ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THU MINH

NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC -

INDONESIA TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRUNG QUỐC HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THU MINH

NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC -

INDONESIA TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Trung Quốc học

Mã số: 62 31 06 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRUNG QUỐC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS. TS. Phùng Thị Huệ

2. PGS. TS. Dương Văn Huy

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án tiến sĩ “Những chuyển biến trong quan hệ Trung

Quốc – Indonesia từ năm 2005 đến nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập

của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ tập thể giáo viên hướng dẫn là PGS. TS. Phùng Thị Huệ

và PGS. TS. Dương Văn Huy. Những thông tin, số liệu phục vụ cho việc phân tích,

nhận xét và đánh giá được nghiên cứu sinh thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, có

nguồn gốc rõ ràng, thể hiện trong phần Tài liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu

trong luận án do tôi tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan. Các kết

quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Nghiên cứu sinh

Trần Thu Minh

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phùng Thị Huệ, PGS.

TS. Dương Văn Huy đã tận tình chỉ dạy và hướng dẫn em trong quá trình làm

Luận án. Cảm ơn các Thầy Cô đã luôn động viên và tiếp lửa đam mê khoa học

cho em, để em có thể hoàn thành tốt nhất Luận án theo khả năng của mình.

Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới TS. Hồ Thị Thành, TS. Võ Minh

Vũ cùng các thầy cô trong Khoa Đông phương học – Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn đã giảng dạy và tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể, giúp

em hoàn thành Luận án được thuận lợi nhất. Em xin gửi lời cảm ơn tới GS. TS.

Hoàng Khắc Nam – Khoa Quốc tế học với những gợi mở của thầy đối với

Luận án của em.

Em xin được gửi lời tri ân tới Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Trung Quốc,

cố GS. TS. Đỗ Tiến Sâm, TS. Nguyễn Xuân Cường đã tư vấn, gợi mở và tạo

điểu kiện tốt nhất để em có thể triển khai và hoàn thành Luận án.

Em xin chân thành cảm ơn Phòng đào tạo sau Đại học, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành

Luận án.

Nghiên cứu sinh

Trần Thu Minh

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC ............................................................................................................. 1 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT .......................................... 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU ................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 5 2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................. 7 2.1. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................7 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8 3.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 8 3.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 8 4. Cách tiếp cận ư n n i n ứ .................................................. 8 4.1. Cách tiếp cận................................................................................................. 8 4.2. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................8 5. Đón ó ủa Luận án ................................................................................. 10 5.1. Đóng góp về khoa học .................................................................................10 5.2. Đóng góp về lý luận......................................................................................11 5.2. Đóng góp về thực tiễn............................................................................11 6. Bố cục của Luận án ...................................................................................... 11 C ư n 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................. 13 1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứ li n q an đến đề tài Luận án .... 13 1.1.1. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc................................................................................... ...................................... 13 1.1.2. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Indonesia....................................................................................................................16 1.1.3. Những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia sau năm 2005 ...........................................................................................20 1.2. Đ n i tìn ìn n i n ứu và những vấn đề Luận án sẽ làm rõ ........ 28 1.2.1. Những kết quả các nghiên cứu đã đạt được.............................................29 1.2.2. Những vấn đề Luận án sẽ làm rõ..............................................................30 C ư n 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA 33 2.1. C sở lý luận .............................................................................................. 33 2.1.1. Các khái niệm liên quan đến chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia...................................................................................................................33 2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến quan hệ Trung Quốc – Indonesia...............42 2.1.3. Khung phân tích của Luận án..........................................................49 2.2. C sở thực tiễn ........................................................................................... 50

1

2.3 . Các nhân tố t độn đến q an ệ T n Q ố – Indonesia...................55 Tiểu kết ư n 2 ............................................................................................ 63 C ư n 3. THỰC TRẠNG CHUYỂN BIẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA TRONG CÁC LĨNH VỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY ............ 64 3.1. Nhữn điều chỉnh về chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ son ư n từ năm 2005 đến nay .................................................... 64 3.1.1. Điều chỉnh trong phối hợp chính sách của hai nước..........................64 3.1.2. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ song phương giai đoạn 2005-2013....................................................................................69 3.1.3. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ song phương giai đoạn từ 2013 đến nay................................................74 3.2. Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ năm 2005 đến nay t n lĩn ực ........................................................................................... 77 3.2.1. Chuyển biến trong quan hệ chính trị - an ninh .......................................77 3.2.2. Chuyển biến trong quan hệ kinh tế..........................................................92 3.2.3. Chuyển biến trong quan hệ văn hóa - xã hội ........................................104 Tiểu kết ư n 3 ........................................................................................... 113 C ư n 4. ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ XU THẾ CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC – INDONESIA ................................................... 115 4.1. Đặc điểm chuyển biến và đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia.....115 4.1.1. Đặc điểm chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia............115 4.1.2. Đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia..........................................119 4.2. T động của chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia ... 128 4.2.1. Tác động đến Trung Quốc và Indonesia................................................129 4.2.2. Tác động đến thế giới và khu vực..........................................................134 4.2.3. Tác động đến Việt Nam..........................................................................142 4.3. Thuận lợi, thách thức và xu thế quan hệ hai nước ............................... 146 4.3.1. Những thuận lợi trong quan hệ hai nước ..............................................146 4.3.2. Những thách thức trong quan hệ hai nước ...........................................149 4.3.3. Xu thế quan hệ hai nước đến năm 2030....... .........................................154 Tiểu kết ư n 4 .......................................................................................... 157 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 160 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................. 164 TÀI LIỆU THAM HẢO ................................................................................ 165 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 199

2

DANH MỤC CÁC Ý HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

TT TỪ VIẾT TẮT

TÊN TIẾNG ANH

TÊN TIẾNG VIỆT

ASEAN–China Free Khu Mậu dịch Tự do ASEAN – 1 ACFTA Trade Area Trung Quốc

2 AIIB A

Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông 3 ASEAN Asian Nations Nam Á

4 ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn Khu vực ASEAN

Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu 5 APEC Cooperation Á – Thái Bình Dương

Sáng kiến Vành đai và Con 6 BRI Belt and Road Initiative đường

Châu Á - Thái Bình Dương 7 CA - TBD

Cộng hòa Indonesia 8 CH Indonesia

Cộng hòa nhân dân 9 CHND

Chủ nghĩa xã hội 10 CNXH

Chủ nghĩa tư bản 11 CNTB

Đảng Cộng sản 12 ĐCS

The East Asia Summit Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á 13 EAS

Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 14 FDI

Memorandum of Bản ghi nhớ 15 MoU Understanding

Official Development Viện trợ phát triển chính thức 16 ODA Assistance

World Bank Ngân hàng Thế giới 17 WB

3

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 2.1. Các dạng thức chuyển biến trong quan hệ quốc tế 35

Bảng 2.2. Các mức độ của quan hệ đối tác chiến lược 38

Hình 2.3. Sự chú ý bất đối xứng 44

Hình 2.4. Các phương pháp quản lý quan hệ bất đối xứng 44

Sơ đồ 2.5. Cân bằng quyền lực giữa cường quốc B (thông qua sự giúp đỡ của

các cường quốc tầm trung) đối với cường quốc A 46

Bảng 2.6. Phản ứng của một số nước ASEAN với sự trỗi dậy của

Trung Quốc 47

Hình 2.7. Khung phân tích những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc -

Indonesia 49

Hình 3.1. Thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc với Indonesia giai đoạn

2005-2013 93

Hình 3.2. Thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc với Indonesia từ năm 2013

đến nay 97

Hình 3.3. Thâm hụt thương mại giữa Indonesia và Trung Quốc giai đoạn

2013-2019 98

Bảng 3.4. Tình hình thực hiện đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia từ năm

2010-2015 100

Bảng 4.1. Chuyển biến chính trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia 115

Bảng 4.2. Đánh giá mức độ của quan hệ Trung Quốc - Indonesia 123

Bảng 4.3. Chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc 145

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ sau cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ trên mọi lĩnh

vực, trở thành một cường quốc kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng

nhu cầu lớn về nguồn tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế trong nước,

Trung Quốc tích cực thúc đẩy quan hệ với các nước đang phát triển thông qua hợp

tác Nam – Nam, do các nước này sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên

liệu thô phong phú, dồi dào. Đồng thời, Trung Quốc cũng điểu chỉnh chiến lược đối

ngoại của mình từ “giấu mình chờ thời” sang “chủ động tích cực thiết lập luật chơi”,

nhằm gia tăng ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu. Từ sau Đại hội XVIII Đảng Cộng

sản Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh đã đẩy mạnh quá trình thực hiện “Giấc mộng

Trung Hoa” bằng việc triển khai hàng loạt chiến lược lớn như “Vành đai và Con

đường”, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh ở khu vực, triển khai mạnh

mẽ chiến lược “ngoại giao láng giềng”, chú trọng thúc đẩy quan hệ Trung Quốc –

ASEAN, v.v... Bên cạnh đó, khu vực Đông Nam Á hiện là địa bàn tranh giành ảnh

hưởng chiến lược của các nước lớn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Australia..., do

đó, ngày càng trở nên quan trọng hơn trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc.

Đặc biệt, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền Biển Đông đang có những diễn biến

phức tạp, việc ASEAN trở thành Cộng đồng vào ngày 31/12/2015 đã mở ra cục diện

hợp tác mới ở khu vực. Bởi vậy, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã không

ngừng thúc đẩy quan hệ với ASEAN cũng như các quốc gia trọng yếu của ASEAN,

trong đó có Indonesia.

Về phía Indonesia, đây là quốc gia lớn nhất và có tầm ảnh hưởng quan trọng

ở khu vực Đông Nam Á, do vậy, Indonesia có vị trí đặc biệt trong chiến lược can dự

và tranh giành ảnh hưởng khu vực của các cường quốc trên thế giới. Trước hết,

Indonesia là quốc gia giàu tài nguyên, có uy tín trong khu vực và trên thế giới. Là

một thành viên sáng lập ASEAN, đồng thời tham gia nhóm các nền kinh tế lớn G20,

5

tiếng nói của Indonesia trong khu vực ngày càng trở nên có trọng lượng. Bên cạnh

đó, Indonesia có vị trí chiến lược độc đáo khi sở hữu tuyến hàng hải quan trọng

chạy qua khu vực eo biển Malacca - một vị trí có thể kiểm soát được tự do hàng hải

giữa Biển Đông và Ấn Độ Dương, cũng là con đường nhập khẩu dầu thô chính của

Trung Quốc. Do vậy, phát triển quan hệ với Indonesia trở thành vấn đề chiến lược

của Trung Quốc. Mặt khác, trong bối cảnh nhiều nước Đông Nam Á đang lo ngại

trước “thuyết về mối đe dọa Trung Quốc”, việc Indonesia luôn kiên trì chính sách

ngoại giao nhất quán là độc lập và không liên kết tạo thuận lợi cho sự tiếp cận của

Trung Quốc.

Trung Quốc và Indonesia đều là những nước lớn, có ảnh hưởng quan trọng

đối với khu vực cũng như với Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có

nhiều biến động, quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng đang có nhiều thay đổi.

Trung Quốc và Indonesia đã từng trải qua thời kỳ cắt đứt quan hệ ngoại giao, nhưng

với xu thế hòa bình và hợp tác trong quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh, hai nước

đã khôi phục lại quan hệ, thậm chí thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm

2005. Ngược lại, những chuyển biến trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và

Indonesia có thể tác động và làm thay đổi cục diện tại khu vực Đông Nam Á. Trước

những tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước ASEAN về vấn đề Biển Đông,

Indonesia đã đóng vai trò trung gian hòa giải, là “cầu nối” giải quyết tranh chấp.

Nếu lôi kéo được Indonesia ủng hộ mình trong các vấn đề quốc tế và khu vực,

Trung Quốc không chỉ thuận lợi trong việc gia tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á, mà

còn có thể chiếm ưu thế lớn hơn trong những tranh chấp trên biển. Có thể nói,

chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia là hệ quả của chuyển biến về

quan hệ quốc tế trong khu vực, đồng thời, những chuyển biến trong quan hệ hai

nước có thể lý giải và dự đoán được những thay đổi về cục diện chính trị của khu

vực trong tương lai. Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu về hai quốc gia này

nói chung, cùng những chuyển biến trong quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia

nói riêng, đặc biệt là sự thay đổi trong cách xử lý, ứng phó của Indonesia trước sự

gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ lý giải được nhiều vấn đề học thuật quan

6

trọng, cũng như hiểu được bản chất của mối quan hệ này.

Ngoài ra, việc nghiên cứu những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc -

Indonesia giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về chiến lược gia tăng ảnh

hưởng của Trung Quốc tại khu vực ASEAN, từ đó nhận diện sâu sắc hơn chiến lược

ngoại giao của Trung Quốc trong quá trình cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn.

Do đó, việc triển khai những nghiên cứu vừa cơ bản, vừa hệ thống, chuyên sâu về

chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, nhằm cung cấp cơ sở khoa học

và thực tiễn để phục vụ cho công tác tham mưu tư vấn chính sách đối ngoại với hai

quốc gia láng giềng, nhằm đảm bảo an ninh quốc gia của Việt Nam trở thành một

nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài luận án tiến sĩ của

mình là: Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005

đến nay.

2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án nhằm mục tiêu làm rõ sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia từ sau năm 2005. Đồng thời làm rõ thực trạng chuyển biến trong từng

lĩnh vực quan hệ, từ đó nhận diện đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia và góp

phần làm rõ đặc trưng chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong quan hệ với các

nước láng giềng.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhằm làm rõ mục tiêu trên, luận án chủ yếu thực hiện một số nhiệm vụ cơ

bản như sau:

(i) Phân tích những nhân tố tác động đến sự chuyển biến trong quan hệ

Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005 để xác định nguyên nhân dẫn đến chuyển biến

trong quan hệ hai nước;

(ii) Làm rõ những chuyển biến trong mối quan hệ hai nước từ năm 2005 tới

nay trên một số lĩnh vực như chính trị - an ninh, kinh tế và văn hoá – xã hội;

(iii) Đánh giá sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau

năm 2005. Từ đó, làm rõ tác động và xu thế của chuyển biến trong quan hệ Trung

7

Quốc – Indonesia đến năm 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ

năm 2005 tới nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ thời điểm hai nước thiết lập quan hệ đối

tác chiến lược vào năm 2005 tới nay. Số liệu và sự kiện trong quan hệ hai nước sẽ

được cập nhật đến thời điểm hoàn thành Luận án (Quý I năm 2020).

- Phạm vi không gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ

song phương giữa Trung Quốc và Indonesia, do đó không gian nghiên cứu chủ yếu

là Trung Quốc và Indonesia. Tuy nhiên, Luận án cũng đặt mối quan hệ này trong

bối cảnh tác động của khu vực và thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.

- Phạm vi nội dung: Luận án tập trung chủ yếu vào phân tích chuyển biến

trong các lĩnh vực như chính trị - an ninh, kinh tế, văn hoá – xã hội.

4. Cách tiếp cận ư n n i n ứ

4.1. Cách tiếp cận

- Là một nghiên cứu chuyên ngành Trung Quốc học, Luận án tập trung nhìn

nhận mối quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ góc độ Trung Quốc.

- Luận án tiếp cận nghiên cứu mối quan hệ song phương trực tiếp giữa hai

nước Trung Quốc và Indonesia, không tập trung nghiên cứu mối quan hệ này qua

các kênh đa phương.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp đa ngành và liên ngành của khu vực học, đất nước học, như

quốc tế học, sử học, chính trị học, kinh tế học… Trong đó, các phương pháp của

chuyên ngành quốc tế học và lịch sử nhằm đánh giá chính sách đối ngoại của Trung

Quốc và Indonesia. Các phương pháp của chuyên ngành lịch sử nhằm: (i) phân tích

làm rõ bối cảnh xung quanh quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong từng giai đoạn cụ

thể (phương pháp đồng đại), để thấy được mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa các

8

nhân tố bên trong và bên ngoài đối với quan hệ hai nước; (ii) phân tích, làm rõ sự

giống và khác nhau trên từng lĩnh vực trong quan hệ hai nước, từ đó nhận diện sự

chuyển biến trong quan hệ hai nước qua từng giai đoạn lịch sử (phương pháp lịch đại).

Phương pháp của chuyên ngành chính trị học được sử dụng khi phân tích, so sánh các

văn kiện nhằm nhận diện những chuyển biến trong các văn bản tuyên bố chung của

hai nước; hoặc khi nhận diện sự phân hóa quan điểm của giới tinh anh chính trị

Indonesia từ dựa trên phân tích các lợi ích nhóm và mối quan tâm khác nhau… Các

phương pháp của chuyên ngành kinh tế học được sử dụng khi đánh giá những chuyển

biến trong các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực kinh tế, như thương mại, đầu tư… Luận

án sẽ vận dụng linh hoạt các phương pháp này nhằm nhận diện rõ đặc điểm chính

sách của Trung Quốc trong quan hệ với Indonesia. Những phân tích, đánh giá về tình

hình Indonesia cũng nhằm lý giải mức độ quan hệ và cách thức ứng xử của Trung

Quốc đối với Indonesia.

- Phương pháp tư liệu: thu thập, tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa và đánh

giá các loại tư liệu;

- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: phỏng vấn trao đổi quan điểm nghiên

cứu với các chuyên gia thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế, chuyên nghiên cứu về quan

hệ Trung Quốc – Indonesia, nhằm tìm ra những yếu tố mấu chốt của vấn đề nghiên

cứu đang quan tâm. Trong số các học giả mà nghiên cứu sinh phỏng vấn được, đáng

chú ý có một số chuyên gia đầu ngành trong nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc –

Indonesia, như GS. Leo Suryadinata (Singapore), PGS. Hứa Lợi Bình 许 利 平

(Trung Quốc), TS. Phan Nguyệt 潘 玥 (Trung Quốc); TS. Cheng-Chwee Kuki

(Malaysia), và nhiều học giả người Indonesia khác.

- Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng phương pháp so sánh, bao gồm so

sánh các chính sách, ứng xử của các nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, so

sánh các văn kiện, tuyên bố chung để thấy được chuyển biến trong phối hợp chính

sách giữa hai nước.

- Phương pháp dự báo: căn cứ vào những dữ liệu trong quá khứ và hiện tại để

9

xác định xu hướng vận động của quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong tương lai.

5. Đón ó ủa Luận án

Trung Quốc học là một chuyên ngành, đồng thời cũng là đối tượng nghiên

cứu quan trọng đối với thế giới, bởi sự ra đời và phát triển văn minh Trung Hoa có

tác động rất lớn đối với thế giới. Đối với một quốc gia láng giềng có nhiều “duyên

nợ” lịch sử với Trung Quốc như Việt Nam, việc nghiên cứu về Trung Quốc trên

những khía cạnh cụ thể sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Trung Quốc, từ đó

có thể quản lý tốt hơn mối quan hệ với quốc gia này. Với nhu cầu nghiên cứu đó,

Luận án nhằm nhận diện sự chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc

với một quốc gia láng giềng, với trường hợp cụ thể là Indonesia. Luận án có một số

đóng góp như sau:

5.1. Đóng góp về khoa học

(1) Luận án nghiên cứu một cách hệ thống các nhân tố tác động, sự chuyển

biến của quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên các lĩnh vực chủ chốt, rút ra đặc điểm

chuyển biến, đánh giá tác động của cặp quan hệ đối với mỗi quốc gia và khu vực.

Luận án đưa ra dự báo về xu thế phát triển của mối quan hệ này trong thời gian tới

trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của các nhân tố thường xuyên tác động tới

cặp quan hệ này.

(2) Nghiên cứu trường hợp quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng góp phần

làm rõ đặc điểm quan hệ bất đối xứng giữa Trung Quốc với một nước láng giềng

trong khu vực.

(3) Luận án góp phần làm rõ đặc điểm chính sách đối ngoại của Trung Quốc

với các nước láng giềng trong tổng thể chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung

Quốc tại khu vực Đông Nam Á. Luận án góp phần nhận diện rõ hơn quá trình tương

tác cũng như lối tư duy và cách thức Trung Quốc gia tăng quan hệ với các nước

láng giềng. Từ đó, Luận án góp phần hiểu rõ hơn về đất nước Trung Quốc, tư duy

và truyền thống đối ngoại của người Trung Quốc.

(4) Luận án góp phần làm rõ thực trạng đối ngoại của Trung Quốc với các

quốc gia láng giềng ở khu vực, cũng như sự phản ứng của các nước đối với Trung

10

Quốc. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể rút ra được những bài học lịch sử nhằm thích

ứng tốt hơn với những chuyển biến trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực

có tác động trực tiếp đối với Việt Nam, như trường hợp quan hệ Trung Quốc và

Indonesia.

5.2. Đóng góp về lý luận

(1) Luận án xây dựng một khung phân tích cho nghiên cứu về chuyển biến

trong quan hệ song phương;

(2) Hệ thống hóa các tiêu chí cần thiết để đánh giá mối quan hệ giữa Trung

Quốc và một nước láng giềng: các tiêu chí đánh giá tính chất bất đối xứng, tiêu chí

đánh giá quan hệ đối tác chiến lược, tiêu chí đánh giá phản ứng của một số quốc gia

trong khu vực ASEAN đối với Trung Quốc...

(3) Luận án cung cấp cơ sở lý luận cho nghiên cứu về quan hệ giữa Trung

Quốc với một quốc gia tầm trung trong khu vực ASEAN.

5.3. Đóng góp về thực tiễn

Quan hệ Trung Quốc – Indonesia có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với

Việt Nam bởi đây là hai quốc gia láng giềng có tác động mạnh mẽ đối với Việt Nam

trên nhiều khía cạnh.

(1) Nghiên cứu này sẽ cung cấp những luận chứng khoa học tham khảo cho

quá trình hoạch định chính sách ngoại giao của Việt Nam trong quan hệ bất đối

xứng với Trung Quốc.

(2) Nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác nghiên cứu và

giảng dạy trong nước liên quan đến Trung Quốc.

6. Bố cục của Luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của Luận án được chia thành 4 phần, bao gồm:

C ư n 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nội dung này bao gồm: Những nghiên cứu về chính sách đối ngoại của

Trung Quốc và Indonesia, về quan hệ Trung Quốc - Indonesia. Từ đó, đánh giá tình

hình nghiên cứu vấn đề và chỉ ra những hướng nghiên cứu cần thực hiện của Luận

11

án.

C ư n 2. C sở lý luận, thực tiễn và nhân tố t độn đến chuyển biến

trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia

Nội dung này sẽ nêu rõ cơ sở lý luận của quan hệ Trung Quốc – Indonesia,

bao gồm các khái niệm, các lý thuyết liên quan. Chương này còn phân tích rõ cơ sở

thực tiễn của mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia, bao gồm: quan hệ Trung Quốc

– Indonesia trước năm 2005, các nhân tố quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ

này, tình hình bên trong mỗi nước dẫn đến nhu cầu tăng cường quan hệ giữa hai

nước.

C ư n 3. Thực trạng chuyển biến quan hệ Trung Quốc – Indonesia

t on lĩn ực từ năm 2005 đến nay

Nội dung này sẽ phân tích quan điểm chính sách của Trung Quốc và

Indonesia trong quan hệ song phương, phân tích những chuyển biến và lý giải

nguyên nhân dẫn đến chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau

năm 2005 trên các lĩnh vực như chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội.

C ư n 4. Đặc diểm, t động và xu thế chuyển biến trong quan hệ

Trung Quốc – Indonesia

Nội dung này sẽ nhận diện đặc điểm chuyển biến trong quan hệ hai nước từ

sau năm 2005, từ đó rút ra đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia; phân tích tác

động của sự chuyển biến đối với bản thân Trung Quốc và Indonesia, đến thế giới và

khu vực, và đối với Việt Nam. Dựa trên việc phân tích những thuận lợi và thách

thức trong quan hệ hai nước, Luận án sẽ dự đoán xu thế quan hệ hai nước trong thời

12

gian tới.

C ư n 1.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Quan hệ Trung Quốc – Indonesia được hai nước xác định là quan hệ đối tác

chiến lược từ năm 2005, và được nâng cấp lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn

diện vào năm 2013. Quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia là một

phần trong mạng lưới quan hệ đối tác của Trung Quốc – mạng lưới được nước này

thúc đẩy đặc biệt từ sau cải cách mở cửa (sau năm 1978). Mối quan hệ này đã được

nhiều học giả các nước tiến hành phân tích, nghiên cứu dưới nhiều góc độ, tuy

nhiên, những nghiên cứu về sự chuyển biến trong mối quan hệ này chưa thật sự

nhiều.

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứ li n q an đến đề tài Luận án

Nghiên cứu những chuyển biến trong mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia

cần khảo sát các công trình liên quan đến những vấn đề sau: (i) Chuyển biến trong

chính sách đối ngoại của Trung Quốc; (ii) Chuyển biến trong chính sách đối ngoại

của Indonesia; (iii) Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ sau năm

2005.

1.1.1. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của

Trung Quốc

Về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, nhiều nghiên

cứu đã tập trung lý giải việc Trung Quốc điều chỉnh chính sách ngoại giao. Trung

Quốc đã có sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao, chuyển từ “duy trì ổn định” thành

“chủ động duy trì quyền lực, duy trì ổn định”, đặc biệt từ sau Đại hội XVIII ĐCS

Trung Quốc. Trung Quốc đang đưa ra ngày càng nhiều các sáng kiến, chiến lược

nhằm thay thế các thể chế và quan hệ quốc tế do phương Tây dẫn đầu, như Ngân

hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á AIIB nhằm thay thế Ngân hàng Thế giới WB, Tổ

chức Hợp tác Thượng Hải SCO nhằm thay thế cấu trúc an ninh của Tổ chức Hiệp

ước Bắc Đại Tây Dương NATO, sáng kiến Chiang Mai nhằm thay thế cho Quỹ

Tiền tệ Quốc tế IMF… [Pradt, 2016, tr.117-118]. Ngoài ra, Trung Quốc đưa ngoại

13

giao láng giềng lên thành ưu tiên số một, coi “thân thiện với láng giềng, coi láng

giềng là bạn” là nguyên tắc cơ bản, coi “thân, thành, huệ, dung” (thân thiện, thành

tâm, cùng có lợi cùng hưởng, bao dung) là yêu cầu thực tiễn [陈跃, 马千里, 2015,

tr.59]. Các nghiên cứu đã phân tích, lý giải việc Trung Quốc xác định lại phạm vi

của “láng giềng”, không chỉ đơn thuần là phạm vi địa lý, mà còn là “biên giới

chiến lược do xác định được các quan niệm (chung) về địa chính trị (giữa các

nước)” [丁工, 2014, tr.30]. Sự điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng của

Trung Quốc chủ yếu bao gồm: (i) xác định lại quan niệm về ngoại giao láng giềng;

(ii) mở rộng việc triển khai “cộng đồng chung vận mệnh”; (iii) xây dựng lại môi

trường xung quanh Trung Quốc thông qua “Vành đai và Con đường” [孙云飞,

2015, tr.58-60].

Sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn với kinh tế của Trung Quốc mặc dù

được thực hiện bằng “phương thức mềm và linh hoạt”, nhưng cũng có tác động làm

thay đổi tương quan lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực. Trọng tâm chuyển

đổi phương thức kinh tế trong nước gắn với điều chỉnh chiến lược ngoại giao của

Trung Quốc thể hiện ở nhiều nội dung, trong đó nổi bật nhất là việc đẩy mạnh thực

hiện Chiến lược “Vành đai và Con đường” [Nguyễn Quang Thuấn, 2017, tr.4;

Nguyễn Hữu Cát, Vũ Quang Đức, 2018, tr.92-93]. Sự điều chỉnh chiến lược ngoại

giao của Trung Quốc đem lại những tác động tích cực đan xen với tiêu cực đối với

nhiều nước. Một mặt, sự điều chỉnh này sẽ buộc Trung Quốc tính toán cân nhắc

những lợi ích nhất định của ASEAN; thúc đẩy xu thế hội nhập, hợp tác cùng phát

triển cho các nước nhỏ; thúc đẩy trật tự thế giới đa cực; nâng cao vị thế các nước

đang phát triển trong khu vực thông qua cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn tại

khu vực;… Mặt khác, tham vọng không thay đổi của Trung Quốc về chủ quyền

lãnh thổ; việc Trung Quốc tìm cách tác động đến định hướng chính sách của các

nước láng giềng khiến tình hình chính trị nội bộ nhiều nước bị phân hóa và diễn

biến khó lường; cạnh tranh, cọ xát giữa các nước lớn ở khu vực sẽ gay gắt hơn

khiến các nước nhỏ đứng trước khó khăn trong việc cân bằng quan hệ với các

nước… đều gây những thách thức không nhỏ đối với khu vực và các nước láng

14

giềng [Nguyễn Hữu Cát, Vũ Quang Đức, 2018, tr.94-97].

Đáng chú ý, nhiều tác giả đã xuất phát từ góc độ văn hóa để lý giải các vấn

đề liên quan đến chính sách ngoại giao láng giềng hiện nay của Trung Quốc, cho

rằng phương châm “Thân, thành, huệ, dung” đã phản ánh được tư duy kết nối và

đạo đức mang tính tương tác trong văn hóa truyền thống Trung Quốc [邢丽菊, 2014,

tr.9-10]. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, văn hóa Nho giáo là một loại sức

mạnh mềm, chứa đựng logic tư duy và các triết lý đối nhân xử thế của người Trung

Quốc, khi lan truyền sang các nước láng giềng cũng sẽ tạo ra các triết lý hoặc logic

tư duy đối nhân xử thế tương tự. Nếu áp dụng văn hóa Nho giáo vào ngoại giao láng

giềng của Trung Quốc, sẽ có ích cho việc triển khai các công tác ngoại giao láng

giềng, phát huy vai trò quan trọng trong việc ổn định hòa bình môi trường xung

quanh Trung Quốc [孔志国,罗建波, 2017, tr.116].

Các nghiên cứu chỉ ra một số vấn đề trong nước có liên quan trực tiếp đến tình

hình ngoại giao Trung Quốc, như: (i) mô hình quyết sách và đặc điểm cá tính của

lãnh đạo quyết định đặc điểm mới của ngoại giao; (ii) sự chuyển đổi mô hình cơ cấu

chính phủ đòi hòi công tác ngoại giao phải nêu bật sự phối hợp và nhấn mạnh việc

thực hiện; (iii) ảnh hưởng của sự thay đổi xã hội trong nước, như phản ứng của Trung

Quốc đối với các vấn đề nhạy cảm của quốc tế liên quan đến chủ quyền có sự tham

gia rộng rãi của dân chúng [张清敏, 2014, tr.1]. Trong khi đó, Varrall (2015) đã nhấn

mạnh vai trò của Tập Cận Bình, và năng lực vật chất ngày càng tăng của Trung Quốc,

đồng thời giải thích cách Trung Quốc hành xử và diễn giải với thế giới thông qua các

câu chuyện quan trọng. Ví dụ, hành động của Trung Quốc tại biển Đông có thể được

lý giải theo quan điểm “lịch sử như định mệnh”: các hành động của Trung Quốc ở

Biển Đông phản ánh sự trở lại dần dần về vị trí mà nước này coi là xứng đáng và

được tôn trọng trên thế giới, và trong khu vực [Varrall, 2015, tr.13-16].

Đi sâu phân tích quan hệ đối tác của Trung Quốc, học giả 周淇隽 (2013) đã

chỉ ra 3 giai đoạn chính trong sự phát triển ngoại giao quan hệ đối tác của Trung

Quốc, bao gồm: (i) Giai đoạn tìm tòi từ năm 1993-2002: xây dựng và nâng cấp quan

hệ đối tác với tất cả 14 quốc gia và khu vực; (ii) Giai đoạn phát triển từ năm 2003-2012:

15

xây dựng và nâng cấp quan hệ đối tác với tất cả 65 quốc gia và khu vực; (iii) Giai đoạn

hoàn thiện từ năm 2013 đến nay [门洪华, 刘笑阳, 2015, tr.73-80]. Về đối tượng, các

nước và tổ chức đối tác trong quan hệ đối tác của Trung Quốc được chia thành 3

cấp bậc theo thứ tự thấp dần, bao gồm: Quan hệ đối tác mang tính toàn cục, quan hệ

đối tác mang tính chiến lược và quan hệ đối tác thông thường. Trung Quốc căn cứ

vào đặc điểm quan hệ ngoại giao với các nước và tổ chức đặc thù để xác định tên

gọi cho trạng thái quan hệ song phương [Feng Zhongping, Huang Jing, 2014, tr.9].

Trung Quốc xây dựng “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” với khá nhiều nước, bao

gồm một số nước phương Tây, trong nhóm BRICS, một số nước láng giềng, các nước

có nguồn tài nguyên quan trọng hoặc các nước có tầm ảnh hưởng trong khu vực…

[周淇隽, 2013]. Về thời gian thiết lập các quan hệ đối tác, có hai khoảng thời gian

số lượng các nước Trung Quốc xây dựng và nâng cấp quan hệ đối tác tăng mạnh, đó

là dưới thời kỳ Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lãnh đạo (2003-2012) và sau khi Sáng

kiến “Vành đai và Con đường” được đưa ra (từ sau năm 2013) [门洪华, 刘笑阳,

2015, tr.83].

Có thể thấy, những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại

của Trung Quốc đã phân tích, lý giải sự thay đổi trong chính sách ngoại giao láng

giềng của Trung Quốc từ nhiều góc độ khác nhau, đã nhận diện được các tác động

tích cực và tiêu cực của sự thay đổi chính sách này đối với thế giới và khu vực.

Trong khi đó, các nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ đối tác đã nhận diện được

phần nào chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới và khu vực.

1.1.2. Những nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại của

Indonesia

Các nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách ngoại giao của Indonesia

đã phân tích chính sách “cân bằng năng động” (dynamic equilibrium) của nước

này, thể hiện ở chỗ: (i) mở rộng thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược,

đối tác toàn diện với các nước trong và ngoài khu vực; (ii) chú trọng thúc đẩy

ngoại giao đa phương theo mô hình “vòng tròn đồng tâm” với ASEAN là tâm

điểm; (iii) ủng hộ việc chia sẻ và nhân rộng những giá trị, nguyên tắc, quy chuẩn,

16

luật lệ chung ở khu vực và trên thế giới; (iv) Indonesia tự định vị là bên đóng vai

trò trung gian hòa giải trong các tranh chấp trên Biển Đông giữa ASEAN và Trung

Quốc trong hơn hai thập kỷ qua, đồng thời thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng

tin; (v) luôn tham gia tích cực, năng động vào các hoạt động ngoại giao đa phương

mở rộng ra ngoài khu vực… [Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan, 2014, tr.117-123].

Chính sách ngoại giao “cân bằng năng động” này còn thể hiện qua các trường hợp

cụ thể, như việc Indonesia muốn tạo dựng được mối quan hệ cân bằng với hai

cường quốc ở châu Á là Trung Quốc và Nhật Bản, bên cạnh đó, Indonesia cũng

từng bước gia tăng hợp tác với Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng [Nguyễn

Huy Hoàng, 2018, tr.238-239]. Học giả người Indonesia Evan Laksmana đã có một

số bài viết về chủ đề này, như: “Pragmatic Equidistance: How Indonesia

Manages Its Great Power Relations” (2017), “Promises and pitfalls of

Indonesia’s faith in multilateralism” (2018a), “Abandoned at Sea: The Tribunal

Ruling and Indonesia’s Missing Archipelagic Foreign Policy” (2018b), … Trong

các nghiên cứu này, Evan cho rằng Indonesia đang thực hiện một chiến lược “cân

bằng thực dụng” để quản lý ảnh hưởng của các cường quốc [Laksmana, 2017,

2018a, 2018b].

Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Indonesia càng trở thành chủ đề được

nhiều học giả quan tâm đặc biệt từ sau khi Tổng thống Jokowi lên nắm quyền.

Nhìn chung, các nghiên cứu đã chỉ ra các quan điểm chính sách đối ngoại chủ yếu

của Indonesia thời kỳ Tổng thống Jokowi, bao gồm: (i) tiếp tục chính sách ngoại

giao “triệu người bạn, không kẻ thù” của Tổng thống Susilo; (ii) thực thi tầm nhìn

về vai trò của Indonesia với tư cách là “trục hàng hải toàn cầu”; (iii) ngoại giao

nhằm phục vụ lợi ích của người dân trong nước [Dương Văn Huy, 2014a, tr.31].

Về cơ sở xây dựng chính sách đối ngoại của Indonesia thời kỳ Jokowi, các học giả

đã chỉ ra một số nền tảng như: (i) nguyên tắc “độc lập – chủ động”; (ii) dựa trên

học thuyết “trục hàng hải”, trong đó tập trung 2 yếu tố: một là xây dựng trở lại

một cường quốc biển, hai là chính sách đối ngoại cân bằng các nước lớn [Nguyễn

17

Thanh Tuấn, 2016, tr.30-33].

Trong bối cảnh mới, chính sách đối ngoại của Indonesia có nhiều thay đổi,

chủ yếu thể hiện ở: (i) mục tiêu chiến lược từ chỗ là nước lớn trong khu vực Đông

Nam Á chuyển thành nước lớn cả ở khu vực ngoài Đông Nam Á; (ii) phản ứng

của Indonesia ngày càng mạnh mẽ đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc; (iii) chính

sách Biển Đông của Indonesia ngày càng cứng rắn [刘艳峰, 邢瑞利, 2016, tr.59-

61]. Chính sách đối ngoại thời kỳ Jokowi chủ yếu bao gồm các đặc điểm như: (i)

quay trở lại chủ nghĩa thực dụng, thực hiện ngoại giao kinh tế; (ii) coi trọng lợi ích

quốc gia, đề cao chủ nghĩa dân tộc; (iii) vượt qua các cường quốc tầm trung,

hướng tới sức ảnh hưởng toàn cầu; (iv) ngoại giao nghiêng về phía Mỹ, đồng thời

duy trì cân bằng nước lớn ở mức độ nhất định [于志强, 2015, tr.14-17]. Ngoại

giao thực dụng của Indonesia coi ngoại giao kinh tế là trung tâm, củng cố vũ đài

ngoại giao đa phương giữa các cường quốc tầm trung với ASEAN là trung tâm,

thúc đẩy ngoại giao nhân dân và ngoại giao biển, nỗ lực xây dựng Indonesia trở

thành quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, nâng cao tầm ảnh hưởng của

Indonesia trên trường quốc tế, tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước trong

và ngoài khu vực, thúc đẩy quá trình chuyển đổi nâng cấp của ngoại giao

Indonesia [宋秀琚,王鹏程, 2018, tr.105-106]. Một thay đổi đáng chú ý của ngoại

giao Indonesia thời kỳ Jokowi chính là việc từ bỏ “chủ nghĩa quốc tế” thời kỳ

Susilo, dần chuyển sang “hướng nội”, đồng thời đưa “chủ nghĩa quốc gia” lên vị

trí ưu tiên hàng đầu [尹楠楠, 2018, tr.68-70].

Cũng bàn về những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Indonesia, một

số học giả Indonesia như Andika (2016), Madu (2017) đã khẳng định: Tổng thống

Jokowi đã đưa ra các chính sách đối ngoại theo định hướng phục vụ trong nước,

phục vụ người dân (Pro-People Diplomacy), hỗ trợ lợi ích kinh tế trong nước

trước tiên [Andika, 2016, tr.2-3, Madu, 2017, tr.195-196]. Còn Iis Gindarsah (2018)

cho rằng, giữa những bất ổn trong khu vực, chiến lược “phòng ngừa rủi ro”

(hedging) đang ngày càng thể hiện rõ trong tư duy chiến lược của Indonesia về

khu vực hàng hải, đồng thời, quân đội trở thành một công cụ quan trọng trong

18

chính sách đối ngoại của Indonesia [Gindarsah, 2018, tr.31-32].

Về chiến lược của Indonesia trong ứng xử với các cường quốc, Dave McRae

(2015) đã phân tích cách Indonesia cân bằng giữa ảnh hưởng của Trung Quốc và

Mỹ, trong khi Trung Quốc đang ngày càng trở nên quan trọng đối với Indonesia

trên tư cách là một đối tác về kinh tế, thì hợp tác giữa Indonesia và Mỹ lại mang

nhiều nội dung về an ninh [McRae, 2015, tr.4-8]. Trong khi đó, 薛松 và 许利平

(2016)đã nghiên cứu ngoại giao biển mà Indonesia sử dụng trong thời gian này,

đồng thời phân tích những thách thức khi thực hiện Chiến lược cường quốc biển,

bao gồm: lo ngại về chủ nghĩa dân tộc, khó khăn do tranh chấp biển xung quanh,

hiệu quả thực hiện chính sách thấp, thiếu nguồn vốn xây dựng. Tác giả cũng chỉ ra

những thách thức đối với hợp tác biển giữa hai nước, bao gồm: mối liên hệ chính

sách trong quá trình kết nối chiến lược rất ít; vấn đề Natuna ảnh hưởng đến hợp tác

song phương; chủ nghĩa dân tộc của Indonesia; cạnh tranh từ các nước lớn khác như

Mỹ, Nhật…[ 薛 松 , 许 利 平 , 2016, tr.80-83]. Đáng chú ý, tác giả Damian

Wnukowski (2015) trong nghiên cứu Balancing ASEAN, the U.S. and China:

Indonesia’s Bebas-aktif Foreign Policy in the 21st Century cho rằng, mặc dù đã có

nhiều phát triển trong những năm gần đây, bebas-aktif (free and active: tự do và

năng động) vẫn là tâm điểm của chính sách đối ngoại của Indonesia. Sức mạnh

chính của chính sách này nằm ở sự linh hoạt đáng kể, cho phép chiến lược được

điều chỉnh theo môi trường quốc tế thay đổi mà không từ bỏ các mục tiêu chính.

Indonesia đã áp dụng khéo léo chiến lược này trong mối quan hệ với Trung Quốc và

Mỹ - hai cường quốc có ảnh hưởng lớn đến tiến trình quan hệ quốc tế ở Đông Á.

Tác giả cũng cho rằng, mặc dù ASEAN vẫn đóng một vai trò quan trọng trong

chính sách đối ngoại của Indonesia, nhưng dường như, cùng với sự trỗi dậy của sức

mạnh và khả năng tự hành động của Indonesia, tầm quan trọng của ASEAN có thể

giảm dần. Trong kịch bản này, chính sách bebas-aktif được sửa đổi có thể được tiến

hành nhiều hơn thông qua các hành động và sáng kiến riêng lẻ, bên cạnh hoạt động

trên các diễn đàn toàn cầu như G20 [Wnukowski, 2015, tr.137].

Về ảnh hưởng của chính sách đối ngoại Indonesia đối với quan hệ Trung

19

Quốc – Indonesia, chính sách ngoại giao kinh tế của Chính phủ Jokowi có lợi cho

việc mở rộng hơn nữa hợp tác kinh tế và đầu tư thương mại song phương giữa hai

nước, tuy nhiên, cũng đem lại tính bất định đối với quan hệ song phương. Trong

vấn đề Biển Đông, từ khi căng thẳng leo thang, Bộ Ngoại giao Indonesia luôn duy

trì lập trường trung lập, không làm phức tạp hóa mâu thuẫn, đồng thời thúc đẩy đối

thoại giữa các bên tranh chấp. Trong khi đó, phía quân đội Indonesia lại có quan

điểm hoàn toàn khác, muốn Chính phủ Indonesia thể hiện lập trường cứng rắn,

quyết đoán hơn trong việc xử lý bất đồng [于志强, 2015, tr.19].

Nhìn chung, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Indonesia đã tập

trung phân tích vai trò của của cường quốc tầm trung và đặc điểm chính sách “cân

bằng năng động” của Indonesia. Các nghiên cứu này đã nhận diện được thay đổi về

chính sách đối ngoại dưới thời Tổng thống Jokowi, với đặc điểm nổi bật là chủ

nghĩa thực dụng về kinh tế, giảm bớt ưu tiên cho “chủ nghĩa quốc tế”. Đặc biệt, các

nghiên cứu đã đánh giá được phần nào ảnh hưởng của chính sách đối ngoại

Indonesia đối với quan hệ giữa nước này với Trung Quốc.

1.1.3. Những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia sau năm 2005

Nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia không thể

tách rời việc nghiên cứu những thay đổi trong tổng thể quan hệ Trung Quốc –

ASEAN, do đây là khu vực mà cả hai nước này đều có ảnh hưởng quan trọng, đồng

thời đã có thời gian dài Indonesia xử lý quan hệ với Trung Quốc thông qua ASEAN.

Thứ nhất, nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc – Indonesia cần được đặt trong

tổng thể quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Trung

Quốc với ASEAN, tác giả Kuik (2005) cho rằng, một trong những thay đổi quan

trọng trong chính sách ASEAN của Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI là sự nổi lên của

chủ nghĩa đa phương. Trung Quốc đã từ chỗ thận trọng và nghi ngờ, không khởi

xướng, không ưa chuộng các thể chế đa phương, nay đã chuyển sang lạc quan và

nhiệt tình, cho rằng các diễn đàn đa phương là phương tiện hữu ích để thúc đẩy các

mục tiêu chính sách của riêng mình. Những thay đổi nhận thức này tuy chậm nhưng

20

là những thay đổi đáng kể, dẫn đến sự ưu tiên hơn về ngoại giao đa phương trong

chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc. Ngoài ra, sự tham gia vào các tổ chức đa

phương của Trung Quốc được thúc đẩy bởi tham vọng thiết lập các quy tắc mới cho

hợp tác khu vực [Kuik, 2005, tr.119].

Tác giả Lưu Việt Hà (2014) nhận định: tuy công khai tuyên bố “kiên trì thân

thiện với láng giềng”, song thực tế Trung Quốc vẫn tiếp tục chính sách “chia để trị”

đối với ASEAN, sử dụng các đòn bẩy kinh tế để tăng cường sự chi phối về chính trị.

Quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ tiếp tục phát triển, song lòng tin

chính trị chưa thể có sự cải thiện lớn trong thời gian tới [Lưu Việt Hà, 2014, tr.212].

Tác giả Nguyễn Huy Hoàng (2018) tập trung nhận diện những đánh giá của

ASEAN đối với sự điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển mới của Trung

Quốc, khẳng định rằng bất kỳ thay đổi nào xuất hiện ở Trung Quốc dù là nhỏ cũng

đều có những ảnh hưởng nhất định đến khu vực Đông Nam Á và các nước thành

viên của ASEAN. Nghiên cứu trên cũng phân tích đối sách và phản ứng của

ASEAN, một số nước thành viên đối với sự điều chỉnh chiến lược và phương thức

phát triển mới của Trung Quốc [Nguyễn Huy Hoàng, 2018, tr.17].

Các tác giả Nguyễn Văn Hà, Chu Trọng Trí (2015) đánh giá các tác động

kinh tế của những chính sách phát triển hợp tác mới của Trung Quốc đối với

ASEAN. Trong đó, bên cạnh các tác động tích cực như góp phần giúp thương mại

hai chiều tăng nhanh, thúc đẩy đầu tư, góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kết nối

về cơ sở hạ tầng giao thông và tài chính, tác động tích cực đến quá trình hội nhập và

hợp tác kinh tế trong ASEAN..., cũng cần lưu ý các tác động tiêu cực như: sự phụ

thuộc vào kinh tế Trung Quốc của ASEAN ngày càng tăng, sự chuyển hướng

thương mại, tác động bất lợi từ sự gia tăng cạnh tranh... [Nguyễn Văn Hà, Chu Trọng Trí, 2015,tr.15-18]. Xu hướng gia tăng hợp tác về kinh tế giữa Trung Quốc

và ASEAN cũng được các tác giả Trần Khánh, Đàm Huy Hoàng (2014) nhận định:

từ thập niên đầu thế kỷ XXI đã tăng nhanh tốc độ và quy mô về hoạt động ngoại

giao, thiết lập các thể chế hợp tác, nhất là về kinh tế với ASEAN và các nước thành

viên. Cuộc chạy đua trong quan hệ với Đông Nam Á của Trung Quốc trở nên quyết

21

liệt kể từ khi Mỹ điều chỉnh chiến lược, xoay trục hướng về Châu Á – Thái Bình

Dương, tái cân bằng chiến lược tại khu vực này cả về quân sự và kinh tế [Trần

Khánh, Đàm Huy Hoàng, 2014, tr.3].

Thứ hai, những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia từ sau năm 2005 chủ yếu phân tích thực trạng quan hệ Trung Quốc –

Indonesia trong từng giai đoạn, và sự thay đổi về quan hệ trong từng lĩnh vực kinh

tế, chính trị - an ninh và văn hóa – xã hội. Đáng chú ý có cuốn sách Six Decades of

Indonesia-China Relations An Indonesian Perspective của Sinaga (2018). Nghiên

cứu đã khái quát một cách hệ thống quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong 60 năm

dưới góc nhìn của Indonesia kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao qua các

phương diện chính trị - an ninh, kinh tế, trong tổng thể mối quan hệ Trung Quốc –

ASEAN.... Các tác giả cho rằng, mối quan hệ lâu dài giữa Indonesia và Trung Quốc

trong sáu thập kỷ qua đã chứng kiến những giai đoạn thăng và trầm. Indonesia nhận

thức được rằng, bất kỳ thay đổi chính trị nào trong khu vực châu Á – Thái Bình

Dương cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích quốc gia của Indonesia.

Do đó, vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc trên toàn thế giới và trong khu vực này

chắc chắn sẽ tác động đến lợi ích quốc gia của Indonesia. Nghiên cứu quan hệ giữa

hai quốc gia này giúp Indonesia xác định và tận dụng tốt các cơ hội vì lợi ích phát

triển quốc gia của mình [Sinaga, 2018a]. Còn tác giả Trần Hiệp (2012) đã tiếp cận

mối quan hệ này từ sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Indonesia, thể hiện qua:

(i) định hướng xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các nước ngoài khu vực của

Indonesia; (ii) sự hưởng ứng tích cực từ các đối tác của Indonesia, trong đó có

Trung Quốc, trước chính sách tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với các nước

lớn [Trần Hiệp, 2012, tr.47-49] … Nhìn chung, đặc điểm chủ yếu của quan hệ

Trung Quốc – Indonesia từ sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm

2005 là: (i) phát triển với tốc độ nhanh so với các nước ASEAN khác; (ii) các lĩnh

vực hợp tác ngày càng được mở rộng, tính chất “chiến lược” ngày càng được tăng

cường; (iii) quan hệ giữa hai nước luôn tồn tại song song tính hợp tác và tính cạnh

22

tranh, trong đó mặt hợp tác là nổi trội và được hai nước đề cao.

Trong những nghiên cứu được tiến hành trước khi hai nước nâng cấp quan hệ

thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, hầu hết các tác giả Indonesia đều

cho rằng quan hệ hai nước “hiệu quả và thực dụng, nhưng chưa phải là đối tác chiến

lược” [Tjhin, 2012, tr.312], Indonesia không chắc chắn về vai trò lâu dài của Trung

Quốc tại Đông Á [Rizal Sukma, 1999, tr.37-38], do đó, Indonesia áp dụng chiến

lược “tự do và linh hoạt” [Tjhin, 2012, tr.305-310; Parameswaran, 2014a, tr.154-

155]. Sau khi hai nước nâng cấp quan hệ, đặc biệt sau khi Trung Quốc đề xuất xây

dựng “Vành đai và Con đường”, Indonesia đưa việc xây dựng “Trục hàng hải toàn

cầu” trở thành định hướng chính sách đối ngoại của mình, nhiều tác giả cho rằng,

quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong thời đại Jokowi được hình thành bởi hai lợi

ích chính, bao gồm lợi ích kinh tế và vấn đề chủ quyền biển [Andika, 2017, tr.163,

165-166; Pattiradjawane, 2016, tr.6]. Các tác giả đều chỉ ra rằng, hiện đang có nhiều

quan điểm khác nhau trong nội bộ Chính phủ Jokowi khi nhìn nhận về Trung Quốc

khi coi Trung Quốc vừa là mối đe dọa, vừa là cơ hội hợp tác [Syailendra, 2017, tr.3;

Fitriani, 2018, tr.6-9; Anwar, 2019, tr.6]. Điều này giải thích cho chính sách “phòng

bị nước đôi”, “không đối trọng” một lần nữa được Chính phủ Jokowi áp dụng trong

giai đoạn này [Supriyanto, 2016; Syailendra, 2017, tr.3; Andika, Aisyah, 2017,

tr.176; Fitriani, 2018, tr.10-13].

Trong lĩnh vực kinh tế, các học giả Trung Quốc tương đối lạc quan khi đưa

ra các nhận định về quan hệ Trung Quốc – Indonesia, như: “thương mại hai nước

liên tục lập kỷ lục mới”, “đầu tư không ngừng tăng cao”, “các lĩnh vực khác đều có

thành tựu”… [吴崇伯, 2014, tr.39-40]. Gần đây, một loạt bài viết của các học giả

Trung Quốc tập trung khai thác độ trùng khớp và tính bổ sung giữa Sáng kiến

“Vành đai và Con đường” và Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”, phân tích thực

trạng hợp tác hai nước trong khuôn khổ “Vành đai và Con đường”, như: cuốn sách

21 世纪海上丝绸之路”与中国——印尼战略合作研究 (Nghiên cứu “Con đường

tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và hợp tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia) của 宋秀

琚 (2017), 21 世纪海上丝绸之路”建设与中国——东盟经贸新合作 (Xây dựng

23

“Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và hợp tác mới trong kinh tế thương mại

giữa Trung Quốc và ASEAN) của 龙安山 (2018), “一带一路”背景下中国对印尼

直接投资研究 (Nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Trung Quốc đối với Indonesia

trong bối cảnh “Vành đai và Con đường”) của 谭璟婧 (2017), “一带一路”背景下

印尼的中国劳工问题 (Vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia trong bối cảnh

“Vành đai và Con đường”) của 潘玥 (2017)... Trong đó, cuốn sách 21 世纪海上丝

绸之路”与中国——印尼战略合作研究 (Nghiên cứu “Con đường tơ lụa trên biển

thế kỷ 21” và hợp tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia) đã phân tích các cơ hội

và thách thức đối với hợp tác Trung Quốc – ASEAN, hợp tác Trung Quốc –

Indonesia trong khuôn khổ “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”, trong đó nhiều

nội dung chỉ ra tiềm năng và khó khăn trên các lĩnh vực như chế độ quản lý biển

của hai nước, quan hệ đối tác trên biển, hợp tác về ngư nghiệp, phát triển giao lưu

nhân văn giữa Trung Quốc và Indonesia... Còn Luận văn thạc sỹ “一带一路”背景

下中国对印尼直接投资研究 (Nghiên cứu đầu tư trực tiếp của Trung Quốc đối với

Indonesia trong bối cảnh “Vành đai và Con đường”) của 谭璟婧 (2017) đã phân

tích: (i) môi trường đầu tư nước ngoài của Indonesia, bao gồm các nhân tố như tài

nguyên phong phú, các yếu tố chính trị và kinh tế; (ii) thực trạng đầu tư của Trung

Quốc đối với Indonesia, bao gồm: các chính sách đặc thù thu hút đầu tư Trung

Quốc của Indonesia, quy mô đầu tư Trung Quốc tại Indonesia, các lĩnh vực đầu tư

chủ yếu và đặc điểm đầu tư của Trung Quốc đối với Indonesia; (iii) một số vấn đề

tồn tại trong đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Trung Quốc đối với Indonesia, chủ

yếu bao gồm: mức độ đầu tư tương đối thấp, tỉ lệ thực hiện đầu tư thấp, sự không

tương xứng giữa động lực chính sách và sự năng động của doanh nghiệp, chất

lượng các dự án... Nghiên cứu cũng chỉ ra các cơ hội đối với doanh nghiệp Trung

Quốc đầu tư vào Indonesia trong bối cảnh xây dựng “Vành đai và Con đường”, như

sự bổ sung về chiến lược phát triển của hai nước, các lĩnh vực đầu tư truyền thống

còn nhiều không gian phát triển, đầu tư trong lĩnh vực các ngành nghề mới nổi trở

24

thành điểm tăng trưởng mới...

Tác giả Anne Booth (2011) đã chỉ ra những lợi ích cũng như lo lắng về hệ

lụy của việc các nước Đông Nam Á khi gia tăng quan hệ thương mại với Trung

Quốc, với việc phân tích trường hợp cụ thể của Indonesia [Booth, 2011, tr.152-158].

Nhiều nghiên cứu nước ngoài trong thời gian gần đây đi sâu vào những vấn đề tồn

tại và thách thức trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia nói chung, và hợp tác trong

lĩnh vực kinh tế nói riêng, như: Indonesia – China trade relations: The deepening of

economic integration amid uncertainty? của Alexander C. Chandra và Lucky A.

Lontoh (2011), Indonesia Responds to China’s Rise trong cuốn sách Middle Powers

and the Rise of China của Ann Marie Murphy (2014), The Impacts of ACFTA to

Indonesia ‐China Trade của ICRA Indonesia Comment (2015), The growing

‘Strategic partnership’ between Indonesia and China faces difficult challenges của

Leo Suryadinata (2017)… Đóng góp quan trọng của các nghiên cứu này là đã đưa

ra và phân tích quan điểm từ góc độ của Indonesia, hoặc góc độ trung lập, giúp

người đọc có cái nhìn khách quan và toàn diện về mối quan hệ giữa Trung Quốc và

Indonesia trên các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.

Đáng chú ý, trong nghiên cứu The growing ‘Strategic partnership’ between

Indonesia and China faces difficult challenges, tác giả Leo Suryadinata (2017) đã

chỉ ra những tiến triển trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia dưới thời kỳ Tổng

thống Yudhoyono (2004-2014) và thời kỳ Tổng thống Jokowi (2014-nay). Tác giả

lý giải những tiến triển trong quan hệ hai nước trong thời kỳ Tổng thống

Yudhoyono là do Yudhoyono lúc này nhận được nhiều sự ủng hộ từ các đảng chính

trị lớn, bao gồm cả các đảng Islam, hình ảnh Trung Quốc ở Indonesia trong thời kỳ

này vẫn tốt đẹp, không có sự thù địch đối với Trung Quốc về vấn đề Islam, cũng

không có nhiều mâu thuẫn đối với người Hoa Indonesia, đồng thời, căng thẳng về

các vấn đề trên Biển Đông còn tương đối thấp. Tác giả cũng cho rằng, sự hợp tác

giữa hai nước có ý nghĩa về mặt chính trị nhất trong thời kỳ Jokowi, do sự bổ sung,

tương đồng về chiến lược phát triển biển của hai nước. Bên cạnh đó, Suryadinata

cũng chỉ ra một số vấn đề chính sẽ ảnh hưởng đến xu hướng phát triển tích cực của

25

hai nước trong tương lai, bao gồm: (i) vấn đề lao động Trung Quốc trong các dự án

hợp tác; (ii) sự chồng lấn lãnh thổ xung quanh vùng EEZ của quần đảo Natuna; (iii)

sự nổi lên của chủ nghĩa bản địa bài ngoại tại Indonesia; (iv) trào lưu chống Trung

Quốc tại Indonesia; (v) thay đổi trong chính sách của Trung Quốc đối với người

Trung Quốc ở nước ngoài.

Nghiên cứu quan điểm của các nhóm chính trị trong Chính phủ Indonesia về

quan hệ với Trung Quốc có các bài viết Torn Between America and China: Elite

Perceptions and Indonesian Foreign Policy của Daniel Novotny (2010) và How the

Indonesian Elite Regards Relations with China của Johanes Herlijanto (2017). Tác

giả Novotny đã làm nổi bật nhận thức của giới lãnh đạo Indonesia về sự cần thiết

phải giữ vững sự cân bằng quyền lực giữa các chủ thể nhà nước khác nhau trong hệ

thống toàn cầu, đặc biệt là sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc [Clark, 2012, tr.91-

93]. Trong khi đó, Herlijanto đã phân chia quan điểm tầng lớp tinh hoa Indonesia

thành hai nhóm: ủng hộ và nghi ngờ Trung Quốc [Herlijanto, 2017, tr.7]. Về chính

sách, chiến lược của Indonesia đối với Trung Quốc, Tiola Javadi (2016) lập luận

rằng Indonesia hiện đang áp dụng chính sách phòng ngừa linh hoạt. Indonesia

không có nhiều lý do để lựa chọn chính sách cân bằng với Trung Quốc bởi: (i) mối

đe dọa Trung Quốc đối với lợi ích của Indonesia trong các vùng biển của Natuna

vẫn còn hạn chế; (ii) Indonesia vẫn bị giằng xé giữa lợi ích của nước này ở Natuna

và những nỗ lực của họ nhằm duy trì vị thế trung lập trong tranh chấp ở Biển Đông;

(iii) Indonesia thiếu các nguồn tài chính để tiến hành tăng cường quân đội quy mô

lớn, đặc biệt là dưới thời một chính quyền phần lớn tập trung vào việc xây dựng cơ

sở hạ tầng trong nước [Javadi, 2016].

Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu của học giả Trung Quốc đi sâu phân tích vào

các nội dung như quá trình đồng hóa và duy trì bản sắc trong tiếp xúc văn hóa, vấn

đề bài Hoa ở Indonesia, vị trí và vai trò của người Hoa ở Indonesia. Việc xây dựng

và mở rộng mạng lưới khu vực thương mại của người Hoa Indonesia không những

đã góp phần tăng cường sự trao đổi về thương mại giữa hai nước, mà còn tăng

cường giao lưu văn hóa giữa hai bên [郑一省, 2016, tr.67]. Về vị trí và vai trò của

26

người Hoa tại Indonesia trong lịch sử, nhiều học giả khẳng định mâu thuẫn về kinh

tế là nguyên nhân chủ yếu [Bùi Huy Thành, 2007, tr.69-70; Châu Thị Hải, 2001,

tr.44-46]. Trong khi đó, học giả Trung Quốc 温北炎 (2012) không cho rằng người

Hoa “nắm giữ” kinh tế Indonesia, do người Hoa chỉ nắm giữ 70% các doanh nghiệp

của 13% doanh nghiệp tư bản trong nước Indonesia, chứ không phải nắm giữ 70%

doanh nghiệp Indonesia [温北炎, 2012, tr.64]. Một số học giả nêu cao vai trò của

người Hoa và Hoa kiều trong việc phát triển quan hệ hai nước, thể hiện trên các

khía cạnh như: đề cao mô hình phát triển của Trung Quốc, kế thừa và truyền bá văn

hóa truyền thống Trung Quốc, tìm hiểu và giải thích về thể chế và các chính sách

của Trung Quốc... [许梅, 黄丽嫦, 2010, tr.34]. Các học giả Trung Quốc đều khẳng

định, từ đầu thế kỷ XXI trở lại đây đã xuất hiện trào lưu văn hóa Trung Hoa tại

Indonesia, có tác dụng quan trọng đối với việc gia tăng ảnh hưởng sức mạnh mềm

văn hóa Trung Hoa [郑一省, 2012, tr.67; 张小倩, 2016, tr.89-91].

Quá trình tiếp xúc văn hóa, lai tạo, bị đồng hóa, và quá trình “tái Hán hóa”

sau thời kỳ Suharto của văn hóa Trung Quốc tại Indonesia được nhiều tác giả phân

tích dưới nhiều góc độ. Sự hồi sinh các đặc tính Trung Hoa Thời kỳ hậu Suharto

cho thấy sức sống của các yếu tố văn hóa Trung Hoa vẫn được duy trì, ngay cả khi

bị tấn công hà khắc bởi các chính sách đồng hóa trong Thời kỳ Trật tự Mới. Theo

Charlotte Setijadi (2016), việc “Hán hóa” cũng tiềm ẩn những nguy cơ đối với

người Hoa Indonesia, như kéo giãn khoảng cách giữa người người totok và

peranakan, hay biến những vấn đề mới phát sinh trong quan hệ hai nước thành nguy

cơ khiến người Hoa Indonesia rơi vào tình trạng “dễ bị tổn thương” như trong lịch

sử [Setijadi, 2016, tr.9-10]. Các vấn đề gây ảnh hưởng đến quan hệ hai nước cũng

như sức ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc ở Indonesia được các học giả đề cập

bao gồm: vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia [潘玥, 2017], vấn đề quần đảo

Natuna thuộc Vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, viết tắt: EEZ)

của Indonesia, sự nổi lên của chủ nghĩa bản địa bài ngoại ở Indonesia, trào lưu

chống Trung Quốc trong nước, và những thay đổi trong chính sách của Trung Quốc

27

đối với người Hoa ở nước ngoài [Setijadi, 2016, tr.6-7; Leo, 2017, tr.25].

Nhìn chung, các nghiên cứu kể trên tuy chưa chỉ rõ những chuyển biến trong

quan hệ Trung Quốc và Indonesia trên các lĩnh vực qua các thời kỳ, nhưng những

đánh giá của các học giả về thực trạng quan hệ hai nước trong các lĩnh vực chính trị

- an ninh và kinh tế đã góp phần tạo nền tảng để Luận án tiến hành so sánh, làm rõ

sự chuyển biến trong mối quan hệ này. Bên cạnh đó, với những phân tích đa chiều

về những nhân tố ảnh hưởng và các chính sách đối ngoại của hai nước, đặc biệt là

cách ứng phó của Indonesia sẽ góp phần tạo cơ sở dữ liệu cho việc nghiên cứu về

cách ứng xử của một cường quốc tầm trung trong mối quan hệ bất đối xứng với một

cường quốc trên thế giới. Trong khi đó, các nghiên cứu về quan hệ văn hóa của học

giả Trung Quốc chủ yếu tập trung phân tích vai trò người Hoa ở Indonesia và những

tác động tích cực mà trào lưu văn hóa Trung Hoa tại Indonesia từ đầu thế kỷ XXI

đối với quan hệ hai nước. Còn học giả Indonesia tập trung phân tích cách nhìn nhận

và ứng xử của Indonesia đối với Trung Quốc, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc

trỗi dậy và gia tăng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á. Các học giả nước khác lại

đặt quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, trong

thế tương quan với ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực và tại Indonesia, đồng thời đánh

giá khách quan quan hệ kinh tế song phương, các quan điểm của Chính phủ

Indonesia đối với Trung Quốc, lý giải nguyên nhân Indonesia lựa chọn chính sách

phòng ngừa linh hoạt.

1.2. Đ n i tìn ìn n hiên cứu và những vấn đề Luận án sẽ làm rõ

Hiện nay, Trung Quốc đang triển khai cùng lúc nhiều chính sách ngoại giao

mang tầm chiến lược như xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh, xây dựng mạng

lưới quan hệ đối tác trên thế giới, thúc đẩy Sáng kiến Vành đai và Con đường...

nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình trên toàn thế giới nói chung và trong khu vực

Đông Nam Á nói riêng. Việc nghiên cứu về chuyển biến trong chính sách đối ngoại

của Trung Quốc, của Indonesia và chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia đã trở thành chủ đề được nhiều học giả trong và ngoài nước đặc biệt quan

tâm, nhất là từ đầu thế kỷ XXI khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ và sau khi Trung

28

Quốc và Indonesia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005.

Luận án đã tiếp cận được nhiều nguồn tư liệu, bao gồm cả tư liệu sơ cấp và tư

liệu thứ cấp, do đó, có được những căn cứ khoa học để hình thành nên một khung

phân tích hợp lý khi tiến hành nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc

– Indonesia. Không chỉ thế, Luận án tiếp cận được các tư liệu của nhiều nhóm học giả

khác nhau, gồm học giả Việt Nam, học giả Trung Quốc, học giả Indonesia và học giả

các nước khác (thông qua các bài viết bằng tiếng Anh). Điều này sẽ giúp Luận án có

được cách nhìn khách quan từ cả hai phía trong quá trình phân tích và giải mã các vấn

đề liên quan đến sự thay đổi chính sách đối ngoại của hai nước.

1.2.1. Những kết quả các nghiên cứu đã đạt được

Thứ nhất, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã xác định

được nhân tố chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến

quan hệ Trung Quốc – Indonesia chính là những thay đổi trong chính sách ngoại giao

láng giềng. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu đã nhận diện được những thay đổi trong

việc định vị chính sách ngoại giao láng giềng trong tổng thể chiến lược ngoại giao

của Trung Quốc, đồng thời lý giải được những thay đổi này từ góc độ của Trung

Quốc.

Thứ hai, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Indonesia đã xác định

được nhân tố chính trong chính sách đối ngoại Indonesia có nhiều tác động đến quan

hệ Trung Quốc – Indonesia chính là đặc điểm “cân bằng năng động”, hay đặc trưng

chính sách của cường quốc tầm trung. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu đã nhận diện và

lý giải được những ưu tiên chính sách đối ngoại của Indonesia tại các thời điểm và

trong các lĩnh vực cụ thể.

