn nữa vai trò của cơ chế đối
thoại cấp phó thủ tướng, ủy ban hợp tác song phương và các cơ chế song phương
khác để thúc đẩy hợp tác song phương.
8. Nguyên thủ quốc gia hai nước đánh giá tích cực về thành tựu hợp tác quốc
phòng của hai nước và cam kết sẽ tăng cường tin tưởng lẫn nhau thông qua các cơ
chế như tham vấn an ninh quốc phòng, thúc đẩy hợp tác trong các cuộc tập trận
chung, an ninh hàng hải, công nghiệp quốc phòng và an ninh phi truyền thống.
9. Nguyên thủ quốc gia hai nước đồng ý tăng cường hợp tác hơn nữa trong
các lĩnh vực tư pháp và thực thi pháp luật, tăng cường hợp tác thiết thực trong các
lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, nhập cư bất hợp pháp, khủng bố,
buôn người, tội phạm mạng, tội phạm kinh tế và xây dựng năng lực chống ma túy
và thực thi pháp luật, cam kết hỗ trợ lẫn nhau trong việc trao đổi thông tin tình báo,
207
tiến hành phối hợp điều tra, bắt giữ và hồi hương nghi phạm hình sự và thu hồi tài
sản hình sự. Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa cơ chế tham vấn chống khủng bố
song phương, thúc đẩy tăng cường hợp tác giữa Bộ Công an Trung Quốc và Bộ
Cảnh sát Indonesia, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc và Viện kiểm sát
tối cao Indonesia, Bộ Tư pháp Trung Quốc và Bộ Tư pháp và Nhân quyền
Indonesia trong các lĩnh vực như các vấn đề pháp lý và chống tội phạm xuyên quốc
gia..
Hợp tác kinh tế và phát triển
10. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí áp dụng đầy đủ các cơ chế đối
thoại hiện hành ở tất cả các cấp, tăng cường lập kế hoạch và phối hợp tổng thể, tăng
cường tham vấn giữa các quan chức của hai cấp phó thủ tướng trong lĩnh vực kinh
tế, cùng nhau tìm kiếm thêm cơ hội hợp tác, đối phó với những thách thức trong các
lĩnh vực kinh tế và phát triển.
11. Hai nguyên thủ quốc gia hoan nghênh ký kết Kế hoạch phát triển 5 năm
về hợp tác kinh tế và thương mại Trung Quốc-Indonesia, đồng ý tích cực thực hiện
tốt kế hoạch này và cùng nhau thúc đẩy hợp tác kinh tế và phát triển của hai nước
phát triển lành mạnh và ổn định. Hai nguyên thủ quốc gia cho rằng tăng cường hợp
tác tài chính giữa hai nước có ý nghĩa rất quan trọng.
12. Hai nguyên thủ quốc gia đã chỉ đạo các quan chức hai nước tiếp tục nỗ
lực tích cực để đạt được mục tiêu đạt 80 tỷ đô la Mỹ về hạn ngạch thương mại năm
2015, và chú trọng hơn nữa đến việc thực hiện thương mại tăng trưởng mạnh mẽ,
cân bằng, bền vững và ổn định. Hai nguyên thủ quốc gia cho rằng đầu tư của cả hai
bên có tiềm năng phát triển to lớn. Trung Quốc sẽ tiếp tục khuyến khích các doanh
nghiệp Trung Quốc tăng thêm mức đầu tư trực tiếp vào Indonesia.
13. Hai nguyên thủ quốc gia thừa nhận tầm quan trọng và lợi ích chung của
việc tăng cường hợp tác công nghiệp. Cả hai bên đều hoan nghênh và ủng hộ việc
thành lập Khu công nghiệp tổng hợp Indonesia-Trung Quốc của các doanh nghiệp
Trung Quốc tại Indonesia. Phía Trung Quốc chú ý đến những Khu công nghiệp tổng
208
hợp mà Indonesia hy vọng các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ đầu tư xây dựng ở
những nơi bên ngoài Java và Bali. Hai nguyên thủ quốc gia tin rằng những hợp tác
liên quan sẽ truyền sức sống mới vào hợp tác thương mại và đầu tư song phương.
14. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc lại rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục khuyến
khích và ủng hộ các doanh nghiệp Trung Quốc tích cực tham gia vào các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng của Indonesia, đặc biệt là những dự án nằm trong kế hoạch tổng
thể phát triển kinh tế của Indonesia giai đoạn 2011-2025. Hai nguyên thủ quốc gia
đồng ý rằng hai bên sẽ tìm hiểu để hợp tác kinh tế trong khuôn khổ sáu hành lang
kinh tế lớn của Indonesia, đó là hành lang Sumatra (tài nguyên và năng lượng),
hành lang Java (dịch vụ và công nghiệp), hành lang Kalimantan (khai thác khoáng
sản và năng lượng); Hành lang Satangala (Du lịch, Thực phẩm và Nông nghiệp);
Hành lang Sulawesi (Nông nghiệp, Trồng trọt, Ngư nghiệp và Khai thác khoáng
sản); Hành lang Papua-Maruku (Thực phẩm, Năng lượng và Khai thác khoáng sản).
15. Tổng thống Susilo hoan nghênh và khuyến khích Trung Quốc tăng cường
đầu tư và đóng góp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kết nối của Indonesia, như
đường sắt, cầu đường, đường cao tốc, cảng và sân bay. Hai nguyên thủ quốc gia
cũng nhận ra tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác trong ngành công nghiệp
đóng tàu và máy bay để thúc đẩy hợp tác trong vận tải hàng không và đường biển.
16. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng cần phải tăng cường kết nối
giữa hai nước, bao gồm thiết lập các kênh liên kết trực tiếp về thông tin hàng hải,
hàng không và thông tin liên lạc. Hai bên nhất trí tìm hiểu khả năng hợp tác giữa
các khu công nghiệp, bến cảng và sân bay ở hai nước.
17. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí khởi động lại bản ghi nhớ về hợp
tác nông nghiệp giữa hai nước, tăng cường hợp tác và tham vấn nông nghiệp song
phương, và thực hiện hợp tác thiết thực và toàn diện trong các lĩnh vực như sản xuất
và chế biến lương thực, an toàn thực phẩm, buôn bán trao đổi phân bón và nông sản,
đảm bảo an toàn lương thực.
18. Nguyên thủ quốc gia hai nước tin rằng an ninh năng lượng là rất quan
trọng đối với việc thực hiện phát triển bền vững của cả hai nước. Vì vậy, hai nguyên
209
thủ quốc gia đồng ý phát huy hơn nữa vai trò của diễn đàn năng lượng giữa hai
nước, mở rộng hợp tác trong lĩnh vực dầu khí, khai thác khoáng sản và điện lực,
tích cực tìm kiếm cơ hội hợp tác năng lượng mới và năng lượng tái tạo.
Hàng hải, n k ôn ũ t ụ và khoa học công nghệ
19. Hai nguyên thủ quốc gia đánh giá cao về những tiến bộ tích cực đã giành
được trong hợp tác hàng hải giữa hai nước, khẳng định đầy đủ vai trò quan trọng mà
Ủy ban hợp tác hàng hải đã phát huy, đồng ý thúc đẩy triển khai toàn diện, nhanh
chóng các dự án do Quỹ hợp tác hàng hải Trung Quốc-Indonesia tài trợ. Hai nguyên
thủ quốc gia cũng khuyến khích hai bên tăng cường hơn nữa hợp tác thực sự trong
các lĩnh vực như an ninh hàng hải, an ninh hàng không, hợp tác hải quân, nghiên
cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển, thủy sản và
kinh tế xanh…, thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng các dự án như Phát triển
Trung tâm Khí hậu và Hải dương Trung Quốc-Indonesia.
20. Hai nguyên thủ quốc gia hoan nghênh việc ký “Biên bản ghi nhớ về hợp
tác nghề cá giữa Bộ Nông nghiệp Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Bộ Ngư
nghiệp hải dương Nước Cộng hòa Indonesia”, khuyến khích hai bên tiếp tục tăng
cường hợp tác trong các lĩnh vực như đánh bắt, nuôi trồng, đào tạo nhân sự và
chống đánh bắt phi pháp, không báo cáo, không được kiểm soát. Hai nguyên thủ
quốc gia cũng hoan nghênh việc thành lập một cơ sở hợp tác nghề cá giữa hai nước
ở Indonesia, tăng cường an toàn lương thực và nâng cap trình độ nghề cá của
Indonesia.
21. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban
khoa học và công nghệ chung của hai nước, thúc đẩy việc trao đổi các nhà nghiên
cứu giữa hai nước, tăng cường hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới trong các
lĩnh vực khác nhau. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng xây dựng phòng thí
nghiệm chung là một cách quan trọng để cả hai bên duy trì hợp tác lâu dài và liên
tục, và sẽ tích cực ủng hộ việc xây dựng phòng thí nghiệm chung về công nghệ sinh
học của Trung Quốc - Indonesia. Hai nguyên thủ quốc gia quyết tâm thúc đẩy mạnh
mẽ hợp tác chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
210
khoa học công nghệ. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc lại rằng trong ba năm tới Trung
Quốc sẽ tài trợ cho không dưới 15 nhà khoa học trẻ Indonesia đến Trung Quốc để
tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học cùng với các nhà nghiên cứu Trung
Quốc.
22. Nguyên thủ quốc gia hai nước hoan nghênh việc ký kết Hiệp định hợp
tác hàng không giữa hai chính phủ, đồng ý thành lập Ủy ban hợp tác hàng không
chung hai nước để tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như đo lường và kiểm soát
hàng không vũ trụ, nghiên cứu vệ tinh, phóng vệ tinh, ứng dụng vệ tinh, cùng xây
dựng cơ sở dữ liệu vệ tinh để cùng ứng dụng và chia sẻ dữ liệu vệ tinh viễn thám.
Hai bên cũng nhất trí hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực khí tượng và khí hậu, và thực
hiện nghiên cứu và phát triển chung.
Hợ t ăn óa xã ội
23. Hai nguyên thủ quốc gia đồng ý tăng cường hơn nữa trao đổi văn hóa,
mở rộng giao lưu giữa người với người, tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị
giữa nhân dân hai nước.
24. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí thúc đẩy hợp tác giữa các trường
đại học và các tổ chức học thuật của hai nước thông qua việc giao lưu và kết nghĩa
giữa giáo viên và học sinh hai nước, phát huy vai trò lớn hơn trong việc thúc đẩy
đào tạo ngôn ngữ và trao đổi văn hóa giữa hai nước. Hai nguyên thủ quốc gia
khuyến khích sinh viên từ cả hai nước đi học ở nước kia. Chủ tịch Tập Cận Bình
nhắc lại rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục cấp học bổng cho sinh viên Indonesia thông
qua nhiều kênh khác nhau.
25. Nguyên thủ quốc gia hai nước hoan nghênh việc tiếp tục triển khai các
dự án giao lưu thanh niên và sẽ cử 100 thanh niên đến thăm các quốc gia của nhau
trong 5 năm tới để kế thừa và phát huy tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước.
26. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí thúc đẩy các dự án bảo tồn động
vật hoang dã như hợp tác nghiên cứu gấu trúc khổng lồ ở Indonesia và hợp tác
nghiên cứu rồng Komodo ở Trung Quốc.
27. Nguyên thủ quốc gia hai nước tin rằng việc giao lưu văn hóa là cực kỳ
211
quan trọng đối với việc tăng cường và mở rộng quan hệ song phương. Trung Quốc
và Indonesia là những quốc gia quan trọng đối với cả khách du lịch trong và ngoài
nước. Hai bên đã nhất trí cùng nỗ lực để thúc đẩy nhân dân hai nước đạt được mục
tiêu 2 triệu lượt người qua lại vào năm 2015. Vì vậy, cả hai bên đều hoan nghênh
việc hai nước tiếp tục ký kết Bản ghi nhớ hợp tác du lịch, đồng ý triển khai các hoạt
động xúc tiến du lịch, thúc đẩy thuận lợi trong du lịch, nâng cao năng lực và khuyến
khích mở rộng đầu tư vào ngành du lịch.
28. Hai nguyên thủ quốc gia đồng ý tăng cường trao đổi và hợp tác truyền
thông để tăng tính toàn diện, khách quan và chính xác của các thông tin của nhau.
Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác ngoại giao công chúng, khuyến khích mở rộng
hơn nữa việc trao đổi và hợp tác của các tổ chức học thuật hai nước như tổ chức trí
thức, trường đại học, viện nghiên cứu…, tiếp tục tiến hành các hoạt động giao lưu
như "Hội thảo nghiên cứu quan hệ Trung Quốc-Indonesia".
Hợp tác quốc tế và khu vực
29. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhấn mạnh tầm quan trọng của chế độ xã
hội và con đường phát triển mà nhân dân mỗi nước đã tự lựa chọn, chủ trương phát
huy tinh thần bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau, khoan dung, học hỏi lẫn nhau và hợp
tác cùng có lợi trong quan hệ quốc tế, và cùng nhau bảo vệ công bằng chính nghĩa
quốc tế. Cả hai bên đều chủ trương tăng cường vai trò hạt nhân của Liên hợp quốc
trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển của quốc tế, đồng thời tăng
cường khả năng đối phó với các mối đe dọa và thách thức mới. Hai bên ủng hộ
những cải cách của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để thực hiện tốt hơn trách
nhiệm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế mà “Hiến chương Liên Hợp Quốc” đã
trao cho. Hội đồng Bảo an cải cách cần phải thông qua tham vấn dân chủ và kiên
nhẫn, tìm kiếm một "gói" giải pháp cho các vấn đề khác nhau liên quan đến cải cách,
thúc đẩy cải cách phát triển theo chiều hướng có lợi cho việc duy trì lợi ích chung
của Liên hợp quốc và sự đoàn kết của các quốc gia thành viên.
30. Hai nguyên thủ quốc gia hoan nghênh và ủng hộ Trung Quốc và
Indonesia trong việc phát huy vai trò lớn hơn trên toàn cầu và trong khu vực, đồng
212
thời tái khẳng định sẽ sẵn sàng tăng cường phối hợp và hợp tác trong các vấn đề
quốc tế và khu vực, và cùng nhau cố gắng vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong
khu vực và thế giới. Chính vì vậy, hai bên đã nhất trí tiến hành tham vấn về các vấn
đề đa phương giữa bộ ngoại giao hai nước.
31. Nguyên thủ quốc gia hai nước đánh giá cao những thành tựu nổi bật đã
đạt được trong quá trình phát triển quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN,
và nhất trí cho rằng cần tiếp tục mở rộng và tăng cường hợp tác Trung Quốc và
ASEAN trong các lĩnh vực trọng điểm như: chính trị, an ninh, kinh tế, thương mại,
khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN, kết nối, hàng hải, xã hội và văn
hóa… dựa trên nguyên tắc cởi mở, bình đẳng, cùng có lợi, phát triển công bằng và
thịnh vượng chung, thực hiện các sáng kiến hợp tác to lớn giữa hai bên. Chủ tịch
Tập Cận Bình nhắc lại rằng Trung Quốc ủng hộ sự phát triển của ASEAN, ủng hộ
việc xây dựng Khối Cộng đồng ASEAN và ủng hộ ASEAN phát huy vai trò chủ
đạo trong hợp tác khu vực.
32. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng Trung Quốc và ASEAN cần
cùng nhau thúc đẩy hợp tác khu vực, tăng cường phối hợp và hợp tác trong các vấn
đề quốc tế và khu vực, bảo vệ lợi ích khu vực về an ninh chung, ổn định chung và
thịnh vượng chung. Hai nguyên thủ quốc gia tin tưởng sâu sắc rằng hiệp định quan
hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực là nền tảng quan trọng cho hội nhập khu vực do
ASEAN dẫn đầu, và hai bên sẽ thúc đẩy quá trình đàm phán dựa trên nguyên tắc cởi
mở, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển công bằng và thịnh vượng chung.
33. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng duy trì hòa bình và ổn định ở
Biển Đông là trách nhiệm chung của các quốc gia trong khu vực. Trung Quốc,
Indonesia và các nước ASEAN khác đều mong muốn cùng nỗ lực để thực hiện hiệu
quả, toàn diện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”, tăng cường sự tin
cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác và cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển
Đông. Dựa theo các nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố về cách ứng xử của các
bên ở Biển Đông”, trên cơ sở bàn bạc thống nhất để cố gắng hướng tới việc xây
dựng "Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông" COC. Hai bên hoan nghênh Hội nghị Bộ
213
trưởng Ngoại giao đặc biệt của Trung Quốc - ASEAN, và cũng hoan nghênh Hội
nghị được tổ chức gần đây của Hội nghị quan chức cấp cao lần thứ sáu để thực hiện
“Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” và tổ chức các cuộc tham vấn
về "Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" trong khuôn khổ thực hiện Tuyên bố.
34. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc lại việc ủng hộ Indonesia với tư cách là chủ
nhà để tổ chức Hội nghị không chính thức của các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần
thứ 21 năm 2013. Hai bên cam kết tăng cường phối hợp và hợp tác, thúc đẩy hội
nghị đạt được kết quả thiết thực trong việc hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương,
thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực, tăng cường kết nối liên thông khu vực và thúc
đẩy đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Indonesia nhắc lại việc ủng hộ Trung Quốc
sẽ tổ chức Hội nghị không chính thức của các nhà lãnh đạo APEC tại Bắc Kinh vào
năm 2014.
35. Hai nguyên thủ quốc gia nhắc lại rằng hai bên sẽ tăng cường hơn nữa sự
phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ G20, thúc đẩy hội nghị G20 có những đóng
góp thiết thực trong việc thực hiện nền kinh tế thế giới tăng trưởng mạnh mẽ, bền
vững và cân bằng, mở rộng việc làm và cải cách hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế,
và triển khai hợp tác về các vấn đề phát triển toàn cầu trong khuôn khổ G20.
36. Hai nguyên thủ quốc gia tin rằng Trung Quốc và Indonesia có lợi ích
chung về các vấn đề toàn cầu to lớn như biến đổi khí hậu, đàm phán Vòng đàm
phán Doha, an ninh năng lượng và lương thực, cải cách các tổ chức tài chính quốc
tế và quản trị kinh tế toàn cầu. Hai bên nhất trí tăng cường phối hợp về các vấn đề
nêu trên và trong quá trình tiếp theo của Hội nghị Liên hợp quốc về Phát triển bền
vững và thảo luận về chương trình nghị sự phát triển quốc tế sau 2015.
37. Sau cuộc hội đàm, Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Susilo đã tham
dự lễ ký kết các văn kiện hợp tác sau đây.
"Kế hoạch phát triển 5 năm về hợp tác kinh tế và thương mại giữa Chính phủ
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Nước Cộng hòa Indonesia".
“Hiệp định giữa Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính
phủ Nước Cộng hòa Indonesia về Khu công nghiệp tổng hợp Indonesia-Trung
214
Quốc”.
“Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
Chính phủ Nước Cộng hòa Indonesia về thăm dò và sử dụng hòa bình không gian
vũ trụ”
“Bản ghi nhớ về hợp tác nghề cá giữa Bộ Nông nghiệp Nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa và Bộ Ngư nghiệp hải dương Nước Cộng hòa Indonesia”
“Bản ghi nhớ về hợp tác trong các lĩnh vực Khí tượng, Khí hậu giữa Cục Khí
tượng Trung Quốc và Cục Khí tượng, Khí hậu và Vật lý địa cầu của Nước Cộng
hòa Indonesia”
“Bản ghi nhớ về hợp tác du lịch giữa Tổng cục Du lịch Nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa và Bộ Du lịch và Kinh tế Sáng tạo của Nước Cộng hòa Indonesia”.
38. Trong bữa tiệc trưa của thương vụ Trung Quốc-Indonesia được tổ chức
vào ngày 3 tháng 10 năm 2013, các doanh nghiệp của hai nước đã ký một Hiệp định
kinh doanh với tổng trị giá hơn 20 tỷ đô la Mỹ.
39. Chủ tịch Tập Cận Bình và phu nhân Bành Lệ Quyên bày tỏ lòng biết ơn
đối với Tổng thống Susilo và phu nhân Ani vì lòng hiếu khách nồng hậu của họ.
40. Nguyên thủ quốc gia hai nước bày tỏ sự hài lòng với kết quả chuyến
thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Indonesia, và tin tưởng sâu sắc
rằng chuyến thăm này sẽ là động lực mới trong việc tăng cường quan hệ đối tác
215
chiến lược Trung Quốc-Indonesia.
Phụ lục 3. DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA TIẾP NHẬN PHỎNG VẤN
TT
Tên
Đ n ị
Lĩn ực nghiên cứu
Thời gian trả
Hình thức
lời phỏng vấn
1 Leo ISEAS, Yusof Ishak Người Hoa thiểu số ở Đông Nam Á; 13/4/2019 Email
Suryadinata, Institute, Singapore. vấn đề tôn giáo quốc gia và chủ
nghĩa dân tộc trong ASEAN; quan Giáo sư
hệ Trung Quốc – ASEAN; chính trị
Indonesia; quan hệ Trung Quốc -
Indonesia
Viện Nghiên cứu châu Văn hóa và xã hội khu vực châu Á – 15/3/2019 Gặp trực tiếp tháng 2 许利平
Á – Thái Bình Dương Thái Bình Dương; chính trị Đông 12/2018 & email Xu Liping
và Chiến lược toàn cầu, Nam Á và quan hệ quốc tế; an ninh tháng 3/2019 Hứa Lợi Bình
Viện Khoa học Xã hội phi truyền thống; quan hệ Trung PGS, Nghiên
Trung Quốc. Quốc – Indonesia. cứu viên cao
cấp
Hiệp hội nghiên cứu Quan hệ Trung Quốc – Indonesia; 16/3/2019 Email 3 潘玥
Đông Nam Á, Đại học chính trị - xã hội Indonesia Pan Yue
Bắc Kinh Phan Nguyệt
216
4 Cheng- Trung tâm Nghiên cứu Nước nhỏ hơn trong quan hệ quốc tế; 5/12/2019 Trực tiếp, tại Hội
Chwee Kuik châu Á, Viện nghiên các tổ chức đa phương trong khu vực thảo quốc tế SEASIA
PGS, Giám cứu Malaysia và quốc châu Á – Thái Bình Dương; quan hệ 2019 tại Đài Loan.
đốc Trung tế, Đại học Quốc gia giữa các nước ASEAN với nước lớn;
tâm Malaysia. chính sách đối ngoại của Malaysia;
chính sách đối ngoại của Trung
Quốc.
5 Vinsensio Khoa Quan hệ Quốc tế, Phân tích chính sách đối ngoại; toàn 7/12/2019 Trực tiếp, tại Hội
M.A.Dugis, Đại học Airlangga, cầu hóa và các chiến lược, xử lý mâu thảo quốc tế
PGS Indonesia thuẫn trong quản trị toàn cầu, nghiên SEASIA 2019 tại
cứu biên giới. Đài Loan.
6 Rudolf Viện Khoa học Xã hội Đầu tư của Trung Quốc tại 5/12/2019 Trực tiếp, tại Hội
Yuniarto Indonesia Indonesia, di dân Indonesia… thảo quốc tế
SEASIA 2019 tại
Đài Loan.
7 Tonny Dian Khoa Quan hệ Quốc tế, Chính sách đối ngoại Trung Quốc, 7/12/2019 Trực tiếp, tại Hội
Effendi Đại học người Hoa Indonesia, quan hệ Trung thảo quốc tế
Muhammadiyah Quốc - Indonesia SEASIA 2019 tại
Malang Đài Loan.
8 Jabin Khoa Quan hệ Quốc tế Chính trị nội bộ Trung Quốc, quan 7/12/2019 Trực tiếp, tại Hội
T.Jacob, PGS và Quản trị quốc tế, hệ Trung Quốc – Nam Á, khu vực thảo quốc tế
217
Đại học Khoa học xã biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, thế SEASIA 2019 tại
hội và Nhân văn, Ấn giới quan của Trung Quốc và Ấn Độ, Đài Loan.
Độ. quan hệ trung ương – địa phương ở
Trung Quốc.
9 Nguyễn Minh Đại học Khoa học xã Cường quốc tầm trung, trường hợp 5/12/2019 Trực tiếp, tại Hội
Ngọc hội và Nhân văn, Indonesia, Australia, Singapore thảo quốc tế
Australia. SEASIA 2019 tại
218
Đài Loan.
Phụ lục 4.
CÁC CHUYẾN THĂM CẤP CAO GIỮA TRUNG QUỐC VÀ INDONESIA TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY
Phía Trung Quốc
Phía Indonesia
Ghi chú
Thời gian
Tháng 4: Chủ tịch Hồ Cẩm Đào Thiết lập quan hệ đối 2005
tác chiến lược
Tổng thống Susilo 2006
Phó Tổng thống Jusuf Kalla 2007
Tháng 11: Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị 2008
Trung ương ĐCS Trung Quốc, chủ nhiệm Ủy
ban Pháp luật – chính trị Trung ương Trung
Quốc Chu Vĩnh Khang
23/12: Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường, kêu
gọi thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược và
khắc phục khủng hoảng tài chính quốc tế
Tổng thống Susilo
Phó Tổng thống Boediono
Tháng 3: Bộ trưởng Bộ Điều phối Kinh 2009
219
tế Sri Mulyani Indrawati
Tháng 7: Ngoại trưởng Indonesia Hassan
Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương nhân dân
Indonesia Taufiq Kiemas
Tháng 1: Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Ký kết “Kế hoạch hành 2010
Đới Bỉnh Quốc động chiến lược vì
quan hệ đối tác”, bao
gồm nội dung cùng
thúc đẩy xây dựng Khu
mậu dịch tự do Trung
Quốc – ASEAN.
Tháng 6-2010: Chủ tịch Hồ Cẩm Đào gặp Tổng thống Susilo Yudhoyono bên lề Hội nghị
Thượng đỉnh G20 tại
Toronto
Cuối năm 2010: Chủ tịch Quốc hội Ngô Bang Phó Tổng thống Indonesia Boediono
Tổng thống Susilo Quốc
Chủ tịch Quốc hội Indonesia Marzuki
Alie
29-4-2011: Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Ra “Thông cáo chung”, 2011
220
Bảo ký một loạt văn kiện
hợp tác trên các lĩnh
vực kinh tế, thương
mại và đầu tư. Diễn ra
trong bối cảnh
Indonesia giữ vai trò
Chủ tịch ASEAN năm
2011, đồng thời vừa
thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược với Mỹ
vào tháng 11/2010
Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương ĐCS Trung Bộ trưởng Ngoại giao Marty Natalegawa
Quốc, Trưởng ban Tổ chức cán bộ Lý Nguyên và Chủ tịch Quốc hội Indonesia Marzuki
Triều
Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Hồi Lương
Ngọc
Thường ủy Bộ Chính trị Trung ương Trung Tổng thống Susilo 2012
Quốc Lý Trường Xuân
Tháng 10: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình 2013
221
phát biểu tại Quốc hội Indonesia; đề xuất Sáng
kiến xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế
kỷ XXI
Tháng 11: Tổng thống Indonesia Joko Chuyến thăm nước 2014
Widodo ngoài chính thức đầu
tiên của Tổng thống
Indonesia mới
Tháng 3: Tổng thống Indonesia Widodo 2015
thăm chính thức Trung Quốc, tham dự
Diễn đàn châu Á Bác Ngao
Tháng 4: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình Ký kết Tuyên bố
tham dự Hội nghị Á Phi nhân kỷ niệm 60 năm chung, đề ra việc kết
thành lập nối giữa Sáng kiến
Vành đai và Con
đường và Chiến lược
Trục hàng hải toàn cầu
Tháng 7: Chủ tịch Chính hiệp Du Chính
Thanh
Tháng 3: Phó Tổng thống Kalla Tham dự Hội nghị Bác 2016
222
Ngao
Tháng 9: Tổng thống Jokowi, tham dự
Hội nghị G20 tại Hàng Châu
Tháng 5: Tổng thống Jokowi, tham dự 2017
Diễn đàn “Vành đai và Con đường” lần
thứ nhất
Tháng 5: Thủ tướng Lý Khắc Cường ký kết Chiến tranh thương 2018
Tuyên bố chung về việc tăng cường quan hệ mại Mỹ - Trung trở nên
thương mại song phương, cam kết “kết nối và căng thẳng từ tháng
giúp đỡ về chiến lược trong các vấn đề nóng 4/2018
của khu vực và các vấn đề mang tính toàn
cầu”.
Tháng 4: Phó Tổng thống Kalla tham dự 2019
Diễn đàn “Vành đai và Con đường” lần
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc: “中国同印度尼西亚的关系”, cập nhập tháng
7/2019, truy cập ngày 25/9/2019, https://www.fmprc.gov.cn/web/gjhdq_676201/gj_676203/yz_676205/1206_677244/sbgx_677248/
223
thứ hai
Phụ lục 5. CÁC QUỐC GIA, KHU VỰC VÀ TỔ CHỨC KHU VỰC XÂY DỰNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC VỚI TRUNG QUỐC
Quan hệ đối tác
Tên gọi QHĐT
Quốc gia/ Tổ chức
Số lượng
(QHĐT)
QHĐT phối hợp chiến lược toàn Nga 01 QHĐT man tín
diện toàn cục
QHĐT hợp tác chiến lược “trong Pakistan 01 QHĐT man tín
chiến lược mọi hoàn cảnh” (全天候)(1)
QHĐT hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam, Campuchia, Myanmar, Lào, Thái Lan 05
QHĐT hợp tác chiến lược Hàn Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka, Afghanistan 04
QHĐT chiến lược Đức toàn 01
phương vị
QHĐT chiến lược toàn diện Anh, Pháp, Brasil, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, 23
Indonesia, Malaysia, Úc,…, EU
QHĐT chiến lược Ba Lan, Nigeria, ASEAN, AU… 15
QHĐT chiến lược cùng có lợi Ireland 01
QH hợp tác chiến lược Saudi Arab, Philippin, Brunei, Liên đoàn Ả Rập… 05
01 QHĐT hợp tác hữu nghị toàn Bỉ QHĐT t ôn
224
phương vị t ường
QHĐT hợp tác hữu nghị toàn diện Romania, Bungari, Madives 03
QHĐT hợp tác toàn diện Nepal, Bangladesh, Liên minh Latinh… 9
QHĐT hợp tác hữu nghị Hungary 01
QHĐT hợp tác quan trọng Fiji 01
QHĐT hữu nghị Jamaica 01
Nguồn: Bảng thống kê trích từ nghiên cứu của các tác giả 门洪华, 刘笑阳, trong nghiên cứu 门洪华, 刘笑阳, 2015, “中国伙伴关系战略 评
估与展望”, 世界经济与政治,(2), 65-95 页., số liệu cập nhật đến ngày 12/1/2015.
225
72 Tổng số