VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NHẸN

TƯ TƯỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT

TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NHẸN

TƯ TƯỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT

TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 9 22 90 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Trần Nguyên Việt. Các tài liệu sử

dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy

định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một

cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết

quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Nghiên cứu sinh

Trần Thị Nhẹn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...........................................

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 6

1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ sở hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ............................................................................ 6

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam nửa

cuối thế kỷ XIX ............................................................................................................... 7 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về tiền đề tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt ....... 12 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt ....... 20

1.2. Các công trình nghiên cứu về nội dung tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ....................................... 22 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học ........................................ 22 1.2.2. Các công trình nghiên cứu về tâm tính học ................................................ 26

1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ................ 28 1.4. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết ............................................... 33 Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 34

Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT TRONG

TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI ................................................................ 35

2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX .................................... 35 2.1.1. Về tình hình kinh tế, chính trị ở phương Tây và Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX ........................................................................................................................... 35 2.1.2. Về văn hóa, xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX ................................... 44 2.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt ...................... 51 2.2.1. Sự phục hưng Nho giáo vào đầu triều Nguyễn .......................................... 51 2.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với hệ tư tưởng triều Nguyễn ....... 55 2.2.3. Ảnh hưởng của các học thuyết ngoài Nho giáo đầu triều Nguyễn............. 60

2.3. Vài nét khái quát về thân thế, sự nghiệp Nguyễn Đức Đạt và tác phẩm Nam Sơn tùng thoại .................................................................................................... 65 2.3.1. Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đức Đạt .................................................... 65 2.3.2. Tác phẩm “Nam Sơn tùng thoại” ............................................................... 72 Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 77

Chương 3. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VÀ TÂM TÍNH HỌC CỦA NGUYỄN

ĐỨC ĐẠT TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI VÀ Ý NGHĨA

CỦA NÓ ............................................................................................................... 78

3.1. Tư tưởng triết học .......................................................................................... 78

3.1.1. Quan niệm về “Trời” và “Mệnh trời” ..................................................... 78

3.1.2. Quan niệm về “Đạo” và con đường đạt “Đạo” ........................................ 89

3.2. Tư tưởng về Tâm tính học ................................................................................... 89 3.2.1. Quan niệm về “Tâm”, “Tính” và “Tình” .............................................. 90

3.2.2. Quan niệm về học vấn, về tu dưỡng và giáo hóa ....................................... 93

3.3. Ý nghĩa của tư tưởng triết học và tâm tính học Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ........................................................................................ 115 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 161

Chương 4. TƯ TƯỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT VỀ ĐẠO TRỊ QUỐC VÀ

THỰC THI CHÍNH SỰ TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI VÀ Ý

NGHĨA CỦA NÓ ...................................................... Error! Bookmark not defined.

4.1. Tư tưởng về đạo trị quốc .................................... Error! Bookmark not defined.

4.1.1. Quan niệm về đạo trị nước của nhà vua ......... Error! Bookmark not defined. 4.1.2. Quan niệm về bổn phận của bề tôi ....................................................... 104

4.2. Tư tưởng về chính sự và thực thi chính sự ................................................... 111

4.2.1. Quan niệm về chính sự ........................................................................ 104

4.2.2. Quan điểm về thực thi chính sự............................................................ 104

4.3. Ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn Đức Đạt về đạo trị quốc và thực thi chính sự trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ........................................................................ 120 Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 125

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 162

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN ........................................................................................................... 166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 167

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bước sang thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn thiết lập một nền quân chủ tập

quyền chuyên chế, thì Nho giáo một lần nữa lại thể hiện vai trò bệ đỡ hệ tư

tưởng của chế độ đó với mục đích đảm bảo cho triều Nguyễn củng cố địa vị,

quyền lực thống trị và giữ vững kỷ cương xã hội. Đổi lại, nhà nước phong kiến

triều Nguyễn không những phát huy vai trò và vị thế của Nho giáo, mà còn chú

trọng đến sự phát triển một số phương diện lý luận cũng như vận dụng học

thuyết này trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội nước ta đương thời. Đó cũng

chính là tiền đề cho sự phát triển của Nho học thế kỷ XIX mà chúng ta có thể tìm

thấy trong tư tưởng của các nhà nho đương thời. Sự phát triển ấy trước hết do sự

tạo đà của chủ trương độc tôn Nho giáo của triều Nguyễn, sau nữa là nhu cầu của

xã hội về giáo dục, trong đó giáo dục đạo đức và đào tạo nhân tài cho đất nước

luôn là lĩnh vực được nhà nước quan tâm nhất.

Nguyễn Đức Đạt là một nhà nho sống và hoạt động ở nửa sau thế kỷ XIX,

ông không chỉ được biết đến như một nhà hoạt động xã hội, nhà tư tưởng, mà

còn là một nhà giáo dục của thế kỷ XIX, góp phần đào tạo ra nhiều thế hệ học trò

giỏi, ông luôn mang trong mình nhiệt huyết giúp đời, giúp dân. Ông luôn đứng

trên lập trường Nho giáo để lý giải những vấn đề bất cập, biến động lớn của xã

hội Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Trong thời gian cuối đời, khi mở

trường dạy học ở quê nhà, Nguyễn Đức Đạt đã viết nhiều tác phẩm thuộc các

lĩnh vực văn học, sử học, triết học, mỹ học... và tư tưởng phản ánh những hiểu

biết sâu sắc của ông về Nho giáo, trong đó tác phẩm lớn nhất, quan trọng nhất là

Nam Sơn tùng thoại. Đây là tác phẩm Nho học được trình bày dưới dạng hỏi -

đáp tương tự như Luận ngữ của Khổng Tử rất hiếm có ở Việt Nam, ở đó thể hiện

sự hiểu biết sâu sắc của ông về Nho giáo. Do đó việc nghiên cứu tư tưởng của

1

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm này góp phần giúp chúng ta nhận thức chính

xác hơn về bức tranh tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX và ảnh hưởng của Nho giáo

trong xã hội Việt Nam ở thời kỳ cận đại và hiện đại.

Mặt khác, trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, trước nguy cơ bản sắc

văn hoá dân tộc của nước ta bị xâm hại, việc kế thừa và phát huy những giá trị

văn hóa tốt đẹp của dân tộc là yêu cầu tất yếu trong việc đề ra những chủ trương,

chính sách trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế, yêu cầu kế

thừa có phê phán, chọn lọc tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt để thấy được những

giá trị trân quý của Nho giáo là việc làm cần thiết.

Trên thực tế các công trình nghiên cứu về Nguyễn Đức Đạt chưa được

nhiều, chủ yếu là những bài viết, bài nghiên cứu về từng khía cạnh nhỏ trong tư

tưởng của ông như tư tưởng đạo đức, tư tưởng thẩm mỹ,.... hay những nghiên

cứu khái quát về tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt trong dòng chảy lịch sử tư tưởng

Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng, tất cả những nghiên cứu này

mới chỉ dừng lại ở những lát cắt khác nhau, hoặc những trình bày bước đầu

mang tính hệ thống nhưng còn rất sơ lược, chưa có cái nhìn và phân tích tổng

quát đối với tác phẩm Nam Sơn tùng thoại cũng như việc mô tả diện mạo tổng

thể tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong Nam Sơn tùng thoại như một giới thiệu sản

phẩm tư tưởng tích hợp của Nho giáo ở Việt Nam tới Nguyễn Đức Đạt với sự

tiếp nhận, thảo luận và tâm đắc… Từ đó, làm rõ điểm đặc sắc riêng biệt của

Nguyễn Đức Đạt, nhấn mạnh ở sự luận giải, chiêm nghiệm, thực hành và đánh

giá mang tính chiều sâu tương xứng với di sản tư tưởng Nam Sơn tùng thoại mà

Nguyễn Đức Đạt để lại.

Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại” làm nội dung nghiên

cứu trong luận án tiến sĩ Triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

* Mục đích nghiên cứu: Từ việc phân tích, luận giải một cách hệ thống

2

những nội dung tư tưởng cơ bản của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn

tùng thoại, luận án đưa ra những đánh giá về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của các tư

tưởng này trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận án có các

nhiệm vụ sau:

+ Khảo cứu tình hình nghiên cứu về tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt trong

tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, chỉ ra những thành tựu đạt được của các học giả

đi trước để kế thừa, đồng thời xác định những vấn đề còn bỏ ngỏ cần được tiếp

tục nghiên cứu trong luận án.

+ Trình bày, phân tích những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và tiền

đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam

Sơn tùng thoại.

+ Phân tích, làm rõ nội dung tư tưởng triết học và tâm tính học trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại.

+ Phân tích, làm rõ nội dung tư tưởng về đạo trị nước và thực thi chính sự

trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng của

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại.

- Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm

Nam Sơn tùng thoại gồm những nội dung: triết học, tâm tính học, chính trị, quân

sự, lý tài, kinh tế, lễ nhạc, sử dụng nhân lực... Để tập trung nghiên cứu chuyên

sâu, có những đánh giá sắc bén về các luận điểm, luận án chỉ tập trung nghiên

cứu hai nội dung lớn của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại:

một là tư tưởng triết học và tâm tính học; hai là tư tưởng về đạo trị nước và thực

thi chính sự.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án

3

* Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án

- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ

bản của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể là về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã

hội, về con người, về đạo đức, về quan hệ giữa con người với hoàn cảnh...

- Cơ sở tư liệu:

+ Tư liệu gốc: Tác phẩm Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt và các

bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam thực lục (Kỷ Tự Đức), Đại

Nam liệt truyện (tập 4)... chép về lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.

+ Tư liệu khác: Các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án đã

được công bố của các tác giả trong và ngoài nước.

* Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên

cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp sử

dụng các phương pháp logic - lịch sử; phương pháp so sánh; phân tích - tổng

hợp; hệ thống hóa... để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án:

Mặc dù tên luận án có sự trùng hợp với tên Luận văn thạc sĩ (2017) của

Vũ Văn Thước “Tư tưởng Nguyễn Đức Đạt qua tác phẩm Nam Sơn tùng thoại”,

nhưng ở đây cách tiếp cận tác phẩm và cách phân tích, luận giải của chúng tôi

hoàn toàn khác biệt. Ở luận văn thạc sĩ, tác giả Vũ Văn Thước đã trình bày khái

quát về các tư tưởng triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, văn hóa, giáo dục của

Nguyễn Đức Đạt thông qua những dẫn chứng trong tác phẩm Nam Sơn tùng

thoại. Trong khi đó, trên cơ sở phân chia 4 quyển trong tác phẩm Nam Sơn tùng

thoại, chúng tôi thực hiện luận án theo hướng tiếp cận với 2 nội dung chính của

tác phẩm: Nội thánh học (toàn bộ phần triết lý, quan niệm trị đạo và các vấn đề

tu dưỡng bản thân) và Ngoại vương học (cái học ứng dụng vào đời sống thực

tiễn). Với cách tiếp cận đó, chúng tôi triển khai phân tích các luận điểm cơ bản

của tác phẩm Nam Sơn tùng thoại trong chương 3 và chương 4 của luận án. Do

4

đó, đóng góp mới về khoa học của luận án là:

(1) Làm rõ tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt với

quan niệm về Trời và mệnh trời; về Đạo và khả năng đạt đạo của con người; về

“Tâm - tính - tình”; về học vấn, tu dưỡng và giáo hóa.

(2) Làm rõ tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của ông trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại.

(3) Luận án đưa ra sự đánh giá những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của tư

tưởng Nguyễn Đức Đạt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần minh định giá trị các tư tưởng của

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại; chỉ ra những đóng góp của

ông về phương diện Nho học Việt Nam thế kỷ XIX.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được dùng trong nghiên cứu và giảng

dạy môn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Lịch sử Triết học (phần Nho giáo Việt

Nam) với tư cách là tài liệu tham khảo có giá trị tại các Học viện, và các trường

đại học, cao đẳng hiện nay. Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu cho

các tác giả tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến đề tài.

7. Cơ cấu của luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo, luận án được kết cấu bao gồm 4 chương 13 tiết.

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2. Cơ sở hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt

Chương 3. Tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại và ý nghĩa của nó

Chương 4. Tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức

5

Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại và ý nghĩa của nó

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Có thể nói, ở nước ta đã có rất nhiều những tập sách viết về Nho giáo Việt

Nam thế kỷ XIX, hay các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành

cũng nhiều, như: Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh

Tông đến Minh Mệnh của Nguyễn Hoài Văn, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam

của Vũ Khiêu, Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 2 của Lê Sĩ Thắng, Đại cương lịch

sử triết học Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam

từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám tập 1 của Trần Văn Giàu, Lịch sử tư

tưởng Triết học Việt Nam của Trịnh Doãn Chính... Ngoài ra, còn rất nhiều các bài

viết cũng đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu là những bài viết của các tác giả như:

Nguyễn Tài Thư, Trần Thanh Tâm, Nguyễn Thanh Bình, Lê Thị Lan, Nguyễn

Đức Sự, Diệp Quốc Lương... Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tập sách

chuyên khảo nào viết về Nguyễn Đức Đạt, chủ yếu tư tưởng của ông được trình

bày trong một số chương, tiết hoặc tiểu tiết của những cuốn sách về lịch sử tư

tưởng Việt Nam thế kỷ XIX.

Những nhận định đánh giá của các tác giả là những tư liệu hữu ích và làm

cơ sở cho quá trình nghiên cứu đề tài này. Từ các công trình nghiên cứu đó, chúng

tôi chú trọng vào những khuynh hướng nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến nội

dung đề tài như sau: (1) Những công trình nghiên cứu về cơ sở hình thành tư

tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. (2) Những công trình

nghiên cứu về tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại. (3) Những công trình nghiên cứu tư tưởng về đạo trị

nước và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng

thoại.

1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ sở hình thành tư tưởng Nguyễn

6

Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam

nửa cuối thế kỷ XIX

Việc nghiên cứu về cơ sở hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại chính là đi tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, xã hội Việt

Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Có thể nói, giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX

là giai đoạn có nhiều biến động về tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng ở

Việt Nam, vì thế đã được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc

độ khác nhau, đặc biệt là góc độ lịch sử. Ở đây chúng tôi khảo cứu các tài liệu

lịch sử bằng phương pháp lôgic - lịch sử để chỉ ra những chứng cứ lịch sử cụ thể

làm ảnh hưởng đến tư tưởng của các nho sĩ Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ

XIX, trong đó có Nguyễn Đức Đạt. Để hiểu rõ về tình hình Việt Nam nửa cuối

thế kỷ XIX đã tác động tới sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại như thế nào, chúng tôi đi tìm hiểu và phân tích các

công trình nghiên cứu trên một số lĩnh vực cụ thể sau:

* Nhóm các công trình nghiên cứu về tình hình kinh tế Việt Nam nửa

cuối thế kỷ XIX

Tác phẩm “Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của tác

giả Nguyễn Thế Anh, nhà xuất bản Lửa thiêng (1971) đã phân tích tỉ mỉ các hoạt

động thương nghiệp, trung tâm buôn bán cũng như các yếu tố giao thông vận tải

và chính sách thuế khóa trong thương mại dưới triều Nguyễn. Đồng thời, tác giả

còn chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của Nhà nước đối với hoạt động ngoại

thương trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

Tác giả Đỗ Bang trong cuốn sách “Thương nghiệp Việt Nam dưới triều

Nguyễn”, nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997 đã dành cả chương 2 đi sâu tìm hiểu và

trình bày về chính sách thương nghiệp của triều Nguyễn, từ đó đánh giá những

tiến bộ, tích cực trong nhận thức của các vua quan nhà Nguyễn về vấn đề kinh tế

hàng hóa và ngoại thương, nhất là việc trao đổi buôn bán với các nước trong khu

7

vực. Nhưng đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những sai lầm của các vua quan nhà

Nguyễn trong quá trình thực thi các chính sách về ngoại thương dẫn đến việc

không khuyến khích được thương nhân và kinh tế trì trệ.

Cuốn sách “Việt Nam thế kỷ XIX” của Nguyễn Phan Quang, năm 1999

cũng đề cập đến lĩnh vực kinh tế nhưng chỉ bàn đến vấn đề thương nghiệp mà

thôi. Cuốn sách đã trình bày về những chính sách nội thương của triều Nguyễn

và tác giả đã chỉ ra những hạn chế trong chính sách nội thương của triều Nguyễn

là nhà Nguyễn đã không ký kết các hiệp ước thương mại dẫn đến các chính sách

chưa đủ mạnh để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển.

Tác giả Võ Kim Cương (chủ biên) trong cuốn sách Lịch sử Việt Nam, tập

6 (giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1896), nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2013 đã

phân tích rất chi tiết tình hình kinh tế Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX do triều

Nguyễn tổ chức thực hiện thông qua những vấn đề ruộng đất, đê điều, thương

mại và nạn đói của nông dân cùng những chính sách kinh tế do thực dân Pháp

thực hiện như việc chiếm ruộng đất lập đồn điền, thu thuế khóa nặng nề, chính

sách thương mại có lợi cho thực dân Pháp… làm cho đời sống của nhân dân hết

sức khó khăn. Những phân tích sâu sắc của tác giả có tác dụng định hướng

chúng tôi khảo sát các điều kiện kinh tế ở Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ

XX với tư cách là cơ sở dẫn tới sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong

tác phẩm Nam Sơn tùng thoại.

Những nghiên cứu trên cho người đọc hiểu tương đối cụ thể về tình hình

kinh tế của Việt Nam thế kỷ XIX: giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam không có

nhiều khởi sắc, thậm chí từ khi thực dân Pháp xâm lược, nền kinh tế của nước ta

“có một vài nét thay đổi” [24, tr. 370] nhưng chủ yếu là nhằm mang lại lợi ích

cho thực dân Pháp, còn người dân Việt Nam vô cùng nghèo nàn, đói khổ dù cho

triều đình Nhà Nguyễn đã cố gắng bằng nhiều biện pháp khác nhau để cải thiện

đời sống nhân dân. Từ những vấn đề kinh tế mà các tác giả đã chỉ ra sẽ là cơ sở

để chúng tôi phân tích tình hình kinh tế Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX (ở

8

chương 2, mục 2.1.1), thấy được sự ảnh hưởng của nó đến tư tưởng thân dân,

yêu dân, hết lòng lo cho cuộc sống của nhân dân, sẵn sàng chấp nhận sự trách

phạt của triều đình để giúp dân bớt đói khổ ở Nguyễn Đức Đạt.

* Nhóm các công trình nghiên cứu về tình hình chính trị - xã hội

Tác giả Trần Thanh Tâm với cuốn sách “Tìm hiểu quan chức nhà

Nguyễn” nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1996 đã đi sâu vào tìm hiểu bộ máy

quan chức nhà Nguyễn để thấy được sự vận hành của bộ máy này trong chế độ

phong kiến có ảnh hưởng như thế nào đến toàn bộ xã hội. Thông qua những trình

bày của tác giả về quan chức nhà Nguyễn và những danh mục từ tra cứu quan

chức nhà Nguyễn người đọc có thể hình dung ra chế độ quan chức của một thời

đại cũng như cách gọi tên của các chức quan trong triều đình. Những trình bày

của tác giả có ý nghĩa quan trọng giúp cho chúng tôi khảo sát điều kiện chính trị,

xã hội ở Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX với tư cách là cơ sở dẫn tới

hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt.

Tác giả Nguyễn Minh Tường với “Cải cách hành chính dưới triều Minh

Mệnh”, nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1996 đã tập trung nghiên cứu sâu hơn về

cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ quan giám sát dưới triều Minh Mệnh. Đồng

thời tác giả cũng đưa ra nhận định: tư tưởng pháp trị được đề cao dưới triều

Minh Mệnh nhằm tạo điều kiện cho bộ máy hành chính thực hiện nghiêm minh,

hiệu quả, phòng ngừa nạn tham quan. Tác phẩm đã nêu khái quát tư tưởng chính

trị của Minh Mệnh song chưa đi sâu phân tích về các tư tưởng này. Những luận

giải này của Nguyễn Minh Tường giúp cho chúng tôi xác định được vai trò của

tư tưởng pháp trị trong tư tưởng Minh Mệnh nhằm thực hiện đường lối cai trị đất

nước trong giai đoạn này. Đây được coi là những luận chứng khoa học để chúng

tôi luận giải bối cảnh chính trị - xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX dẫn đến

sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt. Từ đó, có thể nghiên cứu và tìm hiểu

sâu hơn về tư tưởng chính trị của Nguyễn Đức Đạt có sự kết hợp giữa đạo đức

9

và pháp luật trong đường lối trị nước.

Đỗ Bang (chủ biên) với cuốn sách “Tổ chức bộ máy Nhà nước triều

Nguyễn giai đoạn 1802 - 1884”, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế (1997) đã cho

chúng ta thấy giai đoạn 1802 - 1884 là giai đoạn phát triển cực thịnh của chế độ

phong kiến trung ương tập quyền và chứng minh tính uy lực tuyệt đối của triều

Nguyễn so với bất kỳ triều đại nào trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Từ đó tác

giả tập trung đi vào khai thác và tìm hiểu bộ máy Nhà nước của triều Nguyễn với

tư cách là triều đại có khả năng thống nhất lãnh thổ, thế quyền và thần quyền. Sau

này, năm 2007, Đỗ Bang còn có bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử với tiêu

đề “Triều Nguyễn: thiết lập tập quyền và các chế tài điều tiết cực quyền”. Bài viết

đã lý giải tính chất cực đoan của chế độ quân chủ chuyên chế là do chế độ trung

ương tập quyền đạt đến đỉnh cao và cực quyền đến mức tuyệt đối, vì thế, nhà

Nguyễn đã phải vận dụng học thuyết trị nước của Nho giáo trong thực hiện mục

tiêu chính trị. Đồng thời, tác giả còn trình bày các giải pháp về cơ chế quản lý của

Nhà nước. Tuy nhiên, bài viết chưa nêu bật được tác dụng và giá trị trong tư tưởng

trị nước của Nho giáo đối với xã hội đương thời và bài học đối với hiện nay.

Trong cuốn “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam

từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX”, bài viết tại Hội thảo Khoa học năm 2008 của

Đinh Xuân Lâm với “Trách nhiệm triều Nguyễn về sự thất bại của xu hướng đổi

mới ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX”. Trong khi khẳng định nguyên nhân dẫn đến sự

thất bại của các đề nghị đổi mới ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX là do thái độ

nửa vời của vua quan triều đình và chính nội dung của các đề nghị ấy còn nặng

về ảnh hưởng bên ngoài mà chưa chú ý đến giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong

xã hội Việt Nam tại thời điểm ấy thì tác giả đồng thời cũng phân tích những vấn

đề chính trị - xã hội triều Nguyễn giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là

trong chính sách đối ngoại của triều Nguyễn cùng với việc bóp chết các cuộc

khởi nghĩa nông dân làm bộc lộ nhiều mâu thuẫn trong lòng xã hội phong kiến

10

Việt Nam thời kỳ này.

Cũng tại Hội thảo khoa học này còn có nhiều bài tham luận của các nhà

nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau đã trình bày về tình hình chính trị, xã hội

Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX như: PGS. TS Trần Kim Đỉnh với bài “Góp phần

tìm hiểu sử học triều Nguyễn”; Nguyễn Quang Trung Tiến “Vấn đề canh tân đất

nước dưới triều Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX”; GS. Trịnh Vĩnh Thường “Tình hình

ngoại giao khó khăn của vua Tự Đức triều Nguyễn giai đoạn 1868 - 1880”… Mặc

dù các tham luận có những cách nhìn, cách đánh giá khác nhau thậm chí còn trái

ngược nhau nhưng về cơ bản, các tác giả đều cố gắng đánh giá một cách công

bằng những mặt tích cực, hạn chế của triều Nguyễn. Điều này cho thấy, việc

nghiên cứu về triều Nguyễn để hiểu được tình hình chính trị, xã hội Việt Nam giai

đoạn nửa sau thế kỷ XIX vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục thảo luận.

Cuốn sách Lịch sử Việt Nam do Võ Kim Cương (chủ biên), tập 6, nhà xuất

bản Khoa học xã hội, 2013 đã trình bày hệ thống những vấn đề chính trị, xã hội

ở Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX với những vấn đề về cách thức tổ

chức bộ máy chính quyền của nhà Nguyễn và của thực dân Pháp, tổ chức quân

đội; các vấn đề về an sinh xã hội, quan hệ lương giáo, sự phân hóa giai cấp và

các vấn đề về văn hóa giáo dục… Ở đây tác giả đã luận giải những vấn đề bất

cập của triều đình trong việc “hoàn toàn đánh mất quyền cai trị đất nước”, để

“nước ta từ một nước phong kiến độc lập, tự chủ trở thành nước thuộc địa của

Pháp, nhân dân ta từ người làm chủ trở thành thân phận nô lệ của chủ nghĩa thực

dân” [24, tr.344]. Những phân tích sâu sắc của tác giả có tác dụng định hướng

chúng tôi khảo sát các điều kiện về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục ở Việt

Nam nửa sau thế kỷ XIX (dưới sự xâm lược của thực dân Pháp), là cơ sở dẫn tới

sự hình thành những tư tưởng chính trị- xã hội, đạo đức, giáo dục, quân sự,... của

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khảo cứu một cách tương đối

đầy đủ về tình hình chính trị - xã hội ở Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và

11

cung cấp những cái nhìn đa chiều về triều Nguyễn. Đặc biệt là hiểu rõ giai đoạn

mà Nguyễn Đức Đạt sống và hoạt động chính trị là thời kỳ có nhiều biến động

lớn do sự xâm lược của thực dân Pháp và những vấn đề xã hội phức tạp, đặt ra

hai khuynh hướng đấu tranh hoặc chủ chiến, hoặc chủ hòa. Những lập luận của

các tác giả trên giúp chúng tôi tiếp tục phân tích sâu bối cảnh chính trị - xã hội

Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX với sự xâm lược của phương Tây đòi

hỏi triều đình phải có những sách lược phù hợp. Và thực tế lúc này đã xuất hiện

hai trào lưu tư tưởng: một số quan lại và sĩ phu tiến bộ thức thời, mạnh dạn đưa

nhiều đề nghị cải cách đổi mới nhằm làm cho nước nhà giàu mạnh để có thể

đương đầu lại sự tấn công ngày càng dồn dập của chủ nghĩa tư bản phương Tây;

trào lưu đối ngược lại là của các nhà Nho chân chính, đã nỗ lực biện minh cho

tính hợp lý của Nho giáo Khổng - Mạnh đối với xã hội đương thời và tư tưởng

Nguyễn Đức Đạt được hình thành trong bối cảnh chính trị - xã hội như vậy.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về tiền đề tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt

* Nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng Nho giáo

Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về tư tưởng Nho giáo luôn được rất

nhiều các học giả trong và ngoài nước hết sức quan tâm, vì thế khối lượng các

công trình nghiên cứu về Nho giáo là vô cùng đồ sộ, được tiến hành dưới nhiều

loại hình khác nhau như: Các công trình nghiên cứu dưới dạng sách, tiêu biểu

như Đào Duy Anh, Đoàn Trung Còn, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đức Lân, Phan

Bội Châu…; Các công trình nghiên cứu dưới dạng tạp chí, tiêu biểu như Nguyễn

Tài Thư, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, Võ Thị Thu Nguyệt…; Các công trình

nghiên cứu dưới dạng luận án, luận văn là vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi

công trình đều luôn tìm cho mình hướng đi phù hợp thể hiện cách nhìn nhận và

đánh giá khác nhau về Nho giáo mà không trùng lặp, mang lại hiệu quả và tính

khoa học rất cao. Có thể nói, về cơ bản các công trình nghiên cứu Nho giáo đều

tái hiện được tư tưởng của một thời đại lịch sử đã qua góp phần đáp ứng nhu cầu

12

lý luận và thực tiễn đặt ra.

Có thể khái quát các công trình nghiên cứu về Nho giáo thành các hướng

chủ yếu sau:

+ Hướng những công trình nghiên cứu luận giải kinh điển của Nho giáo:

Các học giả như Đào Duy Anh, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Đoàn Trung

Còn đều có những nhận định và kiến giải của riêng mình về Nho giáo, song phải

kể đến hai tác giả Phan Bội Châu với cuốn Khổng học đăng và Trần Trọng Kim

với cuốn Nho giáo. Đây là hai tác phẩm đã kế thừa và diễn giải mới các luận

điểm cơ bản của Nho giáo cho phù hợp với thời đại, qua đó thể hiện quan điểm

của tác giả về Nho giáo - Nho giáo không chỉ là học thuyết chính trị - xã hội mà

còn là một học thuyết triết học. Bên cạnh đó, các tác giả còn khẳng định vai trò

của Nho giáo trong việc ổn định trật tự xã hội, giáo dục nhân cách con người.

Những khẳng định này của tác giả về Nho giáo tuy còn những hạn chế song

những tác phẩm này luôn được coi là những tài liệu quý giá cho các học giả đi

sau khi tiếp cận nghiên cứu.

+ Hướng những công trình nghiên cứu về vai trò, ảnh hưởng của tư tưởng

Nho giáo đến đời sống xã hội và con người Việt Nam. Hướng nghiên cứu này

trong những năm gần đây rất được các học giả quan tâm dẫn đến sự nâng cao cả

về số lượng và chất lượng các công trình nghiên cứu. Trong đó phải kể đến công

trình Nho giáo xưa và nay của tác giả Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb Khoa học xã

hội, 1990 và cuốn Nho giáo tại Việt Nam của Viện Triết học - Lê Sĩ Thắng (chủ

biên), Nxb Khoa học xã hội, 1994. Các cuốn sách này là tập hợp các bài tham

luận của các học giả chuyên nghiên cứu về Nho giáo và những ảnh hưởng của nó

đối với các mặt, các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Hầu hết các bài viết đều đưa

ra những nhận định khách quan về vị trí, vai trò của Nho giáo ở Việt Nam và ý

nghĩa của nó qua các giai đoạn lịch sử nước ta.

Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về những ảnh

hưởng của Nho giáo đến các lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt

13

Nam. Nguyễn Tài Thư với “Nho học và Nho học ở Việt Nam” là tác phẩm có

nhiều những kiến giải mới về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội và con

người Việt Nam. Những ảnh hưởng này được xác định không chỉ ở thế giới

quan, nhân sinh quan mà còn ở chính trong nếp sống và phong tục tập quán của

mọi người.

+ Hướng các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Nho giáo đến các

nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt Nam. Hướng nghiên cứu này chính là cơ sở thực

tiễn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau

như: Triết học, sử học, văn học...

Bài viết “Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo với xã hội Việt Nam”của

tác giả Đào Duy Anh in trong cuốn Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sỹ Thắng chủ

biên, 1994 đã có nhận xét về nhà Nho Nguyễn Trãi như sau:“tư tưởng của

Nguyễn Trãi là tư tưởng thuần túy Nho gia mà tư tưởng chủ đạo thấm nhuần mọi

ngôn hành là tư tưởng nhân nghĩa của Nho gia” [94, tr.24].

Cũng trong cuốn sách Nho giáo tại Việt Nam, bài viết “Tư tưởng Nguyễn

Trãi và Nho giáo” của tác giả Lê Sỹ Thắng lại có hướng đi khác khi tìm hiểu về

ảnh hưởng của Nho giáo đến các nhà tư tưởng Việt Nam, ông đi sâu phân tích cụ

thể những tác động tích cực và tiêu cực của Nho giáo đến tư tưởng Nguyễn Trãi.

Bài viết đã phân tích ảnh hưởng của Nho giáo đến quá trình hình thành và phát

triển tư tưởng Nguyễn Trãi qua các thời kỳ. Từ đó tác giả chỉ ra những phương

pháp triết học trong việc nghiên cứu tư tưởng Nho giáo của mình. Rõ ràng,

nghiên cứu này có ý nghĩa sâu sắc cho chúng tôi trong việc tìm ra sự ảnh hưởng

của Nho giáo đến sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam

Sơn tùng thoại.

Ngoài ra còn phải kể đến những nghiên cứu dưới dạng luận văn, luận án,

hay các bài viết trên tạp chí như Nguyễn Hoài Văn (2001) với “Tìm hiểu tư

tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh”, Nguyễn

Thị Thanh Mai (2007) với “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức

14

của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay”; Trần Văn Giàu với

“Các nguyên lý của đạo đức Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX”, Tạp chí nghiên

cứu lịch sử, số 128 - 1969; Phan Ngọc với “Đạo nho Việt Nam, một sự khúc xạ”,

Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc,số 4 - 1995; Võ Thị Thu Nguyệt với “Xã hội

Việt Nam hôm nay và Nho giáo”, Tạp chí Đông Nam Á, số 4 - 2004; Phan Đại

Doãn với “Nho giáo Việt Nam”, Tạp chí xưa và nay, số 229 và 230 - 2005;

Nguyễn Đình Chú với “Hôm nay với Nho giáo”, Tạp chí Hán Nôm,bsố 1 - 2005;

Phan Mạnh Toàn với “Những nhân tố chủ yếu làm biến đổi Nho giáo ở Việt

Nam”, Tạp chí giáo dục lý luận, số 9 - 2006; Nguyễn Tài Thư với “Một số đặc

trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam”, Tạp chí triết học, số 9- 2009… Những

nghiên cứu này đã khẳng định sự đa dạng và phong phú của Nho giáo, dưới các

góc độ và cách nhìn nhận khác nhau các nhà nghiên cứu đã phần nào đánh giá

được ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội nói chung và tư tưởng của các nhà

nho Việt Nam nói riêng.

Như vậy, chúng ta thấy rằng việc khảo cứu các công trình nghiên cứu về

Nho giáo là vấn đề đã và đang được rất nhiều học giả quan tâm tìm hiểu dưới

nhiều góc độ, phương diện và bằng nhiều phương pháp khác nhau. Kết quả

nghiên cứu của các công trình trên giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về những tác

động tích cực của Nho giáo tới các mặt của đời sống xã hội, con người góp phần

tích cực vào hoàn thiện con người Việt Nam cả trong thời kỳ phong kiến và hiện

nay. Những công trình trên được coi là nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi

tìm ra những tư tưởng Nho giáo trực tiếp có ảnh hưởng đối với sự hình thành tư

tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ở chương sau như sự

ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với hệ tư tưởng Việt Nam giai đoạn triều

Nguyễn; tinh thần phục hưng Nho giáo vào đầu triều Nguyễn và những ảnh

hưởng của các học thuyết ngoài Nho giáo.

* Nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX

Ở nước ta, việc nghiên cứu về những tiền đề tư tưởng ảnh hưởng đến sự

15

hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại chưa

được đề cập với tư cách là một nội dung độc lập mà thường chỉ được bàn tới

thông qua việc nghiên cứu về lịch sử tư tưởng của triều Nguyễn. Ở đây, chúng

tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu những công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp và

làm tài liệu tham khảo cho đề tài luận án.

Tác giả Trần Văn Giàu trong cuốn sách “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt

Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám”, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1973 đã trình bày cụ thể cơ sở xã hội của hệ ý thức phong kiến

thế kỷ XIX - tư tưởng Nho giáo trong giai đoạn này. Đây là nguyên nhân quyết

định hệ tư tưởng của các nhà tư tưởng thế kỷ XIX, trong đó có Nguyễn Đức Đạt

bởi theo tác giả “mấy nét sơ lược về đặc điểm xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn

có thể rọi một phần ánh sáng vào đặc điểm của hệ ý thức phong kiến thế kỷ XIX”

[38, tr.53]. Ở đây, tác giả chỉ ra nguyên nhân thành lập chính quyền nhà nước

phong kiến triều Nguyễn là sự chiến thắng của cuộc nội chiến ở Việt Nam cuối thế

kỷ XVIII và sau đó nhà Nguyễn đã duy trì một chế độ chính quyền tập trung tuyệt

đối, lấy Nho giáo làm quốc giáo. Như vậy, việc nhà Nguyễn đưa Nho giáo lên địa

vị độc tôn và quản lý xã hội bằng Nho giáo đã có ảnh hưởng rất lớn đến tư ưởng

của các nho sĩ Việt Nam giai đoạn này, trong đó có Nguyễn Đức Đạt.

Tác giả Lê Sỹ Thắng trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, tập 2 (Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997) đã phân tích điều kiện chính trị, xã hội dẫn tới

sự khẳng định Nho giáo dành địa vị độc tôn trong hệ tư tưởng phong kiến Việt

Nam; đồng thời miêu tả một cách chi tiết về khuynh hướng và sự cố gắng xây

dựng hệ tư tưởng riêng mà Nho giáo là nòng cốt “Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX

là một xã hội phong kiến đình trệ lâu dài, không có tiền đề kinh tế - xã hội cho

một hệ tư tưởng mới, cao hơn hệ tư tưởng phong kiến mà Nho giáo là nòng cốt

ra đời. Nói một cách khác, tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX không thể thoát ra

khỏi hệ tư tưởng phong kiến. Nó chỉ có thể và thực sự là hệ tư tưởng phong kiến

mà thôi, tuy có thể đạt tới những yếu tố nào đó của tư tưởng cải cách” [95, tr.12-

16

13], tác giả cũng lý giải nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhà Nguyễn dành cho

Nho giáo địa vị độc tôn “nhà Nguyễn - bắt đầu từ Gia Long - thực sự có nhu cầu

và có ý chí một mặt thì bóp chết các âm mưu và hành động chống đối dù là của

nhân dân hay là của các thế lực phong kiến khác, một mặt thì phải tranh thủ lòng

dân ổn định xã hội. Với các nguyên tắc tam cương, ngũ thường, với đường lối

nhân chính, với lý tưởng xây dựng một xã hội hòa mục và có kỷ cương, với cả

mặt tiến bộ và mặt không tốt của nó, Nho giáo là học thuyết duy nhất có khả

năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chế độ phong kiến trung ương tập quyền

trên đất nước Đại Nam thống nhất” [95, tr.26]. Bên cạnh đó tác giả cũng chỉ ra lý

do để các nhà Nho thời kỳ này cố gắng xây dựng hệ tư tưởng riêng mà vẫn giữ

Nho giáo là nòng cốt “với sự thống nhất của đất nước, trước các hậu quả kinh tế,

xã hội, tâm lý, trên cơ sở các thành tựu mà thế kỷ trước để lại, trước các yêu cầu

mới của thực tiễn, nổi bật là yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trước sự xâm lược của chủ

nghĩa tư bản phương Tây và với sự hiện hữu của những nhân vật có tài năng và

tâm huyết, một hiện tượng mới đã xuất hiện trong tiến trình tư tưởng Việt Nam

thế kỷ XIX. Đó là sự xuất hiện của một khuynh hướng, một ý định, một sự cố

gắng, một sự thể nghiệm muốn xây dựng một hệ tư tưởng riêng, mang dấu ấn

Việt Nam, tuy vẫn lấy Nho giáo làm nòng cốt” [95, tr.31-32]. Những bàn luận

trên của Lê Sỹ Thắng giúp chúng ta hiểu rằng các hoạt động của các nhà Nho

Việt Nam thế kỷ XIX là kết quả tất yếu của các cuộc đấu tranh kinh tế, chính trị,

văn hóa, tư tưởng thời kỳ này. Ở đây, Lê Sỹ Thắng còn chỉ ra cục diện của thế

kỷ XIX khác hẳn với các thế kỷ trước, khi mà việc thống nhất đất nước đã nổi

lên thành một vấn đề trong tư tưởng và tình cảm của mỗi người dân Việt Nam,

nó trở thành nỗi niềm đau đáu của người dân mất nước, nỗi đau chia cắt non

sông không ngừng rỉ máu và trở thành một nỗi niềm suy tư canh cánh bên lòng

những nhà yêu nước. Như vậy, chúng ta không thấy tác giả bàn trực tiếp về cơ

sở dẫn tới việc hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt, nhưng cần hiểu rằng

Nguyễn Đức Đạt ra đời trong giai đoạn này, sống và hoạt động ở thời kỳ được

17

Lê Sỹ Thắng nhắc đến trong cuốn sách thì chắc chắn tư tưởng của Nguyễn Đức

Đạt không thể tách rời với điều kiện xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là muốn xây

dựng một hệ tư tưởng riêng lấy Nho giáo làm nòng cốt. Vì vậy, những phân tích

sâu sắc của tác giả có tác dụng định hướng chúng tôi trong quá trình tìm kiếm

tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm

Nam Sơn tùng thoại.

Tại Hội thảo khoa học Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới do Đại

học Sư phạm Hà Nội tổ chức năm 2002 đã có một số tham luận đề cập đến văn

hóa tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX như: “Triều Nguyễn và văn hóa triều

Nguyễn” (Nguyễn Đình Chú), “Triều Nguyễn và thái độ đối với lịch sử” (Phạm

Hồng Việt), “Về chính sách giáo dục của triều Nguyễn ở thế kỷ XIX” (Lê Hiến

Chương), “Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn trong bối cảnh lịch sử thế kỷ

XIX ở nước ta” (Nguyễn Cảnh Minh)... Các tác giả đã phân tích những mặt

mạnh, mặt yếu của triều Nguyễn thế kỷ XIX và vai trò tích cực của triều Nguyễn

trong lịch sử Việt Nam, qua đó giúp cho người đọc có được hiểu biết tương đối

đầy đủ về xã hội Việt Nam thế kỷ XIX nhất là về tư tưởng của triều đình nhà

Nguyễn để chúng tôi hiểu rõ về tình hình xã hội Việt Nam và ý thức hệ tư tưởng

phong kiến của triều Nguyễn.

Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu về văn hóa, giáo dục - đào

tạo giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX có trình bày về tư tưởng Nho giáo thế kỷ XIX

như: Nguyễn Phan Quang trong cuốn “Lịch sử Việt Nam từ năm 1427 đến 1858”

(quyển 2, tập 2), NXB Giáo dục, 1971 đã đánh giá về những hạn chế của quan

lại triều Nguyễn là kết quả của chính sách giáo dục lạc hậu làm cho phần lớn các

quan lại đều bảo thủ, không có tư tưởng canh tân đất nước. Tác giả Trần Vũ Tài

với “Quốc sử quán triều Nguyễn từ thời Vua Gia Long đến Tự Đức” Kỷ yếu Hội

thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ

thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, NXB Thế giới, Hà Nội (2008) đã trình bày hoàn cảnh,

mục đích ra đời của Quốc sử quán cũng như việc khẳng định vị trí, công trạng

18

của Nhà nước trung ương tập quyền triều Nguyễn. Những tác phẩm này là tài

liệu tham khảo để chúng tôi đi sâu đánh giá một cách công bằng cả về những

thành tựu và hạn chế của triều Nguyễn.

Tác giả Nguyễn Minh Tường trong cuốn Lịch sử tư tưởng phương Đông

và Việt Nam, nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2012 đã bàn về tư tưởng Nho giáo ở

Việt Nam, trong đó tác giả luận giải về sự phục hưng của Nho giáo dưới triều

Nguyễn nhằm củng cố bộ máy cai trị và đào tạo nhân tài là việc làm hợp lý và dễ

hiểu của các vua nhà Nguyễn giai đoạn này. Cũng trong cuốn sách, tác giả luận

bàn về những tư tưởng chính trị của vua Minh Mệnh, hay tư tưởng phản kháng

chống đối áp bức bất công của Cao Bá Quát, đặc biệt là tư tưởng canh tân đất

nước của Nguyễn Trường Tộ ở nửa cuối thế kỷ XIX. Đây được coi là những

minh chứng cho sự biến đổi nhiều mặt trong đời sống xã hội của Việt Nam kể từ

khi thực dân Pháp xâm lược, chúng luôn tìm cách truyền bá những tư tưởng văn

hóa Pháp nhằm giảm dần ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân tộc trong đó

có tư tưởng Nho giáo chân chính. Sự ra đời của tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong

tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ở giai đoạn này chính là sự bảo tồn giá trị chân

quý của Nho giáo ở Việt Nam.

Tác giả Trịnh Doãn Chính (chủ nhiệm đề tài), Lịch sử tư tưởng Triết học

Việt Nam,Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí

Minh chủ trì (2013) đã đã sử dụng phần 4 của chương IV để khái quát về tư

tưởng triết học thời kỳ đầu nhà Nguyễn. Theo tác giả, xã hội Việt Nam thế kỷ

XIX được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 (từ 1802 đến 1858) với nhiệm vụ

trọng tâm là xây dựng lại đất nước sau mấy trăm năm chiến tranh tàn phá của các

tập đoàn phong kiến, các vua đầu triều Nguyễn đều coi trọng việc học hành để

chọn nhân tài, từ đó giới trí thức Nho học có bước phát triển mới, giai đoạn 2 (từ

năm 1858 đến năm 1896) đặt ra yêu cầu thực tiễn bảo vệ độc lập và toàn vẹn

lãnh thổ trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Ứng với hai giai đoạn này là hai

khuynh hướng tư tưởng cơ bản “khuynh hướng chính thống và về khía cạnh nào

19

đó có thể gọi là bảo thủ và khuynh hướng canh tân” [17, tr.688], trong đó

Nguyễn Đức Đạt là nhà tư tưởng tiêu biểu của khuynh hướng thứ nhất. Những

phân tích của tác giả có ý nghĩa to lớn để chúng tôi thấy được những hạn chế

trong tư tưởng của các vua triều Nguyễn chính là một trong những nguyên nhân

dẫn đến sự bế tắc của hệ tư tưởng phong kiến thế kỷ XIX.

Tóm lại, việc nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, tư tưởng

Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX được rất nhiều học giả quan tâm với nhiều công

trình nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Qua đó, giúp cho chúng

tôi có nguồn tài liệu tham khảo vô cùng phong phú và quý giá khi tìm hiểu về tư

tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại - một nhân vật lịch

sử dưới triều đại nhà Nguyễn.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn

Đức Đạt

Về thân thế của Nguyễn Đức Đạt, trước tiên phải kể đến cuốn Nhà giáo

danh tiếng đất Lam Hồng (Nxb Nghệ An - 2005). Cuốn sách này có bài viết của

tác giả Ninh Viết Giao về “Nguyễn Đức Đạt” - một con người nổi tiếng của quê

hương Nam Đàn. Bài viết khái quát toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của

Nguyễn Đức Đạt, qua đây người đọc biết được Nguyễn Đức Đạt sinh ra ở Nam

Đàn, Nghệ An - vùng đất nổi tiếng, với núi cao, sông sâu, phong cảnh kỳ vĩ,

thiên nhiên hữu tình, nơi đã sinh ra những người con ưu tú cho đất nước, quê

hương. Chính truyền thống này của quê hương Nam Đàn đã góp phần không nhỏ

trong việc giáo dục các thế hệ học sinh đỗ đạt, thành danh mà trong đó có gia

đình Thám hoa Nguyễn Đức Đạt. Ngoài việc cung cấp cho độc giả những thông

tin chi tiết về gia đình, quê hương Nguyễn Đức Đạt, bài viết còn cho người đọc

thấy được một con người tài giỏi, uyên bác về nhiều mặt, luôn hết lòng phấn

đấu, hy sinh vì nước vì dân, vì cuộc sống ấm no của người dân.

Trong bài báo Quan niệm về “đạo” của Nguyễn Đức Đạt đăng trên tạp

chí Văn hóa Nghệ An (tháng 4/2010) trên cơ sở phân tích một cách khái quát về

20

hoàn cảnh xuất thân và đặc điểm bản thân của Nguyễn Đức Đạt, tác giả Nguyễn

Thị Hương cho rằng: “Quê hương mà gia đình và Nguyễn Đức Đạt sinh sống là

miền quê địa linh nhân kiệt, từ bao đời đã được mọi người biết đến bởi những

thành tích đạt được trên con đường khoa cử và trong lịch sử đấu tranh dựng xây

đất nước... Tiếp bước những truyền thống đó, vào khoa thi Quý Sửu năm Tự

Đức thứ 6 (1853) ông đã cùng với Nguyễn Văn Giao đỗ đầu kì thi này. Sự kiện

đó đã làm chấn vang cả Xứ Nghệ, đem lại niềm tự hào cho gia đình, dòng họ và

đã góp phần tô thắm thêm truyền thống của quê hương Nam Đàn nói riêng và

Xứ Nghệ nói chung” [51, tr.19]. Ngoài ra, còn một vài bài báo thông qua việc

phân tích nội dung của một tư tưởng cụ thể trong tư tưởng Nguyễn Đức Đạt tác

giả có lược khảo về thân thế của ông như bài Tìm hiểu tư tưởng đạo đức của

Nguyễn Đức Đạt và bài Tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Đức Đạt của tác giả

Nguyễn Văn Phúc. Từ những trình bày của các bài viết trên, chúng tôi tiếp tục

nghiên cứu, trình bày, phân tích một cách chi tiết về thân thế Nguyễn Đức Đạt và

đánh giá những ảnh hưởng của các yếu tố gia đình, quê hương đến sự nghiệp

hình thành tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt.

Về sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt không có nghiên cứu riêng biệt nào mà

chủ yếu là khi các nhà nghiên cứu trình bày về tư tưởng Nguyễn Đức Đạt có

lược khảo qua về quá trình hoạt động xã hội và các tác phẩm tiêu biểu của ông.

Chú ý nhất trong các nghiên cứu này đó là bài viết Nguyễn Đức Đạt của tác giả

Ninh Viết Giao trong cuốn sách Nhà giáo danh tiếng đất Lam Hồng. Bài viết đã

trình bày một cách chi tiết nhất về chặng đường làm quan cùng những thăng

trầm của Nguyễn Đức Đạt trong giai đoạn này. Tác giả đã chia sự nghiệp hoạt

động của Nguyễn Đức Đạt thành ba chặng lớn, đó là: Từ 1853 đến 1872, sau khi

ông thi đỗ Thám hoa đến lúc có chỉ triệu điều về giữ chức Đốc học Nghệ An lần

thứ 3; Từ 1872 đến 1876, ông đến Hưng Yên giữ chức Bố chính (chánh) sứ kiêm

chức Tuần phủ Hưng Yên; Từ 1885 đến 1887 tham gia phong trào Cần Vương

và mất tại quê nhà. Ninh Viết Giao đồng thời cũng nhấn mạnh đến vai trò và

21

những cống hiến to lớn của Nguyễn Đức Đạt đối với triều đình, với nước, với

dân và đặc biệt nhấn mạnh vào thời gian ông không làm quan về dạy học ở quê

nhà đã cho ra đời một loạt các sáng tác thơ văn. Có thể nói, đây là tài liệu bổ ích

giúp chúng tôi khảo cứu về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt, thấy được

tố chất và tài năng, nhân cách Nguyễn Đức Đạt trong việc hình thành tư tưởng

Nho giáo của ông. Còn trong nghiên cứu của Nguyễn Thu Hương, tác giả nhận

xét: “Mặc dù chặng đường làm quan của Nguyễn Đức Đạt chưa dài, nhưng dù

trong hoàn cảnh nào, với chức vụ gì, ông đều luôn thể hiện rõ lương tâm và trách

nhiệm của một nhà Nho đối với triều đình và ông tin vào sự nghiệp đánh giặc

cứu nước. Những đức tính tốt đẹp của ông chúng ta có thể tìm thấy được trong

thiên thứ 30 của tác phẩm Nam Sơn tùng thoại nhan đề Bình cư” [50, tr.11].

Qua những phân tích về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt, các

tác giả cũng rất chú trọng đến việc đưa ra những đánh giá về cuộc đời và sự

nghiệp của Nguyễn Đức Đạt đã trải qua nhiều biến động, lúc thăng lúc trầm bởi

nhiều lý do khác nhau, nhưng ở đó luôn bộc lộ ra tư tưởng và tài năng của một

cá nhân tiêu biểu - một nhà tư tưởng, nhà giáo dục lớn của thời đại.

1.2. Các công trình nghiên cứu về nội dung tư tưởng triết học và tâm

tính học của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học

Qua các tư liệu mà tác giả luận án tiếp cận được, cho thấy những nghiên

cứu liên quan đến nội dung tư tưởng triết học của Nguyễn Đức Đạt rất ít. Tuy

nhiên, chúng ta vẫn có thể thu lượm được một vài phân tích, nhận định liên quan

đến vấn đề này trong các công trình nghiên cứu về tư tưởng của Nguyễn Đức

Đạt nói chung, tư tưởng triết học của ông nói riêng.

Tác giả Trần Văn Giàu trong bài Quan niệm về Thiên đạo ở cuốn sách “Sự

phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám”,

tập I, đã nghiên cứu và đưa ra những kiến giải về thiên đạo (về thế giới) của triều

đình và của các nhà nho thế kỷ XIX thông qua những phân tích về trời, mệnh

22

trời, thiên nhân cảm ứng, âm dương ngũ hành, lý, khí và linh hồn... Những quan

niệm này hết sức “phức tạp, rối mù, xa lạ với khoa học, bên lề của lý trí lôgic”

[38, tr.172] bởi các nhà nho thời kỳ này tuy theo truyền thống Nho giáo của

Khổng Tử nhưng cũng lại bị ảnh hưởng rất sâu sắc của hậu nho Trung Quốc, đặc

biệt là Hán nho và Tống nho. Điều đó cũng đúng với trường hợp của Nguyễn

Đức Đạt. Theo tác giả, trong tư tưởng Nguyễn Đức Đạt “trời”, “mệnh trời”, tuy

có được nói đến “nhưng theo ông thì tư tưởng mệnh trời khác và trái với tư

tưởng tiền định” [38, tr.121]. Tác giả nhấn mạnh: “Chiều hướng tư tưởng của

Nguyễn Đức Đạt chắc không phải phủ nhận mệnh, mệnh trời, là điều không biết

được trước, chỉ biết được sau khi đã xảy ra xong rồi. Chiều hướng tư tưởng của

Nguyễn Đức Đạt là nhấn mạnh vào con người và xã hội làm ra họa phúc của

mình, nhấn mạnh vào đạo đức và nỗ lực con người là cái có thể biết được, có thể

chủ động và có trách nhiệm” [38, tr.122]. Khi đánh giá Nguyễn Đức Đạt là một

nhà nho có ý kiến khá đặc sắc về trời, tác giả nhấn mạnh “Điểm đáng chú ý ở

đây là Nguyễn Đức