Thứ ba, những nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia từ sau năm 2005 đã nhận diện được thực trạng và những vấn đề tồn tại

trong quan hệ hai nước trong các giai đoạn khác nhau, trên các lĩnh vực cụ thể bao

gồm chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng

đã nhận diện được phần nào “phong cách” ngoại giao, và văn hóa chính trị của Trung

Quốc và Indonesia, đây cũng sẽ là cơ sở để lý giải các chính sách cụ thể mà hai nước

29

áp dụng trong các trường hợp nhất định. Tuy nhiên, trong khi các nghiên cứu về

chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung Quốc tương đối phong phú, thì các

nghiên cứu chuyên sâu về chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia trong giai

đoạn hiện nay vẫn còn vắng bóng.

Thứ tư, nếu như các công trình của học giả Trung Quốc tập trung phân tích

những thành tựu và vấn đề trong quan hệ kinh tế giữa hai nước, về việc kết nối giữa

Chiến lược “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc với Chiến lược “Trục hàng hải

toàn cầu” của Indonesia, thì các công trình của học giả Indonesia và học giả các nước

khác tập trung nhiều vào khía cạnh chính trị - an ninh, phân tích những thách thức

trong quan hệ chính trị - an ninh mà hai nước đang và sẽ gặp phải trong thời gian tới.

Đáng chú ý, các nghiên cứu của học giả Indonesia và các nước khác đã đi sâu phân

tích sự phân hóa trong giới lãnh đạo chính trị Indonesia về cách nhìn nhận và ứng xử

đối với Trung Quốc – đây là một cơ sở quan trọng để lý giải và dự báo chính sách

ngoại giao của Indonesia đối với Trung Quốc. Các nghiên cứu về quan hệ hai nước

trong lĩnh vực văn hóa – xã hội đã chỉ ra vấn đề người Hoa Indonesia đã tồn tại trong

suốt lịch sử phát triển quan hệ hai nước.

Trên cơ sở đa dạng về các lĩnh vực nghiên cứu, đa dạng về các cách tiếp cận

cũng như cách luận giải vấn đề, những kết quả nghiên cứu từ những công trình trước

đây trở thành nguồn tham khảo quý giá đối với quá trình khảo cứu tư liệu để thực

hiện Luận án.

1.2.2. Những vấn đề Luận án sẽ làm rõ

Mặc dù các nghiên cứu trong và ngoài nước là rất phong phú, tuy nhiên, vẫn

còn thiếu vắng một công trình mang tính hệ thống và chuyên sâu về chuyển biến

trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên các lĩnh vực, nhằm làm rõ chính sách

đối ngoại cũng như mô hình quan hệ đối tác của Trung Quốc trong thế kỷ XXI và

cách ứng xử của Indonesia với tư cách là một cường quốc tầm trung. Do đó, từ góc

nhìn của chuyên ngành Trung Quốc học, trên cơ sở xử lý nguồn tài liệu đã tiếp cận,

Luận án sẽ làm rõ một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, Luận án sẽ lý giải những thay đổi trong chính sách đối ngoại của hai

30

nước thông qua việc vận dụng các luận điểm của Thuyết bất đối xứng và chính sách

của cường quốc tầm trung. Trong đó, lý thuyết về cường quốc tầm trung không chỉ

được sử dụng với vai trò làm rõ hành vi, ứng xử của cường quốc tầm trung, mà còn

được dùng để phân tích vai trò của các quốc gia này trong chiến lược phát triển của các

cường quốc (với trường hợp cụ thể là Trung Quốc), từ đó lý giải các chính sách mà

Trung Quốc áp dụng đối với Indonesia. Bên cạnh việc kế thừa và phát triển những luận

điểm hiện có về chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung Quốc, Luận án đi

sâu phân tích và nhận diện chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia trong tổng thể

chính sách ngoại giao láng giềng, trong chính sách với Đông Nam Á, trong chiến lược

ngoại giao đối tác chiến lược, và trong bối cảnh Trung Quốc đang thúc đẩy Sáng kiến

Vành đai và Con đường. Đặc biệt, Luận án chú trọng phân tích các nhân tố ảnh hưởng

đến chính sách đối ngoại của cả hai nước, trong đó có vai trò lãnh đạo của người đứng

đầu mỗi nước.

Thứ hai, trong bối cảnh các nghiên cứu hiện có về quan hệ Trung Quốc –

Indonesia chủ yếu phân tích thực trạng quan hệ hai nước trong từng giai đoạn, chứ

chưa tập trung phân tích những bước chuyển biến trong mối quan hệ, Luận án sẽ phân

tích một cách hệ thống và toàn diện về: (i) những chuyển biến trong quan hệ Trung

Quốc – Indonesia trên các lĩnh vực trong giai đoạn từ năm 2005 tới nay, nhận diện

tính chất của sự chuyển biến qua các giai đoạn; (ii) lý giải nguyên nhân dẫn đến các

chuyển biến, tìm ra quy luật tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài đối

với chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005. Cụ thể,

tìm ra nhân tố nào dẫn đến sự chuyển biến tiệm tiến; nhân tố nào chỉ dẫn đến sự chuyển

biến mang tính đột biến trong quan hệ hai nước.

Thứ ba, không chỉ dừng lại ở việc phân tích chuyển biến trên các lĩnh vực

trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, Luận án sẽ khái quát nhằm nhận diện đặc

điểm và bản chất quan hệ giữa hai nước, đặc biệt nhận diện tính bất đối xứng trong

quan hệ, sự không cân bằng trong quan hệ giữa các lĩnh vực khác nhau, và tính chất

đặc trưng của quan hệ ngoại giao của Trung Quốc đối với một quốc gia láng giềng.

Luận án phân tích và đánh giá vị thế của Indonesia trong vai trò một cường quốc tầm

31

trung trước trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, nhằm lý giải tốt hơn mức độ

quan hệ và cách Trung Quốc ứng xử với một quốc gia tầm trung trong khu vực Đông

Nam Á.

Thứ tư, là một nghiên cứu thuộc chuyên ngành Trung Quốc học được thực hiện

tại Việt Nam, Luận án sẽ đánh giá những tác động của chuyển biến trong quan hệ

Trung Quốc – Indonesia đối với khu vực Đông Nam Á và Việt Nam, nhất là từ sau khi

Trung Quốc điều chỉnh chiến lược ngoại giao, đặt “ngoại giao xung quanh” lên vị trí

hàng đầu. Từ đó, Luận án sẽ đánh giá xu hướng quan hệ hai nước tới năm 2030 nhằm

32

đưa ra cơ sở tham chiếu cho các chính sách đối ngoại của Việt Nam.

C ư n 2.

CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

CHUYỂN BIẾN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA

Quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia là quan hệ đối tác chiến lược giữa

một cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới với một quốc gia có vai trò quan trọng

trong khu vực Đông Nam Á. Do đó, nghiên cứu mối quan hệ này cần dựa trên

những cơ sở lý luận và thực tiễn mang tính đặc thù của hai nước. Những đặc điểm

riêng biệt trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia được quyết định một phần bởi vai

trò, vị trí của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và trong khu vực, đồng thời bởi lợi

ích của mỗi nước khi tăng cường quan hệ với đối phương.

2.1. C sở lý luận

Quan hệ Trung Quốc – Indonesia là một cặp quan hệ đặc biệt, bởi Trung

Quốc được coi là một cường quốc trên thế giới, trong khi Indonesia là một cường

quốc tầm trung, cũng có vai trò quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, do đó, quan

hệ giữa hai quốc gia này sẽ có tính chất bất đối xứng, tuy nhiên mức độ bất đối

xứng sẽ được quyết định một phần bởi vị trí, vai trò của cường quốc tầm trung

Indonesia. Bên cạnh đó, đây là một nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ đối

tác chiến lược giữa hai nước, do đó các lý thuyết, khái niệm cần phân tích cũng bao

gồm lý thuyết về chuyển biến, về quan hệ đối tác chiến lược.

2.1.1. Các khái niệm liên quan đến chuyển biến trong quan hệ Trung

Quốc - Indonesia

Nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, chúng ta

cần làm rõ một số khái niệm như: “chuyển biến”, “quan hệ đối tác chiến lược”,

“cường quốc tầm trung”.

Thứ nhất, khái niệm “chuyển biến”

Theo Từ điển Tiếng Việt, “chuyển biến” là sự biến đổi sang trạng thái khác

với trước (thường nói về lĩnh vực tư tưởng, hoạt động của con người, và thường

33

theo hướng tích cực) [Từ điển Tiếng Việt, 2007, tr.302]; “biến chuyển” là “chuyển

sang, thay đổi sang trạng thái khác trước” [Từ điển Tiếng Việt, 2007, tr.106]. Đến

nay, trong khoa học xã hội của Việt Nam, vẫn chưa có khái niệm chính thức về

“chuyển biến/ biến chuyển” trong quan hệ giữa hai quốc gia.

Về khái niệm tương ứng trong tiếng Anh, Luận án sử dụng khái niệm

“change” chứ không dùng “transformation” hay “transition”, vì hai khái niệm sau

thường mang nghĩa sự thay đổi lớn, biến đổi về chất. “Transition” thường được

dùng để chỉ sự thay đổi cơ bản về xã hội, công nghệ, thể chế và kinh tế từ một chế

độ xã hội hoặc trạng thái cân bằng động này sang một chế độ xã hội hay trạng thái

cân bằng khác [Rotmans, Kemp, van Asselt, 2001, tr.16]. Còn “transformation”

được một số học giả định nghĩa là: sự thay đổi triệt để, quy mô lớn và dài hạn, là sự

chuyển đổi từ trên xuống về mặt chính trị [Stirling, 2014, tr.13]. Cả “transition” và

“transformation” đều được coi là “sự thay đổi/ chuyển biến trong một hệ thống

thích ứng phức tạp” [Hölscher, Wittmayer, Loorbach, 2018, tr.1]. Trong khi đó, sự

chuyển biến trong quan hệ hai nước được đề cập trong Luận án chỉ đơn giản là

những thay đổi (change) trong mối quan hệ mà tác giả sẽ làm rõ trong quá trình

phân tích, xem đó là sự thay đổi trong lĩnh vực gì, là thay đổi về chất hay về lượng.

Về các dạng thức của sự “chuyển biến”, Gilpin (1981) trong tác phẩm War

and Change in World Politics cho rằng, có 3 dạng thức của chuyển biến, bao gồm:

(i) thay đổi/ chuyển biến cả hệ thống (systems change): trong đó, có sự thay đổi về

bản chất của các nhân tố, hoặc các thực thể đa dạng tạo nên một hệ thống quốc tế;

(ii) thay đổi/ chuyển biến một cách hệ thống (systemic change), trong đó, có sự thay

đổi về hình thức kiểm soát hoặc quản trị của một hệ thống quốc tế; (iii) thay đổi/

chuyển biến ở cấp độ tương tác (interaction change), trong đó, có sự thay đổi diễn ra

dưới hình thức tương tác hoặc quy trình thường xuyên giữa các thực thể trong một

hệ thống quốc tế [Gilpin, 1981, tr.39-40] (Xem Bảng 2.1). Chuyển biến ở cấp độ

tương tác là những thay đổi về chính trị, kinh tế và các tương tác hoặc quy trình

khác giữa các chủ thể trong một hệ thống quốc tế. Loại chuyển biến này không đòi

hỏi phải thay đổi các quyền và quy tắc thể hiện trong một hệ thống quốc tế. Tuy

34

nhiên, những chuyển biến kiểu này thường xuất phát từ nỗ lực của các quốc gia

hoặc chủ thể khác nhằm tăng cường hoặc kiểm tra những thay đổi cơ bản trong một

hệ thống, và có thể dự báo trước được những thay đổi đó [Gilpin, 1981, tr.43]. Như

vậy, những chuyển biến trong quan hệ song phương sẽ được xếp vào loại thay đổi

thứ 3, tức ở cấp độ tương tác.

Bảng 2.1. Các dạng thức chuyển biến trong quan hệ quốc tế

Dạng thức

Nhân tố có sự chuyển biến

Chuyển biến cả hệ thống

Bản chất của các nhân tố

Chuyển biến một cách hệ thống

Cách thức quản trị của hệ thống

Chuyển biến ở cấp độ tương tác

Quá trình tương tác giữa các quốc gia

Nguồn: Gilpin (1981), War and Change in World Politics,

Cambridge University Press, America, p.40.

Tuy nhiên, cũng theo Gilpin, không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt

được ba loại chuyển biến này. Ví dụ, chuyển biến hệ thống cũng liên quan đến cả

chuyển biến một cách hệ thống và chuyển biến trong tương tác. Hơn nữa, những

chuyển biến ở mức độ tương tác giữa các quốc gia bên trong có thể là sự khởi đầu

cho những chuyển biến một cách hệ thống, và cuối cùng dẫn đến chuyển biến của

cả hệ thống. Những chuyển biến ở cấp độ tương tác diễn ra thường xuyên, những

xung đột, quan hệ đồng minh và những tương tác ngoại giao giữa các nhân tố trong

một hệ thống cũng góp phần định hình nên đặc điểm của hệ thống đó [Gilpin, 1981,

tr.40]. Trên thực tế, gần như chưa có nghiên cứu nào tập trung phân tích về lý

thuyết liên quan đến chuyển biến trong quan hệ song phương (tức chuyển biến ở

mức độ tương tác). Do đó, khi nghiên cứu về chuyển biến trong quan hệ giữa hai

nước, Luận án về cơ bản dựa vào khung phân tích về chuyển biến của hệ thống.

Dựa trên những khái niệm và quan điểm nêu trên, Luận án cho rằng: “chuyển

biến” trong quan hệ hai nước là là sự thay đổi về hình thức tương tác hoặc quy trình

thường xuyên giữa các quốc gia, diễn ra khi có sự thay đổi cơ bản về động lực, mô

hình, kết quả, vị trí và bản chất của mối quan hệ. Chuyển biến trong quan hệ hai

nước là chuyển biến ở mức độ tương tác (interaction change), cấp độ cơ bản nhất

35

trong các dạng thức chuyển biến của quan hệ quốc tế, có thể dẫn đến những hình

thức chuyển biến cao hơn, tức chuyển biến một cách hệ thống (systemic change) và

chuyển biến của cả hệ thống (systems change).

Về mức độ của chuyển biến, chúng ta cần phân biệt chuyển biến đột ngột và

sắc nét (hay còn gọi là “đột biến”), hoặc chậm và tăng dần (hay còn gọi là “tiệm

tiến”) [Sinha, 2018, tr.5]. Theo Pierson (2003), loại quá trình nhân quả chuyển biến

chậm đơn giản nhất được gọi là “gia tăng”, “tích lũy”, hay “tiệm tiến”, trong đó, sự

chuyển biến là liên tục nhưng từ từ [Pierson, 2003, tr.181]. Trong quá trình này, sự

chuyển biến sẽ diễn ra chậm cho đến khi đạt đến ngưỡng tới hạn hoặc điểm tới hạn,

sau đó sẽ kích hoạt những thay đổi lớn [Pierson, 2003, tr.182]. Lý thuyết quan hệ

quốc tế cần tìm hiểu xem loại chuyển biến tiệm tiến nào có thể trở thành yếu tố

quan trọng trong sự thay đổi lớn của một khu vực hoặc giai đoạn nào đó.

Về các nhân tố làm nên sự chuyển biến, theo Holsti (1998) các nhân tố có thể

dẫn tới sự chuyển biến bao gồm: Xu hướng (trends), Các sự kiện lớn (Great Events),

Những thành tựu lớn (Great Achievements) hoặc Những cải tiến đáng kể về xã hội/

công nghệ (Significant Social/Technological Innovations). Vận dụng lập luận của

Holsti về các nhân tố dẫn đến chuyển biến, với đối tượng nghiên cứu là những

chuyển biến trong quan hệ song phương chứ không phải chuyển biến của cả hệ

thống, Luận án lựa chọn phân tích các nhân tố bao gồm: xu hướng, các sự kiện lớn

và các thành tựu lớn (trong quan hệ song phương) để nhận diện những chuyển biến

trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005. Từ đó, phân tích xem

những chuyển biến trong quan hệ hai nước là những thay đổi tiệm tiến hay đột biến,

kết quả khiến quan hệ hai nước tiếp tục duy trì hay có sự thay đổi trong hệ thống.

Thứ hai, khái niệm “quan hệ đối tác chiến lược”

Theo John Egan (2001), “đối tác” (partnership) bao gồm “hai hay nhiều bên

hành động cùng nhau để nâng cao hợp tác bằng việc thực hiện những mục tiêu chung.

Đối tác sẽ cùng xây dựng những cơ chế giải quyết các bất đồng, các biện pháp thúc

đẩy quan hệ hợp tác và phương pháp đánh giá tiến bộ cũng như chia sẻ những thành

tựu hợp tác [Egan, 2001, tr.3]. Về thuật ngữ “chiến lược”, Sean (2000) cho rằng:

36

“chiến lược” (strategic) theo nghĩa rộng là sự quan trọng có tính toàn cục, then chốt

và có giá trị tương đối lâu dài về mặt thời gian, đặc biệt, trong các bối cảnh liên

quan đến việc sử dụng sức mạnh quân sự [Sean, 2000, tr.16]. Trong nhiều tình

huống, từ “chiến lược” thường liên quan đến các lĩnh vực an ninh - quân sự mặc dù

không hoàn toàn là một thuật ngữ chỉ dùng trong lĩnh vực an ninh - quân sự [Đinh Công Tuấn, 2013, tr.4].

“Quan hệ đối tác chiến lược” (Strategic Partnership) là một công cụ được sử

dụng bởi một quốc gia hoặc các quốc gia hùng mạnh, để tối đa hóa sự thống trị

chính trị, kinh tế và quân sự trong hệ thống quốc tế. Do đó, quan hệ đối tác chiến

lược là một phương tiện để định hình môi trường quốc tế cho phù hợp với lợi ích

sống còn của nhà nước [Sean, 2000, tr.16]. Đặc điểm của quan hệ đối tác chiến

lược là không có giới hạn về không gian, thời gian; không hạn chế về đối tượng áp

dụng; không hạn chế về lĩnh vực hợp tác, và không nhất thiết phải mang nội dung

an ninh - quân sự. Đối tác chiến lược là một dạng quan hệ hợp tác phong phú,

trong đó thành phần, nội dung, hình thức, mức độ… hoàn toàn tùy thuộc vào sáng

kiến của các bên [Đinh Công Tuấn, 2013, tr.4-5].

Như vậy, có thể coi “quan hệ đối tác chiến lược” là tổng hợp các dạng quan

hệ hợp tác và có khả năng đẩy sự hợp tác nói chung giữa các bên tham gia mối quan

hệ này lên mức độ cao hơn. Tuy nhiên, nếu các bên không còn tìm thấy lợi ích trong

việc thúc đẩy quan hệ, hoặc quá trình tương tác có những va chạm quyền lợi, hoặc

hai bên không thỏa mãn về khả năng của nhau, khi đó quan hệ hợp tác có thể sẽ

không phát triển tiếp. Nhưng điều đó không nhất thiết dẫn đến tan vỡ trong quan hệ

đối tác, bởi vì thông qua quan hệ đối tác – nhất là với tính từ “chiến lược” và các

tính từ khác – khả năng duy trì quan hệ tốt vẫn cao hơn. Những yếu tố như số lượng

dự án hợp tác thực tế, độ dài của quá trình hợp tác và sự tăng cường hiểu biết của

các bên được coi là những “chốt hãm” không cho quan hệ phát triển theo hướng xấu

đi [Nguyễn Vũ Tùng, Hoàng Anh Tuấn, 2006, tr.54]. Do có tính linh hoạt và thực tế,

mô hình đối tác chiến lược đã được áp dụng ngày càng nhiều trong quan hệ quốc tế.

Đối với Trung Quốc, do nước này thực hiện chính sách không kết đồng minh,

37

nên trong quan hệ đối ngoại không có mối quan hệ song phương nào cao hơn “quan

hệ đối tác”. Như vậy, chỉ cần có cụm từ “đối tác” trong tên gọi về mối quan hệ giữa

Trung Quốc với một nước hoặc tổ chức nào đó, cũng đồng nghĩa với việc hai bên đã

đạt đến mức độ tin tưởng nhất định, đồng thời không có xung đột căn bản trong

những vấn đề quan trọng [周淇隽, 2013]. “Quan hệ đối tác” là quan hệ hợp tác

quốc tế độc lập tự chủ được xây dựng giữa các quốc gia dựa trên những lợi ích

chung, thông qua những hành động chung, nhằm thực hiện những mục tiêu chung

[门洪华,刘笑阳, 2015, tr.66].

Căn cứ vào các chỉ tiêu định tính và định lượng, Gajauskai (2013) trong

nghiên cứu “Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative Analysis of

Polish—Ukrainian and Lithuanian-Ukrainian Strategic Partnerships” đã chia quan

hệ đối tác chiến lược thành các loại bao gồm: hình thức (formal), kết nối chặt chẽ

(formal relevant), thực chất (real) và thực chất hiệu quả (real effective), với mức độ

quan hệ tăng dần (Xem Bảng 2.2) [Gajauskai, 2013, tr.200].

Bảng 2.1. Các mức độ của quan hệ đối tác chiến lược

Lĩn ực hợp

Yếu tố hợp tác

Cấu trúc bên

Việc thực hiện

Mứ độ của đối

tác

trong của quan

các kỳ vọng của

tác chiến lược

hệ

đối tác

Chính trị/ ngoại

Chính trị/ ngoại

Thiết lập vai trò

Lập kế hoạch

Hình thức

giao

giao

của đối tác

chung

An ninh/ Quốc

Cơ quan/ tổ chức

Hiệp định

trên

Tham gia

thực

Hình

thức/ Kết

phòng

chính phủ

các lĩnh vực và

hiện

nối chặt chẽ

nhân tố hợp tác

Kinh tế/ thương

Khu vực kinh tế

Thiết lập các quy

Tuyên bố chung Kết nối chặt chẽ

tư nhân

tắc, luật lệ

mại

Văn hóa/ Giáo

Cơ quan/ tổ chức

Hình

thành các

Hành động chung Thực chất

phi chính phủ

thể

chế

song

dục

phương hiệu quả

Xã hội

Xã hội

Giám sát thường

Vị trí chung trên

Thực chất hiệu

xuyên

trường quốc tế

quả

Nguồn: trích từ nghiên cứu Ieva Gajauskaite (2013), Strategic Partnerships in Foreign

Policy: Comparative Analysis of Polish—Ukrainian and Lithuanian-Ukrainian Strategic

Partnerships, Lithuanian Annual Strategic Review, 1 (11), p.197.

38

Theo Gajauskaite (2013):

Quan hệ đối tác chiến lược mang tính hình thức là quan hệ trong đó vai trò

của quan hệ đối tác được xác định trong chính sách đối ngoại của hai nước, tuy

nhiên, hợp tác thường chỉ được thực hiện ở cấp độ chính trị.

Quan hệ đối tác chiến lược kết nối chặt chẽ: Lĩnh vực quan trọng trong hợp

tác là an ninh/ quốc phòng và hợp tác không chỉ bao gồm các yếu tố của cấp chính

trị/ ngoại giao, mà còn của các tổ chức và cơ cấu chính phủ. Hơn nữa, quan hệ hợp

tác kiểu này cho phép tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và năng lượng.

Quan hệ đối tác chiến lược thực chất: các đối tác không chỉ đạt được các

mục tiêu ngắn hạn cụ thể mà còn có thể thực hiện các lợi ích quốc gia dài hạn. Cả

hai đối tác cùng cam kết cung cấp hỗ trợ và biện minh cho những kỳ vọng không

chỉ liên quan đến các lĩnh vực hợp tác chức năng cụ thể, mà còn có kỳ vọng chung

về trật tự quốc tế/ trật tự khu vực. Tuy nhiên, các đối tác hợp tác trên trường quốc tế

(có ý kiến chung, hỗ trợ cho các quyết định và đề xuất của nhau trên các diễn đàn,

tổ chức quốc tế) chỉ khi nó rất có lợi và tác động trực tiếp đến lợi ích của chính họ.

Quan hệ đối tác chiến lược thực chất hiệu quả là quan hệ được liên tục đánh

giá và cải thiện quy trình, khi đó, lợi ích xung đột dần dần được điều chỉnh. Các đối

tác tích cực tìm cách thực hiện tầm nhìn chung về cấu trúc quốc tế và củng cố vị trí

của cả hai nước trong cấu trúc này. Xã hội của cả hai quốc gia tích cực tham gia vào

quá trình hợp tác, họ không chỉ bày tỏ sự ủng hộ để thúc đẩy hợp tác, mà còn đóng

vai trò là nhóm áp lực trong trường hợp cần thay đổi giới tinh hoa chính trị để có

thể phát triển hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược với một nước cụ thể.

Về những tiêu chí xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, tác giả Trần

Thọ Quang (2015) cho rằng các tiêu chí chủ yếu bao gồm: (i) lợi ích quốc gia (trên

cả ba mặt an ninh, kinh tế, tăng cường vị thế); (ii) bề dày quan hệ và nền tảng hợp

tác cơ bản tốt; (iii) khi các bên có sự tương đồng trong quan điểm, nhận thức về lợi

ích chiến lược tương hỗ, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu

39

vực quan trọng [Trần Thọ Quang, 2015, tr.70].

Luận án sẽ vận dụng kết quả nghiên cứu của những người đi trước về quan

hệ đối tác, phân tích nhu cầu tăng cường quan hệ song phương của Trung Quốc và

Indonesia, đối chiếu với các tiêu chí xác lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược

để lý giải vì sao hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005. Quan

trọng hơn, Luận án sẽ phân tích thực trạng hợp tác giữa hai nước trong các giai

đoạn, từ đó đánh giá xem mức độ quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước trong

từng giai đoạn là thuộc loại hình nào trong 4 loại quan hệ đối tác chiến lược kể trên,

qua đó thấy được sự chuyển biến qua các giai đoạn.

Thứ ba, khái niệm “cường quốc tầm trung”

Thuật ngữ “cường quốc tầm trung” (middle power) được Giovanni Botero -

nhà chính trị học người Italia thế kỷ thứ XVI xác định là: những quốc gia đủ lớn để

duy trì địa vị của mình mà không cần sự hỗ trợ của các quốc gia khác [Lee, 2017,

tr.24-25]. Khái niệm “cường quốc tầm trung” được phát triển từ cách giải thích về

các nước nhỏ/ yếu, theo đó, trên cơ sở những định nghĩa đã được chấp nhận rộng rãi

về “nước lớn” và “nước nhỏ” trong quan hệ quốc tế, các cường quốc tầm trung là

những quốc gia không có địa vị của các nước lớn (great powers), nhưng có ảnh hưởng quốc tế (international influence) [Flemes , 2007, tr.4; Lê Đình Tĩnh, 2018,

tr.24; Jordaan, 2003, tr.165]. Robert Keohane cho rằng: một cường quốc tầm trung

cho rằng họ không thể hành động hiệu quả một mình, nhưng có thể có tác động

mang tính hệ thống đến một nhóm nhỏ hoặc thông qua một tổ chức quốc tế

[Keohane, 1969, tr.269].

Về cơ bản, các tiêu chí cơ bản để nhận diện cường quốc tầm trung bao gồm:

(i) sức mạnh, năng lực quốc gia: cụ thể, thông qua các chỉ số như dân số, sức mạnh

kinh tế và sức mạnh quân sự [Treverton, Jones, 2005, tr.10]; (ii) Hành vi, ứng xử

ngoại giao, uy tín quốc tế, thể hiện qua ba vai trò chính: vai trò xúc tác (catalyst),

vai trò điều phối, hỗ trợ (facilitator) và vai trò quản lý (manager) [Lee, 2017,tr.25-

26]; (iii) Bản sắc, giá trị: để phân biệt cường quốc tầm trung với các quốc gia còn

lại, các nhà nghiên cứu còn dựa vào các đặc điểm như: coi trọng vai trò của ngoại

40

giao; ủng hộ cách tiếp cận đa phương, tham gia nhiều vấn đề quốc tế với phong

cách ngoại giao “biết mình, biết người”, cũng không chọn lối “phòng thủ” tiêu cực,

“trung lập tuyệt đối” như nước nhỏ [Lê Đình Tĩnh, 2018, tr.27-28].

Theo các tiêu chuẩn nêu trên, Indonesia tự định vị và được cộng đồng quốc

tế công nhận là một cường quốc tầm trung, bởi:

Xét về sức mạnh, năng lực quốc gia, Indonesia là quốc gia quần đảo với hơn

17.500 hòn đảo, có diện tích lớn thứ 17 thế giới (hơn 1,8 triệu km2), dân số đông

thứ tư thế giới (259 triệu người) [Central Intelligence Agency, 2015]. Kinh tế

Indonesia từ sau năm 2004 đã tăng trưởng ở mức 5-6%; GDP năm 2014 đạt hơn

888 tỷ USD, là nền kinh tế lớn thứ 16 của thế giới [Statistics Times, 2015], và là

thành viên của nhóm G20. Chi tiêu quân sự của Indonesia năm 2015 là 7,641 tỷ

USD, đứng thứ 29 trên toàn thế giới [SIPRI, 2015].

Xét về hành vi, chính sách ngoại giao “cân bằng năng động” (dynamic

equilibrium) của Indonesia là minh họa rõ nét cho kiểu hành vi đặc thù của một

cường quốc tầm trung ở khu vực, thể hiện ở: Một là, vai trò xúc tác: Indonesia là một trong 5 nước sáng lập Phong trào Không liên kết từ năm 1961,1 là một nước

sáng lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967 và Tổ chức Hội

nghị Islam (OIC) năm 1969… Hai là, vai trò điều phối, hỗ trợ: Indonesia đã thúc

đẩy mạnh mẽ hợp tác khu vực thông qua việc đưa ra tầm nhìn chiến lược về Cộng

đồng ASEAN từ những năm 1980, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong quá

trình xây dựng Hiến chương ASEAN… Ba là, vai trò quản trị thông qua hỗ trợ xây

dựng thể chế đa phương: Indonesia cùng các nước ASEAN đã nỗ lực duy trì, nâng

cao vai trò trung tâm của tổ chức ASEAN, dựa trên các cơ chế do ASEAN khởi xướng như ASEAN+1,2 ASEAN+3,3 Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn

1 Phong trào không liên kết (Non-Aligned Movement – NAM) được thành lập chính thức năm 1961, là một tập hợp bao gồm các quốc gia tự xem là không liên kết với hay chống lại khối xã hội chủ nghĩa lẫn khối tư bản chủ nghĩa trong Chiến tranh Lạnh. Phong trào xuất phát từ Hội nghị Bangdung (hay còn gọi là Hội nghị Á-Phi) - là cuộc gặp gỡ quy mô lớn đầu tiên của 29 quốc gia châu Á và châu Phi, diễn ra từ 18–24/4/1955 tại Bandung, Indonesia. 2 ASEAN + 1: khuôn khổ hợp tác song phương của ASEAN với từng đối tác bên ngoài. Hiện nay, ASEAN duy trì quan hệ với 10 đối tác gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, Mỹ, Liên minh châu Âu, Nga và New Zealand. 3 ASEAN + 3: cơ chế hợp tác giữa ASEAN và ba quốc gia Đông Bắc Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc

41

Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng

(ADMM+), Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng (EAMF)… [Vũ Thái Lê Hoàng, Lê

Linh Lan, 2014, tr.117-120].

Xét về bản sắc, giá trị: Thứ nhất, tư tưởng đối ngoại độc lập, tự chủ, và chính

sách “triệu người bạn, không kẻ thù”; Thứ hai, Indonesia chú trọng thúc đẩy ngoại

giao đa phương theo mô hình “vòng tròn đồng tâm” với ASEAN là tâm điểm; Thứ

ba, ủng hộ mạnh mẽ việc chia sẻ và nhân rộng những giá trị, nguyên tắc, quy chuẩn

và luật lệ chung ở khu vực, thông qua Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương

ASEAN, Luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc

năm 1982 (UNCLOS), 10 nguyên tắc Bandung của Phong trào Không liên kết, Hiệp

ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC), Tuyên bố ứng xử của các bên ở

Biển Đông (DOC)…; Thứ tư, trong hơn hai thập kỷ qua, Indonesia đã tự định vị là

bên đóng vai trò trung gian hòa giải trong các tranh chấp trên Biển Đông giữa

ASEAN và Trung Quốc…[Vũ Thái Lê Hoàng, Lê Linh Lan, 2014, tr.120-122].

Xác định Indonesia là một cường quốc tầm trung sẽ giúp việc nghiên cứu

những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có cách tiếp cận từ góc

nhìn quan hệ giữa một cường quốc với một cường quốc tầm trung, từ đó sẽ lý giải

sâu sắc hơn những chính sách đối ngoại của hai nước trong quan hệ song phương,

đặc biệt là chính sách đối ngoại của Trung Quốc với một cường quốc tầm trung

trong khu vực Đông Nam Á.

2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến quan hệ Trung Quốc - Indonesia

Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa Trung Quốc với một nước láng giềng

trong khu vực Đông Nam Á, cụ thể trong nghiên cứu này là quan hệ Trung Quốc –

Indonesia, cần phải thiết lập một khung lý thuyết phù hợp. Luận án sử dụng Thuyết bất

đối xứng và lý thuyết về cường quốc tầm trung làm khung lý thuyết cho nghiên cứu.

Một là, Thuyết bất đối xứng (Asymmetry theory).

Quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia là mối quan hệ giữa một nước lớn và

một nước nhỏ hơn, sự chênh lệch về sức mạnh tổng hợp quốc gia, về vị trí và vai trò

42

của hai nước trên trường quốc tế tạo nên sự bất đối xứng trong quan hệ. Vấn đề bất

đối xứng đã được Robert Keohane và Joseph Nye (1997) nhắc tới trong nghiên cứu

“Interdependence in World Politics”: “Trong quan hệ phụ thuộc lẫn nhau tồn tại sự

bất đối xứng, sự bất đối xứng này rất có thể tác động tới các thành tố trong quan hệ

giữa các nhân tố với nhau. Nhân tố ít phụ thuộc hơn có thể sử dụng mối quan hệ phụ

thuộc như một nguồn lực để mặc cả về một vấn đề và có thể gây ảnh hưởng đến cả

các vấn đề khác” [Keohane, Nye, 1997, tr.125].

Người phát triển Thuyết bất đối xứng là Womack với nghiên cứu “China

and Vietnam: The Politics of Asymmetry” (2006), trong đó nêu lên hai luận điểm cơ

bản của Thuyết bất đối xứng là: (i) sự chênh lệch về năng lực của mỗi nước tạo ra

sự khác biệt mang tính hệ thống về lợi ích và nhận thức giữa các mặt mạnh hơn và

yếu hơn của mỗi nước trong mối quan hệ; (ii) các mối quan hệ bất đối xứng hiếm

khi không có vấn đề, và thường có xu hướng mạnh mẽ, vì sự khác biệt về lợi ích và

nhận thức giữa hai nước liên tục trở thành nguồn của sự căng thẳng [Womack,2006,

tr.17-18]. Nhà nước b (nước nhỏ hơn) không chiếm nhiều sự quan tâm ở nhà nước

A (nước lớn hơn), do đó, có thể có sự hiểu lầm xảy ra khi b nhạy cảm với bất kỳ

thay đổi nào, dù lớn hay nhỏ, từ A. Ngoài ra, bất kỳ sự cố nào trong mối quan hệ

song phương sẽ có tác động lớn hơn đến nước b so với nước A do sự khác biệt lớn

về quy mô [Womack, 2006, tr.79]. Hình 2.3 cho thấy sự chú ý của A đối với b

chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với các mối quan tâm chung của A và so với sự chú ý

của b đối với A. Hơn nữa, A ít sợ b hơn, và nó có tương đối ít lợi ích từ b. Ngược

lại, A chiếm nhiều sự quan tâm của b, nhưng b ít có khả năng ảnh hưởng đến hành

vi của A. Bất kỳ sự kiện nào trong mối quan hệ dù có lợi hay hại đều có tác động

lớn hơn đối với b. Do đó, mối quan hệ được trải nghiệm mạnh mẽ hơn bởi b. Niềm

hy vọng và nỗi sợ hãi của b về mối quan hệ song phương sẽ sống động hơn so với A

43

[Womack, 2006, tr.79-80].

Hình 2.3. Sự chú ý bất đối xứng

Nguồn: trích nguồn từ nghiên cứu của Brantly Womack (2006), China and Vietnam: The Politics of

Asymmetry, Cambridge University Press, pp.79.

Theo Womack, lãnh đạo của b sẽ cố gắng tiếp xúc trực tiếp với A, thông qua

một số phương pháp như: (i) cùng tham gia các tổ chức hoặc hiệp định đa phương;

(ii) tham gia với các quốc gia nhỏ hơn trong các tổ chức khu vực, hoặc trong cùng

những vấn đề lợi ích chung; (iii) liên minh với một quyền lực C đủ mạnh để thách

thức với A (đây được coi là phương pháp nhiều rủi ro) [Womack, 2006, tr.83]. Hình

2.4 cho thấy, một số phương pháp để quản lý quan hệ bất đối xứng, bao gồm: (i)

dựa vào tiền lệ trong quá khứ để định hình những kỳ vọng chung về cách tiến hành

mối quan hệ song phương; (ii) thông qua "nghi thức ngoại giao" hoặc trao đổi các

phái đoàn cấp cao, qua đó mỗi bên trấn an bên kia; (iii) loại bỏ các vấn đề gây tranh

cãi khỏi mặt trận chính trị (thông qua các diễn ngôn chính trị) [Womack, 2006,

tr.89-92].

Hình 2.4. Các phương pháp quản lý quan hệ bất đối xứng Nguồn: trích nguồn từ nghiên cứu của Brantly Womack (2006), China and Vietnam: The Politics of

Asymmetry, Cambridge University Press, pp.89.

44

Dựa trên những lập luận của Womack về quan hệ bất đối xứng, Luận án sẽ:

(i) phân tích sự quan tâm của Trung Quốc đối với Indonesia, so sánh với lý thuyết

của Womack để thấy mức độ bất đối xứng trong mối quan tâm của hai nước; (ii)

phân tích và đánh giá phương pháp hai nước sử dụng để quản lý mối quan hệ bất

đối xứng. Trong đó, điểm mới của Luận án khi vận dụng Thuyết bất đối xứng bao

gồm: (i) tập trung luận giải một khía cạnh chưa được Womack nhắc tới, đó là vị trí

địa chính trị của nước nhỏ hơn (Indonesia) trong chiến lược chung của nước lớn

hơn (Trung Quốc); và (ii) phân tích “tiền lệ” trong lịch sử quan hệ hai nước, không

phải để để định hình những kỳ vọng chung về cách tiến hành mối quan hệ song

phương, mà là để giải thích chính sách của nước nhỏ hơn (Indonesia) đối với nước

lớn (Trung Quốc).

Hai là, Lý thuyết li n q an đến ường quốc tầm trung.

Lý thuyết liên quan đến cường quốc tầm trung thường được luận giải thông

qua các lý thuyết về cường quốc, về bá quyền, hay trật tự thế giới. Holbraad (1984)

cho rằng hệ thống quốc tế hiện nay cũng như nhiều hệ thống lịch sử hiện đại trước

đây, có tồn tại một số thực thể rõ ràng không phải là nước lớn, cũng không phải là

nước nhỏ. Theo Holbraad, trong lịch sử, mặc dù các cường quốc tầm trung phần lớn

được hiểu là kém hơn so với các cường quốc về mặt vật chất, nhưng họ vẫn được

coi là những người bảo vệ sự cân bằng quyền lực cũng như người duy trì hòa bình

và trật tự [Holbraad, 1984, tr.3].

Còn Robert Cox (1981) đã giải thích về quyền bá chủ bao gồm sự liên quan

giữa các lực lượng xã hội về tài nguyên vật chất, ý tưởng và các thể chế [Cox, 1981,

tr.141-144]. Cox (1989) cho rằng, các cường quốc tầm trung có vai trò giúp định

hình trật tự thế giới thông qua cách tiếp cận từ dưới lên, với khả năng tầm trung của

họ và với một số đặc điểm ngoại giao nhất định. Các nước bá quyền phải phụ thuộc

vào sự công nhận của các nước khác, bao gồm cả các quốc gia nhỏ, cường quốc tầm

trung và các cường quốc [Cox, 1989, tr.829]. Các cường quốc tầm trung tham gia

vào các tổ chức quốc tế để thực hiện các lợi ích nhất định, đặc biệt là sự ổn định

45

toàn cầu. Chúng ta cần nhìn nhận rằng, trật tự thế giới hiện nay, nơi mà Trung Quốc

trỗi dậy đang bước vào, đã, đang và sẽ được định hình bởi các lực lượng xã hội

khác nhau, bao gồm cả các cường quốc tầm trung. Điều đó đồng nghĩa với việc,

Indonesia với tư cách là một cường quốc tầm trung, cũng là một phần cấu tạo và

định hình nên trật tự thế giới hiện có.

Ngoài ra, Holbraad cũng nhấn mạnh rằng, trong tình huống trật tự thế giới là

lưỡng cực, các cường quốc tầm trung buộc phải đưa ra lựa chọn giữa việc gia nhập

một trong hai bên, hoăc có nguy cơ trở thành đối tượng của cuộc cạnh tranh giữa

hai cường quốc, hoăc trở thành một nhân tố quốc tế không liên quan đến trật tự

lưỡng cực này. Tuy nhiên, do thực tế rằng các cường quốc tầm trung không phải là

các quốc gia chuyên quyền, nên họ sẽ không tự bó buộc bản thân với bất kỳ cường

quốc nào, mà sẽ trở thành đối tượng cạnh tranh của các nước lớn [Holbraad, 1984,

tr.119]. Mặt khác, trong cuộc cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc, các cường

quốc tầm trung thường là đối tượng mà các bên muốn thu hút và ràng buộc trong

những cam kết, bởi các quốc gia tầm trung có khả năng lớn hơn các nước nhỏ,

nhưng lại không gây ra mối đe dọa trực tiếp cho các cường quốc, do những hạn chế

về vai trò quốc tế và khả năng về vật chất so với các cường quốc. Trong quan hệ

quốc tế, các cường quốc thường ưu tiên việc phát triển quan hệ nhằm nhận được sự

trung thành của một cường quốc tầm trung hơn là cố gắng giành được sự trung

thành của một cường quốc khác, vì điều này ít rủi ro hơn.

S đồ 2.5. Cân bằng quyền lực giữa ường quốc B (thông qua sự iú đỡ của

ường quốc tầm t n ) đối với ường quốc A

Nguồn: Fels Enrico (2016), Shifting Power in Asia-Pacific? The Rise of China, Sino-US

Competition and Regional Middle Power Allegiance, Springer, Singapore. p.217.

46

Sơ đồ 2.5 cho thấy vai trò của các cường quốc tầm trung trong sự chuyển đổi

cán cân quyền lực tại khu vực. Việc có được sự trung thành của một cường quốc

tầm trung sẽ mang lại những động lực lớn cho các cường quốc trong thời kỳ cạnh

tranh với các cường quốc khác, đồng thời, sự ủng hộ của các cường quốc tầm trung

cũng góp phần giúp các cường quốc tăng cường ảnh hưởng tại khu vực và trên toàn

thế giới [Fels, 2016, tr.219]. Chính vì lẽ đó, sử dụng lý thuyết liên quan đến các

cường quốc tầm trung trong nghiên cứu quan hệ Trung Quốc – Indonesia sẽ lý giải

được vì sao Indonesia lại trở thành một động lực quan trọng đối với chiến lược gia

tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực.

Về chính sách của cường quốc tầm trung trong quan hệ với các cường

quốc, Luận án sử dụng khung phân tích của Kuik C.C (2008), theo đó, tác giả

phân chia thành nhiều nhóm phản ứng nhỏ trong chính sách “phòng bị nước đôi”,

bao gồm: (i) cân bằng gián tiếp (indirect balancing); (ii) từ chối sự thống trị

(dominance denial); (iii) chủ nghĩa thực dụng kinh tế (Economic pragmatism); (iv)

ràng buộc – can dự (binding engagement); (v) “phù thịnh” có giới hạn (limited

bandwagoning) [Kuik, 2008, tr.165-171] (Xem Bảng 2.6).

Bảng 2.6. Phản ứng của một số nước ASEAN với sự trỗi dậy của Trung Quốc

Trong đó, Chủ nghĩa thực dụng về kinh tế (Economic-Pragmatism) là chính

sách khi một quốc gia tìm cách tối đa hóa tăng trưởng về kinh tế từ những tương tác về

47

thương mại trực tiếp và đầu tư với một nước lớn, dù cho giữa hai nước có thể tồn tại

các vấn đề chính trị. Chủ nghĩa thực dụng kinh tế được coi là một điểm trung lập trên

thang đo mức độ chấp nhận hay từ chối quyền lực. Đây là một trong những chính sách

được tất cả các quốc gia ASEAN sử dụng [Kuik, 2008, tr.167]. Ràng buộc – can dự

(Binding-Engagement): “Ràng buộc” là chính sách nhằm thiết lập và duy trì mối liên

hệ với một cường quốc lớn, để tạo ra các kênh liên lạc, tăng cường “cơ hội phát ngôn”

và tầm ảnh hưởng đến các lựa chọn chính sách của một đất nước. Còn “can dự” là hành

động của một quốc gia khi tìm cách thể chế hóa các mối quan hệ của mình với một

nước khác bằng cách đưa mối quan hệ vào khuôn khổ hoạt động ngoại giao thường

xuyên. Khi kết hợp giữa ràng buộc và can dự, mối quan hệ được xã hội hóa và đưa vào

một trật tự đã được thiết lập, nhằm mục tiêu vô hiệu hóa khuynh hướng xét lại của

nước lớn [Kuik, 2008, tr.167]. “Phù thịnh” có giới hạn (Limited-Bandwagoning) là

chính sách khi một quốc gia, với mong muốn đạt được lợi ích trong hiện tại hoặc tương

lai, đã chọn cách liên minh với một cường quốc lớn có triển vọng đạt được ưu thế. Một

quốc gia có thể lựa chọn chính sách phù thịnh có giới hạn đối với một quyền lực đang

lên, trong khi vẫn duy trì quan hệ với quốc gia bá quyền khác. Mặt khác, khi áp dụng

phù thịnh có giới hạn, quốc gia nhỏ hơn sẽ tránh để mất quyền tự trị hay trở nên quá

phụ thuộc [Kuik, 2008, tr.168-169]. Từ chối sự thống trị (Dominance-Denial) là chính

sách nhằm ngăn chặn và từ chối sự xuất hiện của một quyền lực chiếm ưu thế có thể

can thiệp quá mức vào quốc gia nhỏ hơn. Các quốc gia, chủ thể, tập thể nhỏ hơn tìm

cách đạt được mục tiêu này bằng cách: (i) gắn kết với một nước lớn khác trong các vấn

đề khu vực; (ii) phát triển khả năng phục hồi của chính mình và tăng cường sức mạnh

ngoại giao tập thể [Kuik, 2008, tr.169-170]. Cân bằng gián tiếp (Indirect-Balancing) là

thông qua những nỗ lực quân sự như tăng cường sức mạnh quân đội và củng cố hợp tác

quốc phòng với các nước khác để đối phó với những mối đe dọa tiềm ẩn (trái ngược

với mối đe dọa cụ thể trong trường hợp cân bằng đơn thuần) [Kuik, 2008, tr.170].

Luận án sẽ vận dụng lý thuyết liên quan đến cường quốc tầm trung để lý giải

tầm quan trọng của Indonesia trong chiến lược tăng cường ảnh hưởng của Trung

Quốc tại khu vực, đồng thời, nhằm giải thích những mâu thuẫn trong cách ứng xử

48

của Indonesia đối với Trung Quốc trong các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó, Luận

án cũng phân tích chính sách của Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc, nhằm

nhận diện và đánh giá mức độ áp dụng chiến lược “phòng ngừa rủi ro” (hedging)

của Indonesia, từ đó nhận diện đặc điểm bản chất mối quan hệ Trung Quốc –

Indonesia.

2.1.3. Khung phân tích của Luận án

Với đối tượng nghiên cứu là “chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia từ sau năm 2005”, Luận án sử dụng khung phân tích về những chuyển

biến diễn ra trên 3 nội dung lớn có quan hệ Nguyên nhân – Hệ quả, bao gồm: (i)

chuyển biến về bối cảnh; (ii) chuyển biến về chính sách đối ngoại của mỗi nước;

(iii) chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia.

Hình 2.7. Khung phân tích những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc-Indonesia

Nguồn: tác giả chế tác

Trong đó, chuyển biến về bối cảnh bao gồm các phân tích về thay đổi tình

hình quốc tế, khu vực Đông Nam Á, những thay đổi trong tình hình nội bộ Trung

Quốc và Indonesia, và thay đổi về mặt tư tưởng, phong cách chính trị của các cá

nhân lãnh đạo của hai nước. Những chuyển biến về bối cảnh tất yếu sẽ dẫn đến

49

chuyển biến trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Trong nghiên cứu này, Luận

án sẽ tập trung phân tích chuyển biến trong chính sách ngoại giao xung quanh của

Trung Quốc, và chuyển biến trong chính sách của cường quốc tầm trung Indonesia.

Những chuyển biến trong chính sách đối ngoại của mỗi nước sẽ tác động và gây ra

những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, thể hiện trên các lĩnh

vực chính như kinh tế, chính trị - an ninh, văn hóa. Cuối cùng, tất cả những phân

tích trên nhằm nhận diện: (i) chính sách của Trung Quốc đối với một quốc gia tầm

trung; và (ii) ứng phó của nước tầm trung trong quan hệ với Trung Quốc.

2.2. C sở thực tiễn

Nghiên cứu những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia cần

dựa trên cơ sở thực tiễn của mối quan hệ này, cũng chính là nhìn nhận lại lịch sử

quan hệ hai nước trước khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ Trung

Quốc – Indonesia từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến trước khi xây dựng

quan hệ đối tác chiến lược có thể được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn 1950-1967

là giai đoạn đầu trong quan hệ song phương; giai đoạn 1967-1990 cắt đứt quan hệ

ngoại giao và giai đoạn 1990-2005 là giai đoạn khôi phục quan hệ.

Thứ nhất, giai đoạn đầu trong quan hệ song phương (1950-1967)

Sau khi giành độc lập vào năm 1949, Chính phủ Indonesia đã tìm cách xây

dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các yếu tố kinh tế

chiếm ưu thế trong thời kỳ trước, bao gồm các yếu tố liên quan đến Hà Lan và người Hoa. Các biện pháp mà Chính phủ mới áp dụng như Chương trình Benteng1

năm 1950 chống lại lợi ích kinh tế của Hà Lan và Trung Quốc và Quy định Số 10 của Tổng thống2 năm 1959 cấm người Hoa tiến hành kinh doanh bán lẻ bên ngoài

thành phố…, cũng gây nhiều bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng người Hoa,

cũng như làm hạn chế sự phát triển của các yếu tố Trung Hoa.

1 Chương trình Benteng (Benteng System, hay “chính sách thành lũy”): chính sách được Chính phủ Indonesia ban hành năm 1950, theo đó, yêu cầu các nhóm kinh tế mạnh (không bao gồm người Indonesia bản địa, nhưng bao gồm người Hoa ở Indonesia) chuyển quyền vận chuyển, nhập hàng cho người Indonesia bản địa. 2 Quy định Số 10 của Tổng thống: là quy định mang tính pháp lệnh được ban hành ngày 18/10/1959, nghiêm cấm người Hoa buôn bán ở các thôn xóm, đồng thời quy định cụ thể về việc chuyển nhượng và chấm dứt việc bán lẻ của người Hoa.

50

Quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong giai đoạn này chịu nhiều ảnh hưởng

bởi nhân tố người Hoa tại Indonesia. Sau khi giành độc lập, nhà nước Indonesia được

thừa hưởng một cấu trúc giai cấp từ thời thuộc địa Hà Lan, trong đó quyền lực tập

trung trong bộ máy nhà nước, do đó bị giới hạn trong bộ máy quan liêu và quân đội –

nơi được cung cấp một mức độ tự chủ nhất định, do sự yếu kém về kinh tế của người

bản địa, và do sự yếu thế về chính trị của giai cấp tư sản Hà Lan và người Hoa. Đối

với người Hoa, việc duy trì cấu trúc giai cấp này đồng nghĩa với việc tiếp tục địa vị

như những người ngoài (aliens/ others). Họ trở thành “tiêu chí” cần thiết để Chính

phủ Indonesia mới được thành lập xác định “cộng đồng tưởng tượng” không phải

người Hoa. Nói cách khác, người Hoa không có vị trí hợp pháp trong nước cộng hòa

Indonesia mới giành độc lập, dù vẫn giữ vai trò quan trọng về kinh tế. Sự kết hợp

giữa sức mạnh kinh tế và sự bất lực về chính trị này đã khiến giai cấp tư bản người

Hoa vô hại đối với chính quyền Indonesia trong giai đoạn này. Sự tẩy chay của xã hội

Indonesia đối với tư bản Trung Quốc giai đoạn này nhằm phục vụ hai mục đích: tận

dụng tối đa sức mạnh kinh tế của người Hoa nhằm phục vụ toàn bộ nền kinh tế

Indonesia; và làm suy yếu khả năng kết nối giữa các nhà tư bản người Hoa với các

quan chức bản địa đã từng đảm nhận các vị trí chính trị trong thời kỳ thuộc địa [Chua,

2008, tr.35].

Bước sang đầu thế kỷ XX, sự nhiệt thành của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc

khi thành lập nhà nước Trung Quốc mới cũng ảnh hưởng tới người Hoa ở nước ngoài,

làm tăng niềm tin vào giá trị bản thân và bản sắc dân tộc Trung Hoa. Bên cạnh đó,

việc Trung Quốc thúc đẩy sự phát triển của các đảng cộng sản tại các nước Đông

Nam Á trong những năm 50-60 thế kỷ XX cũng được nhận định là một quá trình gia

tăng ảnh hưởng tại khu vực [Hau, 2012, tr.176]. Vào thời điểm phong trào cộng sản

quốc tế bị chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Xô, ĐCS Indonesia (PKI) là đảng cộng

sản lớn thứ ba thế giới đã công khai đứng về phía Bắc Kinh. Cuộc đảo chính bất

thành của một nhóm chính trị Indonesia diễn ra vào tháng 9-1965 bị Chính phủ nước

này quy kết trách nhiệm do ĐCS Indonesia phát động, với sự hỗ trợ của ĐCS Trung

51

Quốc [Manan, 2013]. Tướng Suharto đã tiến hành một cuộc thanh trừng ĐCS trên

quy mô lớn, trong đó, người Hoa bị mặc định là người của ĐCS, bị coi là mối đe dọa

đối với an ninh và sự thống nhất quốc gia [Chua, 2008, tr.42]. Chính điều này là mầm

mống cho những mâu thuẫn về sắc tộc ở Indonesia trong suốt ba thập kỷ tiếp theo.

Thứ hai, giai đoạn cắt đứt quan hệ ngoại giao (1967-1990)

Sau sự kiện ĐCS Indonesia tiến hành đảo chính bất thành vào ngày

30/9/1965, quan hệ ngoại giao giữa hai nước chuyển biến theo hướng ngày càng

xấu đi do Chính phủ Indonesia cho rằng Trung Quốc ủng hộ ĐCS Indonesia phát

động cuộc đảo chính. Tướng Suharto trong cuộc thanh trừ ĐCS Indonesia, ngoài

việc tiêu diệt các phần tử của ĐCS Indonesia, còn hành quyết đông đảo người Hoa

bị nghi ngờ có liên quan đến ĐCS. Hai nước chính thức cắt đứt quan hệ vào năm

1967. Các quan hệ kinh tế trực tiếp giữa hai bên cũng không được tiếp tục. Tuy

nhiên, hai nước vẫn trao đổi mậu dịch thông qua Hong Kong và Singapore [Đàm

Huy Hoàng, 2011, tr.33].

Trong suốt 30 năm tiếp đó, cho dù người Hoa Indonesia vẫn giữ vai trò quan

trọng trong nền kinh tế Indonesia, nhưng một loạt các chính sách phân biệt đối xử với

người Hoa tại nước này vẫn được thi hành nghiêm ngặt. Trường học của người Hoa

bị buộc đóng cửa vào tháng 7 năm 1966 [Tan, 1991, tr.117], người dân bị cấm học

tiếng Hoa. Các trường đại học hạn chế số lượng học sinh là người Hoa, các cơ hội

việc làm cũng bị hạn chế đối với người Hoa Indonesia [Chua, 2008, tr.40]. Năm

1966, Hội đồng tư vấn nhân dân Cộng hòa Indonesia (MPR) cấm sử dụng

phương tiện truyền thông bằng tiếng Trung Quốc [Tan, 1991, tr.117]. Chữ Trung

Quốc bị cấm tại các cửa hàng và các màn hình công cộng. Báo chí, thơ văn hay

tài liệu tiếng Trung Quốc đều bị hạn chế nhập khẩu [Christian Chua, 2008, tr.40].

Việc nói tiếng Hoa tại các nơi công cộng cũng bị hạn chế. Chính quyền địa

phương Pontianak thậm chí đã tổ chức “Tuần lễ ngôn ngữ Indonesia” và kêu gọi

công dân Indonesia gốc Hoa từ bỏ việc sử dụng tiếng Trung Quốc [Leo, 1976,

tr.780].

Chính phủ mới của Indonesia đã ban hành một nghị định trong đó kêu gọi

52

người Trung Quốc đổi tên thành tiếng Indonesia nhằm đẩy nhanh quá trình đồng

hóa. Nhằm tránh khỏi sự phân biệt đối xử, nhiều người Trung Quốc đã nhanh chóng

tuân thủ điều luật này. Đến giữa năm 1969, khoảng 250.000 người Trung Quốc đã

bỏ tên tiếng Trung của họ [Chua, 2008, tr.40]. Về tôn giáo, việc thực hành công

khai tôn giáo Trung Quốc như Nho giáo, Phật giáo đều bị cấm. Nhiều người Hoa

Indonesia còn chủ động đổi sang đạo Islam để tránh bị coi là cộng sản. Đến năm

1979, Nho giáo đã mất đi vị trí là tôn giáo chính thức của Indonesia. Kết quả của

những chính sách này là đã kiềm chế nghiêm trọng sự phát triển của văn hóa

Trung Hoa tại Indonesia và chỉ còn khoảng 3% người Indonesia tự nhận là người gốc Hoa [Chua, 2008, tr.40].

Thứ ba, giai đoạn khôi phục quan hệ song phương (1990-2005)

Mặc dù hai nước đã thiết lập lại quan hệ ngoại giao vào năm 1990, nhưng sự

căng thẳng chủng tộc giữa người Indonesia gốc Hoa và người bản địa đã lên đến đỉnh

điểm vào tháng 5/1998. Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997

đã kéo theo khủng hoảng kinh tế tại Indonesia, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giàu

nghèo giữa người bản địa với người Hoa Indonesia, do sự chênh lệch quá lớn trong

phân phối sản phẩm xã hội giữa người bản địa và người Hoa thiểu số ở Indonesia.

Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa hai hệ thống kinh tế, với một bên là mô hình kết cấu

hợp tác xã của người dân Indonesia và các nhà doanh nghiệp người bản địa nắm phần

ít sản phẩm xã hội, và bên kia là hệ thống quan hệ cộng sinh giữa các nhà tư bản lớn

người Hoa và cơ chế gia đình trị của Tổng thống Suharto nắm trong tay phần lớn tài

sản xã hội cũng là một nguyên nhân quan trọng. Vì vậy, những bất mãn của người

dân Indonesia đối với hệ thống chính trị đã dẫn đến phản ứng của họ đối với người

Hoa – chỗ dựa kinh tế quan trọng của cơ cấu kinh tế thượng tầng nằm trong tay

những người thống trị ở quốc gia này [Châu Thị Hải, 2001, tr. 48]. Sự bất mãn này đã

thổi bùng lên cuộc bạo động tháng 5, khi tất cả người Hoa ở Indonesia đều trở thành

đối tượng tấn công nhằm “trút giận” của người bản địa [Châu Thị Hải, 2001, tr.39-

42]. Đây đã trở thành một “vết sẹo” trong lịch sử Indonesia cũng như trong quan hệ

giữa người Indonesia bản địa với người Hoa ở Indonesia. Trong suốt một khoảng thời

53

gian dài, tầng lớp tinh hoa Indonesia luôn coi Trung Quốc đại lục, ĐCS Indonesia và

người Hoa Indonesia là “ba sự uy hiếp” đối với sự ổn định của Indonesia [Sukma,

1999, tr.197-199].

Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia chỉ thực sự đáng kể sau

khi Tổng thống Abdurrahman Wahid lên nắm quyền vào năm 1999. Với những thay

đổi trong chính quyền mới, các quyền lợi của người Hoa bắt đầu được coi trọng.

Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại Indonesia, người Hoa được hưởng mức độ tự

do cao nhất. Người Hoa Indonesia đang dần từng bước giành lấy quyền lợi của tộc

người mình. Chính phủ Indonesia cũng không còn nhấn mạnh chính sách đồng hóa,

dần dần nới rộng các hoạt động văn hóa đối với người Hoa. Tổng thống

Abdurrahman Wahid đã xóa bỏ Sắc lệnh số 14 của Tổng thống năm 1967 về việc

cấm người Hoa Indonesia công khai tổ chức các ngày lễ tết của người Hoa tại các khu

vực công cộng. Năm 2000, Tết nguyên đán của người Hoa được phép tổ chức ở

những nơi công cộng tại Indonesia, đồng thời, Nho giáo được chính thức công nhận là một trong những tôn giáo hợp pháp của Indonesia. Đến năm 2002, Tổng thống

Megawati Sukarnoputri phê duyệt để Tết cổ truyền Trung Quốc trở thành ngày lễ

quốc gia Indonesia bắt đầu từ năm 2003. Ngoài ra, các quyền về chính trị dành cho

người Hoa đã được khôi phục, thậm chí hiện nay họ có quyền chạy đua cho vị trí

Tổng thống, khác với quy định trước đây rằng Tổng thống phải là người bản địa

[Refworld, 2006]. Chính phủ mới của Indonesia đã quan tâm nhiều hơn đến việc phát

triển kinh tế với Trung Quốc, thậm chí coi nước này đối tác tiềm năng. Quan hệ kinh

tế và chính trị giữa hai nước được mở rộng đến các lĩnh vực an ninh, quốc phòng

cũng như năng lượng.

Trong lĩnh vực kinh tế, sau khi hai nước tái lập quan hệ, hai nước đã ký kết

nhiều hiệp định hợpt ác trong nhiều ngành nghề như mỏ, rừng, du lịch, đánh cá, vận

tải nông nghiệp, tài chính... Hai nước cũng đã thành lập Ủy ban chung về Hợp tác

kinh tế, thương mại và công nghệ. Nhờ tái lập quan hệ và xây dựng những cơ chế hợp

tác khung, thương mại giữa hai nước có điều kiện để phát triển nhanh. Năm 1990,

tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 545,7 triệu USD, đến năm 1997, con số

54

này đã tăng lên 9 lần, đạt 4514,2 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính từ Trung

Quốc sang Indonesia là các sản phẩm công nghiệp và hàng hóa bán chế tạo như máy

móc, thiết bị điện, vật tư hóa chất, gạo, ngô... Còn Indonesia xuất khẩu sang Trung

Quốc chủ yếu là dầu thô, gỗ tấm, quặng, các sản phẩm cao su và vật tư hóa chất.

Đáng chú ý, cán cân thương mại luôn nghiêng về Indonesia trong giai đoạn này [Đàm

Huy Hoàng, 2011, tr.34].

Tóm lại, quan hệ Trung Quốc – Indonesia trước năm 2005 chưa có nhiều điều

kiện thuận lợi để phát triển, đặc biệt khi hai nước trải qua 23 năm cắt đứt quan hệ

ngoại giao. Trong ba giai đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc – Indonesia trước năm

2005, tâm lý chống lại người Hoa Indonesia và “chống cộng sản” là các nhân tố chính

dẫn đến những “Sự kiện lớn” trong quan hệ hai nước, bao gồm sự kiện thanh trừng

ĐCS Indonesia năm 1965 và bạo loạn chống lại người Hoa Indonesia vào năm 1998.

Tuy nhiên, từ sau Chiến tranh Lạnh, cùng với xu hướng hợp tác trong quan hệ quốc tế,

thế hệ lãnh đạo mới của Indonesia, bao gồm các Tổng thống Wahid, Megawati và

Yudhoyono đã có quan điểm và chính sách tích cực trong quan hệ với Trung Quốc,

góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển hợp tác ngày càng mở rộng

giữa hai nước [Đàm Huy Hoàng, 2011, tr.37-38].

2.3. Các nhân tố t độn đến q an ệ T n Q ố – Indonesia

Các nhân tố tác động đến quan hệ Trung Quốc – Indonesia bao gồm các nhân

tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Trong đó, các nhân tố chủ quan là các yếu

tố mang tính quyết định chiều hướng trong quan hệ hai nước.

Một là, các nhân tố khách quan tác động đến quan hệ Trung Quốc -

Indonesia

Thứ nhất, xu thế phát triển của quan hệ quốc tế, có thể nói, xu thế hòa bình,

hợp tác phát triển cùng có lợi là đặc điểm bao trùm của quan hệ quốc tế những năm

đầu thế kỷ XXI. Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ tập trung lực lượng vào cuộc chiến

chống khủng bố, giảm bớt sự quan tâm đến khu vực Châu Á, tạo ra khoảng trống

tạm thời về quyền lực tại khu vực này. Trung Quốc cũng đã tranh thủ được cơ hội hiếm

có này để đẩy mạnh gia tăng ảnh hưởng của mình đối với khu vực mang nhiều ý nghĩa

55

địa chính trị và địa chiến lược này. Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã tăng cường

xây dựng quan hệ đối tác với một loạt quốc gia, trong đó có ASEAN và các quốc gia

thành viên của tổ chức này.

Thứ hai, vai trò của ASEAN trong phát triển chung của khu vực Châu Á –

Thái Bình Dương và thế giới. Dù chịu nhiều thiệt hại của cuộc khủng hoảng tài

chính năm 1997, ASEAN vẫn là một nhân tố mà các nước lớn muốn gia tăng ảnh

hưởng, do đây là một khối kinh tế, chính trị, an ninh với 581 triệu dân [Lương Quang Đảng, 2016],1 đồng thời sở hữu vị trí địa chiến lược quan trọng ở Biển Đông.

Tiến trình nhất thể hóa khu vực của các quốc gia Đông Nam Á đã đạt được những

thành tựu đáng kể, trở thành mô hình mẫu trong phát triển các tập đoàn quốc gia

vừa và nhỏ. Mô hình hợp tác cùng thắng theo công thức “ASEAN+X”, như ASEAN

+ 1, ASEAN + 3... do tổ chức này sáng lập trong hợp tác với các nước lớn có tác

dụng tích cực trong việc xây dựng cơ chế an ninh khu vực và nhất thể hóa khu vực,

hạn chế những hành vi bá quyền của nước lớn, góp phần tạo sự ổn định và hòa bình

trong khu vực.

Thứ ba, quan hệ Trung Quốc – ASEAN cũng đang có những chuyển biến rõ

rệt. Hiệp định Tự do thương mại ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) ký kết năm 2002

và Chương trình thu hoạch sớm (EHP) được thực hiện với ASEAN-5 (bao gồm

Indonesia, Malaysia, Philipinnes, Thái Lan và Việt Nam) từ năm 2004, đặc biệt việc

Trung Quốc và ASEAN thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng

vào năm 2003 đã tạo nền tảng cho Trung Quốc phát triển quan hệ song phương với

ASEAN cũng như với các nước thành viên của tổ chức này. Với việc ký kết Hiệp ước

Thân thiện và Hợp tác (TAC) vào năm 2003, quan hệ đối tác an ninh Trung Quốc –

ASEAN đã có thêm những động lực phát triển mới. Việc ký kết TAC có tác dụng nhất

định trong việc thuyết phục một số quốc gia khác trong khu vực thúc đẩy quan hệ cở

mở hơn với Trung Quốc. Một trong những dẫn chứng là việc Trung Quốc và Việt Nam

đã tiếp cận vấn đề phân định biên giới trên bộ và biên giới trên biển ở Vịnh Bắc Bộ

theo cách thức hợp tác hơn; quan hệ Trung Quốc – Philippines cũng phát triển với

chuyến thăm của Tổng thống Arroyo vào năm 2004. Kết quả là, vị thế của Trung Quốc

1 Số liệu năm 1999 – năm đầu tiên ASEAN có 10 thành viên.

56

trong khu vực đã được tăng cường nhờ hiệu quả của khung hợp tác ARF [Sriyanto,

2018, tr.74].

Thứ tư, sự tăng cường ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực và Indonesia. Dưới

thời kỳ Tổng thống Obama, Mỹ và Indonesia đã ký kết quan hệ đối tác toàn diện

vào năm 2010. Chính quyền Barack Obama cho rằng Indonesia là một đối tác kinh

tế và an ninh quan trọng, hy vọng rằng Indonesia sẽ là một phần quan trọng của

chiến lược tái cân bằng ở châu Á. Những năm giữa của thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21,

trong quá trình đẩy mạnh chính sách “quay trở lại châu Á” nhằm củng cố lại địa vị

và ưu thế tại khu vực này, việc Mỹ tìm kiếm sự ủng hộ từ phía Indonesia với tư

cách là quốc gia lớn nhất ASEAN về diện tích và dân số là lựa chọn dễ hiểu. Về

phía Indonesia, trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng tại khu vực và gây

nhiều sức ép đối với một số quốc gia ASEAN về các vấn đề trên biển, Indonesia

cũng cần tăng cường quan hệ với Mỹ để tạo thế cân bằng trong các vấn đề trên biển.

Nhu cầu tăng cường quan hệ song phương đã thúc đẩy hai nước Mỹ và Indonesia

nâng cấp lên thành quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2015 trong chuyến thăm Mỹ

của Tổng thống Indonesia Jokowi. Về mặt an ninh, trong chuyến viếng thăm của

Jokowi năm 2015, quan hệ quốc phòng giữa hai nước đã được tăng cường với việc

ký kết một tuyên bố chung về hợp tác quốc phòng toàn diện, bao gồm hợp tác trong

các lĩnh vực như cùng phát triển và hợp tác sản xuất thiết bị quốc phòng. Hai bên

cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác hàng hải, điều phù hợp với chiến lược

“quay trở lại châu Á” của Mỹ và chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” mà Tổng

thống Jokowi đang thúc đẩy.

Từ sau khi chính quyền Trump lên điều hành nước Mỹ, đã có 2 chuyến thăm

cấp cao của chính phủ Mỹ đến Indonesia: chuyến thăm của Phó Tổng thống Mike

Pence (20/4/2017) và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis (22/1/2018). Điều

này phần nào cho thấy nhu cầu mạnh mẽ trong việc thúc đẩy quan hệ với Indonesia

của chính quyền Trump. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis diễn

ra trong bối cảnh các hoạt động gây hấn của Trung Quốc (triển khai hải quân, chiếm

57

đảo san hô, xây dựng đảo và pháo đài) đang diễn ra nhằm giúp nước này giành

quyền kiểm soát tốt hơn trên phần lớn Biển Nam Trung Hoa. Đối với Mỹ, tham

vọng của Trung Quốc ở Biển Đông là một thách thức trực tiếp đối với sự hiện diện

quân sự Mỹ trong khu vực. Nếu Mỹ muốn duy trì vị trí của mình trong các vấn đề

hàng hải của khu vực này trong khi tham vọng bành trướng của Trung Quốc tại

vùng biển này đang ngày càng thể hiện rõ, chắc chắn Washington sẽ cần sự hỗ trợ

tích cực từ Indonesia. Ngược lại, nếu Indonesia muốn bảo vệ thành công lợi ích

hàng hải của mình (và khu vực Đông Nam Á rộng lớn hơn), chắc chắn sẽ cần sự hỗ

trợ đáng kể của Mỹ. Hỗ trợ quốc phòng của Mỹ tập trung vào việc tăng cường lực

lượng bảo vệ bờ biển của Indonesia bằng cách cung cấp đào tạo và máy móc thiết bị

cứng [Izzuddin, 2018]. Nhiều người trong giới tinh hoa chính trị Indonesia tiếp tục

coi Mỹ như một đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đông Nam Á, đồng

thời cho rằng Trump có nhiều khả năng ngăn chặn hành vi hung hăng của Trung

Quốc trong khu vực hơn là người tiền nhiệm [Harding, Sutton, 2017].

Thứ năm, cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực. Trong những thập niên

cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, châu Á – Thái Bình Dương trở thành một trong

những động lực chủ yếu cho sự phát triển của thế giới, thế kỷ XXI được dự báo là “Thế

kỷ châu Á – Thái Bình Dương”. Chính bởi thế, rất nhiều nước lớn trên thế giới đều coi

trọng và điều chỉnh chiến lược đối với khu vực này nhằm tăng cường, cạnh tranh ảnh

hưởng với các nước lớn khác. Đầu năm 2011, Mỹ tuyên bố chuyển trọng tâm chiến

lược toàn cầu sang châu Á – Thái Bình Dương, nhằm tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo thế

giới, đặc biệt với khu vực đầy tiềm năng phát triển này. Trung Quốc cũng tiến hành

điều chỉnh chính sách đối ngoại, đưa ra chiến lược “Vành đai và Con đường” (tháng

10/2013), nhằm tăng cường sức ảnh hưởng trong khu vực và trên toàn thế giới. Bên

cạnh đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn đưa ra “quan điểm an ninh châu Á

mới” (tháng 5/2014), chủ trương “công việc của châu Á cần dựa vào nhân dân châu Á

để giải quyết” [习近平, 2014], nhằm tìm kiếm vai trò chủ đạo trong hệ thống an ninh

khu vực. Trong khi đó, kể từ khi Tổng thống V.Putin lên cầm quyền vào năm 2000,

Nga đã tiến hành chiến lược hướng Đông nhằm: khai thác tiềm năng các nền kinh tế

58

đang phát triển để đầu tư cho phát triển trong nước; tiếp cận thị trường lớn về tài

nguyên năng lượng ở châu Á; mở rộng thị trường vũ khí ở châu Á [Đồng Xuân Thọ,

2016, tr.104].

Đối với Nhật Bản, Đông Nam Á là khu vực nắm giữ vị trí địa chiến lược quan

trọng, việc phát triển quan hệ với khu vực này giúp Nhật đảm bảo được các mục tiêu về

an ninh, phát triển và tăng cường vị thế trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Cụ

thể, về mục tiêu an ninh, việc tăng cường quan hệ với khu vực Đông Nam Á tạo điều

kiện thuận lợi cho Nhật đối phó với những tác động tiêu cực từ sự trỗi dậy của Trung

Quốc với sự kiện Trung Quốc vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế

giới, đồng thời, công khai thể hiện tham vọng về Biển Đông và Biển Hoa Đông. Về

mục tiêu phát triển, khu vực Đông Nam Á là một thị trường có thể bổ sung cho những

ngành công nghiệp nội địa đang bị thu hẹp của Nhật, đồng thời, là một nguồn cung lao

động giá rẻ, dồi dào và thị trường tiêu thụ rộng lớn. Về mục tiêu ảnh hưởng, Đông

Nam Á là khu vực mà Nhật Bản có thể gia tăng ảnh hưởng nhằm phục vụ cho ngoại

giao nước lớn, đồng thời, góp phần giảm thiểu tác động từ khó khăn trong quan hệ với

các nước Đông Bắc Á, và giúp độc lập hơn với Mỹ… [Nguyễn Vũ Tùng, Nguyễn

Thùy Anh, 2017, tr.94-96].

Còn đối với Ấn Độ, nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia Đông Bắc Á,

Đông Nam Á, Ấn Độ cũng thực hiện “chính sách hướng Đông” (công bố năm 1992),

và thay thế bằng chính sách “Hành động phía Đông” từ năm 2014. Với chính sách mới

này, Ấn Độ công khai lợi ích của mình tại Biển Đông, thể hiện trên cả lĩnh vực kinh tế

và an ninh. Về kinh tế, phần lớn hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu của Ấn Độ được vận

chuyển bằng đường biển, trong đó, 55% được vận chuyển qua eo biển Malacca tới các

thị trường châu Á – Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Ấn Độ còn có lợi ích về năng

lượng trong các dự án hợp tác dầu khí. Về an ninh, sự an toàn của tuyến đường vận tải

biển qua Biển Đông có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Ấn Độ, do đó nước

này luôn tìm cách tăng cường hiện diện hải quân và “quyền tiếp cận” ở Biển Đông

[Đồng Xuân Thọ, 2016, tr.105]. Tóm lại, khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó

59

có Đông Nam Á, đang chứng kiến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các cường

quốc trong khu vực trên tất cả các lĩnh vực, bao gồm chính trị ngoại giao, an ninh, kinh

tế…

Như vậy, có thể thấy, những biến đổi trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương

nói chung, khu vực Đông Nam Á nói riêng những năm đầu thế kỷ XXI, như những tiến

triển trong hợp tác kinh tế Trung Quốc – ASEAN, cạnh tranh chiến lược giữa các

nước lớn tại khu vực Đông Nam Á ... đã tạo ra không ít cơ hội và thách thức đối với

các quốc gia thành viên ASEAN. Điều này đòi hỏi các nước ASEAN, trong đó có

Indonesia, cần lựa chọn chiến lược trong hợp tác với các nước lớn, đặc biệt với Trung

Quốc, nhằm thu được tối đa lợi ích về kinh tế, đồng thời phát huy được những ưu thế

về địa chính trị của mình.

Hai là, các nhân tố chủ quan tác động đến quan hệ Trung Quốc -

Indonesia

Về phía Trung Quốc, từ năm 1990, Trung Quốc bắt đầu tiến hành chính sách

ngoại giao láng giềng, nhằm mục đích tăng cường quan hệ đối với các nước láng

giềng. Chính sách này vừa nhằm mục đích giành sự ủng hộ của các nước Đông

Nam Á trong bối cảnh Trung Quốc đang bị các nước phương Tây chỉ trích vì sự

kiện Thiên An Môn, vừa nhằm giữ được vai trò lớn hơn về kinh tế trong khu vực

Đông Nam Á. Mặt khác, trong bối cảnh Trung Quốc trở thành “công xưởng thế

giới”, với mức độ phụ thuộc vào kinh tế đối ngoại là 70%, nước này cần kết hợp thu

hút vốn đầu tư nước ngoài và đưa doanh nghiệp của mình ra bên ngoài nhằm chủ

động điều chỉnh kết cấu ngành nghề, phân phối nguồn lực ở một không gian rộng

lớn hơn. Chiến lược “Đi ra ngoài” được Trung Quốc thúc đẩy mạnh bắt đầu từ năm

2002 nhằm mục đích đó. Bên cạnh đó, Trung Quốc tích cực thúc đẩy quan hệ với

các nước đang phát triển thông qua hợp tác Nam – Nam nhằm duy trì tăng trưởng

kinh tế, bởi các nước này sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô

phong phú và dồi dào.

Chiến lược “Đi ra ngoài” này tiếp tục được thúc đẩy với những hình thức

mới trong giai đoạn hiện nay. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau khi lên nắm

60

chính quyền một thời gian đã đưa ra sáng kiến “Vành đai và Con đường” (2013), với

hai trục chính là “Con đường tơ lụa trên bộ” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ

21”, nhằm phục vụ các công ty quốc doanh Trung Quốc ký kết hợp đồng đầu tư ở

nước ngoài, qua đó góp phần giải quyết tình trạng sản xuất dư thừa, lao động dư thừa

ở trong nước. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ

21” sẽ phục vụ cho sự phát triển hàng hải của các nước dọc theo tuyến đường, mở

rộng giao thương trên biển, đồng thời thúc đẩy sự thịnh vượng trong khu vực. Trong

khi đó, Indonesia có vị trí chiến lược quan trọng khi có tuyến hàng hải quan trọng

chạy qua khu vực eo biển Malacca - một vị trí có thể kiểm soát được tự do hàng hải

giữa Biển Đông và Ấn Độ Dương, cũng là con đường nhập khẩu dầu thô chính của

Trung Quốc. Chính vì thế, phát triển quan hệ với Indonesia, đặc biệt là trong lĩnh vực

kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.

Mặt khác, nhiều ví dụ thực tế cho thấy, chính sách hiện nay Trung Quốc thường áp

dụng đối với các nước nhỏ là: cho phép các nước này thu lợi về kinh tế, đổi lại Trung

Quốc sẽ nhận được những quan hệ chính trị tốt đẹp. Điều này khiến BRI nói chung,

và chiến lược “Con đường tơ lụa trên biển” nói riêng của Trung Quốc gặp phải nhiều

nghi ngờ từ các nước xung quanh. Nếu nhận được sự ủng hộ của Indonesia – quốc gia

đứng đầu ASEAN - trong việc xây dựng BRI sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho

Trung Quốc trong việc triển khai Sáng kiến này.

Về phía Indonesia, trước những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính năm

1997, Indonesia cần vay vốn nhiều hơn từ nước ngoài để phục hồi kinh tế. Trong

khi Quỹ IMF được coi là nguồn đáng tin cậy nhất đã không phản ứng kịp thời, thì

Trung Quốc đề nghị giúp đỡ bằng cách viện trợ Indonesia và hứa sẽ không tăng giá

đồng NDT. Bên cạnh đó, phản ứng của Trung Quốc đối với cuộc thảm sát tháng 5 -

1998 được coi là ngoại giao hơn so với những lần trước đó. Ngoài ra, việc Tổng

thống Suharto từ chức cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn để tăng cường

quan hệ Trung Quốc - Indonesia. Năm 1999, Tổng thống Indonesia Abdurrahman

Wahid đã đến Trung Quốc trong chuyến thăm ngoại giao đầu tiên của mình.

Chuyến đi này cũng nhằm mục đích gây ảnh hưởng để người Hoa Indonesia trở lại

61

và tái đầu tư vào Indonesia. Từ đó, chính phủ Indonesia đã bắt đầu thay đổi chính

sách đối với Trung Quốc. Các hoạt động văn hóa, trường học, tôn giáo và một số

quyền của người Trung Quốc được Chính phủ Indonesia công nhận. Đây cũng là

một trong những tiền đề thuận lợi cho việc nâng cấp quan hệ hai nước lên đối tác

chiến lược vào năm 2005.

Ngoài ra, sau khi lên nhậm chức không lâu, Tổng thống Indonesia Joko

Widodo đã đưa ra chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” (năm 2014), chuyển trọng tâm

phát triển chiến lược quốc gia từ đất liền hướng ra biển. Chiến lược này bao gồm hai

trụ cột chính là xây dựng cơ sở hạ tầng biển và bảo vệ chủ quyền biển. Chiến lược

được đưa ra trong bối cảnh suốt một thời gian dài, cơ sở hạ tầng của Indonesia ở

trạng thái đình trệ, thậm chí xuống cấp, về cơ bản không theo kịp tốc độ phát triển

kinh tế của nước này. Cơ sở hạ tầng yếu kém khiến chi phí vận chuyển ngay giữa các

đảo trong nội bộ Indonesia cao hơn nhiều so với chi phí vận chuyển từ các nước như

Trung Quốc, Singapore tới Indonesia. Với chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”, Tổng

thống Widodo không chỉ mong muốn biến Indonesia tăng cường liên kết bên trong

Indonesia, đồng thời muốn khiến Indonesia trở thành cửa ngõ kết nối Thái Bình

Dương với Ấn Độ Dương. Về mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, chiến lược sẽ triển

khai triển khai ngoại giao biển, tăng cường thực lực hải quân để bảo vệ quyền lợi tài

nguyên biển, phát huy ưu thế địa chính trị quốc gia quần đảo.

Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia và “Con đường tơ lụa trên

biển thế kỷ 21” của Trung Quốc đều nhằm thông qua hợp tác cùng thắng để giúp mỗi

nước nước phát triển tốt hơn. Hai chiến lược trên có nhiều điểm trùng khớp về phạm

vi và lĩnh vực, việc kết nối chiến lược cũng đã được lãnh đạo cấp cao hai nước đưa

vào Tuyên bố chung năm 2015. Một loạt các hiệp định hợp tác giữa chính phủ hai

nước về việc đảm bảo kết nối chiến lược đã được ký kết, với nội dung chủ yếu liên

quan đến quy hoạch phát triển 5 năm trong hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai

nước, Hiệp định cùng xây dựng Khu công nghiệp chung, các hợp tác về du lịch, về

ngư nghiệp, khí hậu... Có thể thấy, hai nước Trung Quốc và Indonesia có cơ sở hợp

tác tương đối vững chắc, khi hai nước có sự trùng khớp trong quy hoạch và chiến

62

lược phát triển kinh tế xã hội.

Tiểu kết ư n 2

Về cơ sở lý luận, việc khảo sát các vấn đề liên quan đến lý thuyết về quan hệ

đối tác, Thuyết bất đối xứng, cường quốc tầm trung, các khái niệm liên quan đến sự

chuyển biến… đã góp phần xây dựng một khung lý thuyết của Luận án. Theo đó,

các chương tiếp theo của Luận án sẽ thông qua việc phân tích thực trạng quan hệ

Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005 trong các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh

tế, văn hóa – xã hội, phân tích Xu hướng phát triển, Các sự kiện lớn, Các thành tựu

lớn, nhằm nhận diện sự chuyển biến trong quan hệ hai nước. Từ đó, Luận án đối

chiếu với các dạng thức của sự chuyển biến để đánh giá tính chất của sự chuyển

biến là thay đổi tiệm tiến hay đột biến, có dẫn đến sự thay đổi mang tính hệ thống

hay không. Từ thực trạng quan hệ hai nước trong từng lĩnh vực, đối chiếu với các

mức độ của quan hệ đối tác chiến lược do Gajauskaite (2013) đưa ra để đánh giá

mức độ của quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia thuộc thang độ

Chính thức, Chính thức – Mật thiết, Thực chất, hay Thực chất hiệu quả. Bên cạnh

đó, phân tích chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc, đánh giá mức độ thực

hiện chính sách “phòng ngừa rủi ro” của Indonesia thông qua các biểu hiện chính

sách cụ thể theo mô hình mà Kuik C.C (2008) đưa ra.

Về cơ sở thực tiễn, lịch sử phát triển quan hệ Trung Quốc – Indonesia đưa

ra một bức tranh tổng thể về những chuyển biến trong quan hệ, cùng những nhân

tố quan trọng dẫn đến sự chuyển biến này, bao gồm nhân tố người Hoa Indonesia

và tâm lý “chống cộng sản” ở Indonesia. Đây sẽ là cơ sở để sau khi nghiên cứu,

tác giả có thể tiến hành đối chiếu so sánh các nhân tố, nhằm nhận diện quy luật

xuất hiện nhân tố dẫn đến sự biến đổi. Ngoài ra, các nhân tố bên ngoài như tình

hình thế giới và khu vực, đặc biệt là quan hệ Trung Quốc – ASEAN, cùng các

nhân tố đến từ bên trong nội bộ Trung Quốc và Indonesia, là các nhân tố quan

trọng cần phân tích để tìm ra nguyên nhân của sự chuyển biến quan hệ trong thời

63

gian từ sau năm 2005 tới nay.

C ư n 3.

THỰC TRẠNG CHUYỂN BIẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC - INDONESIA

TRONG CÁC LĨNH VỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia diễn ra trong bối cảnh môi

trường chính trị thế giới, khu vực và bản thân hai nước có nhiều biến đổi. Trước

những thay đổi của cả môi trường bên trong và bên ngoài, hai nước đã có sự điều

chỉnh trong các chính sách đối ngoại với nước đối tác, đồng thời, có những thay đổi

trong chính sách, biện pháp thực thi cụ thể trên từng lĩnh vực như chính trị - an

ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội.

3.1. Nhữn điều chỉnh về chính sách của Trung Quốc và Indonesia

trong quan hệ son ư n từ năm 2005 đến nay

Những điều chỉnh về chính sách của Trung Quốc và Indonesia được thể hiện

rõ nhất và trước tiên là trong các văn kiện chính thức, các tuyên bố chung của hai

nước. Ngoài ra, việc điều chỉnh chính sách này còn được thể hiện qua thay đổi trong

tư tưởng của lãnh đạo cấp cao hai nước, qua những ưu tiên chính sách mà hai nước

dành cho nhau.

3.1.1. Điều chỉnh trong phối hợp chính sách của hai nước

Như đã trình bày ở phần 2.2.2 Chương 2, từ những chuyển biến về bối cảnh

thế giới và khu vực, về tình hình trong nước của Trung Quốc và Indonesia, hai

nước đã có sự thay đổi trong cách đánh giá nước đối tác, nhu cầu tăng cường quan

hệ song phương cũng tăng lên. Trong các nhân tố có thể dẫn tới chuyển biến trong

quan hệ song phương mà Holsti (1998) đề cập đến, “các sự kiện lớn” (Great

Events) là nhân tố dễ nhận thấy nhất. Trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ

sau năm 2005, việc ký kết các tuyên bố chung được coi là các sự kiện lớn trong

quan hệ song phương. Hầu như trong các chuyến thăm chính thức của lãnh đạo

cấp cao hai bên, Trung Quốc và Indonesia đều ký kết Tuyên bố chung và các văn

bản hợp tác, trong đó, hai văn bản được coi là đánh dấu sự thay đổi trong quan hệ

64

hai nước, là Tuyên bố chung năm 2005 thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, và

Bản Quy hoạch phát triển quan hệ song phương năm 2013 nâng cấp quan hệ hai

nước lên thành đối tác chiến lược toàn diện.

Quan điểm chính sách của Trung Quốc và Indonesia về phát triển quan hệ

song phương được thể hiện trong Tuyên bố chung năm 2005. Nội hàm “quan hệ

đối tác chiến lược Trung Quốc - Indonesia” được hai nước xác định rõ trong

“Tuyên bố chung về việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa nước CHND

Trung Hoa và nước CH Indonesia” (năm 2005) là: “mối quan hệ không kết đồng

minh, không loại trừ, nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn thịnh của hai nước

và nhân dân hai nước”. Điều này báo hiệu rằng hai nước từ chối các liên minh

quân sự. Đáng chú ý, mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia được hai nước xác

định “là trụ cột quan trọng nhằm tăng cường quan hệ đối tác chiến lược Trung

Quốc – ASEAN, cũng là một nội dung quan trọng của hợp tác Nam – Nam giữa

các quốc gia đang phát triển”. Mối quan hệ này cần đóng vai trò “là nền tảng cho

các diễn đàn và tổ chức khu vực, liên khu vực và quốc tế triển khai sự điều phối và

hợp tác chặt chẽ”. Điều này cho thấy lãnh đạo hai nước đã xác định rằng mối quan

hệ Trung Quốc – Indonesia cần được đặt trong tổng thể các vấn đề khu vực và

quốc tế, đồng thời hai bên đều nhận thức rõ vai trò của mối quan hệ này đối với sự

phát triển chung của khu vực. Hai nước xác định các nội dung hợp tác bao gồm 28

điều, chia thành 3 lĩnh vực chủ yếu là: “tăng cường hợp tác chính trị an ninh, đi

sâu hợp tác kinh tế và phát triển, thúc đẩy hợp tác văn hóa xã hội, mở rộng giao

lưu nhân dân”. Như vậy, có thể chia nội dung quan hệ đối tác chiến lược Trung

Quốc – Indonesia thành 3 trụ cột chính bao gồm: chính trị - an ninh, kinh tế phát

triển và văn hóa - xã hội [Sina, 2005].

Đến tháng 1/2010, một Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố chung về

quan hệ đối tác chiến lược giữa Trung Quốc và Indonesia đã được ký kết giữa hai

nước, bổ sung thêm một số điều khoản, nêu bật các ưu tiên của hai nước trong giai

đoạn đó, bao gồm hợp tác về năng lượng, thủy sản và đầu tư [新华网, 2010]. Hợp

tác về kinh tế là vấn đề chủ yếu được đề cập trong Kế hoạch hành động, với hầu

65

hết các điểm xung quanh hợp tác thương mại và đầu tư (bao gồm cả những điểm

thúc đẩy tiến độ của một số dự án cơ sở hạ tầng). Kế hoạch hành động cũng đề

xuất hình thành một loạt các cuộc đối thoại và hội nghị thượng đỉnh giữa các quan

chức cấp cao hai nước, nhằm phối hợp chính sách và thực hiện các ưu tiên này.

Tuy nhiên, Kế hoạch hành động không đưa ra mục tiêu cụ thể mà hai nước cần đạt

được. Hầu hết các điều khoản trong Kế hoạch hành động chỉ đơn giản cho thấy

một cam kết đối với việc cải tiến đối thoại, hay thúc đẩy hợp tác, mà không chỉ ra

rõ ràng bất kỳ một con số hay cột mốc nào đo lường cho thành công của việc hợp

tác. Ví dụ, mặc dù mong muốn tăng cường hợp tác trong lĩnh vực du lịch và

thương mại, nhưng trong Kế hoạch hành động không chỉ ra con số cụ thể mà hợp

tác cần đạt tới [Priyandita, 2019, tr.16].

Trong chuyến thăm Indonesia của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình năm

2013, hai nước đã ký kết văn bản nâng cấp quan hệ hai nước lên thành “đối tác

chiến lược toàn diện”. Cả hai bên xác định chuyến thăm này “mang ý nghĩa lịch

sử”, “sẽ mở ra kỷ nguyên mới cho quan hệ hai nước” [新华网, 2013]. Nội hàm

Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc và Indonesia được hai nước xác

định với những bổ sung, nâng cấp về mặt nội dung so với lần ký kết năm 2005. Bản

Quy hoạch năm 2013 bao gồm 31 điều (từ Điều 6 đến Điều 36), chia thành 5 lĩnh

vực chính, bao gồm: (1) Chính trị, quốc phòng và an ninh; (2) Kinh tế và phát

triển; (3) Hợp tác trên biển, hàng không và khoa học kỹ thuật; (4) Hợp tác về xã

hội, văn hóa; (5) Hợp tác quốc tế và khu vực [新华网, 2013].

So sánh cách gọi mối quan hệ được Trung Quốc và Indonesia sử dụng trong

Tuyên bố chung năm 2005 và Bản Quy hoạch năm 2013, có thể thấy, sự thay đổi

từ “quan hệ đối tác chiến lược” thành “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” là kết

quả sự thay đổi trong cách định vị mối quan hệ song phương của cả Trung Quốc

và Indonesia. Rõ ràng, hai nước đã đặt mối quan hệ ở một tầng bậc cao hơn trong

chiến lược ngoại giao của mình. Bên cạnh đó, từ các điều khoản được ký kết trong

hai văn bản này, có thể thấy, nội dung Bản Quy hoạch năm 2013 phong phú hơn, cụ

thể hơn, chứng tỏ mối quan tâm và nhu cầu hợp tác song phương đã phát triển

66

theo cả chiều sâu và chiều rộng. Bản Quy hoạch năm 2013 đã tăng thêm 2 nội

dung so với Tuyên bố chung năm 2005, là “hợp tác trên biển, hàng không và khoa

học kỹ thuật” và “hợp tác quốc tế và khu vực”. Trong phần “hợp tác trên biển,

hàng không và khoa học kỹ thuật”, Bản Quy hoạch đã đưa ra một lĩnh vực mới

trong hợp tác song phương, trong đó chỉ rõ các cơ chế cụ thể triển khai hợp tác, ví

dụ như Ủy ban Hợp tác trên biển, Quỹ hợp tác trên biển Trung Quốc – Indonesia,

Ủy ban khoa học kỹ thuật Trung Quốc – Indonesia, các văn bản xây dựng khung

hợp tác như Bản ghi nhớ về hợp tác ngư nghiệp giữa Bộ Nông nghiệp nước CHND

Trung Hoa và Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp Indonesia... (từ Điều 19 đến Điều 22).

Việc tách “hợp tác quốc tế và khu vực” thành một nội dung độc lập, ngang hàng

với các lĩnh vực hợp tác khác cho thấy hai nước đã định vị cao hơn vai trò của

quan hệ song phương đối với cục diện hợp tác quốc tế và khu vực. Các hợp tác

quốc tế và khu vực được nhắc tới trong Bản Quy hoạch bao gồm: hợp tác Trung

Quốc – ASEAN, duy trì hòa bình và ổn định trên biển, thúc đẩy các hợp tác trong

khuôn khổ APEC, G20, trong vấn đề biến đổi khí hậu... (từ Điều 29 đến Điều 36) [

新华网, 2013].

Bên cạnh đó, trong nội dung ký kết có 3 mục liên quan đến đầu tư cơ sở hạ

tầng tại Indonesia (Điều 14, 15, 16), thể hiện định hướng hợp tác giữa hai nước

trong giai đoạn mới sẽ tập trung vào vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng tại Indonesia –

một lĩnh vực mà hai nước có điều kiện bổ sung cho nhau, do Indonesia cần tăng

cường xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ phát triển kinh tế, còn Trung Quốc cần

chuyển bớt sức lao động và sản xuất dư thừa ra bên ngoài thông qua các dự án xây

dựng cơ sở hạ tầng. Vấn đề duy trì ổn định hòa bình trên Biển Đông cũng được

nhắc tới cụ thể hơn trong Bản Quy hoạch (Điều 33). Trong Tuyên bố chung năm

2005, hai bên mới chỉ đưa ra việc “Thúc đẩy thực hiện ‘Tuyên bố về ứng xử của

các bên ở Biển Đông’ (DOC), khiến biển Đông trở thành diễn đàn hợp tác và cầu

nối hữu nghị”, còn trong Bản Quy hoạch năm 2013 đã bổ sung thêm yêu cầu cần

“tăng cường tin cậy lẫn nhau” và việc thúc đẩy ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên

Biển Đông (COC). Nhìn lại bối cảnh khu vực, hai nước ký kết Bản Quy hoạch

67

2013 diễn ra trong lúc căng thẳng giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN đang

leo thang do vấn đề tranh chấp về chủ quyền biển đảo, đặc biệt vào tháng 5/2011

với Việt Nam, tháng 4/2012 với Philippines, và việc Philippines chính thức kiện

Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Quốc tế vào tháng 1/2013. Những sự kiện này đã

gây ảnh hưởng nghiêm trọng, làm giảm sút đáng kể hình ảnh của một nước Trung

Quốc luôn tuyên bố là “trỗi dậy hòa bình”. Không chỉ vậy, vấn đề Biển Đông còn

gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN, năm 2012, lần đầu tiên ASEAN không đưa ra

được Tuyên bố chung vì vấn đề này. Trước tình hình này, Indonesia đã phát huy vai trò trung gian hòa giải, chính sách “ngoại giao con thoi”1 đã giúp khôi phục

đoàn kết khu vực về vấn đề biển Đông bằng cách đặt ra Tuyên bố “Nguyên tắc 6 điểm về vấn đề Biển Đông”.2 Trong bối cảnh như vậy, việc đưa thêm nội dung

“tăng cường tin cậy lẫn nhau” vào Bản Quy hoạch phát triển quan hệ Trung Quốc

– Indonesia cho thấy nhu cầu của Trung Quốc trong việc muốn thông qua

Indonesia – quốc gia có vai trò trung gian hòa giải trong các tranh chấp trên biển –

để tăng cường lòng tin vốn đang ngày càng giảm sút đối với Trung Quốc của các

quốc gia ASEAN.

Tóm lại, với những thay đổi trong tình hình quốc tế và khu vực, cùng sự

thay đổi từ bản thân Trung Quốc và Indonesia, hai nước đã có những điều chỉnh

kịp thời trong chính sách chung về quan hệ song phương, thể hiện qua hai văn

kiện mang tính cột mốc trong quan hệ hai nước. Những điều chỉnh, nâng cấp về

nội dung trong Bản Quy hoạch ký kết năm 2013 cho thấy trong bối cảnh mới,

Trung Quốc và Indonesia cần tăng cường hợp tác song phương không chỉ vì vai

trò quan trọng của hai nước đối với khu vực, mà còn vì hai bên cần nhau hơn

trong các chiến lược phát triển quốc gia của riêng mình. Bản Quy hoạch nâng cấp

1 “Ngoại giao con thoi”: được sử dụng khi hai bên xảy ra tranh chấp không thể công khai công nhận lẫn nhau về mặt ngoại giao, khiến cho việc đàm phán trực tiếp giữa hai bên khó có thể xảy ra. Hoạt động ngoại giao con thoi được sử dụng giúp một bên thứ ba truyền đạt thông tin qua lại giữa hai bên xảy ra tranh chấp (theo Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2013), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Khoa Quan hệ quốc tế - Đại học KHXH&NV Tp HCM, tr.164-165). 2 Tuyên bố “Nguyên tắc 6 điểm về vấn đề Biển Đông”: Ngày 13/7/2012, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Campuchia đã không thể đưa ra tuyên bố chung do có điểm bất đồng trong cách giải quyết đối với vấn đề Biển Đông. Ngay sau đó, cựu Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa đã có những chuyến ngoại giao con thoi để vận động các quốc gia liên quan tránh không để xảy ra những bất đồng và tiếp tục thể hiện tình đoàn kết của ASEAN đối với những vấn đề lớn của khu vực. Ngày 20-7, các nước thành viên ASEAN đã nhất trí ra tuyên bố “Nguyên tắc 6 điểm về vấn đề Biển Đông”.

68

quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện chi tiết hơn so với Tuyên bố chung

thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, cho thấy có sự tin tưởng ngày càng tăng giữa

hai nước để cùng làm việc trong các lĩnh vực vượt ra ngoài thương mại và an ninh truyền thống. Do đó các hạng mục hợp tác cũng được cụ thể hóa, với các cơ chế

hợp tác rõ ràng, thể hiện mong muốn hợp tác thực chất giữa hai nước, đặc biệt

trong lĩnh vực kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng.

3.1.2. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ

song phương giai đoạn 2005-2013

Giai đoạn 2005-2013 là giai đoạn Trung Quốc và Indonesia triển khai các

điều khoản, lĩnh vực hợp tác được xác định trong bản Tuyên bố chung thiếp lập

quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước. Trong khi chính sách đối ngoại của Trung

Quốc đối với Indonesia giai đoạn này mang đậm dấu ấn cá nhân của Chủ tịch Hồ

Cẩm Đào, thì chính sách đối ngoại của Indonesia với Trung Quốc mang đậm dấu ấn

của Tổng thống Yudhoyono.

3.1.2.1. Chính sách của Trung Quốc thời kỳ Hồ Cẩm Đào

Từ khi nước CHND Trung Hoa được thành lập đến nay, đặc biệt từ sau cải

cách mở cửa, các chính sách ngoại giao của Trung Quốc luôn được xây dựng trên

nền tảng của chủ nghĩa Mác, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa Trung Hoa,

kết hợp với tình hình quốc tế và trong nước tại giai đoạn đó để đưa ra những lý luận

chiến lược quốc tế mang tính thời đại, giành được thế chủ động về chiến lược. Đặng

Tiểu Bình căn cứ vào những phán đoán về thay đổi trong tình hình quốc tế và trong

các xu thế chủ lưu, đã có những điều chỉnh kịp thời về chính sách đối ngoại, giúp

Trung Quốc chủ động nắm bắt được cơ hội thúc đẩy kinh tế phát triển. Giang Trạch

Dân khi lãnh đạo Trung Quốc bước vào thế kỷ XXI đã đưa ra tư tưởng chiến lược

“ba tập trung”, gồm: tập trung vào quan hệ nước lớn trong cục diện chiến lược thế

giới, tập trung vào địa chiến lược để tích cực phát triển quan hệ với xung quanh, tập

trung mở rộng không gian chiến lược và triển khai ngoại giao đa phương...[江泽民,

2006, tr.352-356]. Đến thời kỳ Hồ Cẩm Đào, trong 10 năm cầm quyền, ông đã đưa

69

ra yêu cầu cần nắm bắt đại cục trong nước và quốc tế, cho thấy tư tưởng chiến lược

quốc tế của Trung Quốc đã được mở rộng cả về mặt địa lý lẫn phạm vi lĩnh vực,

điều này cũng được lý giải bởi Trung Quốc thời điểm này đang chuyển đổi từ nước

lớn trong khu vực thành nước lớn trên toàn cầu [杨洁勉, 2018, tr.].

Chính sách của Trung Quốc trong quan hệ với Indonesia giai đoạn 2005-

2013 mang nhiều dấu ấn lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào (2002-2012) và được đặt trong

tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc, đặc biệt trong mối quan

hệ Trung Quốc – ASEAN. Với sự thay đổi của tình hình quốc tế, cùng với việc

Trung Quốc ngày càng củng cố được vị thế trong khu vực và trên thế giới, chính

sách đối ngoại trong thời kỳ Ôn Gia Bảo là “trỗi dậy hòa bình” (和平崛起) hay

“phát triển hòa bình” (和平发展) [温家宝, 2005].

Trong Đại hội Đảng lần thứ XVI năm 2002, chính sách đối ngoại của Trung

Quốc được Giang Trạch Dân nhắc đến theo thứ tự: (i) quan hệ với các nước phát

triển; (ii) quan hệ với các nước láng giềng; (iii) quan hệ với các nước đang phát triển;

(iv) ngoại giao đa phương [江泽民, 2008]. Đây là lần đầu tiên các nước láng giềng

được nhấn mạnh vai trò chính yếu trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc tại Đại

hội Đảng. Cụ thể, báo cáo Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc đã đề ra phương châm

ngoại giao láng giềng là: “thân thiện với láng giềng, làm bạn với láng giềng”. Trên cơ

sở đó, lãnh đạo khóa thứ 4 của Trung Quốc đã đề ra tư tưởng “tam lân” bao gồm:

“mục lân, an lân, phú lân” trong bài phát biểu của Thủ tướng Ôn Gia Bảo trong Hội

nghị thượng đỉnh đầu tư và thương mại ASEAN lần thứ nhất diễn ra ngày 7/10/2003

tại đảo Bali Indonesia: “Mục lân” là cùng xây dựng cấu trúc quan hệ ổn định, hài hòa

giữa các nước trên nguyên tắc cùng chung sống hòa bình với các nước xung quanh;

“an lân” là thông qua đàm phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp, cùng tạo ra

môi trường khu vực hòa bình ổn định đối với sự phát triển của châu Á; “phú lân” là

tăng cường hợp tác cùng có lợi với các nước láng giềng, đi sâu hợp tác khu vực và

tiểu khu vực, tích cực thúc đẩy nhất thể hóa kinh tế khu vực, thực hiện cùng phát triển

với các nước châu Á [温家宝, 2003].

Các quốc gia Đông Nam Á là các nước láng giềng quan trọng của Trung

70

Quốc. Xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng ổn định với các nước

Đông Nam Á, tăng cường hợp tác cùng có lợi song phương, đặc biệt với quốc gia

đông dân nhất ASEAN (tức Indonesia) là một nội dung quan trọng trong chính sách

ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Trung Quốc ủng hộ tích cực những nỗ lực của

khu vực Đông Nam Á trong việc duy trì hòa bình, ổn định và phồn thịnh, đồng thời

dựa trên năm nguyên tắc chung sống hòa bình đã xây dựng “quan hệ đối tác láng

giềng tin cậy, hướng tới thế kỷ XXI”. Trong đó, Khu Thương mại tự do Trung Quốc

– ASEAN là một trong những diễn đàn quan trọng để Trung Quốc thực hiện “chính

sách tam lân” của mình [周素勤, 2003, tr.18-19]. Chính sách ngoại giao láng giềng

của Trung Quốc thời kỳ này có mục tiêu cơ bản nhằm duy trì quan hệ hữu hảo, ổn

định tạo nền tảng cho Trung Quốc tập trung phát triển kinh tế; đồng thời nhằm xoa

dịu nỗi lo ngại của các quốc gia xung quanh về “Mối đe dọa Trung Quốc”, giúp Bắc

Kinh cải thiện quan hệ với láng giềng [温家宝, 2003].

Có thể thấy, trong bố cục chiến lược ngoại giao của Trung Quốc không có vị

trí của các cường quốc tầm trung. Điều này có thể lý giải bởi: (i) các cường quốc tầm

trung không có sức mạnh như các cường quốc, do đó không thể phát huy được vai trò

phân phối điều chỉnh lợi ích và thay đổi tương quan lực lượng trong cộng đồng quốc

tế như các nước lớn, do đó chính sách ngoại giao với các cường quốc tầm trung

không thuộc phạm trù ngoại giao nước lớn; (ii) nhìn từ góc độ ngoại giao láng giềng,

do các cường quốc tầm trung phân bố rải rác ở nhiều khu vực trên thế giới, số lượng

các cường quốc tầm trung xung quanh Trung Quốc còn hạn chế (chỉ có Hàn Quốc,

Indonesia, Pakistan), do đó, cũng không thể đưa chính sách ngoại giao với các cường

quốc tầm trung vào nhóm ngoại giao láng giềng, bởi không có tính đại diện rõ ràng;

(iii) các cường quốc tầm trung cũng không giống với các nước đang phát triển thông

thường, bởi sẽ không làm nổi bật được vai trò đặc thù của cường quốc tầm trung

trong nhóm các quốc gia đang phát triển; (iv) trong các cơ chế quốc tế đa phương

hiện nay, cường quốc tầm trung vẫn chỉ đóng vai trò phụ, sự hợp tác, phối hợp giữa

Trung Quốc với các cường quốc tầm trung trên diễn đàn đa phương còn nhiều hạn

chế về phạm vi và mức độ. Chính bởi thế, trong giai đoạn này, Trung Quốc chưa định

71

hình chính sách đặc thù với các cường quốc tầm trung [丁工, 2011, tr. 51-52].

Trong các năm từ 2002-2007, cũng là giai đoạn tìm tòi của ngoại giao quan

hệ đối tác của Trung Quốc, nước này chú trọng vào việc xây dựng các quan hệ đối

tác mới, đặc biệt là với các nước đang phát triển và các nước phát triển ở mức độ

trung bình [门洪华, 刘笑阳, 2013, tr.76]. Đáng chú ý, Indonesia là nước đầu tiên

trong khu vực Đông Nam Á được Trung Quốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược,

chứng tỏ Indonesia có vị trí quan trọng trong chiến lược ngoại giao quan hệ đối tác

của Trung Quốc tại khu vực này. Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (năm 2007) đề ra

thứ tự ưu tiên trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc là: các nước phát triển,

khu vực láng giềng và khu vực Đông Á, các nước đang phát triển, các tổ chức

quốc tế đa phương [温家宝, 2007]. Từ sau Đại hội XVII, Trung Quốc chủ yếu chú

trọng việc nâng cấp đối với các quan hệ đối tác đã có, việc lựa chọn đối tượng đã

linh hoạt hơn, trong đó, các nước láng giềng, các đối tác kinh tế quan trọng và có

vai trò quan trọng ở khu vực trở thành phương hướng chiến lược chính của Trung

Quốc [门洪华, 刘笑阳, 2013, tr.78]. Trong thời gian gian Hồ Cẩm Đào lãnh đạo,

Trung Quốc đã thiết lập quan hệ với hơn 40 đối tác trong khu vực và trên thế giới.

Điều này có thể lý giải bằng chủ trương đường lối “trỗi dậy hòa bình” mà Ban

lãnh đạo Trung Quốc đưa ra lúc đó. Tuy nhiên, việc xây dựng và nâng cấp một

lượng lớn các quan hệ đối tác trong một khoảng thời gian ngắn khiến cho chiến

lược ngoại giao quan hệ đối tác của Trung Quốc giai đoạn này chưa cụ thể hóa đối

với từng nhóm đối tượng. Trong bối cảnh đó, chính sách của Trung Quốc trong

quan hệ với Indonesia thời kỳ này chủ yếu nhằm tạo ra môi trường xung quanh ổn

định, hài hòa, tạo điều kiện cho sự phát triển của Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng

chính vì chiến lược ngoại giao quan hệ đối tác của Trung Quốc giai đoạn này chưa

được cụ thể hóa thành các chính sách riêng biệt với các nhóm nước khác nhau,

nên chính sách Indonesia thời kỳ Hồ Cẩm Đào chưa được thể hiện rõ nét trong

chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

3.1.2.2. Chính sách của Indonesia thời kỳ Yudhoyono

Chính sách của Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc giai đoạn 2005-2013

72

mang đậm dấu ấn của Tổng thống Susilo Yudhoyono (2004-2014). Tổng thống

Yudhoyono xây dựng tầm nhìn của mình dựa trên bốn trụ cột: thịnh vượng, hòa bình,

công bằng và dân chủ. Trong đó, sự “thịnh vượng” được Yudhoyono nhấn mạnh

trong các chiến dịch bầu cử của mình và tiếp tục thực hiện điều này trong hai nhiệm

kỳ Tổng thống (2004-2009 và 2009-2014). Trụ cột “thịnh vượng” liên quan chặt chẽ

đến hợp tác chặt chẽ đến hợp tác kinh tế, trong đó hợp tác kinh tế giữa Indonesia và

Trung Quốc chiếm một phần không nhỏ. Trong hai nhiệm kỳ của mình, Tổng thống

Yudhoyono đã lựa chọn định hướng chính sách đối ngoại hướng ra bên ngoài: xây

dựng quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác để thúc đẩy phát triển kinh tế,

và thể hiện Indonesia là một quốc gia lớn trên toàn cầu. Với phương châm chính sách

đối ngoại “triệu người bạn, không kẻ thù”, Yudhoyono đã đề xuất ý tưởng về trạng

thái cân bằng động (dynamic equilibrium), với sự tham gia của tất cả các cường quốc

có liên quan trong một khuôn khổ hợp tác cởi mở hơn, làm cơ sở cho sự phát triển

của một kiến trúc khu vực. Để thu hút đầu tư và đẩy mạnh hợp tác, Tổng thống

Yudhoyono đã thúc đẩy chính sách kinh tế mở cửa, tập trung vào tăng trưởng và phát

triển thông qua tăng cường xuất khẩu, thương mại, đầu tư và hiện đại hóa cơ sở hạ

tầng [Yudhoyono, 2009].

Khi bắt đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Yudhoyono vào cuối năm 2004,

Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ năm của Indonesia. Với chính

sách đối ngoại mở cửa của Tổng thống Yudhoyono, quan hệ giữa Trung Quốc và

Indonesia phát triển nhanh chóng. Khu vực hợp tác đã được mở rộng bao gồm

không chỉ khu vực chính như năng lượng, an ninh và quốc phòng. Tổng thống

Yudhoyono đã thiết lập một cơ sở vững chắc cho Indonesia và Trung Quốc bằng

cách ký hai thỏa thuận quan trọng vào tháng 4/2005 và tháng 10/2013. Việc hai

nước ký kết hai tuyên bố chung quan trọng này cũng chính là hai mốc sự kiện lớn

(Great Events) trong quan hệ Trung Quốc – Indoesia. Ngoài ra, dưới thời kỳ Tổng

thống Yudhoyono, nhiều hiệp định song phương và đa phương, cùng nhiều bản

ghi nhớ (MoU) mới đã được ký kết giữa Indonesia và Trung Quốc. Chính sách đối

ngoại của Tổng thống Yudhoyono với Trung Quốc có thể chịu ảnh hưởng bởi

73

chính sách ngoại giao láng giềng và chính sách cải cách mở cửa của Trung Quốc.

Có thể nói, quyết định xây dựng mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ với Trung Quốc

của ông xuất phát từ sự thừa nhận và nhận thức đặc biệt của ông về tầm quan

trọng của vai trò Trung Quốc đối với sự phát triển kinh tế của Indonesia.

3.1.3. Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Indonesia trong

quan hệ song phương giai đoạn từ 2013 đến nay

Giai đoạn từ 2013 đến nay ghi nhận nhiều sự điều chỉnh chính sách đối ngoại

của Trung Quốc và Indonesia, với dấu ấn lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình và

Tổng thống Jokowi. Quan hệ hai nước trong giai đoạn này cũng mang nhiều dấu ấn

của việc thúc đẩy thực hiện BRI của Trung Quốc tại Đông Nam Á và Indonesia.

3.1.3.1. Chính sách của Trung Quốc thời kỳ Tập Cận Bình

Chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia giai đoạn từ 2013 đến nay

mang đậm dấu ấn Tập Cận Bình (2013- nay). Từ sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên

nắm chính quyền cũng luôn coi trọng việc phân tích chiến lược quốc tế một cách

khách quan và khoa học. Trong công tác đối ngoại từ sau Đại hội XVIII, Tập Cận

Bình đề ra yêu cầu “muốn nắm bắt tình hình quốc tế cần xây dựng được quan niệm

đúng đắn về lịch sử, về đại cục và vai trò” [习近平, 2018, tr.1]. Trong đó, quan niệm

đúng đắn về lịch sử cần biết học các kinh nghiệm từ lịch sử, quan niệm đúng đắn về

đại cục cần nắm vững được bản chất và toàn cục tình hình, quan niệm đúng đắn về

vai trò là cần có định vị chiến lược chính xác đối với Trung Quốc. Chính những quan

điểm này đã giúp thế hệ lãnh đạo thứ 5 của Trung Quốc nhận diện được khoa học và

khách quan tình hình thế giới, khu vực và các nước đối tác trong quá trình xây dựng

chính sách đối ngoại của mình.

Thế hệ lãnh đạo thứ năm do Tập Cận Bình làm đại diện đặc biệt chú trọng vào khu vực láng giềng xung quanh. Tháng 10/2013, Hội nghị Công tác Trung ương ĐCS

Trung Quốc về chủ đề ngoại giao láng giềng do Tập Cận Bình chủ trì được xem là

hội nghị quy mô lớn chưa từng có trong tiền lệ về chính sách ngoại giao đối với khu

vực láng giềng đã được tổ chức [习近平, 2013b]. Nội hàm của chính sách ngoại giao

láng giềng được Trung Quốc phân loại thành hai mức độ: ngoại giao “chu biên”

74

(láng giềng gần) và “đại chu biên” (láng giềng mở rộng). Các định hướng chính

sách nhằm thực hiện ngoại giao láng giềng thời kỳ này được Tập Cận Bình nhắc

đến bao gồm: (i) tăng cường thiện ý chính trị (mục lân); (ii) làm sâu sắc hội nhập

kinh tế khu vực (phú lân); (iii) cải thiện hợp tác an ninh khu vực (an lân); (iv) thực

hiện quan điểm ngoại giao “thân, thành, huệ, dung”1 [习近平, 2018]. Ngoài ra, đáng

chú ý, việc Tập Cận Bình đưa ra khái niệm “Cộng đồng chung vận mệnh”2 [习近

平,2013a] nhằm mục đích ràng buộc, đòi hỏi sự phục tùng từ các quốc gia xung

quanh, để tránh hiện tượng “kinh tế dựa vào Trung Quốc, an ninh dựa vào Mỹ” của nhiều quốc gia trong khu vực [Phí Hồng Minh, 2016, tr.19].

Trong bối cảnh chung của chính sách đối ngoại Trung Quốc thời kỳ Tập Cận

Bình như trên, chính sách của Trung Quốc đối với Indonesia dường như được chú

trọng hơn so với các giai đoạn trước, do vị thế và vai trò của Indonesia trong khu

vực cũng như trên trường quốc tế ngày càng tăng lên, phù hợp với những lợi ích mà

Trung Quốc tìm kiếm. Trong giai đoạn này, chính sách của Trung Quốc đối với các

cường quốc tầm trung cũng trở nên rõ nét hơn. Việc Kazakhstan và Indonesia là nơi

Tập Cận Bình lần đầu tiên đề xuất xây dựng “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa thế

kỷ XXI” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” vào tháng 9 và 10-2013 cho

thấy các cường quốc tầm trung sẽ đóng vai trò đặc biệt trong bố cục chiến lược BRI

của Trung Quốc. Việc kết nối giữa “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” và

Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia đã lần đầu tiên được đưa vào

Tuyên bố chung giữa hai nước năm 2015: “Hai bên cho rằng, Sáng kiến quan trọng

Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21 mà Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra và Chiến

lược Trục hàng hải toàn cầu do Tổng thống Jokowi khởi xướng có nhiều điểm

tương đồng. Hai bên đồng ý phát huy ưu thế của mỗi bên, tăng cường giao lưu

chiến lược và kết nối chính sách, thúc đẩy kết nối liên thông cơ sở hạ tầng trên biển,

đi sâu hợp tác trong các lĩnh vực như đầu tư ngành nghề, xây dựng các công trình

1 Thân, thành, huệ, dung (亲、诚、惠、容): thân thiện, chân thành, cùng có lợi, bao dung độ lượng. 2 Cộng đồng chung vận mệnh (人类我中有你的命运共同体): Theo Tập Cận Bình (2013a), trong thế giới này, mức độ liên quan, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng được tăng cường, con người sống trong cùng một “thôn địa cầu”, cùng chung sống trong một khoảng không gian thời gian giao hòa về lịch sử và hiện thực, ngày càng trở thành một Cộng đồng chung vận mệnh ‘trong bạn có tôi, trong tôi có bạn’” [习近 平, 2013a].

75

quan trọng, thúc đẩy hợp tác thực chất trên các lĩnh vực như kinh tế biển, văn hóa

biển, du lịch biển, chung tay xây dựng “đối tác phát triển biển” [新华网, 2015].

Như vậy, có thể thấy, dưới thời kỳ Tập Cận Bình, chính sách đối ngoại của Trung

Quốc đối với Indonesia đã trở nên rõ nét hơn, đóng vai trò quan trọng hơn trong

tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc.

3.1.3.2. Chính sách của Indonesia thời kỳ Jokowi

Chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc giai đoạn từ 2013 đến nay

đánh dấu sự chuyển biến trong chính sách đối ngoại Indonesia từ Tổng thống

Yudhoyono sang Tổng thống Jokowi (2013-nay). Chính sách đối ngoại của nước

này đối với Trung Quốc thời kỳ Tổng thống Jokowi hiện đang bởi phân hóa thành

những quan điểm chính như sau:

(i) Tổng thống Jokowi quan tâm đến lợi ích kinh tế với trọng tâm là việc cải

thiện cơ sở hạ tầng và kết nối hàng hải. Cơ sở vật chất yếu kém đang gây cản trở

cho phát triển kinh tế, bên cạnh đó, việc hoàn thành sớm các dự án cơ sở hạ tầng sẽ

giúp Tổng thống Jokowi củng cố niềm tin trong nhân dân, nhằm tăng cơ hội tái đắc

cử vào năm 2019. Đây có thể là một trong những lý do khiến Tổng thống Jokowi bỏ

qua tình cảm chống Trung Quốc của một bộ phận dân chúng, bỏ qua những hạn chế

trong đầu tư của Trung Quốc, quyết định trao một số dự án quan trọng cho Trung

Quốc, như dự án đường sắt cao tốc Jakarta – Bandung.

(ii) Bộ Ngoại giao ưu tiên hợp tác với Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ

của nước này trong khu vực ASEAN cũng như trên trường quốc tế. Do Trung Quốc

có vai trò quan trọng trong các tổ chức toàn cầu như Liên hiệp quốc, G20, cũng như

đối với các tổ chức khu vực như ASEAN… nên ưu tiên hàng đầu của Bộ Ngoại

giao Indonesia là đảm bảo tiếp tục tăng cường quan hệ với nước này.

(iii) Bộ Thủy sản và Hàng hải triển khai chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”

như một vấn đề bảo vệ tài nguyên biển, đặc biệt đề cao việc hạn chế các hoạt động

đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng lãnh thổ Indonesia. Bộ trưởng Bộ Hàng hải và

Ngư nghiệp Susi Pudjiastuti đã thực hiện chính sách “đánh chìm tàu” đối với các

76

tàu đánh cá nước ngoài đánh bắt bất hợp pháp tại vùng biển Indonesia.

(iv) Hải quân với mối quan tâm lớn nhất là việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ

đất nước, bao gồm lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế EEZ. Trong chiến lược “Trục

hàng hải toàn cầu” mà Tổng thống Jokowi đề ra có nội dung yêu cầu bảo vệ chủ

quyền Indonesia trên biển, và Hải quân Indonesia là cơ quan phụ trách vấn đề này.

Hải quân muốn dùng “Trục hàng hải toàn cầu” là phương tiện để nâng cao năng lực

hải quân. Việc coi Trung Quốc là mối đe dọa sẽ là cách để đảm bảo việc tăng ngân

sách cho Hải quân, từ đó tăng cường sức mạnh của lực lượng này, nhằm đối phó với

việc các nhóm ngư dân Trung Quốc đánh bắt trái phép và Cảnh sát biển Trung

Quốc hoạt động ngày càng nhiều trên Biển Đông.

(v) Quân đội Indonesia hiện coi Trung Quốc là mối đe dọa đối với chủ quyền

cũng như một số vấn đề an ninh của Indonesia. Một nhóm các tướng trong quân đội

Indonesia vẫn còn nghi ngờ về mối đe dọa của hệ tư tưởng cộng sản Trung Quốc tại

Indonesia. Ở trên biển, “đường chín đoạn” do Trung Quốc đưa ra chồng chéo với

vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia tại đảo Natuna, gây ra sự e ngại về tranh chấp

chủ quyền giữa nước này với Trung Quốc [Herlijanto, 2017, tr.7].

Tóm lại, trong nội bộ Chính phủ Indonesia hiện đang chia thành hai quan

điểm đối lập khi nhìn nhận Trung Quốc cũng như xem xét việc tăng cường quan hệ

với quốc gia này. Với các mối quan tâm, ưu tiên khác nhau, cũng như mâu thuẫn về

lợi ích giữa các nhóm nói trên, chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung

Quốc giai đoạn này đang thiếu sự nhất quán giữa các lĩnh vực hợp tác cụ thể.

3.2. Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia từ năm 2005

đến nay t n lĩn ực

Thực trạng chuyển biến trong quan hệ hai nước chủ yếu diễn ra trên ba lĩnh

vực lớn, bao gồm chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội.

3.2.1. Chuyển biến trong quan hệ chính trị - an ninh

Những chuyển biến về quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong lĩnh vực chính

trị - an ninh từ năm 2005 đến nay có thể chia làm hai giai đoạn phát triển, với dấu

mốc là khi hai nước nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vào năm

77

2013.

3.2.1.1. Giai đoạn năm 2005 – 2013

Trong lĩnh vực chính trị - an ninh, quan hệ giữa hai nước có tiến triển so với

giai đoạn trước, tuy rằng vẫn còn khiêm tốn. Quan hệ thân thiện giữa Indonesia với

Trung Quốc được cho là bắt đầu trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm

Đào và Tổng thống Susilo Yudhoyono. Về ngoại giao, hợp tác chủ yếu thể hiện qua

các chuyến thăm viếng ngoại giao và ký kết các văn kiện khuôn khổ. Trong đó, quan

trọng nhất là Tuyên bố chung về việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa

nước CHND Trung Hoa và nước CH Indonesia được ký kết vào tháng 4/2005, chỉ

một thời gian ngắn ngay sau khi Tổng thống Yudhoyono lên nắm quyền vào tháng

10/2004. Việc ký kết quan hệ đối tác chiến lược được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố từ cả

phía Trung Quốc lẫn Indonesia.

Về phía Trung Quốc, việc quốc gia này thúc đẩy quan hệ mới với các nước

khác từ những năm 1990 là nhằm thoát khỏi sự cô lập của các nước phương Tây và

xây dựng lại hình ảnh Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn. Trung Quốc đang cố

gắng sử dụng các phương pháp mới để thúc đẩy an ninh: đầu tiên, thúc đẩy các tương

tác thương mại, sau đó xây dựng các hình thức đối thoại linh hoạt và đa dạng, cuối

cùng, tìm kiếm một kết quả có lợi về an ninh khu vực [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.26-

27]. Đối với khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc vẫn giữ một số mục tiêu chiến lược:

(1) giảm ảnh hưởng của các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là Mỹ; (2) tạo vùng

đệm chiến lược thông qua các quốc gia thân thiện trong khu vực; (3) bảo vệ lãnh thổ

Trung Quốc ở Biển Đông [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.32]. Ngoài ra, khi Trung Quốc

vươn lên trở thành một quốc gia thương mại lớn với nhu cầu ngày càng tăng đối với

việc nhập khẩu dầu và khí đốt tự nhiên, và với phần lớn năng lượng nhập khẩu đi qua

eo biển Malacca, an ninh của các tuyến đường biển Đông Nam Á rất quan trọng đối

với an ninh của Trung Quốc. Trong khi đó, Indonesia là nền kinh tế lớn trong khu

vực Đông Nam Á, lại có tiếng nói và vai trò dẫn dắt trong khu vực, đồng thời sở hữu

vị trí chiến lược quan trọng khi kiểm soát được tuyến đường biển đi qua eo biển

Malacca, do đó, trở thành lựa chọn thích hợp để Trung Quốc tăng cường quan hệ hợp

78

tác.

Về phía Indonesia, việc ký kết quan hệ đối tác chiến lược được thúc đẩy bởi 3

yếu tố từ phía Indonesia: (i) Indonesia muốn đa dạng hóa sự phụ thuộc của mình đối

với các cường quốc, và Trung Quốc được coi là mục tiêu để cân bằng sự phụ thuộc

kinh tế của Indonesia vào Mỹ và Nhật Bản; (ii) mong muốn tăng cường các kênh liên

lạc và trao đổi, đảm bảo rằng xu hướng đi lên trong quan hê ngoại giao sẽ thúc đẩy

các kết nối về kinh tế và xã hội; (iii) nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu

vực bằng cách đưa Trung Quốc vào các thể chế và chuẩn mực do ASEAN lãnh đạo

[Priyandita, 2019, tr.10-12]. Việc Trung Quốc ký kết Tuyên bố về Bộ Quy tắc ứng xử

ở Biển Đông với các quốc gia thành viên ASEAN vào năm 2002 đã gửi tín hiệu tới

Jakarta rằng Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với ASEAN trong việc quản lý các xung đột trên biển.

Trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2013, việc Tổng thống Indonesia

Yudhoyono thăm Trung Quốc 5 lần cho thấy nỗ lực tích cực của Chính phủ Indonesia

trong việc tiến gần lại Trung Quốc, nhằm tận dụng lợi thế phát triển nhanh chóng của

kinh tế Trung Quốc. Trong khi đó, lãnh đạo cấp cao nhất phía Trung Quốc cũng đến

thăm Indonesia 2 lần (Chủ tịch Hồ Cẩm Đào năm 2005 và Thủ tướng Ôn Gia Bảo

năm 2011). Có thể thấy, trong giai đoạn này, “nghi thức ngoại giao” đã được cả hai

nước sử dụng để quản lý mối quan hệ bất đối xứng, trong đó, với tần suất các chuyến

thăm nhiều hơn của phía Indonesia, thể hiện sự tích cực của Chính phủ Yudhoyono

trong việc xây dựng nền tảng hợp tác song phương. Ngoài ra, để duy trì kênh hợp tác

chính trị, Trung Quốc và Indonesia đã khởi động cơ chế đối thoại cấp Phó Thủ tướng

vào tháng 7/2005 nhằm trao đổi những vấn đề cùng quan tâm như chính trị, an ninh,

nhằm xây dựng lòng tin chính trị, triển khai hợp tác và tham vấn về chính trị. Mặc dù

vậy, đến tháng 1/2010, hai nước mới bắt đầu cơ chế đối thoại cấp Phó Thủ tướng lần

thứ 2. Có thể thấy, dường như sau 5 năm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, hai

nước mới có đủ lòng tin chính trị và nhu cầu triển khai hợp tác để thúc đẩy cơ chế

ngoại giao nguyên thủ này.

Đáng chú ý, việc ký kết các văn kiện hợp tác giữa Trung Quốc và Indonessia

79

thường diễn ra trong những bối cảnh đặc thù, khi hai nước cần có sự hậu thuẫn nhiều

hơn từ đối phương. Ví dụ, Kế hoạch hành động (ký kết ngày 21/1/2010) bao gồm nội

dung cùng thúc đẩy xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (ACFTA),

cùng thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, diễn ra trong bối

cảnh, ngay sau khi ACFTA chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2010, thì ngày

5/1/2010, Bộ trưởng Thương mại Indonesia đưa ra đề nghị “đàm phán lại” để “hàng

hóa nhập khẩu rẻ không tràn vào làm lụt thị trường mà không bị ngăn chặn” [BBC,

2010]. Rõ ràng, Trung Quốc muốn thông qua lần ký kết này để giành được nhiều hơn

sự ủng hộ của Indonesia trong việc thúc đẩy xây dựng ACFTA, bởi Indonesia có vị

thế là quốc gia đứng đầu ASEAN. Hay như Thông cáo chung (ký kết ngày 29/4/2011)

diễn ra trong bối cảnh Indonesia giữ vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2011, đồng thời

vừa thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ vào tháng 11/2010. Điều này thể hiện

tính “cân bằng năng động” trong chính sách ngoại giao Indonesia, nhằm cân bằng ảnh

hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ. Đồng thời, Thông cáo chung năm 2011 cũng thể hiện

mong muốn của Trung Quốc thông qua Indonesia để đẩy mạnh hơn nữa hợp tác với

ASEAN. Việc ký kết các văn kiện chung các năm 2005, 2010, 2011, và các cơ chế

hợp tác song phương cho thấy trong mối quan hệ bất đối xứng này, Indonesia đang sử

dụng chính sách Ràng buộc – Can dự (Binding-Engagement) – một biện pháp trong

chính sách phòng ngừa rủi ro đã được nhắc tới trong Chương 2, nhằm thể chế hóa các

mối quan hệ của Indonesia với Trung Quốc bằng cách đưa mối quan hệ vào khuôn khổ

hoạt động ngoại giao được chính quy hóa.

Trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng, hợp tác giữa hai nước giai đoạn này

khá khiêm tốn. Từ năm 2005, giữa hai nước đã diễn ra một loạt các chuyến thăm cấp

cao của Bộ Quốc phòng và quân đội hai bên. Năm 2005, hai nước cũng đã ký kết

“Bản ghi nhớ về phát triển nghiên cứu và hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự”,

theo đó, Trung Quốc chính thức bán vũ khí cho Indonesia [Đàm Huy Hoàng, 2018,

tr.14]. Đặc biệt, tháng 11/2007, hai bên đã ký Bản ghi nhớ về Hợp tác quốc phòng

nhằm thúc đẩy thành lập diễn đàn tham vấn quốc phòng và hợp tác quân sự song

phương [林立平, 2007]. Hợp tác giữa hai Bộ Quốc phòng sẽ mang lại nhiều lợi ích

80

cho cả hai quốc gia, đặc biệt trong việc thiết lập ổn định trong khu vực và bảo vệ Eo

biển Malacca, đồng thời giúp đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng từ và đến Trung

Đông cũng như việc vận chuyển hàng hóa từ các nước công nghiệp đến châu Á và

châu Âu. Tuy nhiên, phải đến năm 2010, hai bên mới thông qua Kế hoạch hành động

để triển khai hợp tác quốc phòng theo thỏa thuận đối tác chiến lược. Giai đoạn này có

rất ít hợp tác về quốc phòng và an ninh giữa Trung Quốc và Indonesia được triển khai

trên thực tế: “Bắc Kinh dường như miễn cưỡng đầu tư vào ngành công nghiệp quốc

phòng của Indonesia”, “trao đổi quân sự Trung Quốc – Indonesia cũng hạn chế” [Storey, 2009, tr.7-8].

Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu do Indonesia vẫn muốn gia tăng

quan hệ quốc phòng an ninh với phương Tây mà đứng đầu là Mỹ. Indonesia nhận

thấy rằng sự cân bằng quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ là một yếu tố quan trọng

trong việc duy trì hòa bình và ổn định an ninh trong khu vực. Hội nghị thượng

đỉnh Đông Á (EAS) tại Bali (tháng 11/2011) là một ví dụ cụ thể. Dưới sự dẫn dắt

của Indonesia với tư cách là chủ tịch ASEAN năm 2011, các nước có tư cách

thành viên EAS đã không còn giới hạn trong ASEAN + 3 (bao gồm ASEAN và

Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) như ban đầu Malaysia khởi xướng, mà còn bao

gồm Mỹ, Nga, New Zealand và Ấn Độ. Với việc mở rộng phạm vi các nước thành

viên EAS, Indonesia đã tìm cách đưa ASEAN trở thành trung tâm quyết định

hướng đi của kiến trúc chính trị trong an ninh trong khu vực, chứ không phải Mỹ

hay Trung Quốc [Wuryandari, 2018, tr.87]. Có thể thấy, trong khía cạnh này,

Indonesia đã sử dụng biện pháp Từ chối sự thống trị (Dominance-Denial) thông

qua tăng cường sức mạnh ngoại giao tập thể. Ngoài ra, cũng trong năm 2011,

Indonesia đã đưa ra sáng kiến giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua các diễn

đàn đa phương thay vì các thỏa thuận song phương như Trung Quốc và các bên

yêu sách khác sử dụng trước đây. Sáng kiến này cũng đã thể hiện rõ vai trò của

cường quốc tầm trung Indonesia.

Như nhận thấy được băn khoăn của Indonesia giữa việc lựa chọn hợp tác giữa

hai cường quốc, Trung Quốc đã có những động thái thể hiện những “thế mạnh” của

81

mình trong quan hệ với Indonesia. Ngay trước chuyến thăm của Obama đến

Indonesia vào tháng 11/2010, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Ngô Bang Quốc đã tới

thăm Jakarta và ký một thỏa thuận đầu tư vào cơ sở hạ tầng trị giá 6,6 triệu USD.

Điều này như truyền tải thông điệp rằng: quan hệ song phương với Trung Quốc khiến

Indonesia có lợi nhuận kinh tế cao hơn so với quan hệ với Mỹ - một siêu cường thế

giới [Brown, 2011, tr.3].

Trong vấn đề Biển Đông, Indonesia tuyên bố không có tranh chấp với Trung

Quốc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ khu vực biển này. Tuy nhiên, Indonesia có lợi ích

trực tiếp trong việc đảm bảo an ninh hàng hải đi qua khu vực Biển Đông. Bên cạnh

đó, yêu sách chủ quyền theo “đường chín đoạn” của Trung Quốc đã chồng lấn một

phần lên vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia. Có thể khái quát chính sách

Biển Đông của Indonesia dưới thời kỳ Tổng thống Yudhoyono là: (i) không có yêu sách; (ii) trung gian hòa giải; (iii) xây dựng lòng tin [Laksmana, 2018b, tr.153].

Indonesia không phải là một bên yêu sách trong các tranh chấp chủ quyền trên biển.

Các chính sách này không phải là kết quả của tầm nhìn Yudhoyono, mà bắt nguồn từ

bối cảnh lịch sử và cách tiếp cận tổng thể của Indonesia đối với vấn đề Biển Đông kể

từ những năm 1990. Học giả người Indonesia Evan A. Laksmana (2018) cho rằng có

4 nhân tố định hình chính sách Biển Đông của Indonesia dưới thời Tổng thống

Yudhoyono, bao gồm: (1) chủ quyền và tài nguyên thiên nhiên; (2) quân sự và an

ninh; (3) quan hệ song phương Indonesia – Trung Quốc; (4) tính trung tâm và sự gắn

kết của ASEAN [Laksmana, 2018b, tr.153-154]. Về mặt đa phương, bất kỳ giải pháp

khu vực nào trong tương lai về các tranh chấp trong vấn đề Biển Đông cũng sẽ đều

được xuất phát từ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được ký kết

giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002. Đây là kết quả của sáng kiến được coi là

thành công nhất của Indonesia trong việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Trung

Quốc với các nước ASEAN [Laksmana, 2018b, tr.168]. Về mặt đơn phương, việc

Trung Quốc không cố gắng thách thức quyền lợi của Indonesia tại quần đảo Natuna

cho thấy thành công nhất định của Indonesia trong việc quản lý vấn đề Biển Đông.

Nếu như cách tiếp cận đa phương đã tạo sự chủ động về mặt ngoại giao cho

82

Indonesia, thì cách tiếp cận đơn phương lại mang tính phòng ngừa cao hơn. Chiến

lược tiếp cận song song này của Indonesia là sự tiếp nối cho các chính sách đối ngoại

của Indonesia từ những năm 1990, và được đánh giá là hoàn hảo với cách tiếp cận

không xung đột trong giải quyết vấn đề và với mong muốn đạt được sự công nhận

quốc tế của Tổng thống Yudhoyono [Fitriani, 2015, tr.77]. Trong vấn đề Biển Đông,

có thể thấy rõ Indonesia đã thể hiện rõ vai trò của cường quốc tầm trung, thông qua

vai trò điều phối – hỗ trợ các nước ASEAN trong việc quản lý và giải quyết tranh

chấp trên biển, và vai trò quản lý những bất đồng trong việc phân định chủ quyền

giữa Trung Quốc và Indonesia. Để quản lý mối quan hệ bất đối xứng trong lĩnh vực

này, Indonesia đã tạo ra vùng trung lập, bằng các diễn ngôn chính trị, luôn tuyên bố

“không có tranh chấp” với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ tại khu

vực biển này.

Trước các yêu sách lãnh thổ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc tại Biển

Đông, một số nước Đông Nam Á cũng như Đông Bắc Á đã tăng cường liên minh với

Mỹ, còn Indonesia đã chọn không đứng về bên nào. Chính sách đối ngoại Indonesia

dưới thời kỳ Yudhoyono đã khiến Indonesia trở nên quan trọng hơn trên trường quốc

tế. Thông qua chiến lược “phòng ngừa rủi ro/ phòng bị nước đôi” (hedging),

Indonesia đã góp phần chủ động định hình cấu trúc địa kinh tế và địa chính trị của

khu vực, bằng cách giữ khoảng cách cân bằng giữa các cường quốc [Laksmana, 2018b, tr.165]. Indonesia đã tìm cách xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và quan

hệ an ninh với các cường quốc khác trong khu vực, bao gồm: Australia, Mỹ, Ấn Độ,

Nga và Nhật Bản. Trong giai đoạn 1999-2014, Indonesia đã ký 86 thỏa thuận song

phương về an ninh – quốc phòng và quan hệ đối tác với 31 quốc gia [Laksmana,

2015, tr.37]. Indonesia cũng đã tiến hành 88 hoạt động ngoại giao quốc phòng từ

năm 2003 đến 2008, chủ yếu nhằm xây dựng lòng tin, tăng cường năng lực quốc

phòng và phát triển công nghiệp quốc phòng [Laksmana, 2018b, tr.165]. Những

mối quan hệ đối tác này cho thấy định hướng của Indonesia trong việc xây dựng

một mạng lưới quan hệ đối tác mạnh mẽ, đồng thời tăng cường năng lực của chính

83

mình, nhằm đối phó với những xung đột có thể có trong tương lai xung quanh vùng

biển Natuna. Đây cũng là biểu hiện của biện pháp Cân bằng gián tiếp (Indirect-

Balancing) mà Indonesia sử dụng trong chiến lược “phòng ngừa rủi ro” của mình.

3.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay

Quan hệ chính trị giữa hai nước có xu hướng được tăng cường, củng cố hơn từ

năm 2013 đến nay. Trung Quốc và Indonesia đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược từ

năm 2005, tuy nhiên, mối quan hệ này được nhận xét là “im lìm” đến tận năm 2010, khi

hai nước ký kết Kế hoạch hành động, và Thông cáo chung vào năm 2011. Đến năm 2013,

hai nước đã quyết định tăng thêm động lực cho mối quan hệ bằng cách nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược lên thành đối tác chiến lược toàn diện. Thông qua ký kết quan hệ đối

tác chiến lược toàn diện, Trung Quốc hi vọng xây dựng được bầu không khí chính trị

tốt đẹp với quốc gia lớn nhất Đông Nam Á, thông qua các trao đổi về thương mại,

làm giảm bớt sự quan tâm của các nước đối với các vấn đề trên biển. Còn Indonesia

hy vọng sẽ tạo ra mức độ tin cậy ở Bắc Kinh rằng, mặc dù căng thẳng đang leo thang

tại Biển Đông, Indonesia vẫn không bị ảnh hưởng trong việc phát triển hợp tác kinh

tế, ngoại giao và xã hội với Trung Quốc [Priyandita, 2019, tr.17]. Đồng thời, Indonesia

vẫn cam kết duy trì trật tự khu vực đa nguyên trên nền tảng cân bằng ảnh hưởng giữa các cường quốc tại ASEAN.

Tổng thống Indonesia đương nhiệm là Jokowi cũng chọn Trung Quốc là điểm

đến trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi nhậm chức (tháng 11/2014),

khác với truyền thống đến thăm các nước ASEAN đầu tiên sau khi nhậm chức của

các Tổng thống Indonesia tiền nhiệm. Điều này cho thấy sự trọng thị cũng như mong

muốn mạnh mẽ trong việc hợp tác với Trung Quốc của Tổng thống Jokowi. Ngay

sau đó ngày 27/11/2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính Indonesia đã ký kết Bản ghi nhớ để

thành lập Ngân hàng AIIB, Indonesia chính thức trở thành nước thứ 22 tham gia

Ngân hàng này [New York Times, 2014]. Điều này đánh dấu sự ủng hộ và tham gia

bước đầu của Indonesia vào việc cùng xây dựng “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ

21” do Trung Quốc đề xướng.

Tháng 4/2015, trong chuyến thăm Indonesia của Chủ tịch Tập Cận Bình, hai

84

nước đã ký kết Tuyên bố chung về việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn

diện. Lần ký kết này diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đang đẩy mạnh thực hiện

BRI, Indonesia đang thúc đẩy Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”, đồng thời, Cộng

đồng Kinh tế ASEAN cũng sẽ được thành lập vào cuối năm 2015. Có thể thấy việc

xích lại gần nhau hơn nữa giữa Trung Quốc và Indonesia hoàn toàn phù hợp với nhu

cầu tự thân mỗi nước và với bối cảnh các nước trong khu vực đang muốn xây dựng

mô hình “hợp tác cùng thắng”. Việc ký kết với Trung Quốc nhiều dự án đầu tư cơ sở

hạ tầng cho thấy sự thay đổi trọng tâm ngoại giao khi Indonesia “trải thảm đỏ” cho

đầu tư của Trung Quốc, đáng chú ý là việc lựa chọn các nhà đầu tư Trung Quốc để

xây dựng đường sắt cao tốc Jakarta –Bandung, thay vì các nhà đầu tư Nhật Bản

[Kyodo, 2015]. Sở dĩ có sự thay đổi trọng tâm ngoại giao như trên, là do Indonesia

và Trung Quốc có nhiều điểm bổ sung cho nhau trong chiến lược phát triển của mỗi

nước, cụ thể, “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” của Trung Quốc và Chiến lược

“Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia có nhiều điểm tương đồng về không gian,

thời gian, cách thức triển khai chiến lược, trong khi Trung Quốc cần đưa các dự án

xây dựng cơ sở hạ tầng và nhân công “đi ra ngoài”, thì Indonesia cần kêu gọi các

nước “vào đầu tư” để hỗ trợ Chính phủ cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu

kém của Indonesia.

Giống như điều Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã khẳng định khi

tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia đến thăm Trung Quốc (tháng 2/2018): Trung

Quốc muốn quan hệ chặt chẽ với Indonesia để kết nối tốt hơn BRI với chiến lược

phát triển của các quốc gia Đông Nam Á. Indonesia cũng khẳng định, Trung Quốc

đóng vai trò đối tác quan trọng đối với Indonesia, và hợp tác về kinh tế có lợi cho cả

hai bên [Xinhua, 2018]. Chuyến thăm Trung Quốc của Bộ trưởng ngoại giao

Indonesia Retro diễn ra sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là James Mattis đến thăm

Jakarta – chuyến thăm được coi là một nỗ lực để củng cố quan hệ quốc phòng giữa

Mỹ và Indonesia để chống lại sự hiện diện và ảnh hưởng quân sự ngày càng tăng của

Trung Quốc trong khu vực [Noi, 2018]. Sau đó, tháng 5/2018, trong bối cảnh căng

thẳng thương mại Trung – Mỹ bị thổi bùng lên từ tháng 4, Thủ tướng Trung Quốc Lý

85

Khắc Cường đến thăm Indonesia và ký kết Tuyên bố chung về việc tăng cường quan

hệ thương mại song phương, cam kết “kết nối và giúp đỡ về chiến lược trong các vấn

đề nóng của khu vực và các vấn đề mang tính toàn cầu” [新华网, 2018b].

Có thể thấy, trong bối cảnh mới, Mỹ vẫn là nhân tố quan trọng, có nhiều tác

động trực tiếp đến diễn biến quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Các chuyến thăm cấp

cao giữa Trung Quốc và Indonesia, giữa Mỹ và Indonesia không chỉ thể hiện cạnh

tranh chiến lược Trung – Mỹ diễn ra khá gay gắt tại Indonesia, đồng thời, còn cho

thấy chính sách “phòng ngừa rủi ro” được Indonesia áp dụng xuyên suốt quá trình

quan hệ với hai cường quốc này. Tần suất và bối cảnh các chuyến thăm của lãnh đạo

cao nhất của chính phủ hai nước Trung Quốc và Indonesia cho thấy, hai bên đang

nỗ lực đẩy mạnh những tiến triển trong quan hệ hai nước thông qua các cuộc gặp

cấp cao. Các nhà lãnh đạo khóa mới của hai nước đều đánh giá cao việc tăng cường

hợp tác song phương nhằm hỗ trợ thực hiện các chiến lược quốc gia của riêng mình,

cũng như cùng giải quyết, đối mặt với những vấn đề chung của thế giới và khu vực.

Trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng

Trong giai đoạn mới, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đã duy

trì đà phát triển, việc hợp tác quốc phòng hai nước được sự đồng thuận từ phía các lãnh

đạo hai bên nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Bộ trưởng Quốc

phòng Indonesia Mitchowo Subianto đã có chuyến thăm làm việc tại Bắc Kinh, Trung

Quốc trong thời gian từ 17-19/12/2019. Mặc dù Trung Quốc được coi là đối tác trong

việc hiện đại hoá hệ thống vũ khí của Indonesia, nhưng đây là chuyến thăm cấp cao

đầu tiên tới Trung Quốc của Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia nhằm thảo luận về

những nỗ lực tăng cường hơn nữa trong hợp tác quốc phòng của hai nước. Cũng trong

chuyến thăm này, ông Mitchowo Subianto đã hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng

Trung Quốc Nguỵ Phượng Hoà tại Bắc Kinh vào ngày 16/12/2019. Hai bộ trưởng

Quốc phòng cho rằng: “Trung Quốc và Indonesia (...) có triển vọng hợp tác quốc

phòng rộng mở. Quân đội Trung Quốc sẽ cùng với quân đội Indonesia thực hiện nhận

thức chung của nguyên thủ hai nước, tăng cường trao đổi cấp cao, làm sâu sắc hoá lòng

tin chiến lược, hiệp tác đa phương mật thiết, tiếp tục tăng cường tập trận chung, gia lưu

86

hợp tác trong việc bồi dưỡng huấn luyện nhân viên quốc phòng, cùng nhau có những

cống hiến trong việc duy trì hoà bình ổn định khu vực”; “Indonesia coi trọng phát triển

quan hệ với Trung Quốc, muốn tăng cường hợp tác thực chất trên các lĩnh vực với

Trung Quốc, trong đó có lĩnh vực an ninh – quốc phòng, không ngừng thúc đẩy quan

hệ quân sự hai nước ngày càng phát triển” [新华网, 2019c].

Trong lĩnh vực an ninh, từ sau khi Trung Quốc và Indonesia nâng cấp quan hệ

lên thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, vấn đề biển Đông vẫn là nút

thắt trong quan hệ hai nước. Trong giai đoạn mới, Trung Quốc và Indonesia đang có

những thay đổi trong cách tiếp cận những tranh chấp trên biển.

Về phía Trung Quốc, đầu tiên, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, vị

thế quốc tế và sự tự tin dân tộc của Trung Quốc cũng tăng lên đáng kể, đồng thời,

điều này cũng gây ra áp lực đối với chính phủ Trung Quốc trong việc bảo vệ các giá

trị mà nước này cho là cốt lõi. Trong vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, Trung Quốc

tin rằng, nếu không áp dụng các biện pháp cưỡng chế, nước này sẽ bị các quốc gia

khác, cũng như người dân của chính nước mình coi là yếu kém. Mối quan tâm này

đặc biệt trở nên gay gắt khi hành động của các bên tranh chấp trên Biển Đông, như

Việt Nam (năm 2011) và Philippines (năm 2012) được các phương tiện truyền thông

quốc tế coi trọng. Điều này làm tăng áp lực đối với Trung Quốc, khiến nước này lựa

chọn sử dụng biện pháp cứng rắn, nhằm thể hiện quyết tâm của mình [Zhang, 2020].

Thứ hai, quan sát hành động của Trung Quốc trong tranh chấp tại Biển Đông,

có thể thấy cách thức chung của nước này là: từng bước “biến giả thành thật” nhằm

hiện thực hóa “đường chín đoạn”, một mặt coi mục tiêu cốt lõi là kiểm soát thực tế

trên biển đông, một mặt đưa ra một loạt các tuyên bố về mặt ngoại giao mang tính

hình thức. Hàng loạt vụ tranh chấp đã diễn ra giữa Trung Quốc với một số nước

Đông Nam Á, như với Philippines xung quanh bãi Scarborough/Hoàng Nham (năm

2012), với Việt Nam xung quanh sự kiện giàn khoan HD-981 (năm 2014) và sự kiện

3 lần đưa tàu khảo sát Địa chất Hải Dương số 8 và các tàu Hải cảnh xâm phạm vùng

đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam (từ đầu tháng 7/2019), và các

hành động xâm phạm trái phép thềm lục địa của Philippines và Malaysia… Tất cả các

87

sự kiện này cho thấy, việc hiện thực hóa cơ sở pháp lý của “đường chín đoạn” bằng

việc tạo ra các tranh chấp tại các vùng biển nằm trong phạm vi đường lưỡi bò, thậm

chí là vùng EEZ của các nước khác đã được Trung Quốc tính toán từ lâu, và được

thực hiện bài bản, nhằm giành quyền kiểm soát thực tế trên Biển Đông [多维新闻网,

2020a].

Thứ ba, Trung Quốc muốn thông qua các tranh chấp để thăm dò phản ứng,

nhằm nhận diện “giới hạn đỏ” của Indonesia đối với Trung Quốc trong bối cảnh sự

hiện diện kinh tế của Bắc Kinh tại Jakarta ngày càng tăng. Trung Quốc muốn “đo

lường” mức độ chấp nhận của Indonesia trong việc “ủng hộ chính trị để đổi lấy lợi

ích về kinh tế”. Thứ tư, Trung Quốc cũng muốn thông qua các tranh chấp trên Biển

Đông để thử phản ứng của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ đối với vấn đề Biển Đông.

Việc “tạo ra tranh chấp”, quan sát phản ứng của Mỹ sẽ giúp Trung Quốc phán đoán

được mức độ quan tâm cũng như mức độ can thiệp của cường quốc này đối với vấn

đề Biển Đông, trên cơ sở đó, phán đoán khó khăn và thuận lợi để triển khai các hành

động tiếp theo trên Biển Đông với mức độ và tiến độ phù hợp, nhằm đạt lợi ích tối đa

cho Trung Quốc tại khu vực này.

Về phía Indonesia, Chính phủ Jokowi ngày càng thể hiện quan điểm cứng rắn

của mình trong các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, như vấn đề Biển Đông hay

chính sách đánh chìm các tàu cá nước ngoài hoạt động bất hợp pháp trên vùng biển

của Indonesia. Tháng 5/2015, lần đầu tiên Indonesia đã phá hủy một tàu cá Trung

Quốc sau 6 năm bắt giữ [Today Online, 2015]. Trong năm 2016, giữa Indonesia và

Trung Quốc đã xảy ra 3 lần va chạm trong vùng EEZ 200 hải lý ngoài khơi quần đảo

Natuna. Bộ trưởng ngoại giao Retno Marsudi cho biết: Indonesia muốn duy trì quan

hệ tốt với Trung Quốc nhưng sẽ không đàm phán về các vi phạm chủ quyền và quyền

tài phán của Indonesia đối với vùng EEZ và thềm lục địa [Dewi, 2016]. Đáng chú ý,

Trung Quốc đã không phản ứng mạnh mẽ trước những sự kiện này như cách đã làm

trong các sự cố tương tự liên quan đến Nhật Bản hay Philippines. Có thể thấy, cả hai

nước dường như có thể quản lý được quan hệ bất đối xứng, ngăn chặn các sự cố đó

88

ảnh hưởng đến các mối quan hệ kinh tế, dù cho có sự lo ngại về tính quyết đoán ngày

càng tăng của Trung Quốc, tuy nhiên, không đến mức khiến quan hệ bị đóng băng

[Hughes, 2018, tr.4] .

Một sự kiện quan trọng trong quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Trung

Quốc và Indonesia là việc Indonesia đã đặt lại tên biển, tăng cường hợp tác trên

biển với các nước khác. Tháng 7/2017, Indonesia công bố bản đồ, trong đó đặt

tên mới vùng biển gần quần đảo Natuna là “Biển Bắc Natuna”. Với việc đặt lại

tên một phần vùng biển tranh chấp, Indonesia đã “gián tiếp trở thành một bên có

tuyên bố chủ quyền ở khu vực này, nguyên nhân là vì tính toàn vẹn lãnh thổ”

[Cochrane, 2017]. Thái độ cứng rắn hơn của Indonesia đối với Trung Quốc trong

vấn đề biển Đông cũng có thể giải thích bằng việc Indonesia nhận được nhiều sự

hậu thuẫn hơn từ Mỹ sau khi ký kết hiệp định tăng cường đối tác chiến lược vào

cuối năm 2015 [Usindo, 2015]. Không chỉ vậy, tháng 3/2019, trong hội nghị

thượng đỉnh Australia-Asean ở Sydney, Jokowi thậm chí còn kêu gọi tuần tra

chung ở Biển Đông trong bối cảnh mối lo ngại ngày càng tăng đối với việc

Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các đảo vẫn còn đang là tranh chấp trong khu

vực. Tuy nhiên, đúng với truyền thống chính sách đối ngoại không liên kết của

mình, Jakarta đang trốn tránh bất kỳ liên minh khu vực nào chống lại Bắc Kinh

một cách rõ ràng, do Indonesia coi Trung Quốc là “một bên liên quan quan trọng

trong việc tạo ra một trật tự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ổn định và thịnh

vượng” [Heydarian, 2018]. Hội nghị đầu tiên giữa các cơ quan chấp pháp trên

biển của Trung Quốc và Indonesia được tổ chức tại Bắc Kinh ngày 22/3/2018 đã

thống nhất hai bên sẽ tăng cường đi sâu trao đổi ý kiến hợp tác thực chất về chấp

pháp trên biển [新华社, 2018a]. Sự kiện này cho thấy hai nước đang tìm cách

giải quyết những mâu thuẫn trên biển bằng cách tạo ra vùng trung lập, chuyển

các vấn đề tranh cãi thành chức năng công tác của các nhóm chuyên trách (để trở

thành vấn đề thường xuyên) – một trong những biện pháp quản lý mối quan hệ

bất đối xứng thường gặp.

Tuy nhiên, căng thẳng giữa Jakarta và Bắc Kinh đã leo thang sau sự kiện

89

Trung Quốc cho tàu cảnh sát biển, tài hải giám và tàu cá của họ vào hoạt động trong

một vùng biển ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia cuối tháng 12/2019. Từ

ngày 19-24/12/2019, Cục an toàn hàng hải Indonesia (Bakamla) cho biết có ít nhất

63 tàu cá của Trung Quốc đã thâm nhập bất hợp pháp vào khu vực biển Natuna,

trong đó có hàng chục tàu tuần duyên của Trung Quốc hộ tống tàu cá [The Jakarta

Post, 2019]. Trước việc Trung Quốc xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của

quần đảo Natuna của Indonesia, nước này đã thể hiện một loạt phản ứng bao gồm:

(i) Cứng rắn về mặt ngoại giao: triệu đại sứ Trung Quốc, gửi phản đối ngoại

giao với Bắc Kinh ngày 30/12/2019 đối với các báo cáo vi phạm lãnh thổ của các

tàu Cảnh sát biển và 63 tàu cá Trung Quốc ở vùng EEZ của Indonesia; khẳng định

yêu sách chủ quyền của Trung Quốc là “không có cơ sở pháp lý” [Reuters, 2020a],

Indonesia không có yêu sách chồng chéo với Trung Quốc và Indonesia sẽ không

bao giờ công nhận yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc, vốn không phù

hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) cũng như phán

quyết của toà án quốc tế năm 2016;

(ii) Vạch ra “ranh giới đỏ” trong việc sử dụng các lực lượng vũ trang nhằm

bảo vệ chủ quyền: lực lượng hải quân và không quân Indonesia đã được điều động

để bảo vệ chủ quyền quốc gia, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc đã bị tàu của Hải

quân Indonesia đuổi ra khỏi vùng biển Indonesia. Ngoài ra, ngày 7/1/2020, 04 máy

bay chiến đấu F-16 đã thực hiện các chuyến bay tuần tra thường xuyên trên quần

đảo Natuna để bảo vệ khu vực có chủ quyền [Reuters, 2020b]. Ngày 11/1/2020,

theo thông tin từ phía Indonesia, nước này vẫn có 3 tàu hải quân tại khu vực biển

xảy ra tranh chấp và phát hiện 6 tàu cảnh sát biển, 1 tàu hải giám và 48 tàu đánh cá

của Trung Quốc [多维新闻网, 2020b];

(iii) Đích thân Tổng thống Jokowi - người đứng đầu đất nước đến khu vực

căng thẳng, điều này có ý nghĩa biểu tượng quan trọng trong việc khẳng định chủ

quyền quốc gia. Ngày 08/01/2020, đích thân Tổng thống Joko Widodo đã đi tàu

đến thăm một hòn đảo trong vùng biển bị Trung Quốc tranh chấp để khẳng định

chủ quyền của Indonesia. Trước đó, ngày 06/01/2020, ông Jokowi mạnh mẽ tuyên

90

bố rằng, đối với vấn đề chủ quyền không có chỗ cho việc mặc cả với Trung Quốc,

“nước ngoài nếu không có sự đồng ý của chính phủ chúng tôi không thể giẫm lên

lãnh thổ nước tôi, một chút cũng không được”; Indonesia có chủ quyền “không thể

đàm phán” đối với khu vực biển quần đảo Natuna [多维新闻网, 2020b];

(iv) Kêu gọi sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ chủ quyền:

Tổng thống Indonesia cũng huy động sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, nhất là các

quốc gia như Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc. Cụ thể, ngày 10/01/2020, nhân dịp ngoại

trưởng Nhật Bản Toshimitsu Motegi ghé thăm Jakarta, tổng thống Indonesia Joko

Widodo đã yêu cầu Nhật Bản đẩy mạnh đầu tư vào ngành thủy sản và năng lượng

tại vùng quần đảo Natuna, nơi vừa có căng thẳng với Trung Quốc, ông Jokowi nhấn

mạnh rằng: “tôi muốn mời Nhật Bản đầu tư vào Natuna” [Reuters, 2020c]. Bên

cạnh đó, hai bên cũng đồng ý tăng cường phối hợp trong lãnh vực tuần duyên. Đồng

thời, Bộ trưởng Indonesia Retno cũng yêu cầu Nhật Bản hợp tác để phát triển các

hòn đảo bên ngoài Indonesia, bao gồm quần đảo Natuna [Minister for Foreign

Affairs of Japan, 2020]. Ngoài ra, Mỹ và Hàn Quốc đều muốn đầu tư vào quần đảo

Natuna, vào lúc tổng thống Joko Widodo gia tăng nỗ lực bác bỏ các yêu sách của

Trung Quốc đối với vùng biển giầu nguồn tài nguyên ở Biển Đông. Theo Bộ trưởng

Điều phối các vấn đề Hàng hải và Đầu tư Luhut Pandjaitan: “các nhà đầu tư Mỹ đã

bày tỏ sự quan tâm của họ, cùng với các nhà đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc và

Trung Quốc” [Aditya, Suhartono, 2020].

Có hai yếu tố đã thúc đẩy chính sách hàng hải ngày càng chủ động và cứng

rắn của Indonesia trong giai đoạn từ 2013-nay. Đầu tiên, đối với Jokowi, mối quan

tâm hàng đầu là sự phát triển, cụ thể là bảo vệ sinh kế của cộng đồng ngư dân

Indonesia bao gồm khoảng 2,4 triệu người. Trước tình hình đánh bắt cá bất hợp

pháp của các tàu cá nước ngoài đã khiến Indonesia thiệt hại ít nhất 1 tỷ USD mỗi

năm, Chính phủ Jokowi đã bổ nhiệm bà Susi Pudjiastuti là Bộ trưởng Bộ Hàng hải

và Thủy sản, người đã áp dụng chính sách cho đánh chìm các tàu đánh cá nước

ngoài bất hợp pháp tại ngư trường truyền thống của Indonesia. Với chính sách

cứng rắn này, trữ lượng cá của Indonesia đã tăng gấp đôi, đồng thời, hầu hết

91

10.000 tàu đánh ca bất hợp pháp của nước ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc và Việt

Nam đã biến mất [Heydarian, 2018]. Tiếp đến, Indonesia lo ngại về việc “đường

chín đoạn” trong yêu sách của Trung Quốc chồng lấn một phần lên vùng biển giàu

năng lượng của quần đảo Natuna. Những năm gần đây, Indonesia đã tăng cường

sự hiện diện quân sự tại Quần đảo Riao trong khu vực, và nhanh chóng tăng ngân

sách quốc phòng, với trọng tâm ngày càng tăng trong việc xây dựng hải quân tiên

tiến và củng cố không quân. Trong năm 2014, Indonesia đã tăng chi tiêu quốc phòng lên mức 14% [Heydarian, 2018]. Đặt trong bối cảnh chính quyền Indonesia

luôn nhạy cảm trước vấn đề chủ quyền cũng như mối lo ngại ngày càng tăng của

Indonesia về yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc trên Biển Đông, chính

sách đánh chìm tàu và việc tăng cường chi tiêu quốc phòng, cũng như phản ứng

gay gắt của Indonesia trước sự gây hấn của Trung Quốc vào tháng 12/2019 cho

thấy, Jakarta sẽ không nhân nhượng nếu quá trình bành trướng của Trung Quốc

gây hại đến quyền lợi của nước này.

Từ những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung

Quốc thời kỳ Tổng thống Jokowi, có thể thấy mối quan hệ giữa Trung Quốc và

Indonesia rất phức tạp, và sẽ vẫn tiếp diễn như vậy trong thời gian tới [Dewi,

2016]. Chính quyền Tổng thống Jokowi đang đấu tranh để khẳng định mình là

một quốc gia hàng hải, họ đã làm được điều đó bằng cách đặt lại tên biển Natuna,

và thổi bay các tàu đánh cá bất hợp pháp của nước ngoài trong vùng biển truyền

thống của mình, điều khiến Bộ Ngoại giao Trung Quốc phải lên tiếng phản đối.

Tuy nhiên, Indonesia vẫn cần Trung Quốc với vai trò một đối tác thương mại và

nguồn đầu tư lớn. Cả hai vấn đề này sẽ vẫn còn tồn tại trong quan hệ hai nước

mà không dễ gì biến mất.

3.2.2. Chuyển biến trong quan hệ kinh tế

Tương tự lĩnh vực chính trị - an ninh, những chuyển biến trong quan hệ kinh

tế giữa Trung Quốc và Indonesia có thể chia làm hai giai đoạn phát triển, với dấu

mốc là năm 2013, khi hai nước nâng cấp quan hệ, cũng là năm Trung Quốc chính

thức đưa ra Sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” tại Quốc hội

92

Indonesia vào tháng 10/2013.

3.2.2.1. Giai đoạn năm 2005 – 2013

Sau khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005, kim

ngạch thương mại giữa hai nước cũng như đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia

không ngừng tăng mạnh, hợp tác năng lượng có nhiều điểm nhấn do hai nước có tính

bổ sung cho nhau; tuy nhiên cán cân thương mại còn bất hợp lý, tỷ lệ thực hiện các

dự án đầu tư còn thấp. Đến năm 2013, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu

lớn thứ hai của Indonesia, và là nguồn nhập khẩu lớn nhất của nước này. Kim ngạch

thương mại Trung Quốc - Indonesia đạt hơn 68 tỷ USD năm 2013, tăng gấp 4 lần so với năm 2005 (hơn 16,7 tỷ USD) [Nargiza, Iaco, 2015, tr.17-20] (Xem Hình 3.1).

Từ năm 2007, cán cân thương mại giữa hai nước đã chuyển từ việc Indonesia có thặng dư

trở thành thâm hụt thương mại với Trung Quốc, đặc biệt, mức thâm hụt này có xu hướng

ngày càng tăng. Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là máy móc

thiết bị, đồ gia dụng, hàng may mặc; trong khi Indonesia xuất khẩu sang Trung

Quốc chủ yếu là nguyên liệu như dầu khí và khí thiên nhiên, than đá, khoáng sản,

dầu cọ… Nếu kết cấu hàng hóa giữa Trung Quốc và Indonesia không có sự điều

chỉnh nhất định, chắc chắn tình trạng thâm hụt thương mại của Indonesia sẽ không

được cải thiện, đây sẽ là nút thắt khó cần được tháo gỡ để giúp quan hệ kinh tế

thương mại hai nước phát triển lành mạnh.

(http://www.mofcom.gov.cn) từ năm 2005 đến 2013;

năm 2013: http://cn.chinagate.cn/news/2014-08/13/content_33225825.htm, ngày 13/8/2014;

93

Nguồn số liệu: Tác giả tổng hợp số liệu từ trang web của Bộ Thương mại Trung Quốc

năm 2012: http://images.mofcom.gov.cn/www/201304/20130418103919707.pdf, ngày 18/4/2013;

năm 2011: http://yzs.mofcom.gov.cn/article/t/201302/20130200027455.shtml, ngày 16/2/2013;

năm 2010: http://template1.mofcom.gov.cn/article/bv/ae/201110/20111007781843.shtml;

năm 2009: https://it.szu.edu.cn/local/D/7B/74/DDEBEB8CB8661F587E435CA7502F4F2197D297

D9AA.pdf;

năm 2008: 《2008 年印尼中贸易 315 亿美元》, 《千岛日报》(印尼) ngày 3/7/2009, dẫn lại 吴

崇伯 (2010), “战略伙伴关系框架下中国与印尼经济关系的发展与对策研究”, 南洋问题研究,3

(143), tr.10-19;

năm 2007: http://www.sinotf.com/ GB/News/1003/2008-01-21/109840B63.html, ngày 21/1/2008;

năm 2006: http://images.mofcom.gov.cn/ trb/accessory/200704/1177552066478.pdf;

năm 2005: China Ministry of Commerce, via CEIC database, trích lại từ Nargiza Salidjanova,

Iacob Koch-Weser, Jason Klanderman (2015), “China’s Economic Ties with ASEAN: A Country-

by-Country Analysis”, U.S.-China Economic and Security Review Commission, trang 18, ngày 17/3/2015.

Trong thời gian từ tháng 4/2005 đến tháng 1/2013, có tất cả 34 thỏa thuận và MoU

đã được ký kết giữa hai bên, đây là kết quả của các cuộc họp nhằm thúc đẩy triển khai

quan hệ đối tác chiến lược. Trong số đó, 23 thỏa thuận là kết quả hợp tác giữa hai bên sau

khi Kế hoạch hành động được ký kết vào tháng 1/2010. Như vậy, trong khoảng thời gian 5

năm từ lúc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, hai nước mới chỉ ký kết 9 thỏa thuận hợp

tác, cho thấy hợp tác diễn ra chậm ngay từ việc xây dựng các văn bản xác định khung và

cơ chế hợp tác. Về cơ bản, hợp tác kinh tế trong giai đoạn này không đáp ứng được kỳ

vọng cao của nhà lãnh đạo hai nước khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược năm 2005 [Priyandita, 2019, tr.16].

Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, sau khi hai nước xây dựng quan hệ đối tác

chiến lược vào năm 2005, đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia tăng mạnh. Kể từ

khi Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN được thành lập năm 2010 đến nay,

đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Indonesia tăng lên nhanh chóng. Năm 2012,

Indonesia đứng vị trí thứ 16 trong số 20 nước nhận lượng FDI nhiều nhất của Trung

quốc, chiếm 10,97% tổng lượng vốn FDI của Trung Quốc dành cho các nước

ASEAN [商务部 , 2016b]. Trong khoảng thời gian 5 năm từ 2010-2014, Trung

94

Quốc đầu tư 11 tỷ USD vào 36 dự án tại Indonesia, trong khi Nhật đã đầu tư tổng

18 tỷ USD vào 218 dự án [Courtney, 2015]. Tuy nhiên, từ năm 2005-2014, mới chỉ

có 7% các dự án được Trung Quốc hứa hẹn trở thành hiện thực ở Indonesia, đây là tỷ

lệ rất thấp, so với con số này ở Nhật Bản là 62% [Chilkoti, 2015]. Điều này đã góp

phần gây ra cách nhìn nhận tiêu cực về Trung Quốc cũng như các dự án đầu tư của

nước này tại Indonesia.

Trong lĩnh vực năng lượng, hợp tác giữa Trung Quốc và Indonesia cũng có

những điểm nhấn. Lượng nhập khẩu than đá từ Indonesia của Trung Quốc không

ngừng tăng mạnh, trong thời gian từ năm 2001 - 2008 đã tăng gấp 8 lần [吴崇伯,

2014, tr.87]. Indonesia đã trở thành nguồn nhập khẩu than lớn nhất của Trung

Quốc. Đây là một trong những lĩnh vực hợp tác có tiềm năng nhất giữa hai nước

bởi hai bên có khả năng bổ sung lợi thế cho nhau. Trung Quốc cần dầu mỏ, than

đá và khí đốt của Indonesia. Ngược lại, Indonesia cần thị trường tiêu thụ lớn và

ổn định của Trung Quốc.

Trong lĩnh vực tài chính, cơ chế hợp tác tài chính giữa Trung Quốc và

Indonesia chủ yếu thông qua việc ký kết các hiệp định trao đổi tiền tệ với quy mô

ngày càng tăng, và thông qua việc thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại các nước

đối tác. Tháng 10-2005, hai nước tiếp tục ký kết hiệp định trao đổi tiền tệ, theo đó,

khi Indonesia cần những khoản chi trả lưu động ngắn hạn, có thể dùng hình thức

dùng đồng Rp đổi sang USD để nhận khoản hỗ trợ tài chính không vượt quá 2 tỷ

USD từ Trung Quốc. Năm 2006, quy mô này đã tăng lên thành 4 tỷ USD. Tháng 3-

2008, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương Indonesia đã ký

kết hiệp định hoán đổi tiền tệ song phương với trị giá 100 tỷ RMB. Điều này đã

giúp tăng nhu cầu về đồng Nhân dân tệ trong thị trường Indonesia, có lợi cho việc

giảm bớt độ phụ thuộc của đồng Rp vào đồng USD. Ngoài ra, việc ký kết Hiệp định

hoán đổi tiền tệ chắc chắn sẽ làm tăng thương mại và đầu tư trực tiếp của hai nước,

kích thích tăng trưởng kinh tế Indonesia, đồng thời làm tăng tính lưu động ngắn hạn

cho việc ổn định thị trường tiền tệ [吴征兰,胡列曲, 2015, tr. 298]. Tháng 7-2010,

Ủy ban Quản lý giám sát ngành ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương

95

Indonesia đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác quản lý giám sát song phương, đồng ý

tăng cường hợp tác trong quản lý giám sát như trao đổi thông tin giữa hai ngân hàng

[许利平, 2011, tr.57]. Trong giai đoạn từ 2005-2013, mặc dù hai nước đã ký kết

một số hiệp định, đạt được một số thỏa thuận, song hợp tác trong lĩnh vực tài chính

giữa hai nước vẫn còn khá khiêm tốn, số lượng và tổng giá trị các hiệp định hoán

đổi tiền tệ còn chưa cao, số lượng các ngân hàng có vốn đầu tư của Trung Quốc/

Indonesia hoạt động tại nước đối tác chưa nhiều.

3.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay

Việc Trung Quốc và Indonesia nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến

lược toàn diện vào năm 2013 đã thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước có những tiến

triển mạnh mẽ. Giai đoạn này cũng chính là lúc Trung Quốc đưa ra và thúc đẩy

thực hiện BRI, do đó, quan hệ kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn này gắn nhiều

với việc triển khai BRI tại Indonesia. Từ khi chiến lược này được thúc đẩy tại

Indonesia, hợp tác thương mại giữa Trung Quốc và Indonesia không ngừng được

tăng cường theo cả chiều rộng và chiều sâu. Trong bản Tầm nhìn và hành động

thúc đẩy cùng xây dựng Vành đai kinh tế con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa

thế kỷ XXI đã xác định rõ: tăng cường kết nối chính sách là bảo đảm quan trọng,

hợp tác thương mại đầu tư là nội dung trọng điểm; cần sáng tạo các phương thức

thương mại, phát triển chuỗi ngành nghề mới như thương mại điện tử qua biên

giới; kết hợp thống nhất giữa đầu tư và thương mại, dùng đầu tư dẫn dắt sự phát

triển thương mại; hợp tác cùng xây dựng các khu công nghiệp như khu hợp tác

thương mại ngoài biên giới, các khu hợp tác kinh tế qua biên giới; thúc đẩy sự

phát triển các chuỗi ngành nghề [商务部 , 2016a]. Những năm gần đây, Trung

Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Indonesia. Tổng kim ngạch

thương mại hai chiều năm 2016 đạt 52 tỷ USD, và đạt mốc 72,48 tỷ USD năm

2018 [对外贸易, 2019], con số này tăng nhẹ lên mức 72,7 tỷ USD vào năm 2019

[对外贸易, 2020] (xem Hình 3.2). Bước sang năm 2020, do ảnh hưởng nặng nề từ

dịch bệnh Covid-19, tổng kim ngạch hai chiều giữa Trung Quốc và Indonesia

trong quý I mới chỉ đạt 17,66 tỷ USD, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước, và

96

chỉ đứng thứ 5 về tổng lượng kim ngạch thương mại với Trung Quốc trong số 10

nước ASEAN [商务部, 2020]. Về các thỏa thuận thương mại, theo số liệu thống

kê, tính đến cuối năm 2017, đã có 36 MoU được ký kết giữa Trung Quốc và

Indonesia dưới Chính quyền Jokowi [Andika, Aisyah, 2017, tr.165]. Số lượng 36

thỏa thuận được ký kết giữa hai nước trong một khoảng thời gian ngắn cho thấy sự

Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ trang web của Bộ Thương mại Trung Quốc

(http://www.mofcom.gov.cn) từ năm 2013 đến 2019.

Năm 2019: http://www.cic.mofcom.gov.cn/article/economicandtrade/staticaldata/202001/41597

8.html; năm 2018: http://www.mofcom.gov.cn/dl/gbdqzn/upload/yindunixiya.pdf ;

năm 2017: http://finance.people.com.cn/n1/2018/0509/c1004-29973652.html, ngày 9/5/2018;

năm 2016: https://fair.china.cn/guowai/49345.html;

năm 2015: http://yzs.mofcom.gov.cn/article/t/201602/20160201252490.shtml;

năm 2014: http://yzs.mofcom.gov.cn/article/t/201506/20150601008693.shtml;

năm 2013: http://cn.chinagate.cn/news/2014-08/13/content_33225825.htm, ngày 13/8/2014.

nghiêm túc và nỗ lực của cả hai nước nhằm thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn.

Những năm gần đây, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của

Indonesia, tuy nhiên thâm hụt thương mại vẫn là vấn đề nổi cộm cần tháo gỡ.

Trong vòng 1 năm, từ 2013-2014, mức thâm hụt đã tăng gần gấp 3 lần, từ mức

khoảng 5,5 tỷ USD tăng lên hơn 14 tỷ USD, đến năm 2018 thì con số này đã lên

tới hơn 20 tỷ USD (Xem Hình 3.3). Theo đó, năm 2018, Trung Quốc trở thành đối

97

tác thâm hụt thương mại lớn nhất của Indonesia trong top 10 quốc gia thâm hụt

thương mại của nước này [Workman, 2019].1 Chính sách khuyến khích các doanh

nghiệp đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc theo BRI được đưa ra từ cuối năm

2013, các lĩnh vực khuyến khích đầu tư chủ yếu là cơ sở hạ tầng với nguồn vốn

lớn, thương mại hai nước lại có tính chất bổ sung cho nhau..., đây chính là những

yếu tố chủ yếu khiến mức thâm hụt thương mại giữa hai nước ngày càng tăng cao,

Nguồn Tác giả tổng hợp số liệu từ trang web của Bộ Thương mại Trung Quốc

(http://www.mofcom.gov.cn) từ năm 2013 đến 2019 (Xem nguồn số liệu Hình 3.2.)

với cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.

Về cơ chế hợp tác thương mại, các cơ chế không ngừng được hoàn thiện. Từ

khi hai nước xây dựng cơ chế đối thoại kinh tế cấp cao vào năm 2015 đến nay, Trung

Quốc và Indonesia đã tổ chức thành công 3 hội nghị đối thoại kinh tế cấp cao. Hội

nghị này trở thành diễn đàn quan trọng của hai chính phủ trong việc giao lưu hợp tác

kinh tế thương mại. Tháng 7-2016, Hiệp định thư về bản nâng cấp Khu thương mại tự

do kinh tế Trung Quốc – ASEAN chính thức có hiệu lực, góp phần thúc đẩy hơn nữa

hợp tác kinh tế thương mại Trung Quốc – Indonesia. Hiện nay, trong 20 khu hợp tác

thương mại cấp quốc gia của Trung Quốc ở nước ngoài đã được phê duyệt, có 7 khu

được xây dựng tại các nước ASEAN. Trong đó, tại Indonesia có 3 khu, bao gồm:

Khu hợp tác thương mại Trung Quốc – Indonesia, Khu Công nghiệp Thanh Sơn

thuộc Khu Công nghiệp tổng hợp Trung Quốc – Indonesia và Khu hợp tác nông

1 Số liệu trong nghiên cứu của Daniel Workman có sự chênh lệch với số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc do các tiêu chí khác nhau.

98

nghiệp Tụ Long Trung Quốc – Indonesia. Các khu thương mại này không chỉ tạo

công việc cho hàng nghìn người, mà còn đóng góp cho sự phát triển kinh tế hai bên

thông qua lượng sản phẩm và tiền thuế thu nộp [龙安山, 2018, tr.177-179].

Trong lĩnh vực đầu tư, sau khi việc kết nối BRI và chiến lược “Trục hàng hải

toàn cầu” được đưa vào Tuyên bố chung của hai nước năm 2015, đầu tư trực tiếp của

Trung Quốc vào Indonesia tăng lên nhanh chóng. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp

Trung Quốc lựa chọn đầu tư tại Indonesia, bao gồm các doanh nghiệp hàng đầu của

Trung Quốc trong lĩnh vực IT như Baidu, Tengxun, Alibaba, và các hãng điện thoại

lớn như Oppo, Vivo... Nếu như năm 2010, FDI của Trung Quốc vào Indonesia đứng

thứ 9, thì đến năm 2016 đã vươn lên thứ 3, đến năm 2017 đã đứng vị trí thứ 2, chỉ sau

Singapore [Suryadinata, 2017a, tr.6]. Hiện nay, Trung Quốc đóng vai trò quan trọng

đối với Indonesia khi chiếm 16,2% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Indonesia trong

nửa đầu năm 2019 [Antarnews, 2019], là nhà đầu tư lớn thứ hai ở Indonesia trong cả

Đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như

năm 2019 chỉ sau Singapore [Marketscreener, 2020].

nuôi trồng kinh tế, gia công, khai khoáng, điện lực, chế tạo điện gia dụng và các sản

phẩm điện tử, kinh tế kĩ thuật số [王立平, 2018]. Theo thống kê 5 năm gần đây, các dự

án của Trung Quốc về điện lực, thủy lợi có vốn đầu tư lớn nhất, chiếm 23% tổng vốn

đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia; tiếp theo đó là lĩnh vực khai khoáng và gia công

kim loại chiếm 21%. Có thể thấy, năng lượng, công nghiệp kim loại và cơ sở hạ tầng

vẫn là những lĩnh vực chủ yếu trong đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia [谭璟婧,

2017, tr.14]. Ngoài ra, Trung Quốc và Indonesia đã thống nhất cùng phát triển các dự

án cơ sở hạ tầng tại ba tỉnh dọc theo BRI là tỉnh Bắc Sumatra, Bắc Kalimantan và Bắc

Sulawesi. Quỹ Con đường tơ lụa sẽ đầu tư cho 3 lĩnh vực là giao thông vận tải, công

nghiệp và du lịch, bao gồm xây dựng các cảng, sân bay, đường sắt và bến tàu du lịch

[Maulia, 2018].

Năm 2015, các doanh nghiệp Trung Quốc đăng ký đầu tư vào Indonesia với

tổng giá trị các dự án lên tới 27.759 tỷ Rp (khoảng 2,2 tỷ USD), chiếm 22,96% tổng

99

số FDI dự kiến đầu tư vào Indonesia. Tuy nhiên, giá trị các dự án trúng thầu mới chỉ

thể hiện mong muốn đầu tư vào Indonesia của Trung Quốc, số vốn đầu tư thực tế

mới là tiêu chuẩn đo lường mức độ đầu tư của Trung Quốc vào quốc đảo lớn nhất

thế giới này. Từ số liệu của Bảng 3.4, có thể thấy tuy tiềm năng đầu tư của Trung

Quốc vào Indonesia là rất lớn, nhưng hiệu quả đầu tư thực tế thấp hơn rất nhiều, chỉ

đạt mức 2,83% năm 2015 [谭璟婧, 2017, tr.18]. Điều này cũng góp phần gây ra

cách nhìn nhận tiêu cực về hình tượng Trung Quốc cũng như các dự án đầu tư của

nước này tại Indonesia. Về nguyên nhân: Thứ nhất, doanh nghiệp Trung Quốc đầu

tư vào Indonesia tập trung nhiều trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án

này thường có các đặc điểm như chu kỳ xây dựng dài, vốn đầu tư lớn, dễ bị tác

động bởi các nhân tố về môi trường, khiến các dự án thường phải kéo dài thời hạn

hoặc khó thực hiện. Thứ hai, do rủi ro đến từ môi trường đầu tư của Indonesia, như

khó khăn trong việc giải tỏa đền bù đất đai, tham nhũng trong chính quyền, cơ sở hạ

tầng lạc hậu..., cản trở không ít đến quá trình thực hiện các dự án của các doanh

nghiệp Trung Quốc [谭璟婧, 2017, tr.19]. Thứ ba, bản thân nước nhận đầu tư, trong

trường hợp này là Indonesia, cũng lo ngại trước “bẫy nợ” mà đầu tư của Trung

Quốc có thể đem lại. Theo Phạm Sỹ Thành (2019), khi Trung Quốc cho vay vốn lớn

để đầu tư vào một dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, nhưng năng lực trả nợ và sinh

lợi của dự án ở mức thấp, không đủ trả nợ thì chính cơ sở hạ tầng đó sẽ được bàn

giao cho Trung Quốc quyền vận hành, kinh doanh trong một thời gian dài (ví dụ 99 năm) như một cách để hạch toán khoản nợ vay [Phạm Sỹ Thành, 2019].

Bảng 3.4. Tình hình thực hiện đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia từ năm 2010-2015

Năm

Số lượng dự án

Số lượng dự án

Tỉ lệ thực hiện đầu tư

cấp phép (IP)

đầ tư t ực tế

(%)

(IU+LKP)

430

174

40,4

2010

1457

128

8,8

2011

1858

141

7,6

2012

3822

297

7,8

2013

15680

800

5,10

2014

100

22217

628

2,83

2015

45464

2168

4,77

Tổng hợp

Nguồn số liệu: BKPM, dẫn lại từ 谭 璟 婧 (2017), tr.18-19

Trong lĩnh vực năng lượng, sau khi hai nước nâng cấp quan hệ lên thành đối

tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, một số công ty Trung Quốc như SINOPEC,

Petrochina và CNOOC đã bắt đầu đầu tư vào dầu và khí đốt ở Indonesia. Các công

ty Trung Quốc cũng tham gia vào Dự án nhà máy điện 35.000 megawatt. Tuy nhiên,

một điểm đáng chú ý là, Diễn đàn hợp tác năng lượng Trung Quốc – Indonesia

được thành lập từ năm 2003, đến năm 2010 đã tổ chức được 4 lần hội nghị, nhưng

phải đến tháng 11-2017, Diễn đàn lần thứ 5 mới được tổ chức. Diễn đàn này đã bị

tạm ngừng tổ chức trong 7 năm, cũng là lúc những tranh chấp chủ quyền trên Biển

Đông diễn ra căng thẳng. Điều này cho thấy, dù Trung Quốc và Indonesia có tiềm

năng lớn trong hợp tác về năng lượng, nhưng hợp tác năng lượng bị chi phối mạnh

mẽ và trực tiếp bởi yếu tố an ninh. Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc

và Indonesia không những thể hiện tính chất bổ sung cho nhau, mà còn thể hiện tính

chất bất đối xứng. Thực trạng phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước hiện nay

đang diễn ra chủ yếu theo hình thức Trung Quốc “khai thác” nguồn lực của

Indonesia như tài nguyên năng lượng, bản chất của việc hợp tác tài chính cũng là

nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế cho các doanh nghiệp Trung Quốc khi đầu

tư ở Indonesia. Với vai trò là một nước lớn, rõ ràng Trung Quốc đang chiếm thế chủ

động và được nhiều lợi ích hơn trong mối quan hệ kinh tế này.

Trong lĩnh vực tài chính, sau khi hai nước nâng cấp quan hệ lên thành đối tác

chiến lược toàn diện, ngân hàng trung ương của hai nước đã ký kết Hiệp định hoán đổi

tiền tệ với tổng trị giá 15 tỷ USD [吴崇伯, 2014, tr.41], tăng gần gấp 4 lần so với con

số này năm 2006. Hiệp định có hiệu lực đến tháng 10-2016 tuy nhiên đến nay vẫn chưa

được tiếp tục ký kết. Hiện nay, nhiều ngân hàng lớn của Trung Quốc như Ngân hàng

Công thương (ICBC), Ngân hàng Phát triển quốc gia Trung Quốc (CDB), Ngân hàng

Xuất nhập khẩu Trung Quốc (CEXIM) … đã có mặt tại Indonesia, giúp Indonesia có

101

sự lựa chọn tài chính mang tính cạnh tranh và đa dạng hơn [人民网, 2017]. Như vậy,

có thể thấy, cùng với việc Trung Quốc và Indonesia đẩy mạnh các hoạt động thương

mại và đầu tư, nhu cầu hợp tác về tài chính cũng gia tăng, hiệp định hoán đổi tiền tệ có

tổng giá trị được ký kết tăng vọt so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, việc Hiệp định này

hết hiệu lực từ tháng 10-2016 đến nay vẫn chưa tiếp tục được ký kết, cho thấy vẫn còn

nhiều vướng mắc gây cản trở cho hoạt động hợp tác về tài chính giữa hai nước.

Sở dĩ hợp tác về tài chính giữa hai nước vẫn chưa thật sự phát triển, là do

trong lĩnh vực này còn tồn tại các nhân tố bất lợi như giá thành cao, hiệu quả thấp,

nhiều rủi ro. Nền tảng kinh tế của Indonesia yếu kém, năng lực hoàn trả các khoản

vay kém, nhiều khả năng sẽ vi phạm hợp đồng, trong khi đó bản thân các dự án xây

dựng cơ sở hạ tầng có đặc điểm thời gian thi công lâu, giá thành cao, chu kỳ thu hồi

vốn dài, làm tăng rủi ro cho các tổ chức tài chính của Trung Quốc khi thúc đẩy các

dự án tại Indonesia, đặc biệt đối với AIIB chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Ngoài ra, Chính phủ Indonesia không đưa ra được sự bảo đảm về mặt chính quyền

đối với các ngân hàng địa phương. Một khi tính lưu động của vốn ngân hàng trong

giới doanh nghiệp Indonesia giảm, nợ xấu tăng lên, rất có khả năng xảy ra các vấn

đề như dòng tiền bị đứt đoạn, thậm chí dẫn đến hiện tượng đột biến rút tiền gửi. Bên

cạnh đó, những rủi ro về thanh khoản tương đối nổi cộm. Do dựa dẫm quá mức vào

bên ngoài, tính thanh khoản của Indonesia rất dễ bị tác động bởi sự thay đổi từ môi

trường quốc tế. Hiện nay, Indonesia duy trì ổn định ngoại hối và niềm tin của nhà

đầu tư bằng biện pháp can thiệp của chính phủ. Chính phủ Indonesia phá giá tiền tệ

để tăng cường xuất khẩu ra bên ngoài, kích thích nền kinh tế trong nước, do đó, rủi

ro phá giá đồng Rp là rất rõ [潘玥, 2018, tr.70].

Trong lĩnh vực thầu khoán công trình, đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng là

mối quan tâm chung của cả hai bên vì đây là lĩnh vực hai nước có khả năng bổ sung

cho nhau. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch Phát triển quốc gia Indonesia, trong giai

đoạn 2015-2020, nước này cần 7,2 triệu tỉ Rp để thực hiện kế hoạch nâng cấp cơ sở

hạ tầng Indonesia, trong khi Chính phủ Trung ương Indonesia chỉ có khả năng cung

cấp 25% tổng số vốn [中国商务, 2018]. Trong khi đó, Trung Quốc đang trong tình

102

trạng sản xuất dư thừa, cần chuyển dịch sức sản xuất và hàng hóa dư thừa ra bên

ngoài, đặc biệt thông qua các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Thời gian gần đây, BRI

bị đánh giá là sẽ gây gánh nặng chi phí tài chính cho một số quốc gia do các dự án cơ

sở hạ tầng thường đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Chẳng hạn như, các dự án BRI được

coi là tăng gánh nặng nợ cho Indonesia, hiện đã đạt 22 nghìn tỷ Rupiah (tương đương

khoảng 1,54 tỷ USD). Nhưng, Bộ trưởng Điều phối các vấn đề Hàng hải và Đầu tư

Luhut Pandjaitan tuyên bố rằng Indonesia sẽ không bị mắc kẹt trong bẫy nợ của BRI

bởi vì chính phủ không sử dụng Thoả thuận Chính phủ với Chính phủ (G-to-G:

goverment to goverment), vì vậy nước này không nợ trong dự án, mà hai công ty của

hai nước chịu trách nhiệm hoàn toàn cho các dự án. Ông cho biết: “có những người

hoài nghi sâu sắc về bẫy nợ xấu, nhưng chúng tôi không sử dụng mô hình G-to-G, mà

là doanh nghiệp với doanh nghiệp, điều này rất tốt cho việc giảm bẫy nợ và nguy cơ

bẫy nợ đối với nhân sách nhà nước” [The Insiders Stories, 2019].

Trong lĩnh vực cho vay tín dụng, trong khuôn khổ BRI, Ngân hàng Đầu tư cơ sở

hạ tầng châu Á (AIIB) đã đầu tư 216,5 triệu USD cho Dự án cải tạo các khu vực nhà ổ

chuột ở Indonesia. Trung Quốc cũng cam kết giúp đỡ tài chính cho xây dựng 5 đập

nước ở Indonesia, với tổng số tiền khoảng 10 tỷ USD [Edward, 2017]. Về cơ sở hạ

tầng đường sắt, Trung Quốc đã trúng thầu dự án đường sắt cao tốc Jakarta – Bandung,

với tổng vốn đầu tư 5,13 tỷ USD, được xây dựng tại đảo Java là nơi tập trung gần 60%

dân số của Indonesia. Về đường bộ và đường cao tốc phải kể đến dự án cao tốc

Manado – Bitung dài 39,9 km kết nối Manado và Bitung ở đảo Bắc Sulawesi, hỗ trợ

phát triển trong tương lai cho cảng Bitung và Đặc khu kinh tế Bitung. Về cảng biển,

một trong những dự án lớn nhận được đầu tư của Trung Quốc tại Indonesia là cảng

Tanjung Sauh (đảo Batam) và dự án mở rộng Tanjung Priok - cảng biển lớn nhất nước

này. Trong tháng 4-2018, hai nước đã ký 5 hợp đồng trị giá 23,3 tỷ USD cho các dự án

cơ sở hạ tầng, bao gồm nhà máy thủy điện và cơ sở chuyển than thành dimetylether [Elmer, 2018]. Việc liên tiếp ký kết nhiều dự án liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng

cho thấy cả hai nước đều biết cách tận dụng tối đa tính chất bổ sung lẫn nhau trong lĩnh

vực này để tạo động lực phát triển kinh tế cho cả Trung Quốc và Indonesia.

103

Tóm lại, từ sau khi Trung Quốc và Indonesia nâng cấp quan hệ lên thành đối

tác chiến lược toàn diện vào năm 2013, quan hệ song phương trong lĩnh vực kinh tế

đã chứng kiến một sự phát triển vượt bậc, từ tổng kim ngạch thương mại, đến các

chỉ số đầu tư, các cơ chế thương mại, các dự án hợp tác về năng lượng... Đặc biệt,

hợp tác trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý,

là kết quả của việc kết nối BRI của Trung Quốc với chiến lược “Trục hàng hải toàn

cầu” của Indonesia. Tuy nhiên, một số vấn đề tồn tại trong hợp tác kinh tế giữa

Trung Quốc và Indonesia đã nêu ở các phần trên, như thâm hụt thương mại lớn, tỷ

lệ thực hiện các dự án đầu tư còn thấp gây tác động xấu đến xã hội Indonesia. Kết

cấu thương mại giữa hai nước hiện nay khiến người dân Indonesia có ấn tượng rằng

Trung Quốc đang “bóc lột” nguồn tài nguyên thiên nhiên của Indonesia. Bên cạnh

đó, thương mại tự do với Trung Quốc đã gây nhiều lo lắng cho Indonesia, vì nguồn

hàng giá rẻ từ Trung Quốc như các sản phẩm dệt may có thể gây tổn hại đến công

nghiệp Indonesia, “mở rộng tự do thương mại với Trung Quốc sẽ tác động tiêu cực

đến khả năng cạnh tranh của Indonesia trong sản xuất và xuất khẩu” [Mishra, Sari, 2010, tr.5].

Về mặt đầu tư, Trung Quốc vẫn chưa thể xóa bỏ “ấn tượng xấu” khi mới chỉ

thực hiện 7% các dự án được hứa hẹn tiến hành tại Indonesia [Chilkoti, 2015]. Bên

cạnh đó, vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia là một trong những vấn đề tiềm

tàng nhiều bất ổn đối với xã hội nước này. Những năm gần đây, dư luận Indonesia

nhiều lần dấy lên những cuộc tranh luận về việc một số lượng lớn lao động Trung

Quốc (khoảng 10-20 triệu) đang ồ ạt tiến vào Indonesia, nhận mức lương thấp hơn

mức lương của người Indonesia, cạnh tranh sức lao động tại chính quê hương của

những người Indonesia... Tất cả những vấn đề tồn tại này không chỉ tác động xấu

đến quan hệ kinh tế giữa hai nước, mà còn tạo ra dư luận tiêu cực trong xã hội

Indonesia, hình thành nên lực cản trong việc phát triển tổng thể quan hệ hai nước.

3.2.3. Chuyển biến trong quan hệ văn hóa - xã hội

Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, hợp tác giữa hai nước chưa thu được

thành tựu đáng kể. Tính đến năm 2010, sáu học viện Khổng Tử của Trung Quốc

104

được thành lập tại Indonesia trong các trường tư thục và các trường địa phương

[Suryadinata, 2017b, tr.105]. Hiện vẫn chưa có đánh giá về hiệu quả và tác động

của các học viện Khổng Tử ở Indonesia, nhưng xét về số lượng và vị trí của các

học viện (không có học viện nào được thành lập tại trường công lập), có thể thấy

hợp tác trong khía cạnh này vẫn chưa thu được nhiều thành tựu đáng kể.

Một điểm đáng chú ý, cuối nhiệm kỳ Tổng thống của mình, ngày 31/03/2014,

Tổng thống Yudhoyono đã ban hành Nghị định của Tổng thống (Keppres No.12

/2014) để điều chỉnh cách gọi liên quan đến CHND Trung Hoa và người Indonesia

gốc Hoa. Nghị định này đã vô hiệu hóa một cách hiệu quả Thông tư của Chính phủ

năm 1967 (Circular of Cabinet Presidium No.SE-06/Pre.Kab/6/1967) – văn bản sử

dụng thuật ngữ Tjina (hay Cina) với ý nghĩa xúc phạm để chỉ nước Trung Quốc cũng

như người Trung Quốc/ người gốc Hoa. Theo Nghị định Tổng thống năm 2014, tất cả

các hoạt động và văn bản trong phạm vi Chính phủ, thuật ngữ Tjina/ China/ Cina sẽ

được đổi thành người/cộng đồng Tionghoa, thuật ngữ Republik Rakyat China sẽ

được thay bằng Republik Rakyat Tiongkoki. Tổng thống Yudhoyono dường như có

hai mục tiêu trong việc ban hành sắc lệnh. Về đối nội, Tổng thống muốn cải thiện

quan hệ sắc tộc khi ông nhận ra rằng thuật ngữ Cina/Tjina mang nghĩa xúc phạm.

Trên bình diện quốc tế, bằng cách khôi phục tên gốc của CHND Trung Hoa tại

Indonesia, ông đang gửi tín hiệu tới Bắc Kinh rằng Jakarta sẵn sàng cải thiện hơn nữa

quan hệ ngoại giao [Suryadinata, 2014, tr.8-9]. Đây cũng được coi là một sự kiện lớn

dẫn tới sự thay đổi trong quan hệ Trung Quốc và Indonesia, do đã đánh dấu sự thay

đổi về nhận thức của người Indonesia đối với Trung Quốc và người Trung Quốc/

người gốc Hoa, dù mới chỉ ở khía cạnh hình thức.

Trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia, quan hệ giữa người với người thông

qua trao đổi sinh viên và du lịch đóng một vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ

những hiểu lầm liên quan đến việc đối xử với người Trung Quốc ở Indonesia hoặc

đối xử với người theo Islam ở Trung Quốc [Heriyanto, 2016]. Hợp tác trong du lịch

là một trong những điểm nhấn trong hợp tác Trung Quốc – Indonesia, đặc biệt từ khi

Trung Quốc đẩy mạnh triển khai BRI. Tổng thống Jokowi đã ký kết Bản ghi nhớ với

105

Trung Quốc, trong đó đưa ra mục tiêu đến năm 2019 sẽ thu hút 5 triệu du khách

Trung Quốc đến Indonesia [China Daily, 2017]. Đối với cả hai bên, hợp tác về du

lịch còn rất nhiều không gian phát triển [Balcita, 2017]. Chính phủ Jokowi muốn sử

dụng ngành du lịch như một cách nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Indonesia với

các quốc gia khác, Jokowi đặt ra mục tiêu cho ngành du lịch đạt mức 7,5% GDP vào

năm 2019 [Salna, 2017]. Trong năm 2016 và 2017, Trung Quốc đã trở thành nguồn

khách du lịch lớn nhất cho Indonesia. Lượng khách Trung Quốc đến Indonesia năm

2017 đạt hơn 2,09 triệu lượt người, tăng 275% so với năm 2013 [中国商务新闻网,

2018]. Năm 2018, khách du lịch Trung Quốc đến Indonesia đạt gần 2.14 triệu lượt,

tăng 2.1% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 13,5% tổng khách du lịch quốc tế đến

Indonesia, là nguồn cung cấp khách du lịch lớn thứ hai của quốc gia Đông Nam Á

này [新华网, 2019a]. Việc thúc đẩy ngành du lịch cũng sẽ giúp Indonesia củng cố

mối quan hệ song phương với Trung Quốc [Umagapi, 2017, tr.140]. Những năm gần

đây, số lượng khách du lịch ngày càng tăng ở cả hai quốc gia, bởi hai bên ngày càng

mở nhiều đường bay trực tiếp giữa Trung Quốc và Indonesia, tạo điều kiện thuận lợi

cho việc đi lại giữa hai nước [The Jakarta Post, 2017].

Bên cạnh đó, số lượng lưu học sinh Indonesia đến Trung Quốc đào tạo và

học tiếng Trung Quốc cũng gia tăng nhanh chóng. Tính đến tháng 5/2018, Trung

Quốc có 140.000 lưu học sinh người Indonesia đến học tập [中国政府网, 2018].

Đến tháng 7/2019, số lưu học sinh Indonesia đến Trung Quốc học tăng lên con số

150.000 người, trong đó 80% là lưu học sinh tự túc [新浪网, 2019a]. Trong Quốc

đã trở thành một trong những quốc gia chủ yếu thu hút lưu học sinh Indonesia.

Đồng thời, số lượng người học tiếng Trung Quốc ở Indonesia cũng gia tăng nhanh

chóng, theo như Tổng bộ Học viện Khổng Tử cho biết, ngày 27/10/2019, Bộ Văn

hoá Giáo dục Indonesia đã tổ chức Kỳ thi Năng lực tiếng Hán (HSK) tại hơn 10

địa điểm tại nước này, với tổng số thí sinh tham dự đạt 9.516 người [新浪网,

2019b].

Đáng chú ý, người Hoa Indonesia đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối

văn hóa giữa hai nước. Cũng giống như người Hoa và Hoa kiều tại các quốc gia

106

Đông Nam Á khác, cộng đồng người Hoa Indonesia đã trải qua những giai đoạn

phát triển phồn thịnh, cũng đã từng có những lúc bị suy thoái. Tuy nhiên, bước sang

những năm cuối của thập niên 90 thế kỷ XX, cùng với việc chấm dứt Thời kỳ Trật

tự mới, cộng đồng người Hoa Indonesia lại một lần nữa bước vào giai đoạn phát

triển thịnh vượng. Thời kỳ hậu Suharto, cộng đồng người Hoa Indonesia không

ngừng phát triển và tăng cường sức ảnh hưởng, đã xây dựng được hình tượng tốt

đẹp hơn trong xã hội Indonesia, đồng thời tạo nền tảng cho người Hoa Indonesia

trong việc tham gia xây dựng và phát triển sức mạnh mềm Trung Quốc. Thực tiễn

lịch sử đã chứng minh, để người Hoa Indonesia có thể hòa nhập hơn nữa vào xã hội

bản địa, điều quan trọng nhất là chính quyền bản địa cần thi hành những chính sách

dân tộc đúng đắn với người Hoa thiểu số, xã hội bản địa cần xóa bỏ cái nhìn phiến

diện, và người Hoa cần tích cực chủ động hòa nhập vào xã hội bản địa.

Thời gian gần đây, Trung Quốc nhấn mạnh vào sự bảo vệ đối với người Hoa ở

nước ngoài, đồng thời coi người gốc Hoa thiểu số là một phần của “dân tộc Trung

Hoa”, hay “con cháu Trung Hoa” (中华儿女). Chính sách mới này nhằm xóa mờ ranh

giới giữa những công dân Trung Quốc và người nước ngoài gốc Hoa, coi họ đều là

“người Trung Quốc” [Leo, 2017, tr.24]. Ngoài ra, việc Trung Quốc đang khẳng định vị

trí và vai trò tích cực của mình trong các vấn đề thế giới và khu vực đã kích thích niềm

tự hào dân tộc đối với tộc người Hoa thiểu số ở Indonesia. Những yếu tố kể trên đều

tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa Trung Hoa tại Indonesia. Hiện nay,

đa số người Hoa Indonesia đã nhập quốc tịch, trở thành công dân Indonesia. Những

năm gần đây, việc người Hoa Indonesia chủ động, tích cực tham gia xây dựng chính

quyền địa phương cũng góp phần mở rộng tiềm năng phát triển văn hóa Trung Hoa

tại Indonesia. Trong đợt bầu cử tổng thống năm 2014, chính trị gia người Hoa Basuki

Tjahaja Purnama (tên tiếng Trung: 钟万学) đã trở thành Thống đốc thứ 17 của

Jakarta. Là một người Công giáo, lại thuộc nhóm người Hoa thiểu số, việc Basuki trở

thành thống đốc của đô thị hơn 10 triệu dân với chủ yếu là người theo Islam có ý

nghĩa vô cùng quan trọng, mở ra những cơ hội loại bỏ những cái nhìn phiến diện của

người dân Indonesia đối với người Hoa thiểu số, đồng thời khuyến khích người Hoa

107

Indonesia mở rộng phạm vi hoạt động ngành nghề, từ lĩnh vực kinh tế truyền thống,

sang các lĩnh vực khác rộng hơn, tham gia tích cực hơn vào quá trình xây dựng quốc

gia dân chủ Indonesia [郑一省, 2012, tr.66].

Ngoài ra, việc các tổ chức xã hội của người Hoa Indonesia hoạt động tích

cực trong các lĩnh vực cũng tạo nền tảng cho việc mở rộng các yếu tố Trung Hoa tại

Indonesia. Bên cạnh đó, các tổ chức hoặc chính quyền địa phương Trung Quốc

cũng thường xuyên cùng các tổ chức đoàn thể người Hoa ở các địa phương thuộc

Indonesia cùng tiến hành các buổi biểu diễn, triển lãm và hội thảo học thuật, như

biểu diễn múa rối nước của tỉnh Tuyền Châu – Phúc Kiến, hội thảo Phúc Kiến học,

các đoàn ca múa nhạc tổ chức các buổi biểu diễn tại Indonesia vào dịp năm mới,

v.v... Những hoạt động này đều góp phần tăng cường hiểu biết của người Hoa đối

với văn hóa quê gốc của mình, đồng thời cũng góp phần tuyên truyền quảng bá

những đặc sắc văn hóa địa phương Trung Quốc đến toàn thế giới [张小倩, 2016,

tr.91]. Ngoài ra, để thúc đẩy và tuyên truyền văn hóa Trung Hoa tại Indonesia,

người Hoa Indonesia đã chú trọng việc tuyên truyền các đặc trưng văn hóa có thể

khiến xã hội sở tại, thậm chí xã hội quốc tế cùng tạo ra giá trị cộng hưởng. Ví dụ,

tháng 11/2007, tại Jakarta đã tổ chức Hội thảo Nho học quốc tế lần thứ 4 với chủ đề

chính là phát hiện lại giá trị của Khổng giáo nhằm tăng cường hòa bình và sự hài

hòa của thế giới [张小倩, 2016, tr.91]. Việc tổ chức thành công Hội thảo này đã

phần nào thúc đẩy ảnh hưởng và việc mở rộng các học viện Khổng Tử và sức mạnh

mềm văn hóa Trung Hoa tại nước ngoài.

Một số vấn đề tồn tại trong quan hệ văn hóa – xã hội Trung Quốc - Indonesia

Tuy nhiên, quan hệ Trung Quốc – Indonesia còn tồn tại một vấn đề mang

tính bản chất. Đây là quan hệ giữa một nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất thế giới với

một quốc gia Islam lớn nhất thế giới. Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Indonesia,

đặc biệt sự không dung hòa giữa tính chất của chủ nghĩa cộng sản, và chủ nghĩa

Islam đã tạo ra sự khác biệt trong văn hóa chính trị của hai nước.

Đầu tiên, lịch sử đã chứng minh, khó có thể tồn tại sự kết hợp giữa chủ nghĩa

cộng sản và Islam, dù ở Indonesia hay bất cứ nơi nào khác. Bởi một chính phủ

108

Cộng sản – nơi mà mô hình chính trị là mô hình độc đảng, là kinh tế chỉ huy với

nền nông nghiệp tập thể, và nhà nước sẽ kiểm soát tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội – bao gồm cả tôn giáo. Trong khi đó, chủ nghĩa Islam lại là một nền tảng

rộng lớn, cởi mở hơn đối với sự tham gia chính trị [Sidel, 2017]. Theo đó, những

người theo chủ nghĩa Islam có thể ủng hộ chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản

hoặc chủ nghĩa tư bản.

Trong lịch sử Indonesia, đã nhiều lần mâu thuẫn xảy ra giữa những người cộng

sản và những nhà lãnh đạo Islam. Từ đầu thập niên 1920, căng thẳng đã xảy ra khi phe

cộng sản kêu gọi đình công và biểu tình, còn các nhà lãnh đạo Islam ủng hộ việc chung

sống cùng chính quyền thuộc địa Hà Lan. Cuối những năm 1940, trong cuộc đấu tranh

giành độc lập, các đảng Islam đã đứng ở phía đối lập với ĐCS Indonesia. Phe Islam

không cùng quan điểm với phe Cộng sản trong việc đòi độc lập khỏi chế độ thực dân

Hà Lan đồng thời với việc từ bỏ các đặc quyền quý tộc và thiết lập các hình thức sở

hữu xã hội đối với đất đai và công nghiệp. Ngoài ra, trong sự kiện năm 1965, các tổ

chức Islam cũng đã tham gia cuộc thảm sát chống cộng sản, góp phần phá hủy ĐCS

Indonesia. Có thể thấy, mô hình đối kháng với chủ nghĩa cộng sản đã ăn sâu vào thế

giới Islam tại Indonesia. “Ranh giới thể chế và tư tưởng giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Islam ngày một sâu sắc” [Sidel, 2017].

Mặt khác, yếu tố Islam cũng là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến quan hệ

Trung Quốc – Indonesia trong những năm gần đây, đặc biệt khi Trung Quốc cũng

đang vướng mắc với vấn đề Islam ở Tân Cương. Tân Cương là cầu nối giữa Trung

Quốc với các nước Trung Á, Trung Đông và châu Âu, có ý nghĩa quan trọng trong

chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc. Tuy nhiên, đây cũng là một trong

những khu vực bất ổn nhất ở Trung Quốc, thường xuyên xảy ra tình trạng căng

thẳng và bạo lực sắc tộc. Một trong những nguyên nhân gây căng thẳng sắc tộc

nơi đây là các chính sách tôn giáo mang tính đàn áp của chính quyền Trung ương

của Trung Quốc thông qua việc kiểm soát nghiêm ngặt các hoạt động tôn giáo của

người Uyghur. Sau một loạt các vụ bạo lực và tấn công khủng bố từ năm 2013 đến

2014, chính phủ Trung Quốc đã kết hợp đàn áp nặng tay và song song thực hiện

109

các chính sách kinh tế, xã hội [Wei, 2019]. Sách trắng Trung Quốc về “Một số

vấn đề lịch sử của Tân Cương” được Chính phủ Trung Quốc ban hành tháng

7/2019 đã khẳng định “Islam không phải là lựa chọn tự nguyện ban đầu của người

dân, mà là kết quả của chiến tranh tôn giáo và do giai cấp thống trị áp đặt” [新华

网, 2019]. Ngoài ra, việc dạy tiếng phổ thông được thúc đẩy, các trại cải tạo được

sử dụng như những “trung tâm đào tạo nghề tự nguyện”, nhằm chống lại phong

trào Islam cực đoan. Việc giam giữ nhiều người Islam trong các trại cải tạo ở Tân

Cương đã bị nhiều nước phương Tây lên án gay gắt trong thời gian gần đây [The

Economist, 2019].

Trong khi đó, Indonesia là quốc gia Islam đông dân nhất thế giới, dân số

Indonesia năm 2019 là hơn 271 triệu dân, trong đó có hơn 87% người dân theo

đạo Islam (theo điều tra dân số năm 2010) [World Population Review, 2019]. Sở

hữu số dân theo Islam đông nhất thế giới, lại là quốc gia có tầm ảnh hưởng nhất

định trong khu vực, chắc chắn quan điểm của Indonesia về các vấn đề Islam sẽ tác

động đến cộng đồng người theo Islam trên thế giới. Vấn đề Tân Cương bắt đầu

nhận được sự quan tâm rộng rãi ở Indonesia khi nhiều nhân vật Islam kêu gọi một

cuộc điều tra về các vi phạm nhân quyền đối với người Uyghur (hay còn gọi là

người Duy Ngô Nhĩ) ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chính quyền Indonesia không

muốn đề cập nhiều đến chuyện đàn áp người Uyghur vì điều đó có thể làm “tăng

sức mạnh của phe Islam cực đoan trong cánh đối lập”. Theo cố vấn cấp cao của

Tổng thống Jokowi là Munajat Stain, các vấn đề tồn tại trong ngoại giao giữa

Indonesia với Trung Quốc là các hành vi bành trướng của Trung Quốc ở Biển

Đông, và việc gây mất ổn định an ninh cho vùng Đông Nam Á, “chứ không phải

là người Uyghur” [Septiari, 2019]. Phản ứng này của Indonesia hoàn toàn trái

ngược với hành động quyết đoán của Jakarta trước đó hai năm, khi cuộc khủng

hoảng tị nạn Islam Rohingya leo thang ở Myanmar. Khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao

Indonesia Retno Marsudi đã gặp nhà lãnh đạo Myanmar Aung San Suu Kyi và đề

xuất những cách có thể đảm bảo viện trợ và bảo vệ nhân đạo trong cuộc khủng

hoảng Rohingya [Kyodo, 2017]. Sự im lặng của chính phủ Jokowi có thể được lý

110

giải bằng hai nguyên nhân: (i) không muốn các phần tử Islam cực đoan trong phe

đối lập nhân cơ hội gây ảnh hưởng đến chính trị nội bộ; (ii) không muốn gây ảnh

hưởng đến tổng thể quan hệ với Trung Quốc, khi Indonesia đang hưởng lợi nhiều

từ hợp tác kinh tế với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.

Tuy nhiên, phong trào chống lại Thống đống Jakarta là Basuki Ahok – một

người gốc Hoa theo Kito giáo, bị cáo buộc phân biệt chủng tộc và tôn giáo vào năm

2017, và việc vai trò và vị trí của Islam trong xã hội Indonesia trở thành một chủ đề

trọng tâm trong cuộc bầu cử Tổng thống Indonesia năm 2019 cho thấy tác động

mạnh mẽ của yếu tố Islam đối với chính trị nội bộ Indonesia, và khả năng tác động

đến quan hệ giữa Indonesia với Trung Quốc là không hề nhỏ. Mặc dù trong thời

điểm hiện tại, chính phủ Indonesia chưa lên tiếng về các vấn đề người Uyghur ở

Tân Cương, nhưng nếu những quốc gia như Indonesia và Malaysia cùng các nước

phương Tây lên tiếng về vấn đề này, có thể sẽ buộc Trung Quốc phải thay đổi chính

sách đối với khu vực Tân Cương, do các nước này là đối tác chủ yếu, và là trung

tâm của BRI mà Trung Quốc đang đẩy mạnh. Tất nhiên, ít có khả năng điều này

được thúc đẩy từ bản thân các nhà lãnh đạo Indonesia hay Malaysia, mà sẽ bởi người dân Indonesia và Malaysia yêu cầu điều đó [Nithin, 2019]. Ở một quốc gia

đông dân số theo Islam nhất thế giới, Indonesia hoàn toàn có khả năng đứng lên bảo

vệ người Uyghur ở Tân Cương, nếu điều này trở thành một trong những vấn đề bức

thiết của người dân Indonesia, hoặc nếu phe đối lập tạo sức ép yêu cầu Tổng thống

Jokowi có những hành động cụ thể hơn. Khi đó, yếu tố Islam cũng sẽ trở thành một

nhân tố gây cản trở cho hợp tác giữa hai nước.

Ngoài ra, một số vấn đề còn tồn tại đã và đang gây cản trở cho hợp tác hai nước

trên lĩnh vực văn hóa xã hội. Truyền thông Indonesia đã nhiều lần phát đi thông tin về

số lượng lớn người Trung Quốc đến nhập cư hoặc lao động tại Indonesia, ví dụ tháng

8/2015 [Tempo, 2015] và tháng 12/2016 [潘玥, 2017, tr.125]. Trước lo ngại về những

tác động tiêu cực đến người lao động Indonesia bản địa, dân chúng Indonesia thậm chí

yêu cầu Chính phủ hủy bỏ chính sách miễn thị thực đối với Trung Quốc, đồng thời

nghiêm cấm lao động Trung Quốc có tay nghề thấp đến Trung Quốc làm việc [潘玥,

111

2017, tr.125]. Bên cạnh đó, các công ty Trung Quốc đầu tư vào Indonesia thường yếu

trong việc tìm hiểu văn hóa địa phương. Theo nghiên cứu của Gong Xue (2018), các

nhà đầu tư Trung Quốc dường như gặp khó khăn trong việc hiểu và thích nghi với

phong cách làm việc của nhân viên địa phương [Gong Xue, 2018]. Không chỉ vậy, dù

sự kiện đảo chính năm 1965 đã diễn ra từ lâu, nhưng tình cảm công chúng chống lại tư

tưởng cộng sản vẫn còn nổi cộm trong xã hội Indonesia hiện nay. Khi được phỏng vấn,

nhiều học giả Indonesia, như TS.Rudolf Yuniarto, Tonny Dian Effendi… đều khẳng

định rằng, nhiều người dân Indonesia khi nhắc đến Trung Quốc đều nghĩ ngay đến tư tưởng cộng sản.1 Theo một cuộc khảo sát thuộc Dự án Khảo sát Quốc gia Indonesia

(Indonesia National Survey Project), nhiều người tiếp nhận phỏng vấn khi được hỏi

“Trung Quốc nổi tiếng về điều gì” cho rằng Trung Quốc nổi tiếng với “thuốc Đông y”,

“nền văn hóa mạnh mẽ” và “tư tưởng cộng sản” [Yuniarto, 2019, tr.9]. Ngoài ra, về

phía Trung Quốc, cũng tồn tại một số vấn đề gây trở ngại đến phát triển quan hệ văn

hóa xã hội hai nước, như quan hệ với Đảng Cộng sản Indonesia trong lịch sử, chủ

nghĩa Islam cực đoan, tranh chấp giữa người Indonesia bản xứ với người Hoa

Indonesia, và các phong trào chống Trung Quốc [Yuniarto, 2019, tr.8].

Có thể thấy, trong xã hội Indonesia vẫn tiềm ẩn một số nhân tố cản trở sự phát

triển quan hệ hợp tác về văn hóa xã hội giữa hai nước. Điều này có thể được lý giải

bằng những nghi ngờ vẫn còn tồn tại do những trải nghiệm đau thương trong lịch sử

tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc, đặc biệt khoảng cách ba thập kỷ khi ngôn ngữ,

trường học và phương tiện truyền thông Trung Quốc bị cấm tại Indonesia vẫn là một

rào cản trong việc phát triển quan hệ văn hóa giữa Trung Quốc và Indonesia [Tjhin,

2012, tr.313]. Sự phẫn nộ của người Indonesia bản địa đối với khoảng cách giàu

nghèo cách biệt lớn với người gốc Hoa tại Indonesia, sự lo ngại trước số lượng lớn

công nhân và tổ chức Trung Quốc ngày càng xâm nhập vào xã hội Indonesia theo các

dự án hợp tác về kinh tế giữa hai nước, và sự phẫn nộ trước chính sách đàn áp và

“đồng hóa” người theo Islam của Trung Quốc [Hughes, 2018, tr.5-6] đều là những

nhân tố có thể dẫn đến sự chuyển biến mang tính đột biến, thậm chí có thể dẫn đến

thay đổi về chất trong quan hệ hai nước. Những chuyển biến mang tính bước ngoặt

1 Tác giả trực tiếp phỏng vấn các học giả vào tháng 12/2019 tại Đài Loan

112

trong lịch sử quan hệ hai nước, như sự kiện năm 1965 và năm 1998 là minh chứng

cho thấy, nhân tố “cộng sản” và nhân tố “người Hoa Indonesia” hoàn toàn có thể là

tác nhân gây ra sự biến đổi mang tính đột biến, làm thay đổi cả quan hệ song phương.

Tiểu kết ư n 3

Việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005 đã mở ra một chặng

đường mới trong lịch sử quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Tuy nhiên, các hợp tác

kinh tế và chính trị giữa hai nước trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược diễn ra

chậm, không được như kỳ vọng của lãnh đạo hai nước. Trong bối cảnh mới, hai nước

đều có nhu cầu tăng cường quan hệ song phương, nhằm hỗ trợ cho các chiến lược

phát triển đất nước và nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới, khiến lãnh đạo

hai nước quyết định nâng cấp, thúc đẩy quan hệ hơn nữa. Việc nâng cấp quan hệ lên

thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013 đã tạo nền tảng cho những bước

nhảy vọt trong hợp tác kinh tế. Quan hệ ngoại giao chứng kiến nhiều cuộc viếng thăm

cấp cao giữa hai bên, và việc ký kết một loạt các văn kiện, tuyên bố chung và thỏa

thuận hợp tác trên các lĩnh vực. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất

của Indonesia, đồng thời trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai của nước này. Hợp tác kinh

tế nổi bật nhất là những thành tựu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, do hai nước có nhiều

điểm bổ sung cho nhau, đặc biệt khi Trung Quốc đang đẩy mạnh BRI, còn Indonesia

cần đầu tư cơ sở hạ tầng để thực hiện Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu”.

Tuy nhiên, mối quan hệ đối tác chiến lược này vẫn còn nhiều vấn đề tiềm ẩn

chưa được giải quyết, khiến quan hệ an ninh quốc phòng và văn hóa xã hội tiến triển

rất khiêm tốn. Quan hệ an ninh quốc phòng chưa có những hợp tác thực chất, do yêu

sách chủ quyền “đường chín đoạn” của Trung Quốc chồng lấn lên vùng đặc quyền

kinh tế của Indonesia xung quanh hòn đảo Natuna. Bên cạnh đó, các vấn đề về kinh

tế - xã hội như các dự án do Trung Quốc tài trợ đã để lại hình tượng xấu trong xã hội

Indonesia, những lo ngại về tham nhũng và độ thiếu minh bạch, cũng như những lo

ngại về việc lao động Trung Quốc có thể làm gia tăng tình cảm chống Trung Quốc,

thậm chí gây ra các chiến dịch chống Trung Quốc tại Indonesia. Đây là những vấn đề

113

nếu không được xử lý đúng cách sẽ gây ảnh hưởng đến mối quan hệ hai nước. Với

truyền thống ngoại giao “tự do và linh hoạt” (free and active), trong ứng xử với Trung

Quốc – một cường quốc trên thế giới và trong khu vực, Indonesia đã luôn sử dụng

chính sách “phòng ngừa rủi ro”, với mức độ chấp nhận quyền lực ngày càng tăng, tuy

nhiên không sử dụng chiến lược “phù thịnh” (bandwagon), kể cả các biện pháp “phù

thịnh” có giới hạn. Đây cũng là nét độc đáo trong chính sách ngoại giao của

114

Indonesia với tư cách là một quốc gia tầm trung.

C ư n 4.

ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ XU THẾ CHUYỂN BIẾN

TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC – INDONESIA

Từ thực trạng chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ năm

2005 đến nay trên từng lĩnh vực, có thể rút ra một số đặc điểm về chuyển biến trong

quan hệ hai nước, từ đó thấy được đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng

như tác động của chuyển biến trong mối quan hệ này đến bản thân hai nước, đến thế

giới, khu vực và Việt Nam, qua đó, dự đoán được xu thế quan hệ hai nước trong

thời gian tới.

4.1. Đặ điểm chuyển biến đặ điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia

Qua phân tích thực trạng chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia

từ năm 2005 đến nay trên các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội,

chúng ta có thể nhận diện đặc điểm của sự chuyển biến, từ đó thấy được bản chất

của mối quan hệ giữa hai quốc gia này.

4.1.1. Đặc điểm chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia

Nhằm đánh giá tính chất của sự chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia từ năm 2005 đến nay, Luận án tìm ra những Sự kiện lớn (Great

Events), Thành tựu lớn (Great Achievements) mang dấu mốc trong quan hệ hai

nước, đặt mối quan hệ hai nước trong Xu hướng (Trends) chung của thế giới là

hợp tác “cùng thắng” (Xem Bảng 4.1).

Bảng 4.1. Chuyển biến chính trong quan hệ Trung Quốc - Indonesia

Giai đoạn

Giai đoạn 2005-2013

Giai đoạn 2013 - nay

1990 - 2005

- Chiến tranh

- Mỹ giảm bớt quan tâm đến

- Khủng hoảng tài chính

Nhân

tố

Lạnh kết thúc,

CA-TBD sau sự kiện 11/9/2001

toàn cầu 2008 buộc các

bên ngoài

xu thế hợp tác

- Các nước lớn tăng cường ảnh

nước lớn điều chỉnh chiến

phổ biến

hưởng tại Đông Nam Á

lược phát triển

- Mỹ, Nga rút

- Quan hệ Trung Quốc –

- Mỹ chuyển

trọng

tâm

quân

khỏi

ASEAN có tiến triển: ký kết

chiến lược sang CA-TBD

115

Đông Nam Á,

ACFTA (2002), ký TAC (2003),

- Hợp tác Trung Quốc –

tạo

khoảng

ACFTA có hiệu lực từ 2010

ASEAN trong lĩnh vực kinh

trống

quyền

- Quan hệ Indonesia – Mỹ xấu đi

tế tương đối tốt

lực trong khu

sau khi Mỹ ủng hộ Đông Timor

-Tranh chấp chủ quyền biển

vực

độc lập

đảo giữa Trung Quốc và

một số quốc gia ASEAN

nổi cộm từ 2011

- Trung Quốc

- Trung Quốc thúc đẩy chiến

- Sau khủng hoảng tài chính

Nhân

tố

từ 1990

tiến

lược “đi ra ngoài” từ năm 2002

2008, vấn đề dư thừa năng

bên trong

hành

chính

- Indonesia sau khủng hoảng tài

lực sản xuất nổi cộm tại

sách

ngoại

chính 1997 cần vay vốn nhiều để

Trung Quốc

giao

láng

phục hồi kinh tế

- Trung Quốc thúc đẩy BRI

giềng

- Tổng thống Indonesia Suharto

(từ năm 2013)

từ nhiệm năm 1998 , kết thúc 30

- Indonesia cần vốn đầu tư

năm thi hành các chính sách kìm

cho cơ sở hạ tầng

hãm sự phát triển của người

- Indonesia thúc đẩy chiến

Indonesia gốc Hoa.

lược “Trục hàng hải toàn

cầu” (từ năm 2014)

- 1990: khôi

- 2005: Thiết lập quan hệ đối tác

- 2013: Nâng cấp thành

Chính trị

phục quan hệ

chiến lược (QHĐTCL)

QHĐTCL toàn diện

- an ninh

song phương

- Quan hệ song phương nhằm

- Quan hệ song phương vừa

sau 23 năm

thúc đẩy vai trò của mỗi nước

phục vụ vai trò mỗi nước

cắt đứt quan

trong ASEAN

trong các

tổ chức đa

hệ (từ 1967-

- 2007: ký Bản ghi nhớ về hợp

phương, vừa phục vụ chiến

1990)

tác quốc phòng, song trên thực

lược phát

triển của hai

tế ít triển khai hợp tác

nước.

- Tuyên bố không là bên tranh

- Thực hiện chính sách đánh

chấp trong vấn đề Biển Đông

chìm tàu cá nhằm bảo vệ lợi

ích của ngư dân Indonesia

- Đặt

lại

tên biển Bắc

Natuna (tháng 7/2017), tăng

cường hợp tác trên biển với

các nước khác

- Về cơ bản,

- Từ 2005 đến 2013, tổng kim

Kinh tế

116

Indonesia

ngạch thương mại tăng gấp 4 lần

luôn có thặng

- Indonesia từ chỗ xuất siêu sang

- Từ năm 2013-2014: thâm

thương

Trung Quốc, đến năm 2013 đã

hụt thương mại tăng gần

mại với Trung

nhập siêu hơn 5,5 tỷ USD từ

gấp 3 lần đối với Indonesia

Quốc

Trung Quốc

- Đầu tư trực tiếp tăng vọt

- Đầu tư trực tiếp tăng từ từ

trong giai đoạn 2013- nay

trong giai đoạn 2006-2012

- 1993: thành

- 2010: sáu học viện Khổng Tử

-2014:

Tổng

thống

Văn óa –

lập Hội hợp

được thành lập tại Indonesia

Yudhoyono ban hành quy

Xã hội

tác kinh

tế,

định thay đổi thuật ngữ chỉ

văn hóa, xã

người Hoa

thiểu số và

hội

Trung Quốc

- Bạo

loạn

- Dư luận xã hội về “chủ đề

tháng 5/1998

Trung Quốc” liên quan đến

nhằm

vào

các dự án đầu tư của Trung

người Hoa

Quốc, lao động Trung Quốc

tại Indonesia…

Nguồn: Tác giả chế tác

Thứ nhất, về tính chất của sự chuyển biến. Nhìn lại lịch sử quan hệ Trung

Quốc – Indonesia, có thể thấy, sự kiện cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc

và Indonesia năm 1967 là chuyển biến mang tính đột biến, làm thay đổi tính chất

quan hệ hai nước sang quan hệ mang tính “thù địch”. Sự kiện hai nước thiết lập quan

hệ đối tác chiến lược năm 2005 là kết quả của sự chuyển biến từ từ trong quan hệ hai

nước từ sau khi khôi phục quan hệ song phương từ năm 1990, nhưng là dấu mốc

quan trọng làm thay đổi quan hệ hai nước, mở đầu cho những tiến triển trong quan hệ

song phương. Trong khi đó, việc nâng cấp quan hệ song phương lên quan hệ đối tác

chiến lược toàn diện năm 2013, cùng những phát triển tăng vọt trong lĩnh vực kinh tế

(cũng chính là những thành tựu nổi bật – Great Achievements) là sự thay đổi đột

biến, dẫn đến những thay đổi vượt bậc về số lượng, nhưng chưa dẫn đến sự thay đổi

về chất trong quan hệ hai nước, do vẫn còn tồn tại những vấn đề như thâm hụt thương

mại, đầu tư, tranh chấp tại Biển Đông... Còn những tiến triển trong quan hệ văn hóa –

117

xã hội qua hai giai đoạn: từ 2005-2013 và từ 2013- nay là chuyển biến diễn ra chậm

và tăng dần với sự thay đổi quan điểm của xã hội và chính phủ Indonesia trong cách

nhìn nhận Trung Quốc cũng như người Hoa thiểu số ở Indonesia. Tuy nhiên, sự tiến

triển chậm trong quan hệ văn hóa – xã hội này cũng cho thấy những trở ngại trong

quan hệ song phương là khá lớn.

Tổng hợp các lĩnh vực, có thể thấy, sự chuyển biến trong quan hệ Trung

Quốc – Indonesia từ sau năm 2005 đến nay chủ yếu là chuyển biến tăng dần, riêng

trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ hai nước chứng kiến sự chuyển biến mang tính đột

biến, do hai nước có sự trùng khớp và bổ sung cho nhau trong chiến lược phát triển

quốc gia, đặc biệt là sự kết nối giữa BRI của Trung Quốc và chiến lược “Trục hàng

hải toàn cầu” của Indonesia.

Thứ hai, về các nhân tố gây ra sự chuyển biến trong quan hệ Trung

Quốc – Indonesia từ năm 2005 đến nay. Đối chiếu các nhân tố ảnh hưởng đến

quan hệ hai nước giai đoạn 2005-2013 và giai đoạn 2013- nay, có thể thấy, cả hai

giai đoạn này có một số nhân tố tương đồng, như: (i) tiến triển trong quan hệ

Trung Quốc – ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế; (ii) Trung Quốc thúc đẩy

chiến lược “đi ra ngoài” (iii) Indonesia cần huy động nguồn vốn từ bên ngoài để

phục vụ phát triển đất nước. Đây sẽ là những nhân tố “giữ” cho quan hệ Trung

Quốc – Indonesia phát triển theo hướng tích cực, tuy nhiên sự phát triển sẽ mang

tính chất “chậm và tăng dần”. Trong khi đó, sự phát triển đột biến trong lĩnh vực

kinh tế trong quan hệ hai nước là kết quả của nhiều nhân tố tác động, nổi bật bao

gồm: sự bổ sung và phù hợp về lợi ích chiến lược trong chiến lược phát triển

quốc gia của cả hai nước, đặc biệt là sự phù hợp giữa BRI của Trung Quốc và

chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia.

Đáng chú ý, trong khi quan hệ trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao và

kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia có những thành tựu rõ rệt (Great

Achievements), đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt, dù bản chất là tăng dần hay đột

biến, thì quan hệ song phương trong lĩnh vực an ninh và văn hóa – xã hội lại là

“chốt hãm” trong mối quan hệ hai nước. Lập trường cứng rắn hơn của Indonesia

118

trong vấn đề Biển Đông, cụ thể từ chỗ tuyên bố là nước không có tranh chấp về

chủ quyền trên biển với Trung Quốc, tới việc thi hành chính sách đánh chìm tàu

và đặt lại tên Biển Bắc Natuna cho thấy chuyển biến trong nhận thức của chính

phủ Indonesia trong việc bảo vệ lợi ích kinh tế của người dân và bảo vệ chủ

quyền quốc gia trước những hành động bành trướng trên biển của Trung Quốc

đối với một số quốc gia ASEAN khác. Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, tuy việc

Tổng thống Yudhoyono ban hành quy định thay đổi thuật ngữ chỉ người Hoa

thiểu số và chỉ Trung Quốc vào năm 2014 là một sự kiện quan trọng, nhưng sự

kiện này chưa dẫn đến sự thay đổi về bản chất trong quan hệ văn hóa – xã hội hai

nước, bởi những năm gần đây, dư luận xã hội Indonesia luôn tồn tại luồng quan

điểm phản đối các dự án đầu tư của Trung Quốc và số lượng lớn lao động Trung

Quốc thâm nhập vào Indonesia theo các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Có thể

thấy, chuyển biến trong quan hệ văn hóa – xã hội giữa hai nước diễn ra chậm, ít

thành tựu lớn, và trong nhiều trường hợp là nhân tố “kéo lùi” sự tiến triển của

tổng thể quan hệ Trung Quốc – Indonesia.

4.1.2. Đặc điểm quan hệ Trung Quốc – Indonesia

Thông qua những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau

năm 2005, kết hợp với lịch sử quan hệ hai nước trước năm 2005, cùng việc vận

dụng các lý thuyết liên quan như Thuyết bất đối xứng, lý thuyết về cường quốc tầm

trung, về quan hệ đối tác chiến lược…, có thể rút ra một số đặc điểm của quan hệ

Trung Quốc – Indonesia như sau:

Đặ điểm thứ nhất, quan hệ Trung Quốc – Indonesia là quan hệ giữa một

cường quốc đang trỗi dậy lớn nhất với một quốc gia đang hướng tới xây dựng

cường quốc tầm trung. Từ thực trạng quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên các lĩnh

vực chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa phát triển đã nêu ở trên, có thể khẳng định

quan hệ Trung Quốc – Indonesia là quan hệ bất đối xứng, song tính chất bất đối

xứng ở mức độ vừa phải.

Trong thời kỳ Tập Cận Bình, mối quan tâm của Trung Quốc đối với

Indonesia đã được thể hiện rõ nét hơn trong tổng thể chính sách ngoại giao láng

119

giềng của Trung Quốc so với các thời kỳ trước. Tuy nhiên, Trung Quốc là một nước

lớn, do đó sự quan tâm của nước này đối với Indonesia dù đã được tăng cường về

mức độ trong thời gian gần đây, nhưng chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối

với Indonesia vẫn nằm trong tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng của Trung

Quốc, là một nội dung bên cạnh nhiều nội dung quan trọng khác của chính sách đối

ngoại Trung Quốc, như chính sách ngoại giao nước lớn, ngoại giao với các nước

đang phát triển, ngoại giao đa phương… Trong khi đó, mối quan tâm của Indonesia

đối với Trung Quốc thậm chí còn gây ảnh hưởng lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống

Indonesia diễn ra vào tháng 4/2019. Cụ thể, “chủ đề Trung Quốc” đã trở thành tâm

điểm tranh cử giữa đương kim Tổng thống Jokowi với đối thủ là Tướng Prabowo

Subianto, khi Tướng Prabowo nhiều lần tuyên bố sẽ xem xét lại các dự án đầu tư từ Trung Quốc [The Asean Post, 2019]. Như vậy có thể thấy, sự chú ý của Trung Quốc

đối với Indonesia chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với các mối quan tâm chung của

Trung Quốc, và so với sự chú ý của Indonesia đối với Trung Quốc.

Có thể thấy, giữa Trung Quốc và Indonesia còn một số trở ngại, nhất là tâm

lý “bài Hoa” ở nước này. Do đó, Indonesia nhạy cảm với bất kỳ thay đổi nào, dù lớn

hay nhỏ, từ Trung Quốc. Trước những lo ngại về việc hàng hóa giá rẻ của Trung

Quốc ồ ạt tràn vào Indonesia sau khi Hiệp định ACFTA chính thức có hiệu lực ngày

1/1/2010, khiến Bộ Thương mại Indonesia ngay lập tức đề nghị đàm phán lại vào

ngày 5/1/2010 cho thấy sự e ngại và mức độ “dễ bị tổn thương” của Indonesia trong

lĩnh vực kinh tế. Điều này cũng giải thích cho việc trì hoãn ký kết tham gia Ngân

hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) giai đoạn đầu và những phát ngôn thận

trọng của lãnh đạo Indonesia trong thời gian đầu Trung Quốc đưa ra Sáng kiến xây

dựng BRI. Cụ thể, ngày 24/10/2014, Indonesia quyết định không tham gia ký kết

Ngân hàng AIIB giai đoạn đầu với lý do chính phủ mới thành lập nên chưa có thời

gian để xem xét đề nghị của Bắc Kinh [Jin, Yudi, 2014]. Đến ngày 27/11/2014,

Indonesia mới chính thức trở thành nước thứ 22 tham gia Ngân hàng này [Feng,

2014]. Tháng 3/2015, trước chuyến thăm chính thức Trung Quốc, Tổng thống

Indonesia Jokowi cho biết: “Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa biết những chi tiết cụ thể

120

trong Sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển. Nhưng nếu nó đem lại lợi ích cho

người dân nước tôi, cho những mối quan tâm của nước tôi và của Trung Quốc, thì

chúng tôi đồng ý” [Ibrahim, 2015]. Tuy nhiên, Tổng thống Jokowi cũng nhấn mạnh

sẽ không cho phép hợp tác để thỏa hiệp chủ quyền và quyền tài phán của Indonesia

[Gosman, 2016].

Không chỉ thế, giống như trong lập luận mà Womack (2006) đưa ra, nhận

thức về mối đe dọa có thể được tăng cường bởi nhiều yếu tố bao gồm di sản lịch sử,

sự gần gũi, ý thức hệ và hành động. Việc truyền thông Indonesia những năm gần

đây không ít lần đưa thông tin cho rằng hiện có khoảng 10-20 triệu lao động Trung

Quốc đang tiến vào Indonesia, nhận mức lương thấp hơn, và cạnh tranh sức lao

động tại Indonesia cho thấy vấn đề tồn tại trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia

không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là những “di sản lịch sử” để lại trong

quan hệ hai nước [Tempo, 2015]. Lịch sử Indonesia đã chứng kiến nhiều giai đoạn

thi hành chính sách “bài Hoa”, do người dân Indonesia bất mãn với thực trạng phân

phối sản phẩm xã hội mất cân đối nghiêm trọng giữa một bên là đa số người dân

bản địa với một bên là thiểu số người Hoa [Châu Thị Hải, 2001, tr. 48; Christian

Chua, 2008, tr.44]. Có thể thấy, mâu thuẫn giữa người Indonesia và người Hoa tuy

là vấn đề do lịch sử để lại, nhưng lại gây nhiều ảnh hưởng trong đời sống xã hội

Indonesia hiện nay, chi phối nhiều đến tư tưởng tình cảm và quan điểm của người

dân Indonesia đối với người Trung Quốc và Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Có

thể thấy, các sự kiện trong mối quan hệ có tác động lớn hơn đối với Indonesia, hay

nói cách khác, mối quan hệ Trung Quốc – Indonesia được trải nghiệm mạnh mẽ

hơn bởi Indonesia. Do đó, nỗi sợ hãi của Indonesia về mối quan hệ song phương

cũng sẽ sống động hơn so với Trung Quốc.

Tuy nhiên, so với các quốc gia khác trong khu vực, tính chất bất đối xứng

trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia thể hiện ở mức độ vừa phải, điều này thể

hiện rõ qua các sự kiện quan trọng diễn ra trong thời gian gần đây trong quan hệ

hai nước. Ví dụ, ngay sau khi Indonesia tuyên bố tạm dừng để “đàm phán lại” về

các điều khoản được ký kết trong văn bản xây dựng Khu Thương mại tự do

121

ACFTA (5/1/2010), thì tại Hội nghị lần thứ 2 cơ chế đối thoại cấp Phó Tổng thống

giữa hai nước, lãnh đạo hai bên đã ký kết Kế hoạch hành động (21/1/2010), theo

đó cam kết hai nước sẽ cùng thúc đẩy ACFTA. Ngoài ra, Indonesia là nơi Chủ tịch

Trung Quốc Tập Cận Bình lựa chọn để đưa ra ý tưởng xây dựng “Con đường tơ

lụa trên biển thế kỷ XXI” vào năm 2013, điều này chứng tỏ Indonesia có vị trí đặc

biệt quan trọng trong thiết kế chiến lược của Trung Quốc. Bên cạnh đó, dù hai

nước có xảy ra va chạm trên Biển Đông, Indonesia thậm chí còn thực hiện chính

sách “đánh chìm tàu” cứng rắn, và đặt lại tên vùng biển có sự chồng lấn trong

phân định lãnh thổ là Biển Bắc Natuna. Phản ứng của Trung Quốc trước những sự

kiện này được cho là “mềm mỏng” hơn so với các tình huống tương tự giữa Trung

Quốc với một số quốc gia khác trong khu vực, như Philippines, Nhật Bản. Điều đó

chứng tỏ rằng, dù quan hệ Trung Quốc – Indonesia là một cặp quan hệ bất đối

xứng, nhưng không phải là Indonesia ít có khả năng ảnh hưởng đến hành vi của

Trung Quốc. Trái lại, thực tế đã chứng minh, dù Trung Quốc là nước lớn hơn

trong mối quan hệ bất đối xứng này, nhưng Trung Quốc vẫn dành một mối quan

tâm nhất định, thậm chí có sự cân nhắc về vị trí, tầm quan trọng và sức ảnh hưởng

của Indonesia trong khu vực khi đưa ra một số chính sách trong các trường hợp

đặc thù.

Gần đây nhất, căng thẳng giữa Trung Quốc và Indonesia tại khu vực quần

đảo Natuna vào cuối tháng 12/2019 và đầu tháng 1/2020 đã có những tác động

tiêu cực đến cục diện khu vực này, làm xói mòn lòng tin của các quốc gia trong

khu vực đối với Trung Quốc. Động thái của Trung Quốc trong vụ việc cuối tháng

12/2019 tại quần đảo Natuna có thể thúc đẩy quá trình chạy đua vũ trang ở khu

vực, đồng thời tạo động cơ mạnh mẽ hơn cho các nước trong khu vực tăng cường

hợp tác quốc phòng – an ninh với các đối tác bên ngoài, như Mỹ, Nhật Bản, Ấn

Độ và Australia. Việc Indonesia kêu gọi các nước khác đầu tư vào quần đảo

Natuna nhằm ứng phó với các hành động của Trung Quốc là một trong những

minh chứng rõ nhất cho điều này. Mặt khác, phản ứng của Indonesia lần này đối

với hành vi bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông có ý nghĩa lớn, không chỉ

122

bởi Indonesia là một quốc gia ngày càng lớn mạnh ở cả Đông Nam Á và ngoài

khu vực, mà còn bởi, bất kỳ sự phản kháng nào của Indonesia chống lại Trung

Quốc về mặt ngoại giao và chiến lược đều có lợi trong việc áp đặt các giới hạn

hơn nữa đối với sức mạnh của Trung Quốc. Đồng thời, phản ứng của Indonesia

cũng góp phần thúc đẩy các quốc gia khác xung quanh Biển Đông cũng như các

quốc gia thành viên ASEAN ngày càng có tiếng nói chung thống nhất hơn trong

việc ứng phó với các nguy cơ an ninh đến từ Trung Quốc. Điều này tạo nên “sức

mạnh” của Indonesia, khiến nước này tuy có mối quan hệ bất đối xứng với Trung

Quốc, nhưng mức độ đối xứng vừa phải.

Đặ điểm thứ hai, về mứ độ quan hệ, quan hệ giữa Trung Quốc và

Indonesia hiện nay đang dao động ở mức giữa Hình thức và Kết nối chặt chẽ.

Như đã trình bày ở Chương 2, Luận án đối chiếu với các mức độ của quan hệ đối

tác chiến lược trong nghiên cứu Gajauskaite (2013, tr.197) so sánh với một số

trường hợp quan hệ với Trung Quốc (đã trình bày ở cuối chương 2), từ đó đưa ra

một số đánh giá về mức độ quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia.

Bảng 4.2. Đánh giá mức độ của quan hệ Trung Quốc – Indonesia

Lĩn ực

Yếu

tố

Cấu trúc bên

Việc thực hiện các kỳ vọng của đối tác Mứ

độ

hợp tác

hợp tác

trong

của

của đối tác

quan hệ

chiến lược

Chính trị/

Chính trị/

Thiết lập vai

- Năm 2005: thiết lập quan hệ đối tác chiến

Hình thức

ngoại

ngoại

trò của đối tác

lược;

giao

giao

- Năm 2013: nâng cấp lên thành quan hệ

đối tác chiến lược toàn diện

An ninh/

Cơ quan/

Hiệp định trên

- Năm 2007: ký Bản ghi nhớ về Hợp tác

Quốc

tổ

chức

các lĩnh vực

Quốc phòng;

phòng

chính phủ

và nhân

tố

- Năm 2010 mới thông qua Kế hoạch hành

hợp tác

động để triển khai hợp tác quốc phòng;

- Trong năm 2016: 3 lần va chạm trong

vùng đặc quyền kinh tế gần đảo Natuna;

- Tháng 7/2017: Indonesia công bố bản đồ,

đặt tên vùng biển gần quần đảo Natuna là

“Biển Bắc Natuna”

123

Kinh

tế/

Khu vực

Thiết lập các

- Việc kết nối BRI và chiến lược “Trục

Kết nối chặt

thương

kinh tế tư

quy tắc, luật

hàng hải toàn cầu” được đưa vào Tuyên bố

chẽ

mại

nhân

lệ

chung năm 2015;

- Thành lập 3 khu hợp tác thương mại giữa

hai nước;

- Thâm hụt thương mại ngày càng tăng;

hiệu quả đầu tư thực tế của Trung Quốc

vào Indonesia chưa cao; tỉ lệ thực hiện các

dự án đầu tư chưa nhiều.

- Hợp tác thể hiện tính chất bổ sung cho

nhau, đồng thời thể hiện tính bất đối xứng.

Văn hóa/

Cơ quan/

Hình

thành

- Chưa hình thành được các cơ chế, thể chế

Giáo dục

tổ

chức

các

thể chế

song phương hiệu quả;

phi chính

song phương

phủ

hiệu quả

Xã hội

Xã hội

Giám

sát

- Chưa tạo được vị trí chung trên trường

thường xuyên

quốc tế;

- Trong xã hội Indonesia còn tồn tại một số

bất đồng xoay quanh “chủ đề Trung Quốc”

Nguồn: Tác giả lập bảng dựa theo các tiêu chí trong nghiên cứu Ieva Gajauskaite (2013),

Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative Analysis of Polish—Ukrainian and

Lithuanian-Ukrainian Strategic Partnerships, Lithuanian Annual Strategic Review, 1 (11), pp.197.

Từ những so sánh đối chiếu thể hiện trong Bảng 4.2, có thể thấy, mức độ

quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia hiện nay đang dao động ở mức giữa

Hình thức và Kết nối chặt chẽ, do hai nước tuy có nhiều Tuyên bố chung và

hành động hợp tác trong các lĩnh vực Chính trị/ ngoại giao và Kinh tế/ thương

mại, song hợp tác trên các lĩnh vực khác vẫn chưa đạt được hiệu quả thực tế,

chưa hình thành được các cơ chế, thể chế phối hợp song phương. Bản thân hợp

tác trong lĩnh vực kinh tế/ thương mại cũng còn tồn tại nhiều vấn đề, thể hiện

tính bất đối xứng trong quan hệ hai nước. Đáng chú ý, những biểu hiện của mức

độ Kết nối chặt chẽ, như việc kết nối BRI với chiến lược “Trục hàng hải toàn

124

cầu”, việc thành lập các hợp tác khu thương mại giữa hai nước… chủ yếu mới

xuất hiện trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay. Đây cũng chính là sự chuyển

biến về mức độ quan hệ giữa hai nước trong hai giai đoạn trước và sau năm

2013: chuyển từ mức độ Hình thức dần sang mức độ Kết nối chặt chẽ. Thậm chí,

học giả Mohamad Zreik (2019) còn cho rằng mối quan hệ Trung Quốc –

Indonesia đang tiến gần đến mức độ “liên minh”: “Tất cả các chỉ số chính trị và

kinh tế chỉ ra rằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia đang phát triển

nhanh chóng và có thể trở thành một liên minh, do đó Indonesia sẽ là đối tác

quan trọng của Trung Quốc trong một khu vực địa lý nhạy cảm quốc tế...”. Tuy

nhiên, Luận án cho rằng, vẫn tồn tại những “chốt hãm” trong quan hệ Trung

Quốc – Indonesia, khiến quan hệ hai nước này vẫn chưa thể gắn kết như quan hệ

liên minh.

So sánh với những đánh giá về quan hệ giữa Trung Quốc với một số nước

khác, có thể thấy, cùng là các nước ASEAN, nhưng mức độ kết nối chặt chẽ

trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia dường như thấp hơn mức độ này trong

quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, dù cho về tên gọi, cả hai nước đều là đối tác

chiến lược toàn diện của Trung Quốc. Đối với cặp quan hệ Trung Quốc – Việt

Nam, tuy giữa hai nước vẫn còn tồn tại một số vấn đề về lòng tin liên quan đến

lĩnh vực an ninh - quốc phòng, cụ thể là những tranh chấp chủ quyền trên biển

Đông, tuy nhiên hợp tác trong các lĩnh vực khác lại đạt được những hiệu quả

nhất định. Ví dụ, về lĩnh vực ngoại giao, quan hệ Trung Quốc – Việt Nam không

chỉ duy trì quan hệ giữa hai quốc gia, mà còn duy trì quan hệ giữa hai Đảng

Cộng sản; hợp tác trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục cũng có nhiều thuận lợi và

thành tựu do những tương đồng về hệ tư tưởng Nho giáo trong lịch sử cũng như

tương đồng trong thể chế chính trị.

Còn với trường hợp Malaysia, cả Indonesia và Malaysia đều là quốc gia

có vị trí chiến lược quan trọng đối với Trung Quốc khi kiểm soát eo biển

Malacca, đều là các quốc gia có ảnh hưởng lớn trong ASEAN và đều là các quốc

gia Islam. Cả hai nước đều tồn tại vấn đề người Hoa thiểu số trong lịch sử. Tuy

125

nhiên, trong lịch sử quan hệ với Trung Quốc, Malaysia đã nhiều lần áp dụng

chiến lược “phù thịnh” có giới hạn (Limited-bandwagoning) đối với Trung

Quốc, như khi coi Trung Quốc là một đối tác có giá trị trong việc thúc đẩy mục

tiêu hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nền kinh tế Đông Á. Một ví dụ khác, việc

Malaysia tái khởi động các dự án có liên quan đến BRI sau khi tạm dừng gần

một năm đã phần nào cho thấy sự “nhượng bộ” của Trung Quốc khi chấp nhận

sửa đổi một số thỏa thuận mà chính phủ Malaysia yêu cầu. Không chỉ vậy, sau

chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Mahathir tháng 4/2019, Malaysia tiếp tục

ủng hộ Huawei của Trung Quốc trong khi Mỹ tìm cách ngăn chặn tập đoàn này

bành trướng ra toàn cầu với những nghi ngại về an ninh mạng. Trong khi đó, mặc

dù đã có tiến triển hơn trong các chính sách mang tính Ràng buộc – Can dự với

Trung Quốc so với giai đoạn 2005-2013, nhưng hiện nay, Indonesia vẫn chưa có

những hành động mang tính “phù thịnh” có giới hạn như của Malaysia. Do đó, dù

cùng là đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, nhưng mức độ quan hệ Trung

Quốc – Indonesia vẫn kém mật thiết hơn so với quan hệ Trung Quốc – Malaysia.

Có thể thấy, quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc với một số nước

hiện nay trong tình trạng “tên gọi không phản ánh đúng thực chất”. Trong quan hệ

đồng minh, các thành viên trong hợp tác đồng minh thường phải ký kết các điều

ước mang ý nghĩa luật pháp quốc tế, cần chịu trách nhiệm và có tính ràng buộc cao,

đồng thời nhằm vào một số mục tiêu cụ thể để hợp tác. Còn quan hệ đối tác thường

không phải ký kết bất kỳ điều ước nào, hai bên không bị bó buộc bởi các điều ước

liên kết đồng minh hay phải chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ [张 锐, 2016, tr. 42-44].

Điều đáng nói là, các dạng thức quan hệ đối tác về tên gọi phản ánh được phần nào

quan hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia này, chứ không phản ánh hoàn toàn bản

chất các mối quan hệ đó, có những trường hợp “hữu danh vô thực”. Một số quốc

gia, ví dụ tại Đông Nam Á tuy trên danh nghĩa là “đối tác chiến lược toàn diện” hay

“đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, nhưng quan hệ hai nước gần đây đứng trước

nhiều nguy cơ và thách thức. Trong khi đó một số quốc gia khác, ví dụ ở Trung

Đông, do là nước đồng minh với Mỹ, nên không có tên gọi là quan hệ đối tác với

126

Trung Quốc, nhưng trên thực chất quan hệ hợp tác với Trung Quốc lại rất tốt. Chính

vì vậy, khi nghiên cứu quan hệ đối tác giữa Trung Quốc với một quốc gia/ tổ chức

quốc tế nào đó, không những cần căn cứ vào tên gọi của cặp quan hệ, mà còn cần

phân tích các yếu tố liên quan trên các lĩnh vực cụ thể để xác độ mức độ và bản chất

quan hệ.

Đặ điểm thứ ba, giữa các lĩnh vực trong quan hệ song phương có sự mất

cân đối, trong đó, quan hệ kinh tế phát triển nhanh, quan hệ chính trị chuyển biến

dần dần, quan hệ quốc phòng an ninh và giao lưu văn hóa – xã hội còn mờ nhạt.

Trong lĩnh vực kinh tế, do có sự bổ sung và kết nối giữa BRI của Trung Quốc với

chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia, hợp tác giữa hai nước đã chứng

kiến sự phát triển vượt bậc, đặc biệt từ sau khi hai nước nâng cấp lên quan hệ đối

tác chiến lược toàn diện vào năm 2013. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều năm

2018 đạt mốc 72,48 tỷ USD, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn thứ hai ở Indonesia

trong cả năm 2019 chỉ sau Singapore. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược

chung của Trung Quốc trong đầu tư tại khu vực Đông Nam Á, như Michael

Sampson (2019) tổng kết: thông qua số lượng lớn các thỏa thuận thương mại mà

Trung Quốc đưa ra, các đối tác thương mại yếu thế hơn Trung Quốc đã trở nên phụ

thuộc hơn về kinh tế đối với Trung Quốc. Trung Quốc cũng đang tận dụng sự phụ

thuộc này để cải thiện vị thế thương lượng của mình trong các thỏa thuận thương

mại và cả trong các vấn đề ngoài thương mại (như chính trị, an ninh…) [Sampson,

2019, tr.22-23].

Trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, quan hệ ngoại giao giữa hai nước được

thúc đẩy bởi các chuyến thăm lãnh đạo cấp cao, cùng việc ký kết các văn bản hợp

tác quan trọng. Hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005, nhưng

phải đến năm 2010 và 2011, hai nước mới tiếp tục ký kết Kế hoạch hành động và

Thông cáo chung, nhằm thúc đẩy việc triển khai thực chất văn bản đã ký kết vào

năm 2005. Điều này phần nào cho thấy trong suốt 5 năm sau khi thiết lập quan hệ

đối tác chiến lược, quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước chưa đạt được những

kết quả mà lãnh đạo cấp cao hai nước mong đợi. Việc ký kết nâng cấp quan hệ lên

127

thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013 nhằm thúc đẩy quan hệ phát triển

thực chất, hiệu quả hơn. Từ năm 2013 đến nay, các chuyến thăm cấp cao đã được

tiến hành với tần suất cao hơn, đồng thời, các văn bản hợp tác ở cấp lãnh đạo cao

nhất cũng diễn ra đều đặn hơn, với lần ký kết năm 2015 và 2018. Điều này cho thấy

nhu cầu hợp tác và kết nối chính sách giữa hai nước đã trở thành vấn đề mang tính

thường xuyên hơn, chứ không chỉ là những vấn đề mang tính chất cấp bách, “tình

thế”, khi Trung Quốc cần sự hậu thuẫn lớn hơn từ Indonesia như trong giai đoạn

2005-2013. Do đó, xét về tổng thể, từ năm 2005 đến nay, quan hệ chính trị ngoại

giao Trung Quốc – Indonesia chuyển biến với tính chất tiệm tiến.

Còn trong lĩnh vực quan hệ văn hóa – xã hội, sự khác biệt giữa Trung Quốc

và Indonesia, đặc biệt sự không dung hòa giữa tính chất của chủ nghĩa cộng sản, và

chủ nghĩa Islam đã tạo ra sự khác biệt trong văn hóa chính trị của hai nước. Nếu

như Trung Quốc luôn đề cao sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản đối với tất

cả mọi việc, đồng thời sử dụng các biện pháp cứng rắn để chống lại phong trào

Islam cực đoan, thì các nhà lãnh đạo Indonesia luôn phải tìm cách “làm vừa lòng”

số đông các tín đồ Islam tại quốc gia Islam đông dân nhất thế giới này. Sự khác biệt

trong văn hóa chính trị của hai nước, cùng diễn biến ngày càng phức tạp của phong

trào Islam trên thế giới và tại Indonesia, cùng việc các chính sách Tân Cương của

Trung Quốc hiện đang bị nhiều nước chỉ trích gay gắt, sẽ là những nhân tố có thể

gây ra những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia theo chiều hướng

xấu đi trong tương lai. Những vấn đề khác như ảnh hưởng tiêu cực từ quan hệ kinh

tế hai nước, mâu thuẫn giữa người Indonesia bản địa và người Hoa Indonesia, tình

cảm chống Trung Quốc của người dân Indonesia… đều là những rào cản khiến

quan hệ hai nước tiến triển chậm trong lĩnh vực văn hóa – xã hội.

4.2. T động của chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia

Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005

đến nay không chỉ gây nhiều tác động đối với bản thân Trung Quốc, Indonesia, mà

còn ảnh hưởng đến thế giới và khu vực, như tác động đến ASEAN, đến chiến lược

128

của các cường quốc khác, và tới Việt Nam.

4.2.1. Tác động đến Trung Quốc và Indonesia

Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có ảnh hưởng

trước nhất đến bản thân hai nước Trung Quốc và Indonesia, cụ thể, tác động đến

chính sách đối ngoại của hai nước. Với Trung Quốc, những chuyển biến trong mối

quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược Đông Nam Á của Trung Quốc. Với

Indonesia, những thay đổi trong mối quan hệ với quốc gia đứng thứ hai thế giới này

đã gây tác động đến chính sách ASEAN và chính sách nước lớn của Indonesia.

Thứ nhất, tác động đến Trung Quốc. Mối quan hệ song phương chặt chẽ giữa

Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN luôn là nền tảng thiết yếu cho ngoại

giao đa phương của Bắc Kinh. Mặt khác, sự tham gia ngày càng nhiều của Trung

Quốc vào các thể chế đa phương trong khu vực đã dần củng cố niềm tin chính trị của

ASEAN đối với Bắc Kinh, qua đó củng cố mối quan hệ song phương giữa Trung

Quốc và các thành viên ASEAN. Quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng không ngoại

lệ, cũng là nền tảng cho ngoại giao đa phương của Trung Quốc, tác động không ít đến chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc [Kuik, 2005, tr.114-115].

Đông Nam Á là khu vực chứa đầy cơ hội phát triển đối với Trung Quốc. Đây là

khu vực gần về mặt địa lý, hấp dẫn về kinh tế, tương đồng về lịch sử với Trung Quốc,

và có một số lượng người gốc Hoa lớn có ảnh hưởng về kinh tế tại các nước trong khu

vực. Đông Nam Á lại nằm trên các tuyến đường biển có ý nghĩa chiến lược về an ninh

năng lượng của Trung Quốc. Do ẩn chứa ý nghĩa chiến lược quan trọng như vậy, Trung

Quốc luôn muốn đạt được ưu thế trong khu vực Đông Nam Á. Các chính sách của

Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á nhằm thực hiện một số mục tiêu chiến lược như

sau: (i) làm giảm ảnh hưởng của các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là Mỹ; (ii) tạo

vùng đệm chiến lược thông qua các quốc gia thân thiện trong khu vực; (iii) bảo vệ lãnh

thổ của Trung Quốc tại Biển Đông. Bên cạnh đó, khi Trung Quốc trỗi dậy và trở thành

nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhu cầu nhập khẩu dầu và khí đốt tự nhiên đang ngày

càng tăng lên, với phần lớn lượng nhập khẩu đi qua eo biển Malacca. Do đó, an ninh

129

của các tuyến đường biển ở khu vực Đông Nam Á có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh của Trung Quốc [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.32]. Mục tiêu của Trung Quốc trong

việc duy trì môi trường láng giềng ổn định là nhằm: tạo điều kiện thuận lợi cho tăng

trưởng kinh tế; tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại có lợi cho sự nghiệp hiện đại

hóa và ổn định kinh tế của Trung Quốc; thể hiện cho các nước Đông Nam Á thấy

Trung Quốc đóng vai trò là cường quốc quan trọng nhất ở châu Á; duy trì và mở rộng

các tuyến thương mại; phát triển quan hệ thương mại nhằm phục vụ các mục tiêu kinh

tế và chính trị, tiếp cận các nguồn năng lượng và nguyên liệu thô trong khu vực [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.33].

Tăng cường quan hệ với Indonesia trong bối cảnh hiện nay được xem như một

hướng trong chiến lược gia tăng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á của Trung Quốc.

Với vị thế là một nước lớn trên thế giới và trong khu vực, Trung Quốc dường như

chiếm thế chủ động trong việc đưa ra những chiến lược và chính sách trong hợp tác với

Indonesia. Thực tế đã chứng minh, dù giữa Trung Quốc và Indonesia vẫn tồn tại nhiều

vấn đề, dù chính sách biển của Indonesia đang ngày càng cứng rắn hơn đối với Trung

Quốc, nhưng các cuộc tiếp xúc ngoại giao cấp cao giữa hai nước vẫn được tăng cường,

và hợp tác kinh tế thu được nhiều kết quả vượt bậc. Những chuyển biến trong quan hệ

Trung Quốc – Indonesia đã cung cấp cho Trung Quốc một ví dụ thực tế về cách quản

lý mối quan hệ bất đối xứng với một quốc gia Đông Nam Á, nhằm tạm gác lại tranh

chấp đề cùng nhau khai thác các tiềm năng hợp tác. Thực tiễn quan hệ giữa Trung

Quốc với một quốc gia Đông Nam Á, trong trường hợp này là Indonesia, đã thúc đẩy

Trung Quốc áp dụng một số chính sách đối với Đông Nam Á, nhằm cải thiện hình ảnh

quốc tế, và loại bỏ nhận thức coi Trung Quốc như một mối đe dọa.

Các chính sách Đông Nam Á mà Trung Quốc triển khai trong giai đoạn hiện

nay chủ yếu bao gồm: Một là, tiếp tục thúc đẩy các khái niệm về phát triển hòa bình,

như “chính sách tam lân”, “ngoại giao xung quanh”, “Cộng đồng chung vận mệnh”…,

nhằm xóa bỏ ấn tượng rằng Trung Quốc đang mong muốn trở thành quốc gia thống trị

khu vực. Hai là, làm nổi bật các lợi ích kinh tế và chiến lược chung giữa Trung Quốc

với các quốc gia Đông Nam Á (trong trường hợp Indonesia là sự kết nối giữa BRI với

chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu). Ba là, tăng cường quan hệ với ASEAN bằng cách

130

tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau và giải quyết các khác biệt trong hợp tác, thông qua

tăng cường hợp tác song phương và đa phương với các nước ASEAN, củng cố vai trò

dẫn đầu trong hội nhập kinh tế khu vực. Cuối cùng, nỗ lực tăng cường ảnh hưởng của

sức mạnh mềm tại Đông Nam Á, thông qua việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa sang

khu vực Đông Nam Á, thành lập các học viện Khổng Tử, cung cấp nhiều chương trình học bổng cho học sinh các nước Đông Nam Á [Tsai, Hung, Tony, 2011, tr.38-39].

Bên cạnh đó, trong bối cảnh Trung Quốc đề xướng và thúc đẩy xây dựng

BRI, mặc dù ban đầu sự ủng hộ của Indonesia có đôi chút miễn cưỡng, nhưng là

quốc gia lớn nhất Đông Nam Á, nước này muốn tìm cách tăng cường vai trò quốc tế,

nhất là trong quan hệ song phương, đồng thời muốn thể hiện vai trò trung gian trong

các vấn đề liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Những thành tựu trong hợp tác

kinh tế giữa hai nước về đầu tư cơ sở hạ tầng, hợp tác năng lượng... có tác dụng

thúc đẩy tiến trình triển khai BRI tại Indonesia nói riêng, và tại Đông Nam Á nói

chung.

Đáng chú ý, leo thang căng thẳng trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia tại

khu vực quần đảo Natuna sau vụ việc cuối tháng 12/2019 đã tác động tiêu cực đối

với Trung Quốc. Cụ thể, hành động của Trung Quốc trong vụ việc này đã làm xói

mòn lòng tin của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc. Nhiều nước

ASEAN đang ngày càng nghi ngờ đối với ý đồ thực sự của Bắc Kinh đối với khu

vực, đặc biệt trong vấn đề Biển Đông. Hành động gây hấn của Trung Quốc có thể

với mục tiêu ban đầu là “thử phản ứng” cũng như thăm dò “giới hạn đỏ” của

Indonesia, nhưng phản ứng gay gắt của Indonesia cũng như của các nước khác có

thể thúc đẩy các quốc gia thành viên ASEAN đi đến tiếng nói chung thống nhất hơn

trong việc ứng phó với Trung Quốc. Đồng thời, việc Bắc Kinh tăng cường kiểm

soát thực tế ở Biển Đông sẽ càng thúc đẩy các quốc gia có tranh chấp với Bắc Kinh

ở khu vực này tiến lại gần các nước lớn khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và

Australia.

Thứ hai, tác động đến Indonesia. Quan hệ với Trung Quốc cũng gây tác

động đến chính sách đối ngoại của Indonesia, cụ thể, tác động đến vị trí của ASEAN

131

trong chính sách đối ngoại của nền kinh tế lớn nhất ASEAN này. Trong các giai đoạn

trước, ASEAN luôn được đặt ở vị trí ưu tiên, hoặc trung tâm trong các chính sách đối

ngoại của Indonesia. Thời kỳ Trật tự mới, ASEAN được xếp vào vòng tròn trong

cùng trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Suharto kiểu “các vòng tròn đồng

tâm” với ưu tiên đối ngoại được sắp xếp theo khoảng cách địa lý [Vũ Thái Lê Hoàng,

Lê Linh Lan, 2014, tr.119]. Dưới thời kỳ Tổng thống Susilo, Indonesia lần đầu tiên

đưa ra khái niệm “cân bằng năng động“ (dynamic equilibrium) về định hướng chính

sách đối ngoại trong năm làm Chủ tịch ASEAN (2011). Theo đó, các nước hợp tác

thông qua mạng lưới các cơ chế khu vực với vai trò trung tâm của ASEAN và các cơ

chế do tổ chức này dẫn dắt. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ ngày

càng gay gắt hiện nay, nội bộ Indonesia đã chia thành 2 trường phái khác nhau: một

nhóm “ủng hộ ASEAN” (pro-ASEANists) và nhóm “hậu ASEAN” (post-

ASEANists). Trong đó, nhóm “hậu ASEAN” cho rằng nếu quá coi trọng ASEAN

trong chính sách đối ngoại có thể sẽ cản trở những tham vọng đối ngoại lớn hơn của

Indonesia trên trường quốc tế, đồng thời những chia rẽ nội bộ kéo dài sẽ làm suy yếu

ASEAN, làm tổn hại lợi ích quốc gia của Indonesia. Do đó, nhóm này chủ trương

Indonesia cần mở rộng tầm ảnh hưởng vượt ra ngoài khuôn khổ ASEAN: “Chúng tôi

từng nói ASEAN là viên gạch nền cho chính sách đối ngoại của chúng tôi. Bây giờ

chúng tôi thay đổi lại rằng ASEAN là một trong những viên gạch nền trong chính

sách đối ngoại.” [Parameswaran, 2014c]. Sự thay đổi trong chính sách ASEAN của

Indonesia, mà một phần nguyên nhân do quan hệ với Trung Quốc đem lại những lợi

ích và hiệu quả nhất định, sẽ thúc đẩy Indonesia phát huy vai trò và củng cố vị trí tốt

hơn trong khu vực rộng lớn hơn và trên trường quốc tế.

Ngoài ra, chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia còn gây tác

động đến chính sách nước lớn của Indonesia. Như đã phân tích ở các nội dung trước,

Indonesia là một một quốc gia có ảnh hưởng nhất định trong khu vực và nhiều tổ

chức thế giới, lại có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có vị trí chiến lược

quan trọng là cầu nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, do đó, các nước lớn

luôn muốn gia tăng ảnh hưởng tại quốc gia quần đảo này, nhằm đạt được các lợi ích

132

chiến lược trong khu vực. Chính sách đối ngoại của Indonesia qua các thời kỳ cho

thấy quốc gia này luôn mong muốn cân bằng ảnh hưởng của các cường quốc. Quan

hệ đối tác chiến lược là một trong các nền tảng được các nhà hoạch định chính sách

Indonesia sử dụng nhằm đưa các cường quốc vào các quy tắc và thể chế khu vực, và

để không bị quá phụ thuộc vào bất cứ cường quốc nào. Việc mối quan hệ Indonesia –

Mỹ trở nên xấu đi sau Chiến tranh Lạnh do lệnh trừng phạt của Mỹ đối với các hành

vi vi phạm nhân quyền của chính quyền Suharto đã khiến Indonesia nhận thấy những rủi ro của việc phụ thuộc vào một cường quốc [Priyandita, 2019, tr.6-7]. Do đó, các

nhà lãnh đạo Indonesia đã cố gắng cải thiện quan hệ song phương với các cường

quốc khác. Chiến lược “phòng ngừa rủi ro”/ “phòng bị nước đôi” (hedging) này được

Indonesia áp dụng khá thành công khi cân bằng ảnh hưởng của các nước lớn.

Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, cụ thể, theo hướng

phát triển đột biến về kinh tế, buộc Indonesia phải có những chính sách phát triển

quan hệ với các cường quốc khác trong các lĩnh vực khác, để không quá bị phụ thuộc

vào cường quốc nào. Ví dụ, trong bối cảnh quan hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia

đang trên đà tăng vọt cùng với việc triển khai BRI của Trung Quốc và chiến lược

“Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia, năm 2015, Indonesia và Mỹ đã ký kết quan

hệ đối tác chiến lược. Theo đó, quan hệ quốc phòng Indonesia – Mỹ đã được tăng

cường với việc ký kết một tuyên bố chung về hợp tác quốc phòng toàn diện, bao gồm

hợp tác trong các lĩnh vực như cùng phát triển và hợp tác sản xuất thiết bị quốc phòng.

Hai bên cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác hàng hải, điều phù hợp với chiến

lược “quay lại Châu Á” của Mỹ và Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” mà Tổng

thống Jokowi đang thúc đẩy [The White House Office, 2015].

Một ví dụ khác, chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis

(22/1/2018) diễn ra trong bối cảnh các hoạt động hung hăng của Trung Quốc (triển

khai hải quân, chiếm đảo san hô, xây dựng đảo và pháo đài) đang diễn ra nhằm giúp

nước này giành quyền kiểm soát tốt hơn trên phần lớn Biển Đông. Những điểm nhấn

hợp tác mà Bộ trưởng Quốc phòng Mattis đã đề cập trong chuyến thăm bao gồm:

chống khủng bố, bán vũ khí, huấn luyện Lực lượng Đặc biệt Quân đội Indonesia

133

(Kopassus), và hợp tác an ninh hàng hải (bao gồm cả Biển Đông và Biển Sulu)

[Pangestu, 2017]. Đáng chú ý, Bộ trưởng Mattis trong chuyến thăm đã công nhận tên

Biển Bắc Natuna mà Indonesia đã chính thức sửa trên bản đồ nước này vào tháng

7/2017. Có thể thấy, cùng với những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc –

Indonesia, Chính phủ Indonesia đã có những chính sách tương ứng với các cường

quốc khác, nhằm giữ cho chính sách đối ngoại của mình giữ ở điểm trung lập, không

áp dụng chính sách “phù thịnh” đối với bất kỳ cường quốc nào, kể cả biện pháp “phù

thịnh” có giới hạn mà một số quốc gia ASEAN như Malaysia và Thái Lan sử dụng

trong quan hệ với Trung Quốc. Điều này giúp cho Indonesia tận dụng được tối đa lợi

ích từ hợp tác với các cường quốc để phục vụ cho phát triển trong nước.

4.2.2. Tác động đến thế giới và khu vực

Quan hệ Trung Quốc - Indonesia là cặp quan hệ quan trọng đối với khu vực

Đông Nam Á, với một bên là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về diện tích và dân

số, và một bên là quốc gia láng giềng lớn, có tầm sức ảnh hưởng với hầu hết các

quốc gia thuộc khu vực này. Ngoài ra, cả Trung Quốc và Indonesia đều khởi xướng,

dẫn dắt và có nhiều ảnh hưởng tại nhiều diễn đàn đa phương, do đó, mức độ ổn định

của cặp quan hệ này có ảnh hưởng tới sự ổn định của khu vực.

Thứ nhất, tác động đối với ASEAN, thể hiện ở hai khía cạnh: góp phần thúc

đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN nói chung; gia tăng can dự của Trung Quốc với

ASEAN thông qua các thành viên, điều này gia tăng sự tác động của Trung Quốc đối

với đoàn kết nội bộ ASEAN.

Một mặt, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia góp phần

thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN nói chung phát triển theo chiều hướng tích cực.

Trong các tuyên bố chung giữa hai nước, các nhà lãnh đạo Indonesia đều cam kết sẽ

thúc đẩy sự phát triển quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Không phải ngẫu nhiên, Kế

hoạch hành động giữa Trung Quốc và Indonesia (ký kết ngày 21/1/2010) bao gồm nội

dung cùng thúc đẩy xây dựng Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, cùng thúc

đẩy sự phát triển trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, diễn ra trong bối cảnh ngay sau

khi ACFTA có hiệu lực vào ngày 1/1/2010, thì ngày 5/1/2010, Bộ trưởng Thương mại

134

Indonesia đưa ra đề nghị “đàm phán lại” để “hàng hóa nhập khẩu rẻ không tràn vào

làm lụt thị trường mà không bị ngăn chặn” [BBC, 2010]. Rõ ràng, Trung Quốc muốn

giành được nhiều hơn sự ủng hộ của Indonesia với tư cách là quốc gia đứng đầu

ASEAN trong việc thúc đẩy xây dựng ACFTA. Bên cạnh đó, những tiến triển nhanh

chóng trong hợp tác giữa hai nước cũng như sự ủng hộ của Indonesia vào các cơ

chế mà Trung Quốc khởi xướng (như AIIB, chiến lược “Vành đai và Con đường”...)

đã góp phần khuyến khích sự phát triển của những thể chế kinh tế do Trung Quốc

dẫn dắt ở khu vực. Tiến triển rõ rệt trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước

cũng tạo nên sự ổn định và phát triển kinh tế của khu vực Đông Nam Á, cũng như

thúc đẩy quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN.

Mặt khác, chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia cũng gây ảnh

hưởng tiêu cực đến ASEAN, cụ thể, làm gia tăng sự can dự của Trung Quốc đối với

ASEAN thông qua các thành viên, qua đó, làm tăng ảnh hưởng của Trung Quốc đối

với đoàn kết nội bộ của ASEAN. Việc Trung Quốc gây ảnh hưởng đến đoàn kết nội

bộ ASEAN thông qua các nước thành viên đã diễn ra không chỉ một lần. Hội nghị

Bộ trưởng ASEAN lần thứ 45 (năm 2012) lần đầu tiên không đưa ra được tuyên bố

chung khi nước Chủ tịch ASEAN năm đó là Campuchia không chấp nhận đưa vấn

đề tranh chấp lãnh hải giữa Việt Nam, Phillipines với Trung Quốc ở Biển Đông vào

tuyên bố chung. Năm 2016, trước những áp lực từ Trung Quốc, bản Thông cáo

chung của khối ASEAN về Biển Đông do Malaysia đưa ra ngày 14/6/2016 đã bị rút

lại chỉ sau vài giờ [外交部, 2016]. Tháng 7/2016, sau phán quyết của Tòa Trọng

Tài về vụ kiện Trung Quốc do Philippines thực hiện, theo đó các thẩm phán bác bỏ

yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông, nước chủ tịch ASEAN khi đó là Lào

thông báo rằng ASEAN sẽ không ra tuyên bố chung về phán quyết của Tòa Trọng

tài do thiếu sự đồng thuận [Chalermpalanupap, 2016]. Có thể thấy, cho đến nay,

trong các nguyên nhân khiến ASEAN vẫn chưa có tiếng nói chung về vấn đề tranh

chấp chủ quyền tại Biển Đông, ngoài sự khác biệt trong lợi ích quốc gia và mức độ tác

động khác nhau của vấn đề Biển Đông đến mỗi nước, còn do các nước ASEAN chịu

tác động mạnh mẽ của các nước đối tác lớn, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ trong việc

135

giải quyết vấn đề Biển Đông.

Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong thời gian

gần đây, đặc biệt là quan hệ kinh tế không ngừng được củng cố mạnh mẽ khiến

không ít người lo ngại đến khả năng gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc đối với

ASEAN thông qua Indonesia. Bởi các tiền lệ trong lịch sử cho thấy, khi nước chủ

tịch ASEAN là quốc gia có quan hệ hợp tác kinh tế khăng khít với Trung Quốc (như

trường hợp Campuchia và Lào), chương trình nghị sự của ASEAN rất có thể bị tác

động và chi phối để không đưa ra những tuyên bố chung không có lợi cho Bắc Kinh.

Và bởi với tư cách là quốc gia lớn nhất, có tiếng nói trong ASEAN và đã từng thể

hiện tốt vai trò của một cường quốc tầm trung trong việc trung gian hòa giải trong

vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, quan điểm và chính sách của Indonesia trong

khối ASEAN chắc chắn sẽ có tác động đến quan điểm chung của ASEAN cũng như

sự đoàn kết của khối. Một khi Indonesia đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu, triển khai

các hạng mục hợp tác với Trung Quốc, hoặc tạo điều kiện cho các công ty Trung

Quốc đầu tư khai thác năng lượng trong lãnh hải của mình, ASEAN sẽ mất đi một

tiếng nói có trọng lượng với vai trò “trung gian hòa giải”.

Thứ hai, tác động đến các cường quốc khác. Quan hệ Trung Quốc –

Indonesia góp phần làm gia tăng sự can dự của các nước lớn vào khu vực. Do

Indonesia sở hữu những ưu thế độc đáo không chỉ về vị trí địa chiến lược, mà còn về

vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế, các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Ấn

Độ, Australia giai đoạn hiện nay đều thi hành chính sách tăng cường quan hệ với

Indonesia nói riêng, với Đông Nam Á nói chung theo các trọng tâm chiến lược khác

nhau. Nếu như Mỹ, Ấn Độ tập trung vào cán cân quyền lực, thì Nhật Bản nghiêng

nhiều hơn về kinh tế, trong khi Australia xuất phát từ lý do an ninh chính trị...

Đối với Mỹ, một Indonesia đang trỗi dậy sẽ đóng vai trò lớn hơn trong khu

vực và trên toàn cầu, Mỹ cần hành động để tận dụng các giá trị về kinh tế cũng như

dân chủ từ quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này. Trước thực trạng quan hệ Trung

Quốc – Indonesia ngày càng phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao và kinh tế,

Mỹ cần phát huy những thế mạnh cạnh tranh của mình, nhằm tạo sự cân bằng về

136

ảnh hưởng tại Indonesia. Mối quan hệ kinh tế Mỹ-Indonesia hiện đang có nhiều tiến

triển nổi bật hơn so với mối quan hệ kinh tế giữa Mỹ với hầu hết các nền kinh tế lớn

khác ở Đông Nam Á. Cách tiếp cận cứng rắn của chính quyền Trump đối với

thương mại, kết hợp với chủ nghĩa dân tộc kinh tế đang phát triển ở Indonesia, có

thể gây tổn hại thêm cho mối quan hệ thương mại trong ít nhất hai năm tới, cũng

chính là giai đoạn Indonesia vẫn cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn để duy trì tốc

độ tăng trưởng và thúc đẩy nền kinh tế Indonesia [Liaison, 2018]. Trong khi đó, các

công ty Mỹ đang bỏ lỡ một cơ hội nếu họ rời khỏi Indonesia – đất nước được dự

báo sẽ là một trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2050.

Trong khi đó, lĩnh vực dân chủ có thể là một điểm nhấn trong quan hệ giữa

Mỹ và Indonesia. Ví dụ, Mỹ có thể thúc đẩy việc Indonesia tổ chức một cuộc họp

giữa các nền dân chủ lớn khác, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, nhằm

củng cố các thể chế dân chủ, cũng như ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp và cải

thiện an ninh hàng hải, chống khủng bố, cải thiện an ninh mạng... Điều này không

phải nhằm tạo ra một liên minh vì mục đích chống lại một nhân tố đối lập nào, mà

nhằm giúp các nền dân chủ tìm ra cách đứng cùng nhau để thúc đẩy sự cân bằng

quyền lực và pháp quyền trên thế giới [Cronin, Burke, 2019].

Trong các chiến lược phát triển khu vực, Mỹ và Indonesia đã tiếp cận ý

tưởng về một “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” từ các điểm

thuận lợi khác nhau, cả hai đều cam kết với những giá trị chung, như: bình đẳng, có

đi có lại, tôn trọng các chuẩn mực quốc tế, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ [Cronin, Burke, 2019]. Để thúc đẩy chiến lược này triển khai rộng khắp,

Mỹ rất cần sự ủng hộ và tham gia tích cực của Indonesia với tư cách quốc gia lớn

nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, Mỹ cũng cần chấp nhận thực tế rằng, việc tham gia

hay những cam kết của Indonesia, hay bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào đối với

chiến lược này không đồng nghĩa với việc lựa chọn giữa Bắc Kinh và Washington.

Bởi các quốc gia này luôn muốn duy trì trạng thái cân bằng ảnh hưởng của các nước

lớn trong khu vực, dù giữa Trung Quốc và Indonesia vẫn tồn tại một số vấn đề như

Biển Đông.

137

Ngoài ra, thời gian gần đây, cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ tại các nước

Đông Nam Á, trong đó có Indonesia còn được thể hiện rõ trong cuộc chạy đua công

nghệ 5G. “Ai kiểm soát được công nghệ 5G sẽ có được ảnh hưởng to lớn trong các

vấn đề kinh tế, quân sự và chính trị toàn cầu”, do đó, một cuộc cạnh tranh lớn đang

diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ, nơi Mỹ muốn ngăn chặn Huawei trên mạng 5G

toàn cầu vì những rủi ro an ninh quốc gia [Radu, 2019]. Trong bối cảnh các nước

ASEAN đều tuyên bố về triển vọng sử dụng công nghệ 5G trong tương lai, như

Singapore, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Thái Lan...[ ATKearney, 2019], trong

đó, Thái Lan và Philippines là hai trong số các nước Đông Nam Á đầu tiên hào

hứng với kế hoạch 5G của Huawei. Một số lãnh đạo của quân đội Mỹ đã bày tỏ lo

ngại rằng, công nghệ 5G do Trung Quốc thiết kế sẽ cung cấp việc truyền dữ liệu

theo cách mà Chính phủ Trung Quốc mong muốn. Mạng 5G có thể thay đổi cách

thức hoạt động của quân đội trong tương lai. Mỹ sẽ không thể sử dụng các mạng

thông tin dùng công nghệ của Trung Quốc cho các hoạt động quân sự tại các nước

đồng minh truyền thống của Mỹ, hoặc trên lãnh thổ các đối tác mới nổi của Mỹ tại

châu Âu và châu Á. Bởi một trong những nội dung hợp tác quân sự là chia sẻ thông

tin tình báo, trong tương lai Mỹ sẽ phải rút bớt các nội dung hợp tác này với các

nước khác sử dụng công nghệ 5G của Trung Quốc. Có thể thấy, cuộc chiến công

nghệ 5G giữa Mỹ và Trung Quốc đang đẩy ngay cả các đồng minh cũ của Mỹ vào

tay Trung Quốc, điều này có thể làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc của các quốc gia

này đối với Trung Quốc, khiến các hợp tác như huấn luyện chung với Mỹ cũng trở

nên khó khăn [Tobin, 2019].

Đối với Nhật Bản, quan hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia ngày càng phát

triển khiến Nhật Bản mất vị thế là đối tác thương mại lớn nhất của Indonesia trong

thời gian dài trước đó. Do vậy, Nhật Bản luôn muốn tìm cách khôi phục quan hệ

hợp tác vốn có với Indonesia bằng cách tăng cường hợp tác kinh tế, đầu tư, viện trợ

phát triển chính thức (ODA) cho Indonesia. Từ năm 2010-2015, tổng số vốn FDI

của Nhật Bản đầu tư vào Indonesia tăng nhanh, đạt 14,9 tỉ USD [Lie, Masengi,

2017]. Ngoài ra, Nhật Bản muốn đẩy mạnh hợp tác kinh tế với Indonesia do eo biển

138

Malacca có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp vận chuyển hàng trăm tỉ USD hàng hóa

mỗi năm cho nước này. Indonesia đã đặt mục tiêu chọn Nhật Bản thay vì Trung

Quốc, là đối tác trong việc xây dựng tuyến đường sắt trị giá hàng tỷ đô la nối liền

Jakarta với Surabaya, đây là dự án cơ sở hạ tầng lớn thứ hai của Indonesia trên Java,

hòn đảo đông dân nhất Đông Nam Á. Theo Alvin Camba - nhà nghiên cứu đầu tư

của Trung Quốc vào châu Á-Thái Bình Dương – cho rằng, cần xem xét tổng thể các

dự án đầu tư trong cả một giai đoạn dài, và khẳng định “Nhật Bản đã là nhà đầu tư

lớn nhất của Đông Nam Á từ những năm 1980, thay thế cho Mỹ và nhiều cường

quốc thuộc địa trước đây. Rất nhiều người cho rằng Trung Quốc là một vấn đề lớn,

nhưng Nhật Bản không bao giờ biến mất, và nó luôn có ảnh hưởng đáng kể trong

kinh doanh và chính trị” [Yuniar, 2019]. Tại Indonesia, những năm gần đây, đầu tư

của Trung Quốc đã nhanh chóng đuổi kịp đầu tư của Nhật Bản: Bắc Kinh đã đầu tư

2,4 tỷ USD vào Indonesia trong năm ngoái, và đến quý II năm nay, con số này đã đạt 2,3 tỷ USD [Yuniar, 2019]. Bên cạnh đó, mặc dù Nhật Bản đã cung cấp nguồn

vốn đầu tư có lợi trong một thời gian dài, tuy nhiên, gần đây, nhiều quan điểm lo

ngại về khả năng Nhật Bản tiếp tục trong vai trò tích cực và tin cậy như trước đây.

Ngoài ra, hiện nay, các đối tác kinh tế của Đông Nam Á đã đa dạng hơn rất nhiều,

bao gồm cả châu Âu, Trung Quốc, Mỹ, Úc, New Zealand. Trong khi Indonesia cũng

bắt đầu cho rằng Nhật Bản có nhiều chính sách bảo vệ cho nền nông nghiệp của

mình, do đó, việc chuyển giao công nghệ bị hạn chế, và lao động nước ngoài trong

ngành nông nghiệp cũng bị giới hạn. Trước tình hình đó, việc tăng cường quan hệ

kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia đã gia tăng sức ép đối với Nhật Bản, buộc

Nhật Bản phải có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm hấp dẫn Indonesia

trong các hợp tác về kinh tế trong tương lai.

Đối với Ấn Độ, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia đông dân thứ hai thế giới và

quốc gia đông dân thứ tư thế giới (Indonesia) có thể đạt được mục tiêu “cùng có

lợi”. Lợi ích kinh tế ngày càng tăng trong hợp tác giữa hai nước cung cấp một nền

tảng vững chắc cho hợp tác trong lĩnh vực hàng hải. Cả hai quốc gia đều là những

thực thể hàng hải lớn, và đều muốn bảo vệ môi trường hàng hải ổn định. Trong khi

139

Tổng thống Indonesia Jokowi tìm cách xây dựng Indonesia thành một cường quốc

hàng hải thông qua chiến lược Trục hàng hải toàn cầu, thì Phó Tổng thống Modi đã

nêu rõ tầm nhìn chiến lược của mình là SAGAR (Security and Growth for all in the

Region: An ninh và tăng trưởng cho tất cả trong khu vực). Tháng 5/2018, Modi và

Jokowi đã công bố “Tầm nhìn chung của Ấn Độ và Indonesia về Hợp tác hàng hải

trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, trong đó nêu rõ các mục tiêu

chung để cải thiện kết nối hàng hải giữa các quần đảo Andaman, Nicobar và

Sumatra, và vấn đề phát triển tài nguyên biển của cả hai nước. Cam kết này cũng

nhấn mạnh thỏa thuận chung của hai nước trong việc tăng cường cấu trúc an ninh

hiện có trong các cơ chế ASEAN, và thực hiện các biện pháp cụ thể để thúc đẩy hòa

bình và an ninh trong khu vực, như thực hiện các cuộc tập trận hải quân song

phương thường xuyên [Chaturvedy, Ng, 2019]. Có thể nói, sự thừa nhận lẫn nhau

về lợi ích và thách thức chung trong lĩnh vực hàng hải đã đóng vai trò quan trọng

trong việc đưa hai nước xích lại gần nhau hơn. Cả hai nước có chung nhiều mối

quan tâm, từ sự phát triển của kinh tế hàng hải, đến các mối đe dọa an ninh phi

truyền thống mới nổi, và đều đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của Trung Quốc, và

sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và Ấn Độ Dương.

Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia, đặc biệt là việc

tăng cường mức độ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, và những tồn tại trên Biển Đông

cũng tác động nhiều đến chính sách của Ấn Độ. Cụ thể, những tiến triển trong quan

hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia sẽ tạo sức ép đối với Ấn Độ, buộc nước này phải

tìm ra những điểm tăng trưởng riêng biệt trong quan hệ kinh tế với Indonesia. Mặt

khác, những tồn tại trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia trên biển Đông sẽ là cơ

hội để Ấn Độ tăng cường hợp tác với Indonesia trong lĩnh vực hàng hải, khai thác

tiềm năng kinh tế hàng hải giữa hai nước như đã phân tích ở trên. Lịch sử 70 năm

quan hệ Ấn Độ - Indonesia đã cho thấy, sự tương đồng về lịch sử và thiện chí hợp

tác là cần thiết, nhưng không đủ điều kiện cho một mối quan hệ hữu ích. Một cam

kết về hợp tác kinh tế và một chiến lược có mục đích, cùng việc thực hiện kịp thời

theo các khuôn khổ đã thỏa thuận sẽ tạo nền tảng thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo

140

của mối quan hệ này [Chaturvedy, Ng, 2019].

Đối với Australia, cũng giống như Ấn Độ, Indonesia và Australia cũng chia

sẻ mối quan tâm chung về các vấn đề như an ninh hàng hải, thương mại, an ninh

mạng, các giá trị dân chủ và nền kinh tế cởi mở. Sự gần gũi về địa lý giữa

Australia và Indonesia đòi hỏi Australia phải liên tục theo dõi quốc gia láng giềng

của mình. Australia cần ngăn cản Indonesia theo đuổi các chính sách thù địch đe

dọa trực tiếp đến Canberra, ngoài ra, cần ngăn không để quốc gia quần đảo này trở

thành căn cứ tiền phương cho các cường quốc bên ngoài khu vực tấn công hoặc đe

dọa đến Australia. Bất kỳ mối đe dọa nào đối với Australia thường sẽ xâm nhập

trước tiên từ, hoặc qua Indonesia. Đồng thời, bất kỳ thất bại nào của Jakarta trong

nỗ lực duy trì quyền tự trị lãnh thổ trên biển sẽ cho phép các cường quốc bên

ngoài có thể tiếp cận phía Bắc của Australia. Chính vị trí chiến lược của Indonesia

đã thúc đẩy Australia triển khai các hợp tác về an ninh chiến lược với Indonesia.

Mặt khác, lợi ích chung của hai nước trong việc giải quyết chủ nghĩa Islam cực

đoan và thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương khiến Indonesia trở thành đối tác

chiến lược quan trọng của Australia.

Việc Trung Quốc gia tăng quan hệ với Indonsia, đồng thời cũng đem đến cho

Indonesia nhiều thách thức trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên biển cũng như mức

độ Indonesia phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc ngày càng tăng, sẽ vừa là cơ hội

vừa là thách thức đối với Australia. Những điểm tồn tại khó khăn trong hợp tác

Trung Quốc – Indonesia sẽ là cơ hội để Australia tăng cường hợp tác, nhằm bảo vệ

lợi ích an ninh chung của Australia và Indonesia tại khu vực biển mà Trung Quốc

đang gia tăng sức ép. Tuy nhiên, hợp tác song phương giữa hai nước sẽ bị hạn chế

do thiếu cách tiếp cận chiến lược chung. Tuy nhiên, khác với ứng xử của Australia

đối với Trung Quốc, Indonesia không sẵn sàng hỗ trợ Washington và đối đầu với

Bắc Kinh, do những cân nhắc về lợi ích có được từ quan hệ kinh tế với Bắc Kinh.

Do đó, Indonesia vẫn sẽ là một đối tác chiến lược hạn chế đối với Australia trong

những năm tới, do chưa có sự thống nhất về quan điểm chiến lược của hai bên. Việc

Trung Quốc kéo Indonesia lại gần phía mình thông qua các dự án đầu tư vào cơ sở

141

hạ tầng sẽ gia tăng sức ép lên chính sách của Australia đối với Indonesia. Australia

vẫn luôn cần theo dõi sát sao từng động thái của người láng giềng Indonesia trong

quan hệ với Trung Quốc, đồng thời đưa ra những điều chỉnh chiến lược thích hợp,

nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình tại khu vực cũng như tại Indonesia [Chai,

2018].

Tóm lại, trọng tâm địa chính trị hiện đang chuyển sang Ấn Độ-Thái Bình

Dương từ Bắc Thái Bình Dương. Nhiều quốc gia ở châu Á hiện đang đồng thời

củng cố, chuyển các mục tiêu địa chính trị. Trong bối cảnh này, hợp tác giữa các

quốc gia có lợi ích hội tụ vẫn là một chiến lược hợp lý trong ngoại giao [Flugge,

2018]. Những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia không chỉ tác

động đến khu vực, góp phần thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN nói chung,

đồng thời cũng làm gia tăng sự can dự của Trung Quốc đối với ASEAN thông qua

các thành viên, từ đó làm ảnh hưởng đối với đoàn kết nội bộ của ASEAN. Những

chuyển biến trong mối quan hệ quan trọng này cũng tác động đến các cường quốc

khác, như Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Australia, gia tăng sức ép lên chiến lược của các cường

quốc này tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhằm cạnh tranh ảnh hưởng, đồng

thời thực hiện các chiến lược phát triển quốc gia của riêng minh.

4.2.3. Tác động đến Việt Nam

Đầu tiên, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có tác

động đến Việt Nam trước hết trong vấn đề Biển Đông. Khi được hỏi về vai trò của

Indonesia trong việc giải quyết các tranh chấp trong khu vực, ví dụ như giữa Việt

Nam và Trung Quốc, giữa Philippines và Trung Quốc, Bộ trưởng Bộ Điều phối

Hàng hải Indonesia là Luhut B. Pandjaitan khẳng định: lập trường và vai trò của

Indonesia là rõ ràng, Indonesia ủng hộ tự do hàng hải, và không muốn bất kỳ sự

cạnh tranh quyền lực nào diễn ra trong khu vực. Indonesia khẳng định rằng nước

này không là một bên tranh chấp về lãnh thổ trong khu vực Biển Đông [Saat, Negara, 2019, tr.5].

Suốt nhiều thập niên, Indonesia đã luôn khẳng định “không là bên tranh

chấp” trong các tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc. Indonesia

142

đã đóng vai trò trung gian hòa giải, thúc đẩy việc quản lý tranh chấp bằng con

đường hòa bình, thông qua các cơ chế ASEAN. Một trong những đóng góp lớn nhất

của Indonesia trong việc quản lý tranh chấp trên Biển Đông chính là chính sách

ngoại giao con thoi mà nước này đã sử dụng, nhằm giúp ASEAN đưa ra được

Tuyên bố chung gồm 6 điểm liên quan đến vấn đề Biển Đông, sau khi Hội nghị Bộ

trưởng các nước ASEAN không đưa ra được tuyên bố chung vào năm 2012 khi

Campuchia là nước Chủ tịch ASEAN. Tuy nhiên, việc Indonesia đặt lại tên biển

xung quanh quần đảo Natuna là Biển Bắc Natuna vào năm 2017 sau khi tăng cường

quân sự tại khu vực này từ năm 2016, đã góp thêm một nhân tố mới trong tranh

chấp Biển Đông. Dù việc đặt lại tên biển có thể không chủ đích gây ra tranh chấp

với Trung Quốc, và “nền tảng pháp lý quốc tế đối với bản đồ mới của Indonesia là

rõ ràng”; Indonesia đang hành động dựa trên chủ nghĩa hợp pháp, trái với tuyên bố

không căn cứ của Trung Quốc khi cho rằng họ có “quyền đánh bắt truyền thống” tại

vùng biển này [Cochrane, 2017]. Thái độ ngày càng cứng rắn hơn của Indonesia

trong vấn đề Biển Đông nếu tiếp tục được duy trì, có thể sẽ tạo thêm sức mạnh cho

các nước hiện đang có tranh chấp lãnh thổ trên biển với Trung Quốc, trong đó có

Việt Nam. Cho dù Indonesia không lên tiếng chính thức ủng hộ Việt Nam, hay bất

kỳ quốc gia nào có tranh chấp trên biển với Trung Quốc, thì việc Indonesia đặt lại

tên biển cũng cho thấy một ví dụ về cách tiếp cận theo hướng xây dựng nền tảng

pháp lý cho các yêu sách về chủ quyền của các bên yếu hơn trong tương quan sức

mạnh với Trung Quốc.

Tuy nhiên, quan hệ kinh tế ngày càng gắn bó hơn giữa Trung Quốc và

Indonesia cũng khiến Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN có tranh chấp chủ

quyền trên biển khác chịu nhiều áp lực hơn. Các nước này có những lo ngại về việc

Trung Quốc hứa hẹn các khoản đầu tư lớn về kinh tế để đổi lấy các lợi thế trong

lĩnh vực chính trị và an ninh với các nước có tiếng nói trong ASEAN, trong đó có

Indonesia, Malaysia… Những lo ngại này là hoàn toàn có cơ sở, khi truyền thống

ngoại giao của Indonesia là “tự do và tích cực” (free and active) và “thực dụng” (pragmatic) [Effendi, 2019].1 Khi quan hệ hợp tác có lợi cho đất nước, đặc biệt

1 Tác giả phỏng vấn học giả Tonny Dian Effendi ngày 7/12/2019 tại Đài Loan.

143

trong lĩnh vực kinh tế, Indonesia có thể sẽ giảm bớt việc chỉ trích Trung Quốc trong

vấn đề Biển Đông. Điều này cũng đã được chứng minh trong thực tế, khi Indonesia

thường có mức độ phản ứng thấp hơn mức mong đợi trước các vấn đề mang tính

xung đột, như phản ứng của Indonesia trước việc Trung Quốc xây dựng và cải tạo trên các đảo đang có tranh chấp ở Biển Đông [Nguyễn Minh Ngọc, 2019]. 1 Bên

cạnh đó, là một trong những thành viên chủ chốt của ASEAN, việc Indonesia có thể

ít gay gắt hơn trong các tranh chấp trên biển có thể khiến ASEAN giảm bớt mức độ

gây sức ép đối với Trung Quốc về Biển Đông. Điều này sẽ khiến Việt Nam mất chỗ

dựa trong ASEAN, và trở nên đơn độc hơn trong việc giải quyết tranh chấp trên

biển trong một mối quan hệ bất đối xứng.

Thứ hai, những chuyển biến trong chính sách của Indonesia trong quan hệ

với Trung Quốc cũng gợi mở cho Việt Nam những ví dụ về cách thức quản lý mối

quan hệ bất đối xứng với Trung Quốc. Có thể nhận diện chính sách đối ngoại của

Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc từ sau năm 2005 là chính sách “phòng ngừa

rủi ro” (hedging). Đối chiếu với quan điểm của học giả Kuik Cheng-Chew (2008)

cho rằng Indonesia áp dụng một phần chính sách Ràng buộc – Can dự với Trung

Quốc, trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, chính sách Ràng buộc – Can dự

cũng được Indonesia áp dụng một cách đầy đủ, với việc ký kết nâng cấp quan hệ

hai nước lên thành đối tác chiến lược toàn diện, và với các văn bản tuyên bố

chung cam kết tăng cường hợp tác trong các cuộc trao đổi giữa lãnh đạo cấp cao

hai nước. Đây cũng chính là chuyển biến trong lựa chọn chính sách của Indonesia trong quan hệ với Trung Quốc trước và sau năm 2013.2 Chuyển biến

này cũng cho thấy rằng, Indonesia đang dần dần tiến về phía chấp nhận quyền

lực trong quan hệ với Trung Quốc (Xem Bảng 4.3). Sở dĩ có chuyển biến này là

bởi sự thay đổi của các nhân tố tác động đến quan hệ Trung Quốc – Indonesia.

1 Tác giả phỏng vấn học giả Nguyễn Minh Ngọc ngày 7/12/2019 tại Đài Loan. 2 Điều này cũng được học giả Kuik xác nhận lại khi trả lời phỏng vấn vào ngày 5/12/2019 tại Đài Loan.

144

Bảng 4.3. Chính sách của Indonesia đối với Trung Quốc

Giai đoạn Chiến

Chiến lượ “ òn bị nướ đôi”

Chiến

lược

lược

Lựa chọn phòng ngừa

Lựa chọn tối đa hóa trở lại

cân

“ ù

rủi ro

bằng

thịn ”

Cân bằng

Từ chối sự

Thực

Ràng

“Phù

(thuần

(thuần

gián tiếp

thống trị

dụng

buộc –

thịnh” có

túy)

túy)

kinh tế

Can dự

giới hạn

2005-2013

2013- nay

Mứ độ từ chối quyền lực Điểm trung lập Mứ độ chấp nhận quyền lực

Vận dụng đầy đủ Vận dụng một phần

Nguồn: Tác giả chế tác dựa trên nghiên cứu của Kuik Cheng-Chew (2008)

Tuy nhiên, trước sự leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Indonesia

trong vùng biển xung quanh quần đảo Natuna cuối tháng 12/2019, Indonesia đã có

những phản ứng gay gắt, bao gồm việc huy động lực lượng quân sự, đích thân Tổng

thống Jokowi tới chỉ đạo và họp tại khu vực có sự chồng lấn lãnh thổ, cùng việc

tăng cường hợp tác về quốc phòng với các nước khác trong khu vực, mời Nhật Bản

đầu tư vào khu vực đang có sự chồng lấn trong phân định lãnh thổ... Những biện

pháp này là biểu hiện của chính sách cân bằng gián tiếp, Indonesia đã tiến về phía

“từ chối quyền lực” trong vấn đề xung đột trên biển này. Điều này cho thấy “ranh

giới đỏ” của Indonesia trong việc sử dụng một loạt các biện pháp cứng rắn đối với

các vấn đề trên biển trong quản lý quan hệ với Trung Quốc.

Như vậy, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia có những

tác động nhất định đối với Việt Nam, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua

ASEAN. Ngoài ra, những chuyển biến trong cách ứng xử của Indonesia đối với

Trung Quốc cũng đưa ra cho Việt Nam một ví dụ sống động về cách thức Indonesia

quản lý mối quan hệ bất đối xứng với Trung Quốc. Dù tình hình và vị thế của Việt

145

Nam và Indonesia là khác nhau, nhưng cách xử lý mối quan hệ của Indonesia với

Trung Quốc luôn được đánh giá là thông minh, đã góp phần tạo nên sức mạnh ngoại

giao của Indonesia. Do đó, những thay đổi trong cách ứng phó của Indonesia cũng có

thể gợi mở cho Việt Nam một số “quy tắc ứng xử” trong quan hệ với Trung Quốc.

4.3. Thuận lợi, thách thức và xu thế quan hệ ai nước

Trung Quốc và Indonesia đều đang trong giai đoạn quan trọng của chiến lược

phát triển của mỗi nước. Trong bối cảnh mới, quan hệ hai nước đang đối mặt với nhiều

nhân tố khách quan và chủ quan, tạo ra không chỉ thuận lợi mà còn nhiều thách thức

đối với việc phát triển quan hệ trong thời gian tới. Phân tích những thuận lợi và thách

thức trong quan hệ hai nước có thể góp phần dự báo xu thế quan hệ hai nước trong

tương lai gần.

4.3.1. Những thuận lợi trong quan hệ hai nước

Xét về các nhân tố quốc tế và khu vực, kinh tế thế giới đang ấm dần trở lại

sau một thời gian liên tục đi xuống. Các nền kinh tế phát triển đứng đầu là Mỹ đã

bắt đầu phục hồi, kinh tế Trung Quốc có điều kiện hạ cánh mềm. Xuất khẩu hàng

hóa của các quốc gia đang phát triển dự báo tăng lên, giá cả có xu hướng ổn định,

áp lực lạm phát giảm xuống. Theo dự báo của Liên hợp quốc, tại các nước thuộc

khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc và Indonesia, tốc độ tăng trưởng kinh tế

đang phát triển nhanh, do nhu cầu trong nước tăng mạnh và áp dụng kịp thời các

chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phục hồi,

tăng trưởng kinh tế Trung Quốc ổn định ở mức hơn 6%, của Indonesia ở mức 5%,

đều tương đối cao so với mức 2% của thế giới. Hai nước nên tận dụng thời cơ này

để thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương phát triển hơn nữa [邱岳,

2017, tr.24]. Bên cạnh đó, hợp tác Trung Quốc – ASEAN cũng tạo tiền đề cho

phát triển quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia. Về hợp tác kinh tế, sau

25 năm phát triển, kim ngạch thương mại song thương từ 8 tỷ USD tăng lên 472,2

tỷ USD, tăng gần 60 lần [Tạp chí Cộng sản, 2017]. Quá trình nhất thể hóa hợp tác

kinh tế khu vực giữa ASEAN và Trung Quốc không ngừng được đi sâu. Năm

2010, Khu Tự do thương mại Trung Quốc – ASEAN được thành lập trở thành khu

146

tự do thương mại lớn nhất giữa các quốc gia đang phát triển. Tháng 9/2014, Trung

Quốc và ASEAN đã tiến hành đàm phán nâng cấp Khu tự do thương mại này.

Trong quá trình không ngừng đi sâu hợp tác, Trung Quốc và Indonesia đều không

ngừng nhận được lợi ích từ hợp tác Trung Quốc – ASEAN, hợp tác thương mại

giữa hai nước cũng thúc đẩy sự phát triển của quan hệ Trung Quốc – ASEAN.

Xét quan hệ song phương hai nước, hợp tác giữa hai nước được triển khai

theo nhiều cơ chế và cấp độ khác nhau, ở cả cấp chính phủ cấp cao, chính quyền địa

phương và cấp dân gian. Ở cấp độ chính phủ cấp cao, quan hệ chính trị – ngoại giao

đã tạo môi trường thuận lợi và nền tảng vững chắc cho hợp tác kinh tế thương mại

giữa hai nước. Nguyên thủ hai nước liên tục có các chuyến thăm viếng lẫn nhau,

đồng thời ký kết Tuyên bố chung và các hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Các

Tuyên bố chung này đã xây dựng nên khung hợp tác, trong đó kinh tế thương mại là

một trục quan trọng trong “cỗ xe tam mã (chính trị an ninh, kinh tế thương mại, văn

hóa xã hội) của quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở

các phần trên, các chiến lược phát triển đất nước mà hai quốc gia này đang thúc

đẩy, tức BRI của Trung Quốc và Chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia

có nhiều điểm tương đồng về thời đoạn cũng như địa bàn triển khai. Tất cả những

điều này đã tạo môi trường thuận lợi để Trung Quốc và Indonesia thúc đẩy quan hệ

song phương, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế thương mại.

Ở cấp độ dân gian, vai t của người oa Indonesia là một nhân tố quan

trọng góp phần thúc đẩy hợp tác giữa hai nước. 30 năm trở lại đây, người Hoa ở

Indonesia đã mở rộng phạm vi kinh doanh trên đất nước Indonesia, từ ngành trồng

trọt và thương nghiệp dần dần phát triển hướng sang công nghiệp, tài chính, du lịch

và dịch vụ... Dưới Chính quyền Tổng thống Jokowi, thành phần kinh tế người Hoa

tại Indonesia càng có nhiều cơ hội phát triển hơn, do Jokowi giữ vững lập trường

“không thiên vị, không kỳ thị, đối xử công bằng“ với các tộc người thiểu số. Cũng

trong giai đoạn này, Indonesia có vị Chủ tịch thành phố đầu tiên là người Hoa

(Basuki Tjahaja Purnama). Người Hoa ở Indonesia không những có vai trò thúc đẩy

nền kinh tế Indonesia, mà còn là cầu nối quan trọng trong quan hệ giữa Trung Quốc

147

và Indonesia, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập tại địa phương của các doanh

nghiệp Trung Quốc đến đầu tư tại Indonesia. Ngược lại, với các chính sách mở cửa

của Indonesia, người Hoa Indonesia lại quay trở lại đầu tư vào Trung Quốc, góp

phần củng cố và quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước [潘玥, 2016, tr.77-78].

Một mặt, người Hoa Indonesia tích cực xây dựng môi trường thuận lợi cho giao lưu

thương mại giữa hai nước. Hiệp hội thương nhân người Hoa Indonesia đã tổ chức

các buổi tọa đàm về luật, nhằm tăng cường ý thức của nhà đầu tư về các kiến thức

pháp luật liên quan đến Trung Quốc và Indonesia. Khi có những thông tin gây ảnh

hưởng xấu đến quan hệ hai nước, Hiệp hội thương nhân người Hoa Indonesia cũng

tổ chức các buổi tọa đàm nhằm thảo luận tìm cách giải quyết những vấn đề vướng

mắc trong thương mại hai bên. Mặt khác, người Hoa Indonesia còn tổ chức các buổi

triển lãm, hội chợ tại Trung Quốc, tích cực thúc đẩy doanh nghiệp Indonesia bao

gồm các doanh nghiệp người Hoa Indonesia mở rộng thị trường Trung Quốc, nâng

cao tầm ảnh hưởng của hàng hóa Indonesia tại Trung Quốc, đồng thời tăng cường

hiểu biết của chính phủ và các doanh nghiệp Trung Quốc đối với sự phát triển

doanh nghiệp và chính sách đầu tư tại Indonesia, dẫn dắt các nhà đầu tư Trung

Quốc đến Indonesia đầu tư. Không chỉ thế, người Hoa Indonesia cũng góp phần tích

cực vào việc thúc đẩy giao lưu giữa các thương nhân hai nước [彭泳, 2016, tr.33-

35].

Xét các nhân tố bên trong, bước sang nhiệm kỳ tổng thống thứ hai (từ tháng

5/2019), ông Jokowi có xu hướng tiếp tục chính sách ngoại giao mềm dẻo và linh

hoạt của mình từ nhiệm kỳ trước, muốn tận dụng tối đa sự hiện diện của Indonesia

trên trường quốc tế vì lợi ích của người dân nước này, “kết quả là, ngoại giao kinh

tế, chẳng hạn như thương mại và đầu tư, sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn vào

mỗi dịp ngoại giao” [Saragih, 2014]. Một đặc điểm nổi bật là, trong nhiệm kỳ tổng

thống thứ hai, xử lý quan hệ với Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ

Jokowi, bởi dựa trên những kết quả hợp tác của nhiệm kỳ đầu, ông Jokowi có điều

kiện để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ với Trung Quốc, nhất là trong lĩnh vực

kinh tế. Theo đánh giá của chuyên gia quan hệ quốc tế Gilang Kembara “năng lực

148

kinh tế hiện tại không chỉ tập trung ở châu Á mà còn trên toàn thế giới, ông Jokowi

coi Indonesia là một phần liên kết chính giữa Trung Quốc, Indonesia với phần còn

lại của thế giới để phát triển chuỗi cung ứng toàn cầu” [America, 2019]. Điều này

cũng phù hợp với việc ông Jokowi mong muốn đẩy mạnh vai trò của Indonesia

trong chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay. Trong khi đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận

Bình cũng tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai từ cuối năm 2017, đồng thời, việc xóa bỏ chế

độ nhiệm kỳ của Chủ tịch nước trong Điều lệ Đảng có thể sẽ mở đường cho Tập

Cận Bình cầm quyền lâu hơn hai nhiệm kỳ. Điều này đảm bảo được tính nhất quán

và liên tục trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thời gian tới. Đặc biệt,

việc Trung Quốc thời gian gần đây không ngừng đề cao vai trò của Indonesia trong

các chiến lược phát triển của Trung Quốc, như BRI cho thấy ý muốn mạnh mẽ của

Trung Quốc trong việc tăng cường quan hệ với Indonesia trong tương lai.

Như vậy, có thể thấy, quan hệ Trung Quốc – Indonesia trong giai đoạn

hiện nay gặp rất nhiều thuận lợi ở cả bối cảnh quốc tế và khu vực, được triển

khai trên nhiều cấp độ: cấp chính phủ, cấp địa phương và cấp nhân dân, đồng

thời, có được sự ủng hộ từ các chính sách của chính phủ Jokowi cũng như chính

phủ Tập Cận Bình.

4.3.2. Những thách thức trong quan hệ hai nước

Tuy nhiên, quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia cũng tiềm ẩn nhiều

nhân tố bất ổn, đến từ cả bên ngoài lẫn bên trong.

Xét các nhân tố thế giới và khu vực, sự phát triển trong quan hệ Trung

Quốc – Indonesia chịu nhiều ảnh hưởng từ quan hệ nước lớn, đặc biệt là xu hướng

quan hệ Trung – Mỹ. Sự ổn định của kết cấu hệ thống quốc tế phụ thuộc vào sự ổn

định tương đối của cục diện phân phối nguồn lực giữa các nước lớn chủ yếu. Từ

sau Chiến tranh Lạnh đến nay, sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến trật tự khu vực

Đông Á thay đổi rõ rệt. Sức mạnh quốc gia Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh

quân sự ngày càng mạnh hơn đã khiến chiến lược “Đi ra ngoài” có xu hướng ngày

càng rõ rệt. Cùng với việc đi sâu thúc đẩy chiến lược “Vành đai và Con đường” và

Kế hoạch “Kết nối liên thông”, những lo ngại của các quốc gia vừa và nhỏ về tính

149

không xác định trong ý đồ chiến lược của Trung Quốc ngày càng tăng cao. Do đó,

“cuộc tấn công quyến rũ” của Trung Quốc đối với các quốc gia vừa và nhỏ trên cơ

sở tư tưởng “giấu mình chờ thời” đã không còn phát huy tác dụng tích cực như

trước. Cùng với đó, để đảm bảo địa vị bá quyền của mình, Mỹ có xu hướng quân

sự hóa chiến lược “Tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương”. Trong bối cảnh đó,

áp lực đối với các quốc gia vừa và nhỏ trong việc cân bằng ảnh hưởng các nước

lớn trở nên ngày càng nặng nề hơn. Là một nước lớn cũng đang trỗi dậy nhanh

chóng trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia tuy nhận được không ít lợi ích từ

hợp tác kinh tế với Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng phải chịu không ít áp lực

cạnh tranh từ Trung Quốc. Một khi những lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc

tăng lên, nước này rất có thể sẽ sử dụng chiến lược cân bằng giữa các nước lớn.

Ngoài ra, cuộc chiến tranh thương mại Trung – Mỹ cũng đã đặt ra nhiều thách

thức đối với nền kinh tế Indonesia. Về lâu dài, cuộc chiến thương mại này sẽ gây

nhiều tác động tiêu cực đối với Indonesia. Nếu đồng đô la Mỹ biến động đáng kể,

nền kinh tế Indonesia sẽ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên, cuộc chiến

thương mại Mỹ - Trung cũng có thể đem lại lợi ích cho nền kinh tế Indonesia thông

qua các khoản đầu tư “tái định cư” và mở rộng các nhà máy từ Trung Quốc sang

Indonesia. Báo cáo của Văn phòng nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO)

công bố vào tháng 5 cho thấy khu vực Đông Nam Á đã trở thành điểm đến chính

cho việc di dời đầu tư từ Trung Quốc. Indonesia có thể được hưởng lợi từ cuộc

chiến thương mại nếu như nước này cải thiện được năng suất lao động và tạo môi

trường đầu tư thuận lợi để thu hút nhiều nhà đầu tư hơn [Maruti, 2019]. Tuy nhiên,

từ cuối năm 2019, đầu năm 2020 đến nay, cạnh tranh chiến lược và căng thẳng giữa

Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên gay gắt hơn, với mâu thuẫn trong hàng loạt

vấn đề, như vấn đề Hồng Kông, Tân Cương, hay do bất đồng về cách thức ứng phó

với bệnh dịch Covid-19 của hai nước. Trước tình hình đầy biến động như vậy, chắc

chắn Indonesia sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa trong việc giữ thế cân bằng giữa

hai cường quốc này, quan hệ Trung Quốc – Indonesia sẽ bị chi phối nhiều bởi cạnh

tranh chiến lược Trung – Mỹ.

150

Ở góc độ khu vực, vấn đề tranh chấp trên biển là một trở ngại quan trọng

trong phát triển quan hệ giữa hai nước. Dù không có tranh chấp trực tiếp trên

Biển Đông, nhưng những năm gần đây, thái độ của Indonesia với các vấn đề trên

biển ngày càng trở nên cứng rắn hơn, đặc biệt là việc đặt lại tên vùng biển chồng

lấn trong quan niệm của hai nước thành Biển Bắc Natuna. Đứng trước những

tranh chấp gay gắt giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, là một quốc gia có

tiếng nói trong ASEAN, Indonesia cũng cần đặt quan hệ với Trung Quốc và quan

hệ với ASEAN lên bàn cân, để có thể hài hòa giữa lợi ích kinh tế và việc duy trì

địa vị trong ASEAN. Việc Ngoại trưởng Indonesia là Retno Marsudi vẫn luôn

khẳng định “Indonesia không có yêu sách chồng chéo với Trung Quốc” đã phản

ánh quyết tâm của Jakarta trong việc tách biệt tranh chấp song phương trên Biển

Bắc Natuna khỏi vấn đế đa phương trên biển Đông [Massola, Rosa, 2020]. Việc

tồn tại tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc với một số quốc gia ASEAN nói

chung, và việc Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động bành trướng trên biển nói riêng

vẫn sẽ trở thành rào cản lớn đối với hợp tác kinh tế khi các bất đồng không được

quản lý hiệu quả.

Xét quan hệ song phương hai nước, một số vấn đề như Trung Quốc để lại

ấn tượng xấu trong đầu tư, hay vấn đề người lao động Trung Quốc tại Indonesia,

hay tình cảm chống lại tư tưởng cộng sản... cũng là những vật cản tiềm ẩn đối với

hợp tác kinh tế hai nước. Từ năm 2005 đến 2014, chỉ có 7% các dự án mà Trung

Quốc hứa hẹn được tiến hành, trong khi con số này của Nhật là 62%. Trong

khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2015, Bộ Điều phối đầu tư

Indonesia BKPM ghi nhận được tổng lượng có khả năng đầu tư của Trung Quốc

vào Indonesia là 83,2 tỷ USD, trong số đó chỉ có 4,6 tỷ USD dự án đầu tư là “có

vẻ nghiêm túc”, khi các nhà đầu tư đã đến khảo sát và sẵn sàng làm thủ tục xin cấp

giấy phép đầu tư [Chilkoti, 2015]. Bên cạnh đó, lao động người Trung Quốc đã và

đang trở thành vấn đề nổi cộm trong xã hội Indonesia hiện nay. Những lo ngại về

sự cạnh tranh việc làm, về hiệu quả đầu tư hay về vấn đề an ninh đã góp phần tạo

nên tình cảm chống Trung Quốc trong một bộ phận người dân Indonesia. Theo

151

một cuộc khảo sát của Viện Khảo sát Indonesia (Indonesia Survey Institute) công

bố vào tháng 1/2020, mặc dù ngày càng nhiều người Indonesia tin rằng Trung

Quốc là quốc gia có ảnh hưởng nhất ở châu Á (39% năm 2019 so với 19% năm

2011), nhưng nhận thức này cũng đi kèm với tâm lý tiêu cực đang tăng lên gấp đôi

so với cuộc khảo sát năm 2011 [Nirmala, 2020]. Kết quả khảo sát trên phần nào

cho thấy, tâm lý tiêu cực đối với Trung Quốc của nhiều người dân Indonesia chắc

chắn vẫn sẽ là trở ngại lớn đối với quan hệ hai nước trong thời gian tới.

Không chỉ vậy, sự leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Indonesia sau

sự kiện cuối tháng 12/2019 cùng những phản ứng gay gắt của Indonesia trước sự

bành trướng của Trung Quốc cho thấy, dù không công nhận có tranh chấp trên

biển, nhưng đây vẫn sẽ là rào cản lớn đối với việc phát triển quan hệ giữa Jakarta

và Bắc Kinh. Bên cạnh đó, do hậu quả của dịch bệnh Covid-19, kinh tế Trung

Quốc và Indonesia cũng không thể đứng ngoài xu thế suy thoái của kinh tế thế

giới, do nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, và nhiều nước phải thực hiện phong

tỏa để ngăn chặn sự lây lan của virus. Nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng của

Trung Quốc tại Indonesia vốn đang được hai bên thúc đẩy mạnh mẽ, đã bị trì

hoãn do công nhân Trung Quốc không thể quay lại Indonesia tiếp tục công việc.

Không chỉ vậy, hình ảnh Trung Quốc trên trường quốc tế cũng bị sụt giảm do bỏ

lỡ giai đoạn đầu kiểm soát và khống chế dịch bệnh. Khi dịch Covid-19 bùng phát

tại Trung Quốc vào đầu năm 2020, nhiều người dân Indonesia cho rằng

Indonesia sẽ sớm bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, và do đó, một số người đã sử dùng

thuật ngữ “virus Trung Quốc” khi đề cập đến Covid-19. Tuy vậy, có thể khẳng

định rằng, sau khi thế giới và khu vực kiểm soát được dịch bệnh, quan hệ Trung

Quốc – Indonesia vẫn sẽ tiếp tục được tăng cường, “Indonesia sẽ cần đầu tư của

Trung Quốc hơn bao giờ hết” [Rakhmat, 2020] để khôi phục kinh tế, bởi Trung

Quốc là nhà đầu tư hàng đầu và điểm đến xuất khẩu hàng đầu của nước này.

Hiện tại, những gì Trung Quốc viện trợ cho Indonesia để ngăn chặn sự bùng phát

của dịch bệnh Covid-19 đang được đánh giá cao, tuy nhiên, Trung Quốc vẫn cần

tiếp tục chiến lược xây dựng sức mạnh mềm và xây dựng hình ảnh quốc gia tại

152

khu vực Đông Nam Á, cũng như tại quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này, như vậy

mới có thể tăng cường hiểu biết, giảm thiểu trở ngại trong quan hệ hai nước.

Xét các nhân tố trong nội bộ Indonesia, sự phân hóa trong nội bộ Chính

phủ Indonesia dẫn đến sự thiếu thống nhất trong các chính sách đối ngoại của

nước này. Nếu như Tổng thống Jokowi chủ trương đẩy mạnh hợp tác kinh tế với

Trung Quốc do ưu tiên đặt các lợi ích về kinh tế lên hàng đầu, Bộ Ngoại giao ưu

tiên duy trì và đẩy mạnh quan hệ với Trung Quốc vì nước này có vai trò quan

trọng trong nhiều tổ chức thế giới và khu vực; thì các bộ ngành khác như Bộ

Thủy sản và hàng hải, hải quân và quân đội Indonesia lại chủ trương cần thận

trọng trong quan hệ với Trung Quốc, thậm chí có những chính sách khá cứng rắn

với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. Ví dụ, chính sách “đánh chìm tàu” của

Bộ Thủy sản và hàng hải cho phép làm nổ các tàu đánh cá bất hợp pháp trong

khu vực biển của nước này, trong đó có các tàu cá Trung Quốc. Ngoài ra, theo số

liệu từ Diễn đàn kinh tế thế giới, các nhân tố như tham nhũng, hiệu quả hành

chính thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, chính sách không ổn định là những những

nhân tố chính gây ảnh hưởng đến nền kinh tế Indonesia [邱岳, 2017, tr.37-39].

Những vấn đề như đầu tư có nhiều hạn chế, hiệu quả hành chính thấp, hệ thống

Bên cạnh đó, tâm lý bài Hoa trong xã hội Indonesia là một tác nhân cản trở

pháp luật chưa hoàn thiện... đã hạn chế sức hấp dẫn đầu tư của Indonesia.

hai nước đi sâu phát triển quan hệ giữa người dân với người dân (P2P). Dù sự kiện

đảo chính bất thành của ĐCS Indonesia năm 1965 đã diễn ra cách đây hơn 50 năm,

nhưng những ảnh hưởng sâu sắc của nó đối với xã hội Indonesia, cùng với chính

sách kìm nén sự phát triển đối với cộng đồng người Hoa thiểu số và văn hóa Trung

Hoa trong suốt 30 năm Suharto cầm quyền vẫn còn tác động đến đời sống xã hội

Indonesia ngày nay. Thậm chí, một nhóm các tướng trong quân đội Indonesia hiện

nay vẫn còn nghi ngờ về mối đe dọa của hệ tư tưởng cộng sản Trung Quốc tại

Indonesia. Sự nổi lên gần đây của những vụ việc như quân đội bắt giữ các thanh niên

mặc áo màu đỏ có in hình búa và liềm trong cốc cà phê, hay việc tịch thu sách về chủ

nghĩa cộng sản là minh chứng cho những lo lắng này [Fabi, Kapoor, 2016]. Tương tự,

153

dù cuộc bạo loạn tháng 5/1998 đã xảy ra cách đây hơn 20 năm, nhưng người dân

Indonesia vẫn chưa quên được những mâu thuẫn giữa người Indonesia bản địa với

người Hoa thiểu số tại Indonesia vốn đã tồn tại từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả những

vết tích lịch sử này đã góp phần khiến vấn đề người Hoa thiểu số cũng như tâm lý

bài Hoa của người Indonesia vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Trong khi đó, về phía Trung Quốc, nước này cũng đang ngày càng gia tăng

ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á, với những yêu sách và hành động ngày càng

cứng rắn hơn trên Biển Đông. Điều này góp phần làm xấu đi hình ảnh một nước

Trung Quốc xây dựng và bảo vệ hòa bình và ổn định tại khu vực, gây ảnh hưởng

tiêu cực đến quan hệ giữa Trung Quốc với một số quốc gia ASEAN có tuyên bố

tranh chấp chủ quyền hoặc chồng lấn về vùng lãnh thổ trên biển.

Như vậy, có thể thấy, bên cạnh những thuận lợi, quan hệ Trung Quốc –

Indonesia cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức đến từ quốc tế và khu vực, như

cạnh tranh Trung – Mỹ, tranh chấp trên biển; đến từ các vấn đề tồn tại trong quan hệ,

như tỷ lệ thực hiện đầu tư thấp, vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia; cũng như

sự thiếu nhất quán trong chính sách Trung Quốc do sự phân hóa trong chính phủ

Indonesia. Điều quan trọng là hai nước cần chọn được cách tiếp cận có thể tận dụng

được những thuận lợi về thời cơ chiến lược, để cùng phát triển, cùng hưởng thành quả

phát triển, cùng phát huy được vai trò tích cực trong khu vực và trên thế giới.

4.3.3. Xu thế quan hệ hai nước đến năm 2030

Quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005 tới nay về tổng thể phát triển

nhanh chóng, thu được những thành tựu đáng kể, đồng thời cũng còn một số vấn đề

cần tiếp tục tháo gỡ, giải quyết để hợp tác hiệu quả và thực chất hơn. Dựa trên

những thuận lợi và thách thức đang đặt ra đối với cặp quan hệ này, có thể dự đoán

xu thế phát triển trong thời gian ngắn hạn đến năm 2030 như sau:

Về xu thế chung, trong thời gian tới, quan hệ Trung Quốc – Indonesia chỉ có

thể gia tăng hợp tác về mặt kinh tế, quan hệ chính trị - ngoại giao duy trì ở mức độ

vừa phải, song các lĩnh vực khác như quốc phòng - an ninh, văn hoá – xã hội khó

có thể có những bước tiến lớn.

154

Trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ hai nước sẽ có xu hướng tăng cường hợp

tác, do hai nước có ưu thế bổ sung lẫn nhau trong lĩnh vực này. Tổng thống

Indonesia Jokowi tái đắc cử vào tháng 5/2019, tiếp tục tập trung phát triển cơ sở

hạ tầng nhằm phục vụ phát triển kinh tế Indonesia. Trong khi đó, Chủ tịch Trung

Quốc Tập Cận Bình tiếp tục đẩy mạnh BRI, trong đó trọng tâm là xây dựng cơ sở

hạ tầng kết nối về giao thông trên biển và trên bộ, trong đó Indonesia là một điểm

trọng yếu trong “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” của Trung Quốc. Sự trùng

khớp về không gian và lĩnh vực trong hai chiến lược phát triển đất nước của Trung

Quốc và Indonesia khiến hai nước tiến gần nhau hơn trong các dự án hợp tác về

kinh tế. Tuy nhiên, đối mặt với các tồn tại trong hợp tác kinh tế đã trình bày trong

các nội dung trên, kết hợp ý kiến của Bộ trưởng Bộ Điều phối Hàng hải Indonesia

Luhut B. Pandjaitan trong bài trả lời phỏng vấn “Jokowi’s Second-term Priorities

and Challenges: An Interview with Luhut B. Pandjaitan” [Saat, Negara, 2019, tr.5-6] và học giả Vinsensio M.A.Dugis (Indonesia), 1

Luận án cho rằng hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và Indonesia cần chú ý

một số điểm như sau: (i) đầu tư trực tiếp của Trung Quốc cũng như bất kỳ quốc

gia nào khác vào Indonesia cần mang theo những công nghệ tiên tiến, Indonesia

không cần những công nghệ lạc hậu vì lý do môi trường; (ii) mô hình kinh doanh

cần phải theo mô hình B2B (business to business: giữa doanh nghiệp với doanh

nghiệp). Indonesia không muốn mô hình G2G (government to government: giữa

chính phủ với chính phủ), bởi mô hình này thường đem đến tỉ lệ nợ cao, trong khi

Indonesia muốn duy trì tỉ lệ nợ chiếm dưới 30% GDP; (iii) Indonesia cũng tìm

kiếm các dự án sử dụng càng nhiều lao động địa phương càng tốt, giai đoạn đầu

của dự án có thể sử dụng các kỹ sư nước ngoài, tuy nhiên, quá trình chuyển giao

công nghệ phải được tiến hành dần dần, để các kỹ sư bản địa có thể tiếp nhận dự

án trong các giai đoạn sau; (iv) các dự án FDI phải mang đến những giá trị gia

tăng. Indonesia không muốn các khoản đầu tư chỉ khai thác và rồi xuất khẩu các

tài nguyên ra nước ngoài. Indonesia muốn thông qua hợp tác với Trung Quốc để trở thành một phần trong chuỗi giá trị toàn cầu.

1 Tác giả phỏng vấn học giả Vinsensio M.A.Dugis ngày 7/12/2019 tại Đài Loan.

155

Trong lĩnh vực ngoại giao, với xu thế quốc tế coi hợp tác là chủ đạo, quan hệ

Trung Quốc – Indonesia sẽ được tăng cường thông qua hàng loạt các chuyến thăm cấp

cao, thông qua các văn bản ký kết tăng cường hợp tác giữa hai nước. Do bản chất hai

nước đều đang tìm kiếm lợi ích tối đa cho bản thân mình, Trung Quốc ngoài mục tiêu

kinh tế còn muốn gia tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á, vì vậy chắc chắn không thể bỏ

qua quốc gia đứng đầu ASEAN này. Về phía Indonesia, do nhu cầu trong nước cần thu

hút ngày càng nhiều đầu tư nước ngoài, trong đó Trung Quốc là nhà đầu tư lớn thứ hai;

đồng thời, là quốc gia có vị trí nổi bật ở Đông Nam Á, Indonesia không thể đứng ngoài

chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực. Từ khi hai nước thiết lập

quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2005 đến những năm đầu thập niên 2010, quan hệ

hai nước chưa có nhiều tiến triển nổi bật. Tuy nhiên, từ khi nâng cấp quan hệ lên thành

đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013 đến nay, ngoại giao nguyên thủ giữa hai

nước diễn ra với tần suất cao, số lượng văn bản ký kết ngày càng nhiều. Với sự phù

hợp về lợi ích kinh tế, cũng như sự cần thiết hỗ trợ trong các tổ chức và diễn đàn đa

phương, hai nước sẽ có xu hướng tăng cường các cam kết về mặt ngoại giao, nhằm tìm

cách giải quyết các vấn đề và khó khăn chung mà hai nước đang phải đối mặt.

Về mặt an ninh, vấn đề Biển Đông vẫn luôn là nút thắt trong quan hệ hai

nước. Học giả Jabin (Ấn Độ) cho rằng, Indonesia sử dụng khoảng cách địa lý để

quản lý mối quan hệ với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, dù thực thi một số

chính sách “không thân thiện” với Trung Quốc trên biển, như chính sách đánh chìm

tàu, hay việc đặt lại tên biển Bắc Natuna, nhưng Indonesia không quá lo sợ Trung Quốc, do cách Trung Quốc xa, chứ không gần như Việt Nam hay Philippines.1 Học

giả Tonny (Indonesia) cho rằng, cách ứng xử của Trung Quốc đối với Indonesia

tương đối cẩn trọng, bởi Indonesia có cách xử lý “không rõ ràng” đối với Trung Quốc. Đây cũng là truyền thống ngoại giao của Indonesia, đồng thời cũng thể hiện sức mạnh của Indonesia trong chính sách ngoại giao. 2 Do đó, trong tương lai gần,

quan hệ Trung Quốc – Indoneia trong vấn đề Biển Đông về cơ bản vẫn duy trì thực

1 Tác giả phỏng vấn học giả Jabin T.Jacob ngày 7/12/2019 tại Đài Loan 2 Tác giả phỏng vấn học giả Tonny Dani Effendi ngày 7/12/2019 tại Đài Loan

156

trạng như hiện nay: phức tạp, đôi lúc có va chạm và căng thẳng, nhưng không ảnh

hưởng đến hợp tác kinh tế giữa hai nước. Giống như học giả Nguyễn Minh Ngọc

(Australia) cho rằng: không bao giờ Indonesia để vấn đề Biển Đông đứng một mình, mà sẽ cân bằng với các vấn đề khác để đảm bảo lợi ích tối đa của mình. 1

Về mặt văn hóa – xã hội, quan hệ giữa người với người (P2P: people to

people) vẫn luôn là một vấn đề tồn tại trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia. Các

học giả Rudolf Yuniarto và Tonny Dani Effendi (Indonesia) đều cho rằng hiện nay người dân Indonesia vẫn tồn tại những định kiến về người Trung Quốc. 2 Cứ nhắc

đến Trung Quốc là người Indonesia lại nghĩ đến nỗi sợ cộng sản và những gì đã

diễn ra vào năm 1965. Đồng thời, nhắc đến Trung Quốc, người dân Indonesia cũng

nghĩ đến người Hoa thiểu số ở Indonesia, và sự kiện năm 1998. Tất cả những vấn đề

này có quan hệ mật thiết với nhau, đều đã tồn tại lâu dài trong lịch sử, gây cản trở

cho quan hệ hợp tác giữa hai nước phát triển theo chiều sâu. Những vấn đề trong

lịch sử không thể được hóa giải trong thời gian ngắn, và cần sự tương tác tích cực

giữa người dân hai bên trong một thời gian dài mới có khả năng thay đổi được. Tuy

nhiên, những năm sắp tới sẽ chứng kiến sự giao lưu, trao đổi và học tập lẫn nhau

giữa thanh niên hai nước – thế hệ ra đời sau năm 1998. Đây là thế hệ trẻ, không

phải trực tiếp chứng kiến và trải nghiệm nỗi đau do lịch sử quan hệ giữa người Hoa

và người Indonesia để lại, lại là những người được trang bị kiến thức, dễ dàng tiếp

nhận những tư tưởng cởi mở và hợp tác trong quan hệ hai nước. Do đó, trong giai

đoạn 10 - 20 năm tới, quan hệ Trung Quốc – Indonesia hoàn toàn có thể chứng kiến

sự phát triển đáng kể trong lĩnh vực văn hóa – xã hội.

Tiểu kết ư n 4

Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm 2005 về cơ

bản là chuyển biến mang tính tiệm tiến (tăng dần), trong đó, sự kiện thiết lập quan

hệ đối tác chiến lược là kết quả của quá trình thay đổi từ từ dẫn đến làm thay đổi kết

quả, thay đổi mang tính hệ thống; còn những thay đổi trong quan hệ kinh tế giữa hai

1 Tác giả phỏng vấn học giả Nguyễn Minh Ngọc ngày 5/12/2019 tại Đài Loan 2 Tác giả phỏng vấn học giả Rudolf Yuniarto và Tonny Dani Effendi ngày 5&7/12/2019 tại Đài Loan

157

nước sau khi nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2013

là thay đổi mang tính đột biến, nhưng chưa tạo ra biến đổi trong bản chất quan hệ.

Trong các nhân tố dẫn đến sự chuyển biến trong quan hệ, việc hai nước có nhu cầu

trong phát triển quan hệ song phương, cùng môi trường thuận lợi trong quan hệ

Trung Quốc – ASEAN là những nhân tố giữ cho quan hệ hai nước phát triển “chậm

và tăng dần” theo hướng tích cực. Trong khi đó, nhân tố về sự phù hợp trong BRI

và “Trục hàng hải toàn cầu” là nhân tố thúc đẩy sự chuyển biến mang tính đột biến

trong quan hệ kinh tế. Còn các nhân tố trong lĩnh vực an ninh và văn hóa – xã hội

lại là “chốt hãm” ngăn không cho quan hệ hai nước đi vào chiều sâu thực chất.

Quan hệ Trung Quốc – Indonesia là một cặp quan hệ bất đối xứng, thể hiện ở

sự bất cân xứng trong mối quan tâm của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ

song phương, cũng như ở độ nhạy cảm của Indonesia trước bất kỳ thay đổi nào từ

phía Trung Quốc. Chính sách mà Indonesia sử dụng trong quan hệ với Trung Quốc

hiện nay là chính sách phòng ngừa rủi ro (hedging), trong đó, về các biện pháp

chính sách cụ thể, từ sau năm 2013, Indonesia đã vận dụng đầy đủ biện pháp “Ràng

buộc – Can dự”, trong khi chỉ vận dụng một phần biện pháp này trong giai đoạn

2005-2013. Quan hệ Trung Quốc – Indonesia hiện nay đang dao động giữa mức

Hình thức và Kết nối chặt chẽ. Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia

từ sau năm 2005 đến nay chủ yếu là chuyển biến tăng dần, riêng trong lĩnh vực kinh

tế, quan hệ hai nước chứng kiến sự chuyển biến mang tính đột biến. Ngoài các nhân

tố giữ cho quan hệ hai nước phát triển theo hướng tích cực như tiến triển trong quan

hệ Trung Quốc – ASEAN, Trung Quốc thúc đẩy chiến lược “đi ra ngoài”, Indonesia

cần nguồn vốn đầu tư bên ngoài…; một số nhân tố gây ra sự phát triển đột biến

trong quan hệ hai nước có thể bao gồm: sự thay đổi môi trường quốc tế buộc các

nước phải chuyển đổi chiến lược, và sự bổ sung và phù hợp về lợi ích chiến lược

của hai nước. Trong khi đó, các nhân tố trong lĩnh vực an ninh và văn hóa – xã hội

lại là chốt hãm trong quan hệ hai nước.

Ngoài việc đóng góp giá trị kinh tế cho phát triển ở Indonesia, quan hệ này

158

còn làm thay đổi vị trí ASEAN trong ưu tiên chính sách đối ngoại của Indonesia.

Tuy nhiên, những vấn đề tồn tại trong quan hệ kinh tế hai nước lại gây ảnh hưởng

xấu cho dư luận Indonesia, gây bất ổn cho xã hội nước này. Bên cạnh đó, đây là

quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, do đó

ảnh hưởng của nó đến khu vực, các quốc gia trong khu vực là đa chiều. Quan hệ

Trung Quốc – Indonesia gây tác động mạnh mẽ đến quan hệ Trung Quốc – ASEAN,

làm gia tăng sự can dự của các nước lớn vào khu vực, đồng thời có thể tác động đến

quan điểm chung của ASEAN trong vấn đề biển Đông.

Trước những thuận lợi, thách thức mà quan hệ Trung Quốc – Indonesia phải

đối mặt cũng như tác động của nó hiện nay, hai nước sẽ có xu hướng tăng cường hợp

tác về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường các chuyến

thăm ngoại giao cấp cao và ký kết nhiều văn bản hợp tác. Tuy nhiên, các vấn đề an

ninh như tranh chấp trên Biển Đông, chính sách đánh chìm tàu cá của Indonesia có

khả năng vẫn tiếp tục duy trì thực trạng hiện nay. Vấn đề quan hệ giữa người dân hai

nước trong giai đoạn hiện tại vẫn còn là một nút thắt, nhưng trong vòng 10 năm tới có

thể ghi nhận sự phát triển đáng kể thông qua hợp tác giữa thế hệ trẻ hai nước không

159

trực tiếp chứng kiến và trải nghiệm những vấn đề do lịch sử để lại.

ẾT LUẬN

Thứ nhất, quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia là quan hệ đối tác chiến

lược giữa cường quốc lớn thứ hai thế giới với quốc gia lớn nhất ASEAN, do đó, chịu

nhiều tác động từ bối cảnh bên ngoài, bao gồm cạnh tranh các nước lớn trong khu

vực Đông Nam Á, đặc biệt là cạnh tranh ảnh hưởng Trung – Mỹ, và ảnh hưởng từ sự

phát triển của quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Mặc dù trước năm 2005, quan hệ hai

nước không có nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển, hai nước thậm chí

còn nhiều vấn đề tồn tại trong lịch sử, như vấn đề người Hoa Indonesia, hay tâm lý

“chống cộng sản” ở Indonesia từ những năm 60 thế kỷ trước, nhưng trước những tác

động từ tình hình quốc tế, khu vực và nhu cầu từ bản thân mỗi nước, hai nước đã

thúc đẩy quan hệ phát triển, thông qua việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào

năm 2005, và tiếp tục nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược toàn diện vào năm

2013. Trung Quốc muốn tăng cường quan hệ với Indonesia bởi nước này là một

cường quốc kinh tế ở Đông Nam Á, có tiếng nói trong khu vực và nhiều tổ chức thế

giới; lại có vị trí chiến lược quan trọng cho mục đích thương mại và an ninh năng

lượng của Trung Quốc. Trong khi đó, Indonesia cần thị trường tiêu thụ rộng lớn của

Trung Quốc, cần nguồn vốn lớn từ Trung Quốc nhằm phục vụ nhu cầu phát triển

trong nước, và cần sự ủng hộ của Trung Quốc để giúp Indonesia giữ vững vai trò nổi

bật trong khu vực.

Thứ hai, quan hệ Trung Quốc – Indonesia thể hiện tính bất đối xứng, tuy

nhiên, do vai trò của Indonesia t ên t ường quốc tế ngày càng tăng với tư cách một

cường quốc tầm trung, tính chất bất đối xứng trong quan hệ hai nước duy trì ở

mức độ vừa phải. Sự bất đối xứng trong quan hệ hai nước thể hiện ở sự bất cân xứng

trong mối quan tâm của Trung Quốc và Indonesia trong quan hệ song phương, cũng

như ở độ nhạy cảm của Indonesia trước bất kỳ thay đổi nào từ phía Trung Quốc. Tuy

nhiên, do là một cường quốc tầm trung, lại có vị trí chiến lược quan trọng đối với

Trung Quốc, và sức ảnh hưởng nhất định trong khu vực, nên không phải lúc nào

160

Indonesia cũng bị “lép vế” trong quan hệ với Trung Quốc. Trái lại, trong một số

trường hợp, Trung Quốc chủ động tiến lại gần Indonesia, mong muốn thông qua quan

hệ với Indonesia để thúc đẩy những lợi ích trong nước cũng như lợi ích chiến lược

trong khu vực của Trung Quốc. Trải qua các giai đoạn lịch sử quan hệ hai nước, có

thể thấy, Indonesia vận dụng khá thành công chính sách phòng ngừa rủi ro (hedging)

để quản lý mối quan hệ bất đối xứng với cường quốc lớn thứ hai thế giới này.

Thứ ba, chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ sau năm

2005 đến nay về tổng thể là chuyển biến tăng dần, tuy nhiên, mức độ quan hệ

t ong các lĩnh vực có sự mất cân đối, trong đó quan hệ kinh tế phát triển nhanh,

quan hệ chính trị chuyển biến chậm và tăng dần, còn quan hệ an ninh – quốc phòng

và giao lưu văn hóa – xã hội đạt được ít tiến triển. Thương mại giữa hai nước phát

triển mạnh mẽ, đặc biệt từ sau khi Trung Quốc đẩy mạnh thực hiện BRI. Đầu tư trong

cơ sở hạ tầng là một điểm nhấn trong quan hệ kinh tế hai nước do có tính chất bổ

sung tương hỗ lớn. Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, hai nước có xu hướng ngày

càng tiến lại gần nhau hơn, ngoại giao nguyên thủ diễn ra sôi nổi và có vai trò quan

trọng trong việc phát huy vai trò hỗ trợ giữa hai nước với nhau trong các vấn đề quốc

tế và khu vực. Tuy nhiên, hợp tác trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng giữa hai nước

chưa đạt được nhiều thành tựu, do sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông

không chỉ gây bất ổn về an ninh khu vực, mà còn tác động đến hoạt động đánh bắt cá

của Indonesia trong vùng biển xung quanh đảo Natuna. Tâm lý nghi ngờ Trung Quốc

của Chính phủ và người dân Indonesia xuất phát từ những trải nghiệm đau thương

trong lịch sử tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc ở các giai đoạn trước.

Thứ tư, một số nhân tố luôn giữ cho quan hệ hai nước phát triển theo chiều

hướng tích cực như tiến triển trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, nhu cầu thúc đẩy

chiến lược đầu tư ra bên ngoài của Trung Quốc, và nhu cầu thu hút đầu tư vào phát

triển quốc nội của Indonesia. Trong khi đó, một số nhân tố dẫn đến sự phát triển đột

biến trong quan hệ hai nước bao gồm: những sự kiện lớn làm thay đổi môi trường

quốc tế, buộc các nước phải chuyển đổi chiến lược phát triển (như cuộc khủng hoảng

kinh tế 2008); và sự bổ sung và phù hợp về lợi ích chiến lược của hai nước (như BRI

161

của Trung Quốc và chiến lược “Trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia). Ngoài ra,

một số nhân tố được coi là “chốt hãm” ngăn không cho quan hệ hai nước có những

bước phát triển về chất, như vấn đề người Hoa ở Indonesia, tâm lý bài Hoa tại

Indonesia, hay yếu tố Islam…

Thứ năm, quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia phản ánh

chiến lược tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, với

cách thức chung là tăng cường và tận dụng những ưu thế về kinh tế để đổi lấy sự ủng

hộ về chính trị, từ đó tìm kiếm những lợi ích về an ninh chiến lược tại khu vực. Trong

vấn đề biển Đông, cách thức chung của Trung Quốc trong việc xử lý các tranh chấp,

bất đồng trên biển là: tạo ra các tranh chấp tại các khu vực nằm trong phạm vi “đường

chín đoạn”, thử phản ứng của các nước có tranh chấp và của các nước lớn khác, từng

bước biến giả thành thật, vừa tăng cường quyền kiểm soát thực tế trên biển, vừa đưa

ra một loạt các tuyên bố về mặt ngoại giao mang tính hình thức, nhằm hiện thực hóa

“đường chín đoạn”. Cách thức quản lý tranh chấp trên biển của Trung Quốc đã phát

huy tác dụng trong một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, một cường quốc tầm trung

như Indonesia có nhiều lựa chọn chính sách trong quản lý mối quan hệ bất đối xứng

với Trung Quốc, và lựa chọn gần đây nhất của Indonesia cho thấy, nước này sẵn sàng

sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ lợi ích cốt lõi, chứ không đổi lợi ích kinh tế lấy

những ưu đãi về chính trị như nhiều nước nhỏ khác. Cũng chính vì vậy, mức độ quan

hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia hiện nay mới chỉ ở giữa mức “Hình

thức” và “Kết nối chặt chẽ”, chứ chưa đạt đến mức độ “Thực chất” hay “Thực chất

hiệu quả”.

Thứ sáu, những chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc – Indonesia tác

động đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc, của Indonesia, cũng như của một

số cường quốc khác có ảnh hưởng tại khu vực này. Những thay đổi trong quan hệ

Trung Quốc – Indonesia đã thúc đẩy Trung Quốc thi hành chính sách tăng cường ảnh

hưởng tại Đông Nam Á, làm thay đổi việc coi ASEAN là trung tâm trong chính sách

đối ngoại của Indonesia, đồng thời cũng tác động đến chính sách ngoại giao của

Indonesia trong quan hệ với các cường quốc khác. Đồng thời, những chuyển biến

162

trong quan hệ hai nước một mặt góp phần thúc đẩy quan hệ Trung Quốc – ASEAN,

mặt khác, làm gia tăng sự can dự của Trung Quốc đối với ASEAN thông qua các

thành viên, tác động đến đoàn kết nội bộ của ASEAN. Xu hướng tiến lại gần nhau

giữa Trung Quốc và Indonesia đã gia tăng sức ép đối với một số cường quốc khác

như Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Australia…, buộc các nước này phải điều chỉnh chính sách,

thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực khác với Indonesia, nhằm cân bằng ảnh hưởng tại

quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này. Những tác động của quan hệ Trung Quốc –

Indonesia đối với Việt Nam thể hiện trước tiên trong vấn đề Biển Đông. Nếu như thái

độ của Indonesia đối với Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng cứng rắn hơn có thể

tạo thêm tiếng nói ủng hộ cho Việt Nam trong các tranh chấp trên biển, thì quan hệ

kinh tế ngày càng gắn bó giữa Indonesia với Trung Quốc cũng gây ra lo ngại về việc

Indonesia “lấy kinh tế đổi lấy chính trị”, giảm bớt sức ép đối với Trung Quốc về Biển

Đông, khiến Việt Nam mất đi chỗ dựa trong ASEAN.

Cuối cùng, trước những thuận lợi và thách thức về bối cảnh quốc tế, khu vực

và bản thân hai nước, Trung Quốc và Indonesia sẽ có xu hướng tăng cường hợp tác

về kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường kết nối chính

sách thông qua các chuyến thăm ngoại giao cấp cao. Tuy nhiên, các vấn đề an ninh

và văn hóa – xã hội có khả năng vẫn tiếp tục duy trì thực trạng phức tạp như hiện nay.

Giao lưu giữa người dân hai nước tuy hiện nay vẫn còn là một nút thắt do những vấn

đề trong lịch sử, nhưng giai đoạn 10 - 20 năm tới có thể ghi nhận sự phát triển đáng

kể thông qua hợp tác giữa thế hệ trẻ không trực tiếp chứng kiến những giai đoạn lịch

163

sử đau thương giữa hai nước.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH HOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thu Minh (2016), “Những tiến triển trong quan hệ đối tác chiến lược Trung

Quốc – Indonesia từ năm 2005 tới nay”, Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr.29-38.

2. Trần Thu Minh (2016), “Cái nhìn của Indonesia về Sáng kiến Con đường tơ lụa

trên biển thế kỷ XXI”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (10), tr. 64-69.

3. Trần Thu Minh (2018), “Sự phân hóa trong cách nhìn nhận Trung Quốc của giới

tinh hoa Indonesia”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (3), tr.46-51.

4. Trần Thu Minh (2018), “Thực tiễn triển khai Chiến lược “Vành đai và con đường”

tại Indonesia”, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới (4), tr.3-13.

5. Trần Thu Minh (2018), “Vấn đề lao động Trung Quốc tại Indonesia trong bối

cảnh Chiến lược ‘Vành đai và con đường’”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (6),

tr.66-71.

6. Trần Thu Minh (2018), “Quan hệ Mỹ - Indonesia dưới thời Tổng thống

D.Trump”, Sự kiện và Nhân vật nước ngoài (7), tr.50-56.

7. Trần Thu Minh (2018), “Quan hệ kinh tế Trung Quốc – Indonesia từ năm 2005

đến nay”, Nghiên cứu Trung Quốc (10), tr.27-36.

8. Trần Thu Minh (2018), “Quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia:

Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Nghiên cứu Quốc tế (4), tr.139-159.

9. Trần Thu Minh (2019), “Ngoại giao quan hệ đối tác của Trung Quốc từ sau cải

cách mở cửa”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “40 năm cải cách mở cửa của Trung

Quốc: Nhìn lại và Triển vọng”, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm

Khoa học Xã hội Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

10. Trần Thu Minh (2019), “Sự phục hồi của văn hóa Trung Hoa trong cộng đồng

người Hoa tại Indonesia sau thời kỳ Trật tự mới”, Nghiên cứu Đông Nam Á (8),

tr.73-81.

11. Trần Thu Minh (2019), “Chính sách đối ngoại của Indonesia đối với Trung

Quốc thời kỳ Tổng thống Joko Widodo”, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế

164

giới (10), tr.42-50.

TÀI LIỆU THAM HẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Hữu Cát, Vũ Quang Đức (2018), “Trung Quốc thực hiện chính sách đối

ngoại và các tác động đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, Lý luận Chính

trị (9), tr.92-97.

2. Nguyễn Thùy Chi (2015), “Phân tích về quan hệ bất đối xứng qua so sánh

trường hợp quan hệ Đức – Séc và quan hệ Trung – Việt”, Nghiên cứu Châu Âu

(4), tr.30-42.

3. Phạm Thành Dung, Đinh Thanh Tú (2008), “Những tiền đề cơ bản định hướng

đường lối đối ngoại của Indonesia từ khi giành độc lập đến nay”, Khoa học

Chính trị, tr.74-79.

4. Lưu Việt Hà (2014), “Nhân tố ASEAN trong chính sách đối ngoại của Trung

Quốc đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu Quốc tế (1), tr.199-214.

5. Nguyễn Văn Hà, Chu Trọng Trí (2015), “Điều chỉnh chính sách hợp tác của

Trung Quốc những năm gần đây và tác động của nó đến phát triển kinh tế

ASEAN”, Nghiên cứu Đông Nam Á (7), tr.12-20.

6. Châu Thị Hải (2001), “Người Hoa ở Indonesia với cuộc khủng hoảng tài chính –

tiền tệ”, Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.38-51.

7. Trần Hiệp (2012), “Quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – Indonesia thời

gian gần đây”, Sự kiện và nhân vật nước ngoài (4), tr.47-50.

8. Nguyễn Huy Hoàng (2018), Đánh giá, dự báo tác động của điều chỉnh chiến

lược và phương thức phát triển mới của Trung Quốc đến ASEAN và gợi mở

chính sách cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Đàm Huy Hoàng (2011), “Quan hệ Trung Quốc – Indonesia từ khi Chiến tranh

lạnh kết thúc tới nay”, Nghiên cứu Trung Quốc (5), tr.30-45.

10. Đàm Huy Hoàng (2018), “Sự tiến triển trong quan hệ chính trị ngoại giao, an

ninh quốc phòng giữa Trung Quốc và Indonesia giai đoạn 1990-2015”, Nghiên

165

cứu Đông Nam Á (1), tr.11-16.

11. Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan (2014), “Vai trò của ngoại giao đa phương

trong chính sách đối ngoại của quốc gia tầm trung: Trường hợp của Indonesia”,

Nghiên cứu Quốc tế (2), tr.109-138.

12. Lê Thị Thu Hồng, Phạm Hồng Thái (2010), “Chính sách ngoại giao láng giềng

của Trung Quốc nhìn từ ASEAN”, Nghiên cứu Đông Bắc Á (7), tr.11-16.

13. Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Khắc Nam (2006), Quan hệ quốc tế - Những khía

cạnh lý thuyết và vấn đề, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Dương Văn Huy (2014a), “Chính sách đối ngoại của tân Tổng thống Indonesia

sẽ ra sao”, Thế giới toàn cảnh (38), tr.31-32.

15. Dương Văn Huy (2014b), “Một số điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc trong

thời gian gần đây”, Sự kiện và Nhân vật (248), tr.50-57.

16. Trần Khánh, Đàm Huy Hoàng (2014), “Xu hướng gia tăng hợp tác kinh tế và

chiến lược của Trung Quốc với Đông Nam Á trong hai thập niên đầu thế kỷ

XXI”, Nghiên cứu Đông Nam Á (4), tr.3-10.

17. Trần Khánh (2002), “Nguyên nhân di cư và các dạng di trú của người Hoa

trong lịch sử”, Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr.44-53.

18. Nguyễn Đăng Khoa (2017), “Biển Đông và chính sách của Trung Quốc dưới

góc nhìn Quan hệ quốc tế”, Tạp chí Khoa học – Khoa học xã hội và nhân văn

(14), tr. 168-176.

19. Nguyễn Thanh Mai (2017), “Bàn về một số đặc thù của chính sách đối ngoại”,

Nghiên cứu Châu Âu (10), tr.64-73.

20. Phí Hồng Minh (2016), “Những điều chỉnh mới trong chính sách ngoại giao láng

giềng của Trung Quốc từ sau Đại hội Đảng lần thứ 18, Nghiên cứu Đông Bắc Á

(9), tr.11-20.

21. Lê Văn Mỹ (2013), Ngoại giao Trung Quốc trong quá trình trỗi dậy và những

vấn đề đặt ra cho Việt Nam, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

22. Hoàng Khắc Nam (2011), Quyền lực trong quan hệ quốc tế: Lịch sử và vấn đề,

166

NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.

23. Hoàng Khắc Nam (2014), Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn

lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Hoàng Khắc Nam (2016), “Điều kiện bên ngoài của Hợp tác quốc tế”, Nghiên

cứu Châu Âu (11), tr.51-61.

25. Hoàng Khắc Nam (2017), Lý thuyết quan hệ quốc tế, NXB Thế giới, Hà Nội.

26. Trần Thọ Quang, Đào Thị Nguyệt Hằng (2015), “Ngoại giao kinh tế - xu thế tất

yếu trong quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu Châu Âu (2), tr.12-20.

27. Trần Thọ Quang (2015), “Quan hệ đối tác chiến lược: Từ lý thuyết đến thực

tiễn”, Nghiên cứu châu Âu (7), tr.67-76.

28. Trần Thọ Quang (2016), “Vai trò của một số chủ thể thứ yếu trong hoạch định

và triển khai chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay”, Thông tin Khoa

học xã hội (5), tr.19-25.

29. Dương Văn Quảng (2016), “Bàn về một số thuật ngữ liên quan đến quan hệ

quốc tế”, Nghiên cứu Quốc tế (1), tr.158-168.

30. Bùi Huy Thành (2007), “Về một số nguyên nhân xung đột sắc tộc và tôn giáo ở

Indonesia trong những thập kỷ gần đây”, Nghiên cứu Đông Nam Á (3), tr.67-70.

31. Nguyễn Viết Thảo, Ngô Chí Nguyện (2017), “Quan hệ nước nhỏ - nước lớn

trong thế giới ngày nay”, Lý luận Chính trị (11), tr.109-115.

32. Đồng Xuân Thọ (2016), “Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu

vực châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Cộng sản (9), tr.101-105.

33. Nguyễn Quang Thuấn (2017), “Điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc: tác động

đến thế giới, khu vực và Việt Nam”, Khoa học Xã hội Việt Nam (3), tr.3-13.

34. Đỗ Thị Thủy (2010), “Nghiên cứu chính sách đối ngoại Trung Quốc từ góc độ lý

luận quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu Quốc tế (4), tr.53-73.

35. Lê Đình Tĩnh (2018), “Mục tiêu cường quốc tầm trung và viễn cảnh ngoại giao

Việt Nam sau năm 2030”, Nghiên cứu Quốc tế (2), tr.22-53.

36. Đỗ Ngọc Toàn (2008), “Sự điều chỉnh chính sách của một số nước Đông Nam

Á đối với người Hoa từ sau thập niên 60 của thế kỷ XX”, Nghiên cứu Đông

167

Nam Á (8), tr.64-70.

37. Đinh Công Tuấn (2013), “Quan hệ đối tác chiến lược trong quan hệ quốc tế hiện

nay: lý thuyết, thực tiễn thế giới và Việt Nam”, Nghiên cứu Châu Âu (7), tr.3-14.

38. Nguyễn Thanh Tuấn (2016), “Phân tích ban đầu về chính sách đối ngoại của

Indonesia dưới thời Tổng thống Joko Widodo”, Nghiên cứu Đông Nam Á (10),

tr.27-34.

39. Nguyễn Vũ Tùng, Hoàng Anh Tuấn (2006), Quan hệ đối tác chiến lược trong

quan hệ quốc tế: Từ lý thuyết đến thực tiễn, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.

40. Nguyễn Vũ Tùng, Nguyễn Thùy Anh (2017), “Những điều chỉnh chính sách của

Nhật Bản với khu vực Đông Nam Á trong nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng Shinzo

Abe”, Nghiên cứu Quốc tế (2), tr.90-112.

41. Từ điển Tiếng Việt (2007), Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng.

Tiếng Anh

42. Andika Muhammad Tri (2016), “An Analysis of Indonesia Foreign Policy

Under Jokowi’s Pro-People Diplomacy”, Indonesian Perspective (1), pp.1-13.

43. Andika Muhammad Tri, Aisyah Allya Nur (2017), “Analisis Politik Luar Negeri

Indonesia-China di Era Presiden Joko Widodo: Benturan Kepentingan Ekonomi

dan Kedaulatan?” (“Analysis Indonesia-China Foreign Policy in President Joko

Widodo's Era: Conflict of Economic Interest and Sovereignty?”), Indonesian

Perspective (2), pp.161-179.

44. Anwar Dewi Fortuna (2019), “Indonesia-China Relations: To Be Handled With

Care”, Yusof Ishak Institute, 28 Mar, pp.1-7.

45. Azra Azyumardi (2015), “Indonesia’s Middle Power Public Diplomacy: Asia

and Beyond”, in Jan Melissen, Yul Sohn eds., Understanding Public Diplomacy

in East Asia: Middle Powers in a Troubled Region, Palgrave Macmillan, New

York, pp.130-154.

46. Bolewski Wilfried, Rietig Candy M. (2008), “The Cultural Impact on China's

New Diplomacy”, The Whitehead Journal of Diplomacy and International

168

Relations (3), pp.83-96.

47. Booth Anne (2011), “China’s Economic Relations with Indonesia: Threats and

Opportunities”, Journal of Current Southeast Asian Affairs (2), pp.141-160.

48. Brown Jessica (2011), “Jakarta’s Juggling Act: Balancing China and America in

the Asia-Pacific”, Foreign Policy Analysis (5), pp.1-15.

49. Chapnick Adam (1999), “The Middle Power”, Canadian Foreign Policy (2),

pp.73–82.

50. Chua Christian (2008), Chinese Big Business in Indonesia: The state of capital,

Routledge, New York.

51. Clark M. (2012), “Torn between America and China: Elite Perceptions and

Indonesian Foreign Policy” Book Review, Australian Journal of International

Affairs (1), pp.91–93.

52. Connelly Aaron L. (2015), “Sovereignty and the Sea: President Joko Widodo’s

Foreign Policy Challenges”, Contemporary Southeast Asia (1), pp. 1-28.

53. Cooper Andrew F., Higgott Richard A., Nossal Kim Richard (1993), Relocating

Middle Powers: Australia and Canada in a Changing World Order, UBC Press,

Vancouver.

54. Cox R.W. (1981), “Social Forces, States and World Orders: Beyond

International Relations Theory”, Millennium: Journal of International Studies

(2), pp.126-155.

55. Cox R.W. (1989), “Middlepowermanship, Japan, and Future World Order”,

International Journal (4), pp. 823-862.

56. Cox. R.W. (1996), Approaches to World Order, University of Cambridge Press,

Cambridge.

57. Du Julan, Zhang Yifei (2018), “Does One Belt One Road initiative promote

Chinese overseas direct investment?”, China Economic Review (47), pp.189–

205.

58. Duan Fei, Ji Qiang, Liu Bing-Yue, Fan Ying (2018), “Energy investment risk

assessment for nations along China’s Belt & Road Initiative”, Journal of

169

Cleaner Production (170), pp.535-547.

59. Egan John (2001), Managing Partnership: Preventing and Solving Problems in

Strategic Partnership, Allen & Unwin, Sydney.

60. Farneubun Petrus K. (2017), “Explaining Yudhoyono’s Decision To Develop A

Strategic Partnership With China”, Social Science Education and Humanities

Research (ASSEHR) (129), pp.332-337.

61. Fealy Greg, White Hugh (2016), “Indonesia’s ‘Great Power’ Aspirations: A

Critical View”, Asia & the Pacific Policy Studies (1), pp. 92–100.

62. Fels Enrico (2016), Shifting Power in Asia-Pacific? The Rise of China, Sino-US

Competition and Regional Middle Power Allegiance, Springer, Singapore.

63. Feng Zhongping, Huang Jing (2014), “China’s strategic partnership diplomacy:

Engaging with a changing world”, European Strategic Partnerships

Observatory Working Paper (8), June, pp.1-19.

64. Fitriani, E. (2018), “Indonesian perceptions of the rise of China: Dare you, dare

you not”, The Pacific Review (3), pp.391–405.

65. Flemes. Daniel (2007), “Emerging Middle Powers’ Soft Balancing Strategy:

State and Perspectives of the IBSA-Dialogue Forum”, German Institute of

Global and Area Studies Working Paper (57), Aug, pp.1-31.

66. Fook Lye Liang (2019), “China-Malaysia Relations back on track”, Yusof Ishak

Institute Perspective (38), 15 May, pp.1-9.

67. Forbes Vivian Louis (2017), “China-Malaysia Relations: Navigating a Complex

Geopolitical Sea - Part Two: The South China Sea Issue”, Associate paper of

Future Directions international, 5 Sep, pp.1-7.

68. Friborg Nadja, Carlsson Patrik (2019), Middle powers and the rise of China - A

case study of Swedish policy formulations with respect to China, Bachelor’s

Thesis, University WEST School of Business, Economics and IT, Sweden.

69. Gajauskaite Ieva (2013), “Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative

Analysis of Polish—Ukrainian and Lithuanian-Ukrainian Strategic Partnerships”,

170

Lithuanian Annual Strategic Review (1), pp.199-204.

70. Gilpin Robert (1981), War and Change in World Politics, Cambridge University

Press, America.

71. Gindarsah Iis (2018), “Indonesia’s Strategic Hedging and the South China Sea”,

in Maintaining Maritime Order in the Asia-Pacific, The National Institute for

Defense Studies, Tokyo, pp.25-35.

72. Haas Ernst (1958), The Uniting of Europe: Political, Social and Economic

Forces, 1950–1957, Palo Alto, Stanford University Press, California.

73. Hamilton-Hart Natasha, McRae Dave (2015), Indonesia: Balancing the United

States and China, aiming for independence, The University of Sydney United

States Studies Centre, Sydney.

74. Hau Caroline (2012), “Becoming‘Chinese in Southeast Asia”, in Peter

J.Katzenstein ed., Sinicization and the Rise of China, Routledge, London & New

York, pp.175-206.

75. Herlijanto Johanes (2017), “How the Indonesian Elite Regards Relations with

China”, Yusof Ishak Institute, 10 Feb, pp.1-7.

76. Holbraad C. (1984), Middle powers in international politics, St. Martin’s Press,

New York.

77. Hölscher Katharina, Wittmayer Julia M., Loorbach Derk (2018), “Transition

versus transformation: What’s the difference?”, Environmental Innovation and

Societal Transitions (27), pp.1-3.

78. Holsti K.J. (1998), “The Problem of Change in International Relations Theory”,

Institute of International Relations - The University of British Columbia

Working Paper (26), Dec, pp.1-24.

79. Huang David W.F. (2016), Asia Pacific Countries and the US Rebalancing

Strategy, Palgrave Macmillan, London.

80. Hughes Lindsay (2018), “Indonesian Foreign Policy: The China Factor, Future

Directions”, International Strategic Analysis Paper, 13 Sep, pp.1-6.

81. Idris Aida (2008), “An Analysis of Malay-Sino Relations in Malaysia”, Asian

171

Social Science (4), pp.3-12.

82. Ikenberry John G. (2004), “American Hegemony and East Asian Order”,

Australian Journal of International Affairs (3), pp. 353–367.

83. Jordaan Eduard (2003), “The Concept of a Middle Power in International

Relations: Distinguishing between Emerging and Traditional Middle Powers”,

Politikon: South African Journal of Political Studies (1), pp.165-181.

84. Kai He (2008), “Indonesia’s foreign policy after Soeharto: International

pressure, democratization, and policy change”, International Relations of the

Asia-Pacific (8), pp.47–72.

85. Keohane Robert (1969), “‘Liliputians’ Dilemmas: Small States in International

Politics”, International Organization (2), pp. 291–310.

86. Keohane Robert, Nye Joseph S. (1997), “Interdependence in World Politics”, in

Crane George T. ed., The Theoretical Evolution of International Political

Economy: A Reader, Oxford University Press, Oxford, pp.122-131.

87. Keohane Robert, Nye Joseph S. (2001), Power and Interdependence, Longman,

New York.

88. Kuik C.C (2005), “Multilateralism in China’s ASEAN Policy”, Contemporary

Southeast Asia (1), pp.102–122.

89. Kuik C.-C. (2008), “The essence of hedging: Malaysia and Singapore’s response

to a rising China”, Contemporary Southeast Asia (2), pp.159–184.

90. Laksmana Evan (2017), “Pragmatic Equidistance: How Indonesia Manages Its

Great Power Relations”, in Denoon David B.H. ed., China, The United States,

and the Future of Southeast Asia, New York University Press, New York, pp.

113-135.

91. Laksmana Evan (2018a), “Promises and pitfalls of Indonesia’s faith in

multilateralism”, The Jakarta Post, 1 Feb, pp.2.

92. Laksmana Evan (2018b), “Drifting towards Dynamic Equilibrium: Indonesia’s

South China Sea Policy under Yudhoyono”, in Fionna Ulla, Negara Dharma,

172

Simandjuntak Deasy eds., Aspirations with Limitations: Indonesia's Foreign

Affairs under Susilo Bambang Yudhoyono, ISEAS–Yusof Ishak Institute,

Singapore, pp. 153-175.

93. Laksmana Evan A. (2015), “Indonesia’s strategic thinking: breaking out of its

shell?”, Regional Security Outlook 2015, pp.35-38.

94. Laksmana Evan, Supriyanto Ristian A. (2018), “Abandoned at Sea: The

Tribunal Ruling and Indonesia’s Missing Archipelagic Foreign Policy”, Asian

Politics & Policy (2), pp.300-321.

95. Lee. Ji yun (2017), “Hedging Strategies of the Middle Powers in East Asian

Security: the Cases of South Korea and Malaysia”, East Asia (34), pp.23–37.

96. Liow Chinyong Joseph (2000), “Malaysia-China Relations in the 1990s: The

Maturing of a Partnership”, Asian Survey (4), pp.672-691.

97. Madu Ludiro (2017), “Indonesia's Foreign Policy Under President Jokowi: More

Domestic and Nationalist Orientations”, International Journal of Scientific

Research in Science and Technology 2, pp.189-197.

98. McRae Dave (2014), “More talk than walk: Indonesia as a foreign policy actor”,

Lowy Institute for international policy, Feb, pp.1-21.

99. Nabbs-Keller Greta (2011), “Growing Convergence, Greater Consequence: The

Strategic Implications of Closer Indonesia-China Relations”, Security

Challenges (3), pp. 23-41.

100. Nargiza Salidjanova, Iacob Koch-Weser (2015), “China’s Economic Ties

with ASEAN: A Country-by-Country Analysis”, CEIC database, 17 Mar.

101. Novotny D. (2010), “Torn between America and China: Elite perceptions

and Indonesian Foreign Policy”, ISEAS, Singapore.

102. Pape Robert A. (2009), “Empire Falls”, The National Interest, Jan-Feb, pp.

21–34.

103. Parameswaran Prashanth (2014a), “Between Aspiration and Reality:

Indonesian Foreign Policy After the 2014 Elections”, The Washington Quarterly

173

(3), pp.153-165.

104. Parameswaran Prashanth (2014b), “Explaining US Strategic Partnerships in

the Asia-Pacific Region: Origins, Developments and Prospects”, Contemporary

Southeast Asia (2), pp.262-289.

105. Pattiradjawane Rene´L (2016), “The Indonesian perspective toward rising

China: Balancing the national interest”, Asian Journal of Comparative Politics,

Jun, pp.1–23.

106. Pierson Paul (2003), “Big, Slow Moving and Invisible: Macro Social

Processes in the Study of Comparative Politics”, in Mahoney James,

Rueschemeyer Dietrich eds., Comparative Historical Analysis in the Social

Sciences, Cambridge University Press, Cambridge, pp.177–207.

107. Pradt Tilman (2016), China’s New Foreign Policy: Military Modernisation,

Multilateralism and the ‘China Threat’, Palgrave Macmillan, London.

108. Pratt C. (1990), Middle Power Internationalism and Global Poverty, Middle

Power Internationalism: The North-South Dimension, McGill-Queen’s

University Press, Motreal.

109. Priyandita Gatra (2019), “From Rivals to Partners: Constructing the Sino-

Indonesian Strategic Partnership”, Jurnal Politik Internasional (1), pp.1-26.

110. Qin Yaqing (2012), “Culture and Global Thought: Chinese International

Theory in the Making”, Revista CIDOB d’Afers Internacionals (100), pp.67-90.

111. Rotmans J., Kemp R., van Asselt M. (2001), “More evolution than revolution:

transition management in public policy”, Foresight (1), pp. 15-31.

112. Saat Norshahril, Negara Siwage Dharma (2019), “Jokowi’s Second-term

Priorities and Challenges: An Interview with Luhut B. Pandjaitan”, ISEAS –

Yusof Ishak Institute Perspective (86), pp.1-9.

113. Sampson Michael (2019), “The evolution of China’s regional trade

agreements: power dynamics and the future of the Asia-Pacific”, The Pacific

Review, pp.1-32.

114. Schmitt. Gary J. (2016), “Challenges to the US Rebalance to Asia”, in Huang

174

D.W.F., Asia Pacific Countries and the US Rebalancing Strategy, pp.31-47.

115. Sean Kay (2000), “What is a Strategic Partnemhip?”, Problems of Post

Communism 3, pp.15 -24.

116. Setijadi Charlotte (2016), “Ethnic Chinese in Contemporary Indonesia:

Changing Identity Politics and the Paradox of Sinification”, ISEAS –Yusof Ishak

Institute (12), pp.1-11.

117. Shambaugh D. (2000), “Sino-American strategic relations: from partners to

competitors”, Survival (1), pp. 97-115.

118. Sinaga Lidya Christin (2018a), Six Decades of Indonesia-China Relations:

An Indonesian Perspective, Springer, Singapore.

119. Sinaga Lidya Christin (2018b), “The Dynamics of Indonesia–China

Relations in Politics, Defense-Security, and Economy in Southeast Asia: An

Indonesian Perspective”, in Sinaga Lidya Christin ed., Six Decades of Indonesia-

China Relations: An Indonesian Perspective, Springer, Singapore, pp.1-15.

120. Sinha Assema (2018), “Building a Theory of Change in International

Relations: Pathways of Disruptive and Incremental Change in World Politics”,

International Studies Review, pp.1–9.

121. Smith Anthony L. (2003), “From Latent Threat to Possible Partner:

Indonesia’s China Debate”, Asia-Pacific Center for Security Studies, pp.71-78.

122. Son Key-young (2014), “Middle Powers and the Rise of China: ‘Identity

Norms’ of Dependency and Activism and the Outlook for Japan–South Korea

Relations vis-à-vis the Great Powers Japanese”, Journal of Political Science (1),

pp 91 – 112.

123. Sriyanto Nanto (2018), “Indonesia–China Relations: A Political-Security

Perspective”, in Sinaga Lidya Christin ed., Six Decades of Indonesia-China

Relations: An Indonesian Perspective, Springer, Singapore, pp.65-77.

124. Stirling A. (2014), “Emancipating Transformations: From Controlling ‘the

Transition’ to Culturing Plural Radical Progress”, STEPS Working Paper (64),

175

pp.1-48.

125. Storey Ian (2009), “China and Indonesia: Militarysecurity Ties Fail to Gain

Momentum”. China Brief IX (4), February 20, pp.6-9.

126. Streeck Wolfgang, Kathleen Thelen (2005), Beyond Continuity: Institutional

Change in Advanced Political Economies, Oxford University Press, Oxford.

127. Strüver Georg (2016), “International Alignment between Interests and

Ideology: The Case of China’s Partnership Diplomacy”, GIGA Working Papers

(283), pp.1-36.

128. Strüver Georg (2017), “China’s Partnership Diplomacy: International

Alignment Based on Interests or Ideology”, The Chinese Journal of

International Politics, Jan, pp.31-65.

129. Sukma Rizal (1999), Indonesia and China: The Politics of Troubled

Relationship, Routledge, London.

130. Suryadinata Leo (2014), “An End to Discrimination for China and the

Chinese in Indonesia?”, ISEAS Perspective (26), ISEAS – Yusof Ishak Institute,

Singapore, pp.1-9.

131. Suryadinata Leo (2017a), “The growing ‘Strategic partnership’ between

Indonesia and China faces difficult challenges”, Trends in Southeast Asia (15),

pp.1-25.

132. Suryadinata Leo (2017b), “The Rise of China and the Chinese Overseas: A

Study of Beijing’s Changing Policy in Southeast Asia and Beyond”, ISEAS –

Yusof Ishak Institute, Singapore.

133. Swaine Michael D. (2014), “Chinese View and commentary on Periphery

Diplomacy”, China Leadership Monitor (44), pp.1-43.

134. Syailendra Emirza Adi (2017), “China in Indonesia’s Foreign Policy:

Maintaining a Nonbalancing Posture”, RSIS Commentary (168), 14 Sep.

135. Tan (1991), “The social and cultural dimensions of the role of ethnic Chinese

in Indonesian society”, in Ithaca A. Kahin ed., The role of the Indonesian

Chinese in shaping modern Indonesian life, Cornell Southeast Asia Program,

176

New York, pp. 113–25.

136. Thanh Trung Nguyen (2016), Accommodating the dragon: Vietnam's

enduring asymmetric entanglements with China, Doctor Thesis, Hong Kong

Baptist University, Hong Kong.

137. Thayer Carlyle A. (1994), “Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of

Ideology and National Interest”, Asian Survey (6), pp. 513-528

138. Thies Cameron G., Sari Angguntari C. (2018), “A Role Theory Approach to

Middle Powers: Making Sense of Indonesia’s Place in the International System”,

Contemporary Southeast Asia (3), pp. 397–421.

139. Tjhin Christine Susanna (2012), “Indonesia’s Relations with China:

Productive and Pragmatic, but not yet a Strategic Partnership”, China Report (3),

pp.303–315.

140. Treverton Gregory F., Jones Seth G. (2005), Measuring National Power,

RAND, Washington DC.

141. Tsai Tung-Chieh, Hung Ming-Te, Tony Tai-Ting Liu (2011), “China's

foreign policy in Southeast Asia: Harmonious worldview and its impact on good

neighbor diplomacy”, Journal of Contemporary Eastern Asia (1), pp.25-42.

142. Umagapi Juniar Laraswanda (2017), “The Rise of China-Indonesia

Relationship: Soft Power, Resources, and Prospect in the Future”, Indonesian

Perspective (2), pp.131-142.

143. Varrall Merriden (2015), “Chinese worldviews and China's foreign policy”,

Lowy Institute for International Policy, Nov, pp.1-23.

144. Vuving Alexander L. (2006), “Vietnam’s China Policy: A Changing Mixture

of Pathways”, Asian Survey (6), pp.805-824.

145. Waltz Kenneth N. (1986), “Reflections on Theory of International Politics: A

Response to My Critics”, in Keohane Robert O. ed., Neorealism and its Critics,

Columbia University Press, New York, pp. 322-345.

146. Wilkins Thomas S. (2008), “Russo—Chinese Strategic Partnership: A New

177

Form of Security Cooperation?”, Contemporary Security Policy (2), pp.358-383.

147. Wnukowski Damian (2015), “Balancing ASEAN, the U.S. and China:

Indonesia’s Bebas-aktif Foreign Policy in the 21st Century”, The Polish

Quarterly of International Affairs (4), pp.115-138.

148. Womack Brantly (2006), China and Vietnam: The Politics of Asymmetry,

Cambridge University Press, Cambridge.

149. Wuryandari Ganewati (2018), “The Prospects of Indonesia–China Relations”,

in Sinaga L. Christin ed., Six Decades of Indonesia-China Relations, Springer

Nature, Singapore, pp.79-93.

150. Xiao Xiongyi (2005), “Chinese Foreign Policy in Transition: Understanding

China’s ‘Peacefull Development’”, The Journal of East Asian Affairs (1), pp.74-

112.

151. Yuniarto Paulus Rudolf (2019), “Intercultural Gaps Between Indonesia and

China on the Belt and Road Initiative: Causes and Remedies”, China Quarterly

of International Strategic Studies (3), pp.1–22.

152. Zuhri Ahmad Syaifuddin (2015), “Indonesia-China’s Diplomatic Relations

after Normalization in 1990”, International Seminar and Conference 2015: The

Golden Triangle (Indonesia-India-Tiongkok), Indonesia.

Tiếng Trung

153. 陈跃, 马千里(2015), “新变局, 新内涵, 新常态 ——中国周边外交新战

略探析”, 理论探索 (6), tr. 59-65.

154. 丁工 (2011), “中等强国崛起极其对中国外交布局的影响“,现代国际关

系 (10),pp.47-53.

155. 丁工 (2014), “中等强国与中国周边外交”, 世界经济与政治 (7), tr. 24-41.

156. 江泽民 (2006), 江泽民文选 第2卷,人民出版社, 北京.

157. 孔志国, 罗建波 (2017) , “试论儒家文化在中国周边外交中的作用”, 哲学

178

-文化 (1), tr.116-122.

158. 林国治, 蒋洪池, 杨 媛 (2006), “新中国外交思想的衍沿与创新”, 中国石

油大学学报(社会科学版) (2), tr.50-55.

159. 刘艳峰, 邢瑞利 (2016), “印尼外交战略演进及其南海利益诉求”, 南洋问

题研究 (2), tr.56-65.

160. 龙安山 (2018), 21世纪海上丝绸之路”建设与中国——东盟经贸新合作,

上海社会科学出版社, 上海.

161. 门洪华, 刘笑阳 (2015), “中国伙伴关系战略 评估与展望”, 世界经济与政

治 (2), tr. 65-95.

162. 潘玥 (2016), “佐科维执政初期印尼华人社会状况初探”, 东南亚研究 (3),

tr.71-81.

163. 潘玥 (2017), “‘一带一路’背景下印尼的中国劳工问题”, 东南亚研究 (3),

tr.123-139.

164. 潘玥 (2018), “‘一带一路’背景下中印尼合作:成果、问题与对策”, 战略决

策研究 (1), tr.60-77.

165. 彭泳 (2016), 2000 年来中国与印尼绞贸合作研究, 广西师范大学硕士论

文, 广西.

166. 邱岳 (2017), 佐科执政后中国与印尼经贸合作探析, 华中师范大学硕士

论文, 上海.

167. 施雪琴, 叶丽萍 (2018), “契机与挑战: 当代中国与印尼新型互动关系的

构建--以“21 世纪海上丝绸之路”建设为背景”, 当代世界与社会主义 (3),

tr.144-153.

168. 宋秀琚 (2017), “21世纪海上丝绸之路”与中国——印尼战略合作研究,

华中师范大学出版社, 上海.

169. 宋秀琚, 王鹏程 (2018), “ 中等强国” 务实外交:佐科对印尼“ 全方位外交”

179

的新发展, 南洋问题研究 (3), tr.97-108.

170. 孙云飞 (2015), “中国周边外交调整的预期目标与大国反应 — 兼论中国

周边外交调整的突破口”, 世界经济与政治论坛 (4),tr.57-71.

171. 谭璟婧 (2017), “一带一路”背景下中国对印尼直接投资研究, 广西民族大

学硕士论文, 广西.

172. 王道征, 阮建平 (2018), “印度尼西亚 2019 年总统大选及其影响因素分析

”,东南亚纵横 (4), tr.46-55.

173. 温北炎 (2008), “印尼华人融入当地主流社会的现状、挑战和发展趋势”,

东南亚研究 (4) , tr.65-70.

174. 温北炎 (2012), “印尼民主改革时期华人社会几个热点问题”, 东南亚研

究 (6), tr.63-65.

175. 吴崇伯 (2014), “中国与印尼经济关系的发展与对策”, 江南社会学院学

报 (1), tr.39-43.

176. 吴征兰,胡列曲 (2015), “中国印尼金融合作问题研究”, 时代金融 (2),

tr.279-298.

177. 邢丽菊(2014), “从传统文化角度解析中国周边外交新理念 - 以’亲、诚、

惠、容’为中心”, 国际问题研究 (3), tr.9-20.

178. 习近平 (2018), “习近平在中央外事工作会议上强调 坚持以新时代中国

特色社会主义外交思想为指 导 努力开创中国特色大国外交新局面”,人民

日报, ngày 24-6, tr.1.

179. 许利平 (2011), “战略伙伴关系框架下的中国—印尼合作:基础、现状与

趋势”, 东南亚研究 (3), tr.55-60.

180. 许利平 (2013), “中国——印尼合作关系:现状与挑战, 载李向阳”, in 亚

太蓝皮书: 亚太地区发展报告 , 社会科学文献出版社, 北京.

181. 许梅, 黄丽嫦 (2010), “试析华侨华人在推动中国与印尼关系发展中的独

180

特作用”, Overseas Chinese Journal of Bagui (3), tr.34-38.

182. 薛松, 许利平 (2016), “印尼’海洋强国战略’与对华海洋合作”, 国际问题研

究 (3), tr.64-84.

183. 杨启光 (2006), “试论印尼华人文化”, 东南亚研究 (4), tr.71-78.

184. 杨洁勉 (2018), “改革开放 40 年中国外交理论建设”, 国际问题研究 (5),

tr.1-15.

185. 尹楠楠 (2018), “印尼佐科政府外交特点, 原因及挑战探析”, 江南社会学

院学报 (3), tr. 68-74.

186. 于志强 (2015), “佐科治下印度尼西亚的外交政策: 回归务实和民族主义”,

东南亚纵横 (7), tr.14-19.

187. 张清敏 (2014), “理解十八大以来的中国外交”, 外交评论:外交学院学

报 (2), tr.1-20.

188. 张 锐 (2016), “试论中国伙伴关系网络的政治安全效应”,国际展望 (5),

tr.40-59.

189. 张小倩 (2016), “二十一世纪以来印尼华人’再华化’现象研究”, 世界民族

(1), tr. 82-91.

190. 郑一省 (2012), “当代印尼华人社团与中国的软实力建设”, 东南亚南亚

研究 (3), tr. 62-68.

191. 郑 一 省 (2016), “ 海 上 丝 绸 之 路 历 史 中 的 印 尼 华 侨 华 人 ”, Overseas

Chinese Journal of Bagui (3), tr.27-33.

192. 周素勤 (2003), “三邻政策”与中国一东盟自由贸易区, 东南亚 (4) , tr.17-

20.

Website

193. BBC (2010), “ASEAN hoãn tự do mậu dịch với Trung Quốc?”, ngày 5/1,

http://www.bbc.com/vietnamese/business/2010/01/100105_china_

asean_delays.shtml, truy cập ngày 20/8/2019.

194. Lương Quang Đảng (2016), “Dân số ASEAN đang ở đâu trên bản đồ dân số

181

thế giới? (P1)”, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, ngày 11/4,

http://www.gopfp.gov.vn/news/-/details/18/2334159/dan-so-asean-%C4%91ang

-o-%C4%91au-tren-ban-%C4%91o-dan-so-the-gioi-p1, truy cập ngày

20/10/2019.

195. Phương Linh (2015), “Việt Nam nhập siêu hơn 32 tỷ USD từ Trung Quốc”,

VNExpress, ngày 26/12, https://vnexpress.net/kinh-doanh/viet-nam-nhap-sieu-

hon-32-ty-usd-tu-trung-quoc-3333807.html, truy cập ngày 25/9/2019.

196. An Nhi (2019), “Đường sắt Cát Linh – Hà Đông: một bảo tang về kinh

nghiệm thất bại”, VOV, ngày 12/6, https://vov.vn/vov-binh-luan/duong-sat-cat-

linh-ha-dong-mot-bao-tang-ve-kinh-nghiem-that-bai-920117.vov, truy cập ngày

25/9/2019.

197. Phạm Sỹ Thành (2019), “Bẫy nợ của Trung Quốc có đáng sợ?”, Nghiên cứu

Quốc tế, ngày 8/3, http://nghiencuuquocte.org/forums/topic/bay-no-cua-trung-

quoc-co-dang-so/, truy cập ngày 15/11/2019.

198. Đinh Tịnh (2019), “Bộ Giao thông vận tải bất lực trước tiến độ Dự án đường

sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông”, Vietnam Finance, ngày 26/8,

https://vietnamfinance.vn/bo-gtvt-bat-luc-truoc-tien-do-du-an-duong-sat-do-thi-

cat-linh-ha-dong-20180504224227999.htm, truy cập ngày 25/9/2019.

199. Tạp chí Cộng sản (2017), “Công bố Năm chỉ số liên kết giữa Trung Quốc và

các quốc gia ASEAN”, ngày 12/12, http://www.tapchicongsan.org.vn/

Home/PrintStory.aspx?distribution=48403&print=true, truy cập ngày 15/7/2018.

200. Aditya Arys , Suhartono Harry (2020), “U.S., Japan May Invest in Indonesia

Islands Near South China Sea”, Bloomberg, 17 Jan, https://www.bloomberg.com/

news/articles/2020-01-17/u-s-japan-may-invest-in-indonesia-islands-near-south-

china-sea, truy cập ngày 12/2/2020.

201. Allard Tom, Munthe Bernadette Christina (2017), “Asserting sovereignty,

Indonesia renames part of South China Sea”, Reuters, 14 Jul,

https://www.reuters.com/article/us-indonesia-politics-map/asserting-sovereignty

-indonesia-renames-part-of-south-china-sea-idUSKBN19Z0YQ, truy cập ngày

182

23/9/2019.

202. America (2019), “What Indonesia can expect from President Joko Widodo’s

second term”, 25 May, https://america.cgtn.com/2019/05/25/indonesia-election,

truy cập ngày 20/6/2019.

203. Associated Press (2018), “US may upset Beijing after it backs Indonesian

claim on South China Sea near Natuna islands”, South China Morning Post, 24

Jan, https://www.scmp.com/news/asia/southeast-asia/article/2130258/us-may-

upset-beijing-after-it-backs-indonesian-claim-south, truy cập ngày 15/8/2018.

204. ATKearney (2019), “5G in ASEAN: Reigniting Growth in Enterprise and

Consumer Markets”, http://www.southeast-asia.atkearney.com/documents/1781

738/3697768/5G+in+ASEAN+Reigniting+Growth+in+Enterprise+and+Consum

er+Markets.pdf/ccf1a9c7-1082-3bd3-b1ef-cfd2a39c2436?t=1568104453227,

truy cập ngày 03/12/2019.

205. Balcita Marilyn (2017), “China Backs BRI related Indonesian Tourism and

Infrastructure Plans”, HKTDC Resreach, 18 Oct, http://economists-pick-research

.hktdc.com/business-news/article/International-Market-News/China-Backs-BRI-

related-Indonesian-Tourism-and-Infrastructure-Plans/imn/en/1/1X000000/

1X0ABS4K.htm, truy cập ngày 20/8/2018.

206. Central Intelligence Agency (2015), “World Factbook: Central Asia:

Russia”, https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/rs.ht

ml, truy cập ngày 31/12/2017.

207. Chai Tommy (2018), “What Indonesia’s Rise Means to Australia”,

Australian Institute of International Affairs, 27 Dec, http://www.

internationalaffairs.org.au/australianoutlook/indonesias-rise-means-australia/,

truy cập ngày 15/9/2019.

208. Chalermpalanupap Termsak (2016), “No ASEAN Consensus on the South

China Sea”, The Diplomat, 21 Jul, https://thediplomat.com/2016/07/no-asean-

consensus-on-the-south-china-sea/, truy cập ngày 15/9/2019.

209. Chaturvedy Rajeev Ranjan, Ng Jefferson (2019), “Burgeoning India-

183

Indonesia Relations: Beyond Historical Nostalgia and Toward Strategic

Convergence”, The Diplomat, 8 Oct, https://thediplomat.com/2019/10/

burgeoning-india-indonesia-relations-beyond-historical-nostalgia-and-toward-

strategic-convergence/, truy cập ngày 15/9/2019.

210. Chilkoti Avantika (2015), “Indonesia struggles to boost foreign investment”.

Financial Times, 5 Aug, https://www.ft.com/content/72633a64-3669-11e5-

bdbb-35e55cbae175, truy cập ngày 20/8/2018.

211. China Daily (2017), “Indonesia keen to further expand tourism cooperation

with China”, China Daily, 17 Dec, http://www.chinadaily.com.cn/ a/201712/17

/WS5a390864a31008cf16da23f2.html, truy cập ngày 15/7/2018.

212. Cochrane Joe (2017), “Indonesia, Long on Sidelines, Starts to Confront

China’s Territorial Claims”, Newyorks Times, 10 Sep,

https://www.nytimes.com/ 2017/09/10/ world/asia/indonesia-south-china-sea-

military-buildup.html, truy cập ngày 24/6/2019.

213. Courtney Fingar (2015), “Indonesia bucks emerging market trend with rising

FDI”, Financial Times, 15 Oct, http://www.ft.com/intl/cms/s/3/1d64846e-7340-

11e5-bdb1-e6e4767162cc.html#axzz412D3YLxl, truy cập ngày 25/2/2016.

214. Cronin Patrick M., Burke Isabelle M. (2019), “Time to Take the US-

Indonesia Strategic Partnership Seriously”, The Diplomat, 30 Jul,

https://thediplomat.com/2019/07/time-to-take-the-us-indonesia-strategic-

partnership-seriously/, truy cập ngày 15/9/2019.

215. Dewi Kurniawati (2016), “Indonesia’s Complicated Relations with China”,

Asia Entinel, 5 Aug, https://www.asiasentinel.com/politics/indonesia-china-

complicat ed-relations/, truy cập ngày 15/9/2019.

216. Edward Ng (2017), “The rise of Chinese FDI into ASEAN”, Nikkoam, Oct,

https://en.nikkoam.com/articles/2017/10/the-rise-of-chinese-fdi-into-asean, truy

cập ngày 15/9/2019.

217. Elmer Keegan (2018), “Indonesia looks China it tries deal trade pressurt US”,

184

South China Morning Post, 21 Jul, https://www.scmp.com/news/china/

diplomacy-defence/article/2156284/indonesia-looks-china-it-tries-deal-trade-

pressure-us, truy cập ngày 20/8/2019.

218. Fabi Randy, Kapoor Kanupriya (2016), “Indonesia’s ‘Red Scare’ Stokes

Unease over Military’s Growing Influence,” Reuters, 18 May,

https://www.reuters.com/article/us-indonesia-military-idUSKCN0Y933F, truy

cập ngày 14/9/2019.

219. Feng Bree (2014), “印尼宣布加入中国主导的地区发展银行”, NewYork

Times, 27 Nov, https://cn.nytimes.com/asia-pacific/20141127/c27chinabank/,

truy cập ngày 15/7/2018.

220. Flugge Geoffrey (2018), “What about India, Indonesia, Australia: The new

trilateral?”, Brookings, 19 Sep, https://www.brookings.edu/blog/up-front/

2018/09/19/what-about-india-indonesia-australia-the-new-trilateral/, truy cập

ngày 16/9/2019.

221. Foreign Policy (2019), “For Uighur Muslims in China, Life Keeps Getting

Harder”, 26 Oct, https://foreignpolicy.com/2019/10/26/uighur-concentration-

camps-surv eillance-spies-china-control/, truy cập ngày 15/12/2019.

222. GBG Indonesia (2015), “What China’s Slowdown Means for Indonesia: A

Trade Perspective”, Global business guide Indonesia, 18 Sep,

http://www.gbgindonesia.com/en/main/business_updates/2015/what_china_s_sl

owdown_means_for_indonesia_a_trade_perspective_11313.php, truy cập ngày

15/7/2018.

223. Gong Xue (2018), “Why Some in South-east Asia still Have Reservations

about China’s Belt and Road Initiative,” Today Online, 20 March,

https://www.todayonline.com/commentary/why-some-south-east-asia-still-have-

reservationsabout-chinas-belt-and-road-initiative, truy cập ngày 15/9/2019.

224. Gosman Keith (2016), “Indonesia’s Widodo Tells China No Compromise on

Sovereignty”, Bloomberg, 4 Nov, https://www.bloomberg.com/news/articles/

2016-11-04/indonesia-tells-china-no-compromise-on-sea-sovereignty-smh, truy

185

cập ngày 20/8/2018.

225. Harding Brian, Sutton Trevor (2017), “U.S - Indonesia and U.S - Malaysia

Relations in the Trump Era”, Center for American Progress, 5 June,

https://www.americanprogress.org/issues/security/reports/2017/06 /05/433540/

u-s-indonesia-u-s-malaysia-relations-trump-era/, truy cập ngày 15/8/2019.

226. Heriyanto D. (2016), “Indonesian-Chinese people-to-people relations:

Growing but underdeveloped”, The Jakarta Post, 23 Nov,

https://www.thejakartapost.com/academia/2016/11/23/indonesian-chinese-

people-to-people-relations-growing-but-underdeveloped.html, truy cập ngày

23/9/2019.

227. Heydarian Richard (2018), “How Indonesia keeps maritime tensions from

defining its relationship with China”, South China Morning Post, 3 Nov,

https://www.scmp.com/news/china/ diplomacy/article/2170764/how-indonesia-

keeps-maritime-tensions-defining-its-relationship, truy cập ngày 15/8/2019.

228. Ibrahim Zuraidah (2015), “Indonesia to throw open doors to Chinese

investment; seeks details on maritime Silk road”, South China Morning Post, 25

Mar, http://www.scmp.com/news/asia/article/1746628/widodo-aims-use-china-

visit-boost-ties-and-seek-details-maritime-silk-road, truy cập ngày 03/03/2018.

229. Izzuddin Mustafa (2018), “US-Indonesia defence ties at a turning point: Old

friends, new realities”, Asia & the Pacific policy society, 5 Apr,

https://www.policyforum.net/us-indonesia-defence-ties-at-a-turning-point/, truy

cập ngày 10/1/2020.

230. Javadi Tiola (2016), “Indonesia’s China Strategy: ‘Flexible Hedging,’” The

National Interest, 20 April, http://nationalinterest.org/feature/indonesias-china-

strategy-flexible-hedging-15843, truy cập ngày 15/8/2019.

231. Jin Liqun, Yudi Pramadi (2014), “Indonesia Signs MoU to Join Asian

Infrastructure Investment Bank”, Indonesia Investments, 29 Nov,

http://www.indonesia-investments.com/news/todays-headlines/indonesia-signs-

mou-to-join-asian-infrastructure-investment-bank/item2663, truy cập ngày

186

15/7/2018.

232. Jokowi (2015), “Indonesian president says China's main claim in South

China Sea has no legal basis”, Reuters, 23 March, https://www.reuters.com/

article/us-indonesia-china-southchinasea/indonesian-president-says-chinas-

main-claim-in-south-china-sea-has-no-legal-basis-idUSKBN0MJ04320150323,

truy cập ngày 24/6/2019.

233. Kawashima Shin (2018), “A new norm in China–Japan relations?”, East Asia

Forum, 1 Nov, https://www.eastasiaforum.org/2018/11/01/a-new-norm-in-

china-japan-relations/, truy cập ngày 06/08/2019.

234. Kim Chi-wook (2009), “Middle Power as a Unit of Analysis of International

Relations: Its Conceptualization and Implications”, Korean Journal of

International Studies 49 (1), pp.7–36, dẫn lại từ Dong-min Shin (2015), “A

critical review of the concept of middle power”, E-International Relations, 4

Dec, https://www.e-ir.info/2015/12/04/a-critical-review-of-the-concept-of-middl

e-power/, truy cập ngày 15/8/2019.

235. Kyodo (2015), “China wins Indonesia high-speed rail project as Japan

laments ‘extremely regrettable’ U-turn”, South China Morning Post, 29 Sep,

https://www.scmp.com/news/asia/southeast-asia/article/1862459/china-wins-

indonesia-high-speed-rail-project-japan-laments, truy cập ngày 23/8/2019.

236. Kyodo (2017), “Indonesian foreign minister, Suu Kyi hold talks on Rohingya

crisis”, South China Morning Post, 4 Sep, https://www.scmp.com/news/asia/

southeast-asia/article/2109721/indonesian-foreign-minister-suu-kyi-hold-talks-

rohingya, truy cập ngày 03/12/2019.

237. Liaison Foreign (2018), “Improving US – Indonesia Relations”, Pinter

Politik, 22 Aug, https://www.pinterpolitik.com/improving-us-indonesia-

relations/, truy cập ngày 15/9/2019.

238. Lie Vincent, Masengi Yohanes (2017), “The Japanese overseas investmen

Report 2017: Indonesia”, International Financial Law Review, ngày 29/3,

http://www.iflr.com/Article/3673587/The-Japanese-Overseas-Investment-

187

Report-2017-Indonesia.html, truy cập ngày 03/08/2019.

239. MacDonald Adam (2015), “Analyzing China's Rise in International

Relations Theory”, CDA Institute, 8 Oct, https://cdainstitute.ca/analyzing-china-

s-rise-in-international-relations-theory-neo-realism-part-1/, truy cập ngày

15/8/2018.

240. Mana. Jimmy (2013), New book examines Communist rebellion Indonesia,

Aftermath, VOAnews, 27 Oct, https://www.voanews.com/a/new-book-examines-

communist-rebellion-indonesia-aftermath/ 1778158.html, truy cập ngày 15/8/2019.

241. Marketscreener (2020), “FDI into Indonesia falls below 2019 target, but

seen rising this year”, 29 Jan, https://www.marketscreener.com/news/FDI-into-

Indonesia-falls-below-2019-target-but-seen-rising-this-year--29905135/, truy

cập 10/2/2020.

242. Maruti Retno (2019), “How Indonesia finds itself in the middle of a US-

China trade war”, Lowy Institute, 18 Jul, https://www.lowyinstitute.org/the-

interpreter/indonesia-middle-us-china-trade-war , truy cập ngày 15/4/2020.

243. Massola James, Rosa Amilia (2020), “Natuna: an idyll on the front line

between Indonesia and China”, The Sydney Morning Herlad, 27 Jun,

https://www.smh.com.au/world/asia/natuna-an-idyll-on-the-front-line-between-

indonesia-and-china-20200617-p553g2.html, truy cập ngày 30/6/2020.

244. Maulia Erwida (2018), “China becomes Indonesia's No. 2 investor with

infrastructure drive”, Asia Review, 1 Feb, https://asia.nikkei.com/Politics/

International-relations/China-becomes-Indonesia-s-No.-2-investor-with-

infrastructure-drive, truy cập ngày 25/8/2018.

245. Minister for Foreign Affairs of Japan (2020), “Japan-Indonesia Foreign

Ministers’ Meeting (Japan-Indonesia Ministerial-Level Strategic Dialogue)”, 10

Jan, https://www.mofa.go.jp/s_sa/sea2/id/page3e_0011 51.html, truy cập ngày

12/2/2020.

246. Mofa (2008), “Joint Statement between the Government of Japan and the

Government of the People's Republic of China on Comprehensive Promotion of

188

a "Mutually Beneficial Relationship Based on Common Strategic Interests", 5

May, https://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/china/joint0805.html, truy cập

ngày 06/08/2019.

247. Nectar Gan (2018), “How China is trying to impose Islam with Chinese

characteristics in the Hui Muslim heartland”, South China Morning Post, 14

May, https://www.scmp.com/news/china/policies-politics/article/2145939/how-

china-trying-impose-islam-chinese-characteristics, truy cập ngày 15/9/2019.

248. Nirmala Ronna (2020), “Perception of Chinese Influence Rises in Indonesia,

Survey Shows”, Benar News, 13 Jan, https://www.benarnews.org/english/

news/indonesian/survey-results-01132020165219.html, truy cập ngày 15/6.

249. Nithin Coca (2019), “Are Indonesia and Malaysia Ready to Stand up for

China’s Muslims?”, The Diplomat, 28 Jan, https://thediplomat.com/2019/01/are-

indonesia-and-malaysia-ready-to-stand-up-for-chinas-muslims/, truy cập ngày

03/12/2019.

250. Nixon Stewart (2019), “Where does Malaysia stand on China’s Belt and

Road?”, Asian Correspondent, Apr, https://asiancorrespondent.com/2019/04/

where-does-malaysia-stand-on-chinas-belt-and-road/, truy cập ngày 20/10/2019.

251. Noi Goh Sui (2018), “China wants closer ties with Indonesia, says Premier

Li Keqiang”, Straits Times, 9 Feb, https://www.straitstimes.com/ asia/se-

asia/china-wants-closer-ties-with-indonesia-says-li, truy cập ngày 10/9/2019.

252. OEC (2019), “What is the trade balance for Malaysia to China (1995-

2004)”, https://oec.world/en/visualize/line/hs92/show/mys/chn/all/1995.2004/,

truy cập ngày 30/10/2019.

253. Pangestu Mari (2017), “How US, Indonesia can both win from strengthening

ties”, CNN, 22 Apr, https://edition.cnn.com/2017/04/22/opinions/us-indonesia-

pence-ties/index.html, truy cập ngày 15/9/2018.

254. Parameswaran Prashanth (2014c), “Is Indonesia Turning Away From

ASEAN Under Jokowi?”, The Diplomat, 18 Dec, https://thediplomat.com/

2014/12/is-indonesia-turning-away-from-asean-under-jokowi/, truy cập ngày

189

15/8/2019.

255. Radu Sintia (2019), “5G’s Collateral Winners: Southeast Asia”, US News, 12

Nov, https://www.usnews.com/news/best-countries/articles/2019-11-12/southe

ast-asia-will-be-a-collateral-winner-of-the-5g-race truy cập ngày 02/12/2019.

256. Rakhmat Muhammad Zulfikar (2020), “Coronavirus can strengthen China’s

ties with Indonesia”, South China Morning Post, 12 Apr,

https://www.scmp.com/week-asia/opinion/article/3079301/coronavirus-can-

strengthen-chinas-ties-indonesia, truy cập ngày 15/6/2020.

257. Refworld (2006), “Law of the Republic of Indonesia Number 12, 2006 on

Citizenship of the Republic of Indonesia”, https://www.ref

world.org/pdfid/4538aae64.pdf, truy cập ngày 15/10/2019.

258. Reuters (2020a), “Indonesia rejects China's claims over South China Sea”, 1

Jan, https://www.reuters.com/article/us-indonesia-china-southchinasea/ indonesi

a-rejects-chinas-claims-over-south-china-sea-idUSKBN1Z01RE, truy cập ngày

12/2/2020.

259. Reuters (2020b), “Indonesia deploys fighter jets in stand-off with China”, 7

Jan, https://www.reuters.com/article/us-indonesia-china/indonesia-deploys-

fighter-jets-in-stand-off-with-china-idUSKBN1Z61AM, truy cập ngày

12/2/2020.

260. Reuters (2020c), “Indonesia asks Japan to invest in islands near waters

disputed with China”, 10 Jan, https://www.reuters.com/article/us-indonesia-

japan-southchinasea/indonesia-asks-japan-to-invest-in-islands-near-waters-

disputed-with-china-idUSKBN1Z90IY, truy cập ngày 12/2/2020.

261. Salna K. (2017), “Like Bali? Indonesia wants to create 10 of them to draw

Chinese Tourist”, The Jakarta Post, 20 Oct, https://www.thejakarta

post.com/travel/2017/ 10/20/like-bali-indonesia-wants-to-create-10-of-them-to-

draw-chinese-tourists.html, truy cập ngày 23/9/2019.

262. Saragih Bagus BT (2014), “Jokowi people-based diplomacy”, The Jakarta

Post, 10 Sep, https://www.thejakartapost.com/news/2014/09/10/jokowi-people-

190

based-diplomacy.html, truy cập ngày 10/12/2019.

263. Septiari Dian (2019), “US raises China’s Uighur problem with Indonesian

Muslim groups”, The Jakarta Post, 16 Oct, https://www.thejakartapost.com/

news/2019/10/15/us-raises-chinas-uighur-problem-with-indonesian-muslim-

groups.html, truy cập ngày 03/12/2019.

264. Shin Dong-min (2015), “A Critical Review of the Concept of Middle Power”,

E-international Relations, 4 Dec, https://www.e-ir.info/2015/12/04/a-critical-

review-of-the-concept-of-middle-power/, truy cập 26/10/2019.

265. Sidel John T. (2017), “What Killed the Promise of Muslim Communism?”,

The New York Times, 9 Oct, https://www.nytimes.com/2017/10/09/opinion

/muslim-communism.html, truy cập ngày 15/9/2019.

266. Sina (2005), “中国和印尼关于建立战略伙伴关系的联合宣言”, ngày 26/4,

http://news.sina.com.cn/c/2005-04-26/18145757459s.shtml, truy cập ngày

20/8/2019.

267. Sriyanto Nanto (2015), “65 Years of Bilateral Relations Between Indonesia

and China: Strengthening and Building Constructive Relations through People-

to-People Relations”, Pusat Penelitian Politik, 4 Dec, http://www.politik.

lipi.go.id/kolom/kolom-1/politik-internasional/1035-65-years-of-bilateral-

relations-between-indonesia-and-china-strengthening-and-building-constructive-

relations-through-people-to-people-relations-volume-2, truy cập ngày 20/8/2019.

268. Statistics Times (2015), “World GDP (nominal) Ranking”, 21 Apr,

http://statisticstimes.com/economy/world-gdp-ranking.php, truy cập ngày

20/10/2019.

269. Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI) (2015), “SIPRI

Military Expenditure Database”, https://www.sipri.org/databases/milex, truy

cập ngày 31/9/2017.

270. Straits Times (2019), “Indonesia may be next Asian country to spurn China

in election”, 31 March, https://www.straitstimes.com/asia/se-asia/indonesia-

191

may-be-next-asian-country-to-spurn-china-in-election, truy cập ngày 25/9/2019.

271. Supriyanto Ristian Atriandi (2016), “A View from Indonesia”, The ASAN

Forum, 28 Apr, http://www.theasanforum.org/a-view-from-indonesia/, truy cập

ngày 11/6/2019.

272. Tempo (2015), “Thousands of Chinese Workers Enter Indonesia”, Tempo, 31

Aug, https://en.tempo.co/read/news/2015/08/31/055696470/Thousands-of-Chine

se-Workers-Enter-Indonesia, truy cập ngày 20/8/2018.

273. Tobin Meaghan (2019), “My way or Huawei: how US ultimatum over

China’s 5G giant fell flat in Southeast Asia”, South China Morning Post, 20 Apr,

https://www.scmp.com/week-asia/geopolitics/article/3006961/my-way-or-

huawei-how-us-ultimatum-over-chinas-5g-giant-fell, truy cập ngày 03/12/2019.

274. Today online (2015), “Indonesia sinks 41 illegal fishing boats, including one

from China”, 21 May, https://www.todayonline.com/world/asia/indonesia-sinks-

41-illegal-fishing-boats-including-one-china, truy cập ngày 24/6/2019.

275. The Asean Post (2019), “China in Indonesia election spotlight”, 15 Apr,

https://theaseanpost.com/article/china-indonesia-election-spotlight, truy cập

ngày 23/9/2019.

276. The Economist (2019), “Few Chinese officials are blushing at a damning

leak about Xinjiang”, 21 Nov, https://www.economist.com/china/2019/11/21/

few-chinese-officials-are-blushing-at-a-damning-leak-about-xinjiang, truy cập

ngày 03/12/2019.

277. The Insider Stories (2019), “Indonesia, China Signs 23 Investment and Trade

Agreements”, 29 April, https://theinsiderstories.com/indonesia-china-signs-23-

investment-and-trade-agreements/, truy cập ngày 22/2/2020.

278. The Jakarta Post (2017), “Indonesia, China cooperate to boost tourist

arrivals”, 11 Mar, https://www.thejakartapost.com/news/2017/03/11/indonesia-

china-cooperate-to-boost-tourist-arrivals.html, truy cập ngày 23/9/2019.

279. The Jakarta Post (2018), “Indonesia among top 10 destinations for Chinese

192

tourists in 2017”, 9 Mar, http://www.thejakartapost.com/travel/2018/03/09/

indonesia-among-top-10-destinations-for-chinese-tourists-in-2017.html, truy cập

ngày 20/8/2018.

280. The Jakarta Post (2019), “Bakamla eyes coordinated response to Chinese

activity in the Natunas”, 29 Dec, https://www.thejakartapost.com/news/2019/12/

29/bakamla-eyes-coordinated-response-to-chinese-activity-in-the-natunas.html,

truy cập ngày 12/2/2020.

281. The White House Office of the Press and Secretary (2015), “Strategic

Partnership Joint Statement”, The United States - Indonesia Society, 26 Oct,

http://www.usindo.org/assets/up/2017/07/Strategic-Partnership-Joint-

Statement.pdf, truy cập ngày 15/7/2018.

282. Vietnam News (2019), “Vietnam, China trade ties continue to develop”, 25

Apr, https://vietnamnews.vn/economy/519131/viet-nam-china-trade-ties-cont

inue-to-develop.html #WEwGSIxh7vivLBw4.97, truy cập ngày 25/9/2019.

283. Vulliamy Ed, Barnett Antony (1999), “US trained buchers of Timor”, The

Guardian, 19 Sep, https://www.theguardian.com/world/1999/sep/19/indonesia

.easttimor1, truy cập ngày 15/9/2019.

284. Wei Shan (2019), “Xinjiang casts uncertainty over the Belt and Road

Initiative”, East Asia Forum, 29 Nov, https://www.eastasiaforum.org/2019/

11/29/xinjiang-casts-uncertainty-over-the-belt-and-road-initiative/, truy cập

ngày 03/12/2019.

285. Wijaya Trissia, Osaki Yuma (2019), “Is this a true thaw in Sino – Japanese

Relations”, The Diplomat, 16 Feb, https://thediplomat.com/2019/02/is-this-a-

true-thaw-in-sino-japanese-relations/, truy cập ngày 06/08/2019.

286. Workman Daniel (2019), “Indonesia’s Top Trading Partners”, World’s Top

Exports, 24 Oct, http://www.worldstopexports.com/indonesias-top-15-import-

partners/, truy cập ngày 15/12/2019.

287. World Population Review (2019), “Indonesia Population 2019”, 6 Oct,

http://worldpopulationreview.com/countries/indonesia-population, truy cập ngày

193

15/11/2019.

288. Xinhua (2018), “Indonesian Foreign Minister to visit China”, 5 Feb,

http://www.xinhuanet.com/english/2018-02/05/c_136950977.htm, truy cập ngày

15/9/2018.

289. Yudhoyono Susilo (2009), “Susilo inaugurated as Indonesian president”,

CCTV, 20 Oct, http://english.cctv.com/20091020/103063_4.shtml, truy cập ngày

15/12/2019.

290. Yuniar Resty Woro (2019), “Indonesia set to choose Japan over China to get

second rail mega-project on track”, South China Morning Post, 13 Sep,

https://www.scmp.com/week-asia/politics/article/3026962/indonesia-set-choose-

japan-over-china-get-second-rail-mega, truy cập ngày 15/9/2019.

291. Zhang Ketian (2020), “Chinese Coercion in the South China Sea: Resolve

and Costs,” Policy Brief of Belfer Center for Science and International Affairs,

Harvard Kennedy School, January, https://www.belfercenter.org/publication/

chinese-coercion-south-china-sea-resolve-and-costs-0, truy cập ngày 15/6/2020.

292. Zreik Mohamad (2019), “Sino-Indonesian Relations: From Friendship to

Alliance”, Morden Diplomacy, 17 Jul, https://moderndiplomacy.eu/2019/07/17/

sino-indonesian-relations-from-friendship-to-alliance/, truy cập ngày 15/9/2019.

293. 对外贸易 (2019), “2018 年印尼对外贸易/中印尼双边贸易概况, 附印尼主

要进出口产品”, ngày 6/3, https://www.duiwaimaoyi.com/archives/3287.html,

truy cập ngày 23/9/2019.

294. 对外贸易 (2020), “2019 年印度尼西亚对外贸易及主要进出口产品,中

印尼双边贸易及主要进出口产品”, ngày 9/4, https://www.duiwaimaoyi.com/

2020/04/ 2518.html, truy cập ngày 26/6/2020.

295. 多维新闻网 (2020a), “中国最新轰6J 战巡南沙北京控九段线由虚变实”,

ngày 7/1, https://www.dwnews.com/中国最新轰 6J 战巡南沙北京控九段线由

194

虚变实, truy cập ngày 12/2/2020.

296. 多维新闻网 (2020b), “中 国 与 印 尼 南 海 对 峙 现 场 高 清 照 曝 光 ” ,

ngày 13/1, https://www.dwnews.com/中国与印尼南海对峙现场高清照曝光,

truy cập ngày 12/2/2020.

297. 凤凰网 (2019), “越南在万安滩钻探油气,外交部:应停止单方面侵权活

动” , ngày 18/9, https://news.ifeng.com/c/7q4W5EklBrM, truy cập ngày

23/9/2019.

298. 江泽民(2008),“江泽民在中国共产党第十六次全国代表大会上的报

告 ” , 中 华 人 民 共 和 国 中 央 人 民 政 府 网 站 , ngày 1/8,

http://www.gov.cn/test/2008-08/01/content_1061490_9.htm, truy cập ngày

23/9/2019.

299. 廖建裕 (2014), “印尼为何在此时废除“支那”称谓?”, 环球网, ngày 26/3,

http://opinion.huanqiu.com/opinion_world/2014-03/4932303.html?agt=15422,

truy cập ngày 13/8/2019.

300. 林立平 (2007), “曹刚川与印尼国防部长会谈 ”, 人民网, ngày 7/11,

http://politics.people.com.cn/GB/1026/6497887.html, truy cập ngày 20/8/2019.

301. 人 民 网 (2017), “ 中资银行助力印尼经济结硕果”, ngày 13/3,

http://world.people.com.cn/n1/2017/0313/c1002-29141676.html, truy cập ngày

20/9/2019.

302. 商务部 (2016a), “推动共建丝绸之路经济带和 21 世纪海上丝绸之路的愿

景与行”, ngày 26/1, http://www.mofcom.gov.cn/article/i/dxfw/ jlyd/201601/20

16010124334 2.shtml, truy cập ngày 23/8/2018.

303. 商 务 部 (2016b), “中国对外投资合作发展报告 2014”,

http://fec.mofcom.gov.cn/article/tzhzcj/tzhz/upload/duiwaitouzihezuofazhanbao

gao2014.pdf, truy cập ngày 25/2/2016.

304. 商务部 (2020), “2020 年 1-3 月中国与亚洲周边国家双边贸易统计”, 商

务部亚洲司, ngày 26/4, http://www.mofcom.gov.cn/article/tongjiziliao/sjtj/

195

yzzggb/202004/20200402958980.shtml, truy cập ngày 26/6/2020.

305. 外交部 (2016), “2016 年6 月15 日外交部发言人陆慷主持例行记者会”,

ngày 15/6, https://www.fmprc.gov.cn/web/wjdt_674879/fyrbt_674889/t137247

9.shtml, truy cập ngày 15/9/2018.

306. 外 交 部 ( 2019a ) , “中国同印度尼西亚的关系”, https://www.fmprc.

gov.cn/web/gjhdq_676201/gj_676203/ yz_676205/1206_677244/sbgx_677248/,

truy cập ngày 13/11/2019.

307. 外 交 部 (2019b), “中国同马来西亚的关系”, tháng 4 , https://www.

fmprc.gov.cn/web/gjhdq_676201/gj_676203/yz_676205/1206_676716/sbgx_67

6720/, truy cập ngày 15/7/2019.

308. 王立平 (2018), “推动中印尼经贸合作更上层楼”, 中国商务新闻网, ngày

8/5, http://www.gov.cn/xinwen/2018-05/08/content_5289200.htm, truy cập ngày

20/9/2018.

309. 温家宝 (2003), “中国发展将给亚洲各国带来机遇和利益”, 中国新闻网,

ngày 7/10, http://www.chinanews.com/n/2003-10-07/26/354264.html, truy cập

ngày 15/9/2019.

310. 温家宝 (2005), “2005 年政府工作报告(全文)”,中国发展门户网, ngày

7/3/2010, http://cn.chinagate.cn/reports/2010-03/07/content_19548964_8.htm,

truy cập ngày 15/9/2019.

311. 温家宝 (2007), “胡锦涛在党的十七大上的报告”, 人民网, ngày 24/10,

http://politics.people.com.cn/GB/8198/6429198.html, truy cập ngày 15/9/2019.

312. 习近平 (2013a), “国家主席习近平在莫斯科国际关系学院的演讲(全文)”,

新华网, ngày 24/3, http://www.xinhuanet.com//politics/2013-03/24/c_1244

95576.htm, truy cập ngày 20/10/2019.

313. 习近平 (2013b), “习近平在周边外交工作座谈会上发表重要讲话”,新华

网 , ngày 25/10, http://www.xinhuanet.com//politics/2013-10/25/c_11787

196

8897.htm, truy cập ngày 15/12/2019.

314. 习近平 (2014), “积极树立亚洲安全观 共创安全合作新局面”, 新华网,

ngày 21/5, http://www.xinhuanet.com//world/2014-05/21/c_126528981.htm,

truy cập ngày 15/9/2019.

315. 习近平 (2018), “五年来,习近平这样谈周边外交”, 新华网,ngày 25/10,

http://www.xinhuanet.com/politics/xxjxs/2018-10/25/c_1123609951.htm, truy

cập ngày 15/11/2019.

316. 新华网 (2010), “中印签署两国关于落实战略伙伴关系联合宣言的行动计

划”, ngày 22/1, http://www.asean-china-center.org/2010-01/22/c_13360815

.htm, truy cập ngày 20/8/2018.

317. 新华网 (2013), “中印尼全面战略伙伴关系未来规划(全文)”, ngày

4/10, http://news.xinhuanet.com/world/2013-10/04/c_117592330.htm, truy cập

ngày 20/8/2019.

318. 新华网 (2015), “中华人民共和国和印度尼西亚共和国关于加强两国全面

战略伙伴关系的联合声明”, ngày 26/3, http://news.xinhuanet.com/world/2015-

03/26/c_127625705.htm, truy cập ngày 20/8/2019.

319. 新华网 (2018a), “中国、印尼海上执法机构举行首次工作会晤”, ngày

31/3, http://sn.people.com.cn/n2/2018/0331/c378286-31408590.html, truy cập

ngày 20/8/2018.

320. 新华网 (2018b), “中华人民共和国政府和印度尼西亚共和国政府联合声

明”, ngày 8/5, http://www.xinhuanet.com/2018-05/08/c_1122797023.htm, truy

cập ngày 20/8/2018.

321. 新华网 (2019a), “2018 年访问印尼中国游客数量 213.75 万人”, ngày

18/3, http://www.xinhuanet.com/travel/2019-03/18/c_1124248294.htm, truy cập

ngày 17/3/2020.

322. 新华网 (2019b), “新疆的若干历史问题”, ngày 21/7, http://www.xinhuanet.

197

com/politics/2019-07/21/c_1124779069.htm, truy cập ngày 15/9/2019.

323. 新华网(2019c), “魏凤和与印度尼西亚国防部长举行会谈”, ngày 17/12,

http://www.xinhuanet.com/2019-12/17/c_1210398954.htm, truy cập ngày

16/2/2020.

324. 新浪网 (2019a), “印尼学生:到中国留学可以改变自己的命运”, ngày

27/7, https://k.sina.com.cn/article_1686546714_6486a91a02000qelt.html, truy

cập ngày 17/3/2020.

325. 新浪网 (2019b), “印尼举办HSK 考试暨中国留学就职展, 近万学生参加

汉 考 ”, ngày 27/10, https://news.sina.com.cn/o/2019-10-27/doc-

iicezuev5287670 .shtml, truy cập ngày 18/3/2020.

326. 中国商务(2018), “印尼营商环境不断改善以期吸引更多中企投资”, ngày

20/4, https://www.pressreader.com/china/chinas-foreign-trade-chinese/20 1804

20/281998968145932, truy cập ngày 20/8/2018.

327. 中国商务新闻网 (2018), “借力一带一路 中印尼两国经贸合作迎来新时

代”, ngày 8/5, http://www.gov.cn/xinwen/2018-05/08/content_5289198.htm,

truy cập ngày 16/3/2020.

328. 中国政府网 (2018), “专访:印尼和中国人文交流方兴未艾——访印尼新

任驻华大使乔哈里”, ngày 6/5, http://www.gov.cn/xinwen/2018-05/06/content

198

_5288421.htm, truy cập ngày 10/3/2020.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1.

TUYÊN BỐ CHUNG CỦA NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG

HOA VÀ NƯỚC CỘNG HÒA INDONESIA VỀ VIỆC THIẾT LẬP QUAN

HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC

Xinhua.net tại Jakarta, ngày 26 tháng 4 đưa tin:

Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Indonesia Susilo ngày 25

đã ký Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng

hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Indonesia tại Jakarta. Toàn văn tuyên

bố như sau:

Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa Cộng hòa

Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia là để kỉ niệm 55 năm thiết lập quan hệ

ngoại giao giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia, 50 năm Hội

nghị Bandung, 60 năm thành lập Liên hợp quốc, chúng tôi là những người đứng đầu

nhà nước Trung Quốc và Cộng hòa Indonesia, đã cùng nhìn lại quá trình phát triển

của mối quan hệ song phương.

Chúng tôi thống nhất cho rằng Trung Quốc và Indonesia đã trở thành đối tác

quan trọng của nhau. Là hai nước đang phát triển lớn, chúng ta cần phải giải quyết

các lợi ích lâu dài từ tầm cao chiến lược, đưa mối quan hệ giữa hai nước lên một

tầm cao mới, mang lại lợi ích cho hai nước và nhân dân hai nước, và có những đóng

góp mới cho sự đoàn kết hợp tác của các nước đang phát triển và sự nghiệp phát

triển hòa bình của nhân loại.

Chính vì vậy, chúng tôi đã đồng ý thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia.

Mối quan hệ đối tác chiến lược này phải là mối quan hệ không liên kết,

không loại trừ nhau nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho hai nước

và nhân dân hai nước. Mối quan hệ đối tác chiến lược này cần phải dựa trên “Hiến

199

chương Liên hợp quốc”, Năm nguyên tắc chung sống hòa bình, Mười nguyên tắc

của Hội nghị Bandung, “Hiệp ước hợp tác hữu nghị ở Đông Nam Á” và các Luật

pháp quốc tế khác đã được công nhận.

Quan hệ đối tác chiến lược này phải là trụ cột quan trọng để tăng cường mối

quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN và cũng là một bộ phận cấu thành

quan trọng của hợp tác Nam-Nam giữa các nước đang phát triển. Quan hệ đối tác

chiến lược này phải trở thành một cơ sở để triển khai sự phối hợp và hợp tác chặt

chẽ giữa các diễn đàn và tổ chức trong khu vực, xuyên khu vực và quốc tế, nhằm cố

gắng xây dựng mối liên kết toàn diện và cùng có lợi, để đón nhận những thách thức

của thiên niên kỷ mới và thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực và

thế giới.

Quan hệ đối tác chiến lược này cần phải có ý nghĩa chính là tăng cường hợp

tác chính trị và an ninh, tăng cường hợp tác kinh tế và phát triển, thúc đẩy hợp tác

văn hóa xã hội và mở rộng giao lưu trong nhân dân.

Vì vậy, chúng tôi đã đạt được sự đồng thuận sau đây:

I. Hợp tác chính trị và an ninh

(1) Tăng cường các chuyến thăm và liên lạc cấp cao thường xuyên, thúc đẩy

các cuộc tiếp xúc và liên hệ với nhau, thúc đẩy đối thoại về các vấn đề của hai bên,

vấn đề khu vực và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm:

1. Xây dựng cơ chế đối thoại ở cấp ủy viên Quốc vụ và cấp bộ trưởng Bộ

Điều phối để tăng cường mối quan hệ và hợp tác song phương giữa Trung Quốc-

Indonesia;

2. Củng cố vai trò của Ủy ban liên kết hợp tác song phương Trung Quốc-

Indonesia do hai bộ trưởng ngoại giao lãnh đạo trong việc điều hành và xem xét các

cơ chế đối thoại hiện có;

3. Tăng cường vai trò của các cuộc tham vấn chính thức cấp cao Trung

Quốc-Indonesia trong việc thực hiện các quyết định mà cơ chế đối thoại song

phương ở tất cả các cấp đã đưa ra, và tìm hiểu bổ sung các cơ chế phù hợp trong các

200

lĩnh vực hợp tác trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên khi cần thiết;

4. Khuyến khích các cơ quan lập pháp của Trung Quốc và Indonesia trao đổi

trực tiếp, và duy trì sự phối hợp và hợp tác giữa các tổ chức của Hội nghị quốc tế

như Tổ chức hội nghị ASEAN, Hiệp hội Hòa bình của Hiệp hội châu Á và Liên

minh Nghị viện các nước…

(2) Tiếp tục thúc đẩy sự hiểu biết và ủng hộ lẫn nhau giữa hai nước trên

nguyên tắc tôn trọng nhau về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trung Quốc

ủng hộ những nỗ lực của Chính phủ Cộng hòa Indonesia trong việc bảo vệ sự thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Indonesia nhắc lại việc tiếp tục tuân thủ chính

sách một Trung Quốc và công nhận Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung

Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn bộ Trung Quốc, và Đài Loan

là một bộ phận không thể tách rời của Trung Quốc. Indonesia ủng hộ quá trình hòa

bình thống nhất của Trung Quốc.

(3) Tiếp tục nỗ lực trong tiến cải cách và dân chủ hóa hiệu quả của hệ thống

Liên Hợp Quốc, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, tăng cường vai trò của Liên hợp

quốc trong việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển bền vững của

quốc tế, và đảm bảo cho các nước đang phát triển có quyền tham gia và chia sẻ

nhiều hơn trong quá trình ra quyết định của Liên hợp quốc.

(4) Tăng cường hợp tác với các nước châu Á và châu Phi thông qua quan hệ

đối tác chiến lược châu Á - châu Phi mới, tăng cường hợp tác với các quốc gia

Phong trào không liên kết và Nhóm 77 nước, cùng đối phó với những thách thức đặt

ra bởi toàn cầu hóa và môi trường thế giới đang thay đổi liên tục, đảm bảo cho các

nước đang phát triển được hưởng lợi đầy đủ từ quá trình toàn cầu hóa.

(5) Khẳng định lại vai trò của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực

thông qua việc xây dựng Khối Cộng đồng ASEAN và tái khẳng định vai trò của

Trung Quốc trong việc hỗ trợ các công tác của ASEAN thông qua việc tham gia vào

các dự án như Khu vực tăng trưởng phía Đông ASEAN.

(6) Cùng khuyến khích tất cả các quốc gia có vũ khí hạt nhân ký Nghị định

thư về “Hiệp ước Khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á”. Một khi các

201

bên liên quan đã đạt được một giải pháp chấp nhận được cho tất cả các bên đối với

các vấn đề do Nghị định thư để lại thì Trung Quốc sẽ nhanh chóng ký Nghị định thư

về “Hiệp ước Khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á”.

(7) Thúc đẩy thực hiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển

Đông” DOC, và làm cho Biển Đông trở thành nền tảng hợp tác và cầu nối hữu nghị.

(8) Thúc đẩy hai bên sự tin tưởng lẫn nhau trong các lĩnh vực quốc phòng và

quân sự, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp quốc phòng của mỗi bên

và tích cực tìm hiểu thiết lập cơ chế tham vấn an ninh quốc phòng.

(9) Khuyến khích hai bên triển khai hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp

luật và cơ quan tình báo, thông qua việc thực hiện các hiệp nghị hợp tác hiện hành

để cùng nhau giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, buôn

lậu, buôn bán ma túy, buôn bán người, rửa tiền, tội phạm mạng và các hoạt động tội

phạm xuyên quốc gia khác; Tích cực tìm hiểu xây dựng cơ chế tham vấn, thúc đẩy

hợp tác trong các lĩnh vực thích hợp khác dựa vào luật pháp của mỗi nước.

(10) Thực hiện chặt chẽ hợp tác trên biển, tăng cường nâng cao năng lực và

thiết lập cơ chế tham vấn và hợp tác về các vấn đề trên biển.

(11) Tăng cường hợp tác trong việc chống lại các hình thức khủng bố khác

nhau. Hai nước phản đối sự kết nối của chủ nghĩa khủng bố với các tôn giáo và các

nhóm dân tộc cụ thể, chủ trương các hoạt động chống khủng bố cần phải tuân thủ

đầy đủ các mục đích và nguyên tắc của “Hiến chương Liên Hợp Quốc” và các quy

tắc khác của Luật pháp quốc tế đã được công nhận.

II. Hợp tác kinh tế và phát triển

(12) Thúc đẩy hơn nữa hợp tác song phương, khu vực và quốc tế, duy trì

tăng trưởng kinh tế bền vững dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bổ

sung ưu thế cho nhau và hình thức đa dạng, thúc đẩy quan hệ đối tác kinh tế và độc

lập kinh tế giữa hai bên.

(13) Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, đảm bảo cho các nước

đang phát triển được hưởng lợi đầy đủ từ hệ thống thương mại đa phương và tiến

202

trình tự do hóa thương mại trong tình hình công bằng và cân bằng. Hai bên nhấn

mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác trong việc thực hiện mục tiêu phát triển Thiên

niên kỷ của Liên hợp quốc và các mục tiêu phát triển khác đã được quốc tế nhất trí.

(14) Đẩy nhanh việc thực hiện “Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện

Trung Quốc – ASEAN”, mở cửa và thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ, đồng

thời tạo ra một hệ thống đầu tư minh bạch, tự do và thuận tiện.

(15) Củng cố cơ chế của các ủy ban kinh tế, thương mại và khoa học công

nghệ chung của hai bên, khám phá những ý tưởng mới, cách tiếp cận mới và cách

thức mới trong hợp tác ở các lĩnh vực khác nhau.

(16) Thúc đẩy hợp tác đầu tư, tăng cường hiểu biết và kết nối lẫn nhau giữa

các bộ ngành đầu tư và doanh nghiệp tư nhân của cả hai bên, tạo ra một môi trường

kinh tế, xã hội, chính trị và pháp lý thuận lợi hơn , đảm bảo dòng vốn đầu tư.

(17) Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của mỗi bên, thực hiện hợp tác

tài trợ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng tiếp cận thị trường và mở rộng các lĩnh

vực có thể triển khai hợp tác khác.

(18) Thúc đẩy sự ổn định tài chính, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật lẫn nhau trong

việc thúc đẩy thị trường vốn và hoàn thiện các cơ chế cảnh báo sớm cho dòng vốn.

(19) Đẩy nhanh việc thực hiện các cơ chế hiện có, tăng cường hợp tác trong

các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, nâng cao trình độ phát triển

nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, hỗ trợ khoa học công nghệ, năng

suất và đa dạng hóa, quản lý bền vững và xây dựng năng lực trong các lĩnh vực trên.

Tăng cường hợp tác giữa hai bên trong việc chống khai thác gỗ và đánh bắt cá bất

hợp pháp.

(20) Tăng cường đối thoại và tham vấn về các chính sách năng lượng, phát

huy hơn nữa vai trò trên Diễn đàn Năng lượng Trung Quốc-Indonesia, thực hiện

trao đổi chính sách, tăng cường trao đổi và hợp tác trong các lĩnh vực dầu khí và

khoáng sản, khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia vào thăm dò và phát triển

tài nguyên năng lượng chung, xây dựng mạng lưới vận chuyển năng lượng khu vực

203

mình có thể được thương mại để thúc đẩy phát triển năng lượng bền vững, bao gồm

phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, tiết kiệm năng

lượng và sử dụng năng lượng hạt nhân một cách hòa bình.

(21) Tăng cường hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, cầu, cảng, điện

lực và thông tin liên lạc. Indonesia hoan nghênh sự tham gia của Trung Quốc trong

lĩnh vực hợp tác này. Hai nước cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tận dụng triệt để

cơ chế hiện có và khám phá mở rộng hợp tác trong lĩnh vực vận tải đường bộ,

đường biển và đường hàng không.

(22) Tăng cường hợp tác khoa học và công nghệ, thực hiện phát triển nguồn

nhân lực và nghiên cứu chung trong các lĩnh vực thực phẩm, y sinh, năng lượng,

giao thông vận tải, thông tin, truyền thông và quốc phòng.

(23) Thúc đẩy trao đổi và hợp tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ

và công chúng hai nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

III. Hợ t ăn óa xã ội

(24) Trên cơ sở bình đẳn, công bằng, tôn trọng nhân quyền và tự do cơ bản,

tuân thủ nguyên tắc của “Hiến chương Liên hợp quốc” và các văn bản về nhân

quyền quốc tế khác, ra sức bảo vệ nhân quyền và tự do nói trên trong các tầng lớp

xã hội và xã hội quốc tế.

(25) Thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau về văn hóa, phát triển hợp tác song

phương về du lịch, nghệ thuật, tin tức, thể dục, đoàn thể thanh niên và các tổ chức

phi chính phủ.

(26) Tăng cường hợp tác giáo dục, tích cực thực hiện trao đổi đào tạo,

khuyến khích dạy và học ngôn ngữ của nhau.

(27) Tăng cường hợp tác và xây dựng năng lực phòng chống các dịch bệnh

lưu hành và không lưu hành.

(28) Tăng cường hợp tác khu vực và xuyên khu vực trong việc đề phòng và

xử lý thiên tai, xây dựng cơ chế cảnh báo, cứu nạn cứu trợ và khắc phục hậu quả sau

204

thiên tai.

Bản Tuyên bố này được ký kết vào ngày 24/4/2005 tại Jakarta, bản này được

nhân đôi, mỗi bản đều được viết bằng tiếng Trung, tiếng Indonesia và tiếng Anh,

văn bản ba ngôn ngữ này đều có giá trị như nhau.

Đại diện Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Hồ Cẩm Đào

205

Đại diện nước Cộng hòa Indonesia: Susilo Bambang Yudhoyono

Phụ lục 2.

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG TRONG TƯƠNG LAI VỀ QUAN HỆ ĐỐI

TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN TRUNG QUỐC – INDONESIA

(Jaka ta, n y 3 t n 10 năm 2013)

1. Nhận lời mời của Susilo Bambang Yudhoyon - Tổng thống Cộng hòa

Indonesia, Chủ tịch Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình đã có

chuyến thăm cấp nhà nước tới Cộng hòa Indonesia từ ngày 2 đến ngày 3 tháng 10

năm 2013. Chủ tịch Tập Cận Bình cũng sẽ tới Bali để tham dự Hội nghị Lãnh đạo

không chính thức APEC lần thứ 21 từ ngày 5 đến 8/10.

2. Trong chuyến thăm, Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Susilo đã có

cuộc hội đàm trong bầu không khí thân mật và hữu nghị, đã trao đổi quan điểm sâu

rộng về quan hệ song phương và các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng

quan tâm, và đã đạt được sự đồng thuận quan trọng. Chủ tịch Tập Cận Bình cũng đã

gặp Phó Tổng thống Budiono, Chủ tịch Hội đồng tư vấn Nhân dân Sidarto và Chủ

tịch Quốc hội MaZuki. Cả hai bên đều hài lòng với kết quả của chuyến thăm và tin

rằng chuyến thăm lần này có ý nghĩa lịch sử và sẽ mở ra một kỷ nguyên mới trong

quan hệ hai nước.

3. Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Susilo đánh giá cao về những tiến

bộ tích cực đã giành được trong quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc-Indonesia,

và thống nhất cho rằng mối quan hệ giữa hai nước đã xuất hiện tình thế phát triển

tốt đẹp toàn diện, đa cấp và trình độ cao, mang lại lợi ích cho nhân dân của cả hai

nước.

4. Nguyên thủ quốc gia hai nước tin rằng sự gia tăng liên tục về vai trò của

Trung Quốc và Indonesia đối với kinh tế toàn cầu và các vấn đề quốc tế đã mang lại

cơ hội cho hai nước thúc đẩy kinh tế và xã hội phát triển nhanh chóng và chống lại

những thách thức khó khăn phức tạp trước mắt cần phải hợp tác đối phó. Trung

Quốc và Indonesia tiếp tục nỗ lực để thúc đẩy hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở

206

châu Á, phù hợp với lợi ích chung của cả hai nước.

5. Nhân dịp này, hai bên đã nhất trí rằng trên cơ sở "Tuyên bố chung của

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia về việc thiết lập quan hệ đối

tác chiến lược" được ký ngày 25 tháng 4 năm 2005 và "Kế hoạch hành động về việc

thực hiện Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược của Chính phủ Nước Cộng

hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Nước Cộng hòa Indonesia”, sẽ nâng cấp

quan hệ song phương cấp thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Vì vậy, hai

nước sẽ tập trung vào việc tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sau:

Chính trị, quốc phòng và an ninh

6. Hai nguyên thủ quốc gia nhấn mạnh rằng sẽ tiếp tục hỗ trợ lẫn nhau về các

vấn đề liên quan đến lợi ích cốt lõi và mối quan tâm chính của nhau. Tổng thống

Susilo nhắc lại rằng Indonesia tuân thủ chính sách một Trung Quốc và ủng hộ sự

phát triển hòa bình của các mối quan hệ xuyên eo biển và sự nghiệp thống nhất hòa

bình của Trung Quốc. Chủ tịch Tập Cận Bình đánh giá cao lập trường của Indonesia

và nhắc lại rằng Trung Quốc tôn trọng và ủng hộ những nỗ lực của Indonesia trong

việc bảo vệ sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.

7. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí duy trì thăm hỏi thường xuyên các

chuyến thăm giữa lãnh đạo hai nước, và phát huy hơn nữa vai trò của cơ chế đối

thoại cấp phó thủ tướng, ủy ban hợp tác song phương và các cơ chế song phương

khác để thúc đẩy hợp tác song phương.

8. Nguyên thủ quốc gia hai nước đánh giá tích cực về thành tựu hợp tác quốc

phòng của hai nước và cam kết sẽ tăng cường tin tưởng lẫn nhau thông qua các cơ

chế như tham vấn an ninh quốc phòng, thúc đẩy hợp tác trong các cuộc tập trận

chung, an ninh hàng hải, công nghiệp quốc phòng và an ninh phi truyền thống.

9. Nguyên thủ quốc gia hai nước đồng ý tăng cường hợp tác hơn nữa trong

các lĩnh vực tư pháp và thực thi pháp luật, tăng cường hợp tác thiết thực trong các

lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, nhập cư bất hợp pháp, khủng bố,

buôn người, tội phạm mạng, tội phạm kinh tế và xây dựng năng lực chống ma túy

và thực thi pháp luật, cam kết hỗ trợ lẫn nhau trong việc trao đổi thông tin tình báo,

207

tiến hành phối hợp điều tra, bắt giữ và hồi hương nghi phạm hình sự và thu hồi tài

sản hình sự. Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa cơ chế tham vấn chống khủng bố

song phương, thúc đẩy tăng cường hợp tác giữa Bộ Công an Trung Quốc và Bộ

Cảnh sát Indonesia, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc và Viện kiểm sát

tối cao Indonesia, Bộ Tư pháp Trung Quốc và Bộ Tư pháp và Nhân quyền

Indonesia trong các lĩnh vực như các vấn đề pháp lý và chống tội phạm xuyên quốc

gia..

Hợp tác kinh tế và phát triển

10. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí áp dụng đầy đủ các cơ chế đối

thoại hiện hành ở tất cả các cấp, tăng cường lập kế hoạch và phối hợp tổng thể, tăng

cường tham vấn giữa các quan chức của hai cấp phó thủ tướng trong lĩnh vực kinh

tế, cùng nhau tìm kiếm thêm cơ hội hợp tác, đối phó với những thách thức trong các

lĩnh vực kinh tế và phát triển.

11. Hai nguyên thủ quốc gia hoan nghênh ký kết Kế hoạch phát triển 5 năm

về hợp tác kinh tế và thương mại Trung Quốc-Indonesia, đồng ý tích cực thực hiện

tốt kế hoạch này và cùng nhau thúc đẩy hợp tác kinh tế và phát triển của hai nước

phát triển lành mạnh và ổn định. Hai nguyên thủ quốc gia cho rằng tăng cường hợp

tác tài chính giữa hai nước có ý nghĩa rất quan trọng.

12. Hai nguyên thủ quốc gia đã chỉ đạo các quan chức hai nước tiếp tục nỗ

lực tích cực để đạt được mục tiêu đạt 80 tỷ đô la Mỹ về hạn ngạch thương mại năm

2015, và chú trọng hơn nữa đến việc thực hiện thương mại tăng trưởng mạnh mẽ,

cân bằng, bền vững và ổn định. Hai nguyên thủ quốc gia cho rằng đầu tư của cả hai

bên có tiềm năng phát triển to lớn. Trung Quốc sẽ tiếp tục khuyến khích các doanh

nghiệp Trung Quốc tăng thêm mức đầu tư trực tiếp vào Indonesia.

13. Hai nguyên thủ quốc gia thừa nhận tầm quan trọng và lợi ích chung của

việc tăng cường hợp tác công nghiệp. Cả hai bên đều hoan nghênh và ủng hộ việc

thành lập Khu công nghiệp tổng hợp Indonesia-Trung Quốc của các doanh nghiệp

Trung Quốc tại Indonesia. Phía Trung Quốc chú ý đến những Khu công nghiệp tổng

208

hợp mà Indonesia hy vọng các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ đầu tư xây dựng ở

những nơi bên ngoài Java và Bali. Hai nguyên thủ quốc gia tin rằng những hợp tác

liên quan sẽ truyền sức sống mới vào hợp tác thương mại và đầu tư song phương.

14. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc lại rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục khuyến

khích và ủng hộ các doanh nghiệp Trung Quốc tích cực tham gia vào các dự án xây

dựng cơ sở hạ tầng của Indonesia, đặc biệt là những dự án nằm trong kế hoạch tổng

thể phát triển kinh tế của Indonesia giai đoạn 2011-2025. Hai nguyên thủ quốc gia

đồng ý rằng hai bên sẽ tìm hiểu để hợp tác kinh tế trong khuôn khổ sáu hành lang

kinh tế lớn của Indonesia, đó là hành lang Sumatra (tài nguyên và năng lượng),

hành lang Java (dịch vụ và công nghiệp), hành lang Kalimantan (khai thác khoáng

sản và năng lượng); Hành lang Satangala (Du lịch, Thực phẩm và Nông nghiệp);

Hành lang Sulawesi (Nông nghiệp, Trồng trọt, Ngư nghiệp và Khai thác khoáng

sản); Hành lang Papua-Maruku (Thực phẩm, Năng lượng và Khai thác khoáng sản).

15. Tổng thống Susilo hoan nghênh và khuyến khích Trung Quốc tăng cường

đầu tư và đóng góp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kết nối của Indonesia, như

đường sắt, cầu đường, đường cao tốc, cảng và sân bay. Hai nguyên thủ quốc gia

cũng nhận ra tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác trong ngành công nghiệp

đóng tàu và máy bay để thúc đẩy hợp tác trong vận tải hàng không và đường biển.

16. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng cần phải tăng cường kết nối

giữa hai nước, bao gồm thiết lập các kênh liên kết trực tiếp về thông tin hàng hải,

hàng không và thông tin liên lạc. Hai bên nhất trí tìm hiểu khả năng hợp tác giữa

các khu công nghiệp, bến cảng và sân bay ở hai nước.

17. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí khởi động lại bản ghi nhớ về hợp

tác nông nghiệp giữa hai nước, tăng cường hợp tác và tham vấn nông nghiệp song

phương, và thực hiện hợp tác thiết thực và toàn diện trong các lĩnh vực như sản xuất

và chế biến lương thực, an toàn thực phẩm, buôn bán trao đổi phân bón và nông sản,

đảm bảo an toàn lương thực.

18. Nguyên thủ quốc gia hai nước tin rằng an ninh năng lượng là rất quan

trọng đối với việc thực hiện phát triển bền vững của cả hai nước. Vì vậy, hai nguyên

209

thủ quốc gia đồng ý phát huy hơn nữa vai trò của diễn đàn năng lượng giữa hai

nước, mở rộng hợp tác trong lĩnh vực dầu khí, khai thác khoáng sản và điện lực,

tích cực tìm kiếm cơ hội hợp tác năng lượng mới và năng lượng tái tạo.

Hàng hải, n k ôn ũ t ụ và khoa học công nghệ

19. Hai nguyên thủ quốc gia đánh giá cao về những tiến bộ tích cực đã giành

được trong hợp tác hàng hải giữa hai nước, khẳng định đầy đủ vai trò quan trọng mà

Ủy ban hợp tác hàng hải đã phát huy, đồng ý thúc đẩy triển khai toàn diện, nhanh

chóng các dự án do Quỹ hợp tác hàng hải Trung Quốc-Indonesia tài trợ. Hai nguyên

thủ quốc gia cũng khuyến khích hai bên tăng cường hơn nữa hợp tác thực sự trong

các lĩnh vực như an ninh hàng hải, an ninh hàng không, hợp tác hải quân, nghiên

cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển, thủy sản và

kinh tế xanh…, thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng các dự án như Phát triển

Trung tâm Khí hậu và Hải dương Trung Quốc-Indonesia.

20. Hai nguyên thủ quốc gia hoan nghênh việc ký “Biên bản ghi nhớ về hợp

tác nghề cá giữa Bộ Nông nghiệp Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Bộ Ngư

nghiệp hải dương Nước Cộng hòa Indonesia”, khuyến khích hai bên tiếp tục tăng

cường hợp tác trong các lĩnh vực như đánh bắt, nuôi trồng, đào tạo nhân sự và

chống đánh bắt phi pháp, không báo cáo, không được kiểm soát. Hai nguyên thủ

quốc gia cũng hoan nghênh việc thành lập một cơ sở hợp tác nghề cá giữa hai nước

ở Indonesia, tăng cường an toàn lương thực và nâng cap trình độ nghề cá của

Indonesia.

21. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí phát huy đầy đủ vai trò của Ủy ban

khoa học và công nghệ chung của hai nước, thúc đẩy việc trao đổi các nhà nghiên

cứu giữa hai nước, tăng cường hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới trong các

lĩnh vực khác nhau. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng xây dựng phòng thí

nghiệm chung là một cách quan trọng để cả hai bên duy trì hợp tác lâu dài và liên

tục, và sẽ tích cực ủng hộ việc xây dựng phòng thí nghiệm chung về công nghệ sinh

học của Trung Quốc - Indonesia. Hai nguyên thủ quốc gia quyết tâm thúc đẩy mạnh

mẽ hợp tác chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp

210

khoa học công nghệ. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc lại rằng trong ba năm tới Trung

Quốc sẽ tài trợ cho không dưới 15 nhà khoa học trẻ Indonesia đến Trung Quốc để

tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học cùng với các nhà nghiên cứu Trung

Quốc.

22. Nguyên thủ quốc gia hai nước hoan nghênh việc ký kết Hiệp định hợp

tác hàng không giữa hai chính phủ, đồng ý thành lập Ủy ban hợp tác hàng không

chung hai nước để tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như đo lường và kiểm soát

hàng không vũ trụ, nghiên cứu vệ tinh, phóng vệ tinh, ứng dụng vệ tinh, cùng xây

dựng cơ sở dữ liệu vệ tinh để cùng ứng dụng và chia sẻ dữ liệu vệ tinh viễn thám.

Hai bên cũng nhất trí hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực khí tượng và khí hậu, và thực

hiện nghiên cứu và phát triển chung.

Hợ t ăn óa xã ội

23. Hai nguyên thủ quốc gia đồng ý tăng cường hơn nữa trao đổi văn hóa,

mở rộng giao lưu giữa người với người, tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị

giữa nhân dân hai nước.

24. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí thúc đẩy hợp tác giữa các trường

đại học và các tổ chức học thuật của hai nước thông qua việc giao lưu và kết nghĩa

giữa giáo viên và học sinh hai nước, phát huy vai trò lớn hơn trong việc thúc đẩy

đào tạo ngôn ngữ và trao đổi văn hóa giữa hai nước. Hai nguyên thủ quốc gia

khuyến khích sinh viên từ cả hai nước đi học ở nước kia. Chủ tịch Tập Cận Bình

nhắc lại rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục cấp học bổng cho sinh viên Indonesia thông

qua nhiều kênh khác nhau.

25. Nguyên thủ quốc gia hai nước hoan nghênh việc tiếp tục triển khai các

dự án giao lưu thanh niên và sẽ cử 100 thanh niên đến thăm các quốc gia của nhau

trong 5 năm tới để kế thừa và phát huy tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước.

26. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhất trí thúc đẩy các dự án bảo tồn động

vật hoang dã như hợp tác nghiên cứu gấu trúc khổng lồ ở Indonesia và hợp tác

nghiên cứu rồng Komodo ở Trung Quốc.

27. Nguyên thủ quốc gia hai nước tin rằng việc giao lưu văn hóa là cực kỳ

211

quan trọng đối với việc tăng cường và mở rộng quan hệ song phương. Trung Quốc

và Indonesia là những quốc gia quan trọng đối với cả khách du lịch trong và ngoài

nước. Hai bên đã nhất trí cùng nỗ lực để thúc đẩy nhân dân hai nước đạt được mục

tiêu 2 triệu lượt người qua lại vào năm 2015. Vì vậy, cả hai bên đều hoan nghênh

việc hai nước tiếp tục ký kết Bản ghi nhớ hợp tác du lịch, đồng ý triển khai các hoạt

động xúc tiến du lịch, thúc đẩy thuận lợi trong du lịch, nâng cao năng lực và khuyến

khích mở rộng đầu tư vào ngành du lịch.

28. Hai nguyên thủ quốc gia đồng ý tăng cường trao đổi và hợp tác truyền

thông để tăng tính toàn diện, khách quan và chính xác của các thông tin của nhau.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác ngoại giao công chúng, khuyến khích mở rộng

hơn nữa việc trao đổi và hợp tác của các tổ chức học thuật hai nước như tổ chức trí

thức, trường đại học, viện nghiên cứu…, tiếp tục tiến hành các hoạt động giao lưu

như "Hội thảo nghiên cứu quan hệ Trung Quốc-Indonesia".

Hợp tác quốc tế và khu vực

29. Nguyên thủ quốc gia hai nước nhấn mạnh tầm quan trọng của chế độ xã

hội và con đường phát triển mà nhân dân mỗi nước đã tự lựa chọn, chủ trương phát

huy tinh thần bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau, khoan dung, học hỏi lẫn nhau và hợp

tác cùng có lợi trong quan hệ quốc tế, và cùng nhau bảo vệ công bằng chính nghĩa

quốc tế. Cả hai bên đều chủ trương tăng cường vai trò hạt nhân của Liên hợp quốc

trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển của quốc tế, đồng thời tăng

cường khả năng đối phó với các mối đe dọa và thách thức mới. Hai bên ủng hộ

những cải cách của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để thực hiện tốt hơn trách

nhiệm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế mà “Hiến chương Liên Hợp Quốc” đã

trao cho. Hội đồng Bảo an cải cách cần phải thông qua tham vấn dân chủ và kiên

nhẫn, tìm kiếm một "gói" giải pháp cho các vấn đề khác nhau liên quan đến cải cách,

thúc đẩy cải cách phát triển theo chiều hướng có lợi cho việc duy trì lợi ích chung

của Liên hợp quốc và sự đoàn kết của các quốc gia thành viên.

30. Hai nguyên thủ quốc gia hoan nghênh và ủng hộ Trung Quốc và

Indonesia trong việc phát huy vai trò lớn hơn trên toàn cầu và trong khu vực, đồng

212

thời tái khẳng định sẽ sẵn sàng tăng cường phối hợp và hợp tác trong các vấn đề

quốc tế và khu vực, và cùng nhau cố gắng vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong

khu vực và thế giới. Chính vì vậy, hai bên đã nhất trí tiến hành tham vấn về các vấn

đề đa phương giữa bộ ngoại giao hai nước.

31. Nguyên thủ quốc gia hai nước đánh giá cao những thành tựu nổi bật đã

đạt được trong quá trình phát triển quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN,

và nhất trí cho rằng cần tiếp tục mở rộng và tăng cường hợp tác Trung Quốc và

ASEAN trong các lĩnh vực trọng điểm như: chính trị, an ninh, kinh tế, thương mại,

khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN, kết nối, hàng hải, xã hội và văn

hóa… dựa trên nguyên tắc cởi mở, bình đẳng, cùng có lợi, phát triển công bằng và

thịnh vượng chung, thực hiện các sáng kiến hợp tác to lớn giữa hai bên. Chủ tịch

Tập Cận Bình nhắc lại rằng Trung Quốc ủng hộ sự phát triển của ASEAN, ủng hộ

việc xây dựng Khối Cộng đồng ASEAN và ủng hộ ASEAN phát huy vai trò chủ

đạo trong hợp tác khu vực.

32. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng Trung Quốc và ASEAN cần

cùng nhau thúc đẩy hợp tác khu vực, tăng cường phối hợp và hợp tác trong các vấn

đề quốc tế và khu vực, bảo vệ lợi ích khu vực về an ninh chung, ổn định chung và

thịnh vượng chung. Hai nguyên thủ quốc gia tin tưởng sâu sắc rằng hiệp định quan

hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực là nền tảng quan trọng cho hội nhập khu vực do

ASEAN dẫn đầu, và hai bên sẽ thúc đẩy quá trình đàm phán dựa trên nguyên tắc cởi

mở, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển công bằng và thịnh vượng chung.

33. Hai nguyên thủ quốc gia nhất trí cho rằng duy trì hòa bình và ổn định ở

Biển Đông là trách nhiệm chung của các quốc gia trong khu vực. Trung Quốc,

Indonesia và các nước ASEAN khác đều mong muốn cùng nỗ lực để thực hiện hiệu

quả, toàn diện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”, tăng cường sự tin

cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác và cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển

Đông. Dựa theo các nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố về cách ứng xử của các

bên ở Biển Đông”, trên cơ sở bàn bạc thống nhất để cố gắng hướng tới việc xây

dựng "Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông" COC. Hai bên hoan nghênh Hội nghị Bộ

213

trưởng Ngoại giao đặc biệt của Trung Quốc - ASEAN, và cũng hoan nghênh Hội

nghị được tổ chức gần đây của Hội nghị quan chức cấp cao lần thứ sáu để thực hiện

“Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” và tổ chức các cuộc tham vấn

về "Quy tắc ứng xử ở Biển Đông" trong khuôn khổ thực hiện Tuyên bố.

34. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc lại việc ủng hộ Indonesia với tư cách là chủ

nhà để tổ chức Hội nghị không chính thức của các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần

thứ 21 năm 2013. Hai bên cam kết tăng cường phối hợp và hợp tác, thúc đẩy hội

nghị đạt được kết quả thiết thực trong việc hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương,

thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực, tăng cường kết nối liên thông khu vực và thúc

đẩy đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Indonesia nhắc lại việc ủng hộ Trung Quốc

sẽ tổ chức Hội nghị không chính thức của các nhà lãnh đạo APEC tại Bắc Kinh vào

năm 2014.

35. Hai nguyên thủ quốc gia nhắc lại rằng hai bên sẽ tăng cường hơn nữa sự

phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ G20, thúc đẩy hội nghị G20 có những đóng

góp thiết thực trong việc thực hiện nền kinh tế thế giới tăng trưởng mạnh mẽ, bền

vững và cân bằng, mở rộng việc làm và cải cách hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế,

và triển khai hợp tác về các vấn đề phát triển toàn cầu trong khuôn khổ G20.

36. Hai nguyên thủ quốc gia tin rằng Trung Quốc và Indonesia có lợi ích

chung về các vấn đề toàn cầu to lớn như biến đổi khí hậu, đàm phán Vòng đàm

phán Doha, an ninh năng lượng và lương thực, cải cách các tổ chức tài chính quốc

tế và quản trị kinh tế toàn cầu. Hai bên nhất trí tăng cường phối hợp về các vấn đề

nêu trên và trong quá trình tiếp theo của Hội nghị Liên hợp quốc về Phát triển bền

vững và thảo luận về chương trình nghị sự phát triển quốc tế sau 2015.

37. Sau cuộc hội đàm, Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Susilo đã tham

dự lễ ký kết các văn kiện hợp tác sau đây.

"Kế hoạch phát triển 5 năm về hợp tác kinh tế và thương mại giữa Chính phủ

Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Nước Cộng hòa Indonesia".

“Hiệp định giữa Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính

phủ Nước Cộng hòa Indonesia về Khu công nghiệp tổng hợp Indonesia-Trung

214

Quốc”.

“Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và

Chính phủ Nước Cộng hòa Indonesia về thăm dò và sử dụng hòa bình không gian

vũ trụ”

“Bản ghi nhớ về hợp tác nghề cá giữa Bộ Nông nghiệp Nước Cộng hòa Nhân

dân Trung Hoa và Bộ Ngư nghiệp hải dương Nước Cộng hòa Indonesia”

“Bản ghi nhớ về hợp tác trong các lĩnh vực Khí tượng, Khí hậu giữa Cục Khí

tượng Trung Quốc và Cục Khí tượng, Khí hậu và Vật lý địa cầu của Nước Cộng

hòa Indonesia”

“Bản ghi nhớ về hợp tác du lịch giữa Tổng cục Du lịch Nước Cộng hòa Nhân

dân Trung Hoa và Bộ Du lịch và Kinh tế Sáng tạo của Nước Cộng hòa Indonesia”.

38. Trong bữa tiệc trưa của thương vụ Trung Quốc-Indonesia được tổ chức

vào ngày 3 tháng 10 năm 2013, các doanh nghiệp của hai nước đã ký một Hiệp định

kinh doanh với tổng trị giá hơn 20 tỷ đô la Mỹ.

39. Chủ tịch Tập Cận Bình và phu nhân Bành Lệ Quyên bày tỏ lòng biết ơn

đối với Tổng thống Susilo và phu nhân Ani vì lòng hiếu khách nồng hậu của họ.

40. Nguyên thủ quốc gia hai nước bày tỏ sự hài lòng với kết quả chuyến

thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Indonesia, và tin tưởng sâu sắc

rằng chuyến thăm này sẽ là động lực mới trong việc tăng cường quan hệ đối tác

215

chiến lược Trung Quốc-Indonesia.

Phụ lục 3. DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA TIẾP NHẬN PHỎNG VẤN

TT

Tên

Đ n ị

Lĩn ực nghiên cứu

Thời gian trả

Hình thức

lời phỏng vấn

1 Leo ISEAS, Yusof Ishak Người Hoa thiểu số ở Đông Nam Á; 13/4/2019 Email

Suryadinata, Institute, Singapore. vấn đề tôn giáo quốc gia và chủ

nghĩa dân tộc trong ASEAN; quan Giáo sư

hệ Trung Quốc – ASEAN; chính trị

Indonesia; quan hệ Trung Quốc -

Indonesia

Viện Nghiên cứu châu Văn hóa và xã hội khu vực châu Á – 15/3/2019 Gặp trực tiếp tháng 2 许利平

Á – Thái Bình Dương Thái Bình Dương; chính trị Đông 12/2018 & email Xu Liping

và Chiến lược toàn cầu, Nam Á và quan hệ quốc tế; an ninh tháng 3/2019 Hứa Lợi Bình

Viện Khoa học Xã hội phi truyền thống; quan hệ Trung PGS, Nghiên

Trung Quốc. Quốc – Indonesia. cứu viên cao

cấp

Hiệp hội nghiên cứu Quan hệ Trung Quốc – Indonesia; 16/3/2019 Email 3 潘玥

Đông Nam Á, Đại học chính trị - xã hội Indonesia Pan Yue

Bắc Kinh Phan Nguyệt

216

4 Cheng- Trung tâm Nghiên cứu Nước nhỏ hơn trong quan hệ quốc tế; 5/12/2019 Trực tiếp, tại Hội

Chwee Kuik châu Á, Viện nghiên các tổ chức đa phương trong khu vực thảo quốc tế SEASIA

PGS, Giám cứu Malaysia và quốc châu Á – Thái Bình Dương; quan hệ 2019 tại Đài Loan.

đốc Trung tế, Đại học Quốc gia giữa các nước ASEAN với nước lớn;

tâm Malaysia. chính sách đối ngoại của Malaysia;

chính sách đối ngoại của Trung

Quốc.

5 Vinsensio Khoa Quan hệ Quốc tế, Phân tích chính sách đối ngoại; toàn 7/12/2019 Trực tiếp, tại Hội

M.A.Dugis, Đại học Airlangga, cầu hóa và các chiến lược, xử lý mâu thảo quốc tế

PGS Indonesia thuẫn trong quản trị toàn cầu, nghiên SEASIA 2019 tại

cứu biên giới. Đài Loan.

6 Rudolf Viện Khoa học Xã hội Đầu tư của Trung Quốc tại 5/12/2019 Trực tiếp, tại Hội

Yuniarto Indonesia Indonesia, di dân Indonesia… thảo quốc tế

SEASIA 2019 tại

Đài Loan.

7 Tonny Dian Khoa Quan hệ Quốc tế, Chính sách đối ngoại Trung Quốc, 7/12/2019 Trực tiếp, tại Hội

Effendi Đại học người Hoa Indonesia, quan hệ Trung thảo quốc tế

Muhammadiyah Quốc - Indonesia SEASIA 2019 tại

Malang Đài Loan.

8 Jabin Khoa Quan hệ Quốc tế Chính trị nội bộ Trung Quốc, quan 7/12/2019 Trực tiếp, tại Hội

T.Jacob, PGS và Quản trị quốc tế, hệ Trung Quốc – Nam Á, khu vực thảo quốc tế

217

Đại học Khoa học xã biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, thế SEASIA 2019 tại

hội và Nhân văn, Ấn giới quan của Trung Quốc và Ấn Độ, Đài Loan.

Độ. quan hệ trung ương – địa phương ở

Trung Quốc.

9 Nguyễn Minh Đại học Khoa học xã Cường quốc tầm trung, trường hợp 5/12/2019 Trực tiếp, tại Hội

Ngọc hội và Nhân văn, Indonesia, Australia, Singapore thảo quốc tế

Australia. SEASIA 2019 tại

218

Đài Loan.

Phụ lục 4.

CÁC CHUYẾN THĂM CẤP CAO GIỮA TRUNG QUỐC VÀ INDONESIA TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

Phía Trung Quốc

Phía Indonesia

Ghi chú

Thời gian

Tháng 4: Chủ tịch Hồ Cẩm Đào Thiết lập quan hệ đối 2005

tác chiến lược

Tổng thống Susilo 2006

Phó Tổng thống Jusuf Kalla 2007

Tháng 11: Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị 2008

Trung ương ĐCS Trung Quốc, chủ nhiệm Ủy

ban Pháp luật – chính trị Trung ương Trung

Quốc Chu Vĩnh Khang

23/12: Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường, kêu

gọi thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược và

khắc phục khủng hoảng tài chính quốc tế

Tổng thống Susilo

Phó Tổng thống Boediono

Tháng 3: Bộ trưởng Bộ Điều phối Kinh 2009

219

tế Sri Mulyani Indrawati

Tháng 7: Ngoại trưởng Indonesia Hassan

Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương nhân dân

Indonesia Taufiq Kiemas

Tháng 1: Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Ký kết “Kế hoạch hành 2010

Đới Bỉnh Quốc động chiến lược vì

quan hệ đối tác”, bao

gồm nội dung cùng

thúc đẩy xây dựng Khu

mậu dịch tự do Trung

Quốc – ASEAN.

Tháng 6-2010: Chủ tịch Hồ Cẩm Đào gặp Tổng thống Susilo Yudhoyono bên lề Hội nghị

Thượng đỉnh G20 tại

Toronto

Cuối năm 2010: Chủ tịch Quốc hội Ngô Bang Phó Tổng thống Indonesia Boediono

Tổng thống Susilo Quốc

Chủ tịch Quốc hội Indonesia Marzuki

Alie

29-4-2011: Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Ra “Thông cáo chung”, 2011

220

Bảo ký một loạt văn kiện

hợp tác trên các lĩnh

vực kinh tế, thương

mại và đầu tư. Diễn ra

trong bối cảnh

Indonesia giữ vai trò

Chủ tịch ASEAN năm

2011, đồng thời vừa

thiết lập quan hệ đối

tác chiến lược với Mỹ

vào tháng 11/2010

Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương ĐCS Trung Bộ trưởng Ngoại giao Marty Natalegawa

Quốc, Trưởng ban Tổ chức cán bộ Lý Nguyên và Chủ tịch Quốc hội Indonesia Marzuki

Triều

Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Hồi Lương

Ngọc

Thường ủy Bộ Chính trị Trung ương Trung Tổng thống Susilo 2012

Quốc Lý Trường Xuân

Tháng 10: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình 2013

221

phát biểu tại Quốc hội Indonesia; đề xuất Sáng

kiến xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế

kỷ XXI

Tháng 11: Tổng thống Indonesia Joko Chuyến thăm nước 2014

Widodo ngoài chính thức đầu

tiên của Tổng thống

Indonesia mới

Tháng 3: Tổng thống Indonesia Widodo 2015

thăm chính thức Trung Quốc, tham dự

Diễn đàn châu Á Bác Ngao

Tháng 4: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình Ký kết Tuyên bố

tham dự Hội nghị Á Phi nhân kỷ niệm 60 năm chung, đề ra việc kết

thành lập nối giữa Sáng kiến

Vành đai và Con

đường và Chiến lược

Trục hàng hải toàn cầu

Tháng 7: Chủ tịch Chính hiệp Du Chính

Thanh

Tháng 3: Phó Tổng thống Kalla Tham dự Hội nghị Bác 2016

222

Ngao

Tháng 9: Tổng thống Jokowi, tham dự

Hội nghị G20 tại Hàng Châu

Tháng 5: Tổng thống Jokowi, tham dự 2017

Diễn đàn “Vành đai và Con đường” lần

thứ nhất

Tháng 5: Thủ tướng Lý Khắc Cường ký kết Chiến tranh thương 2018

Tuyên bố chung về việc tăng cường quan hệ mại Mỹ - Trung trở nên

thương mại song phương, cam kết “kết nối và căng thẳng từ tháng

giúp đỡ về chiến lược trong các vấn đề nóng 4/2018

của khu vực và các vấn đề mang tính toàn

cầu”.

Tháng 4: Phó Tổng thống Kalla tham dự 2019

Diễn đàn “Vành đai và Con đường” lần

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc: “中国同印度尼西亚的关系”, cập nhập tháng

7/2019, truy cập ngày 25/9/2019, https://www.fmprc.gov.cn/web/gjhdq_676201/gj_676203/yz_676205/1206_677244/sbgx_677248/

223

thứ hai

Phụ lục 5. CÁC QUỐC GIA, KHU VỰC VÀ TỔ CHỨC KHU VỰC XÂY DỰNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC VỚI TRUNG QUỐC

Quan hệ đối tác

Tên gọi QHĐT

Quốc gia/ Tổ chức

Số lượng

(QHĐT)

QHĐT phối hợp chiến lược toàn Nga 01 QHĐT man tín

diện toàn cục

QHĐT hợp tác chiến lược “trong Pakistan 01 QHĐT man tín

chiến lược mọi hoàn cảnh” (全天候)(1)

QHĐT hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam, Campuchia, Myanmar, Lào, Thái Lan 05

QHĐT hợp tác chiến lược Hàn Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka, Afghanistan 04

QHĐT chiến lược Đức toàn 01

phương vị

QHĐT chiến lược toàn diện Anh, Pháp, Brasil, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, 23

Indonesia, Malaysia, Úc,…, EU

QHĐT chiến lược Ba Lan, Nigeria, ASEAN, AU… 15

QHĐT chiến lược cùng có lợi Ireland 01

QH hợp tác chiến lược Saudi Arab, Philippin, Brunei, Liên đoàn Ả Rập… 05

01 QHĐT hợp tác hữu nghị toàn Bỉ QHĐT t ôn

224

phương vị t ường

QHĐT hợp tác hữu nghị toàn diện Romania, Bungari, Madives 03

QHĐT hợp tác toàn diện Nepal, Bangladesh, Liên minh Latinh… 9

QHĐT hợp tác hữu nghị Hungary 01

QHĐT hợp tác quan trọng Fiji 01

QHĐT hữu nghị Jamaica 01

Nguồn: Bảng thống kê trích từ nghiên cứu của các tác giả 门洪华, 刘笑阳, trong nghiên cứu 门洪华, 刘笑阳, 2015, “中国伙伴关系战略 评

估与展望”, 世界经济与政治,(2), 65-95 页., số liệu cập nhật đến ngày 12/1/2015.

225

72 Tổng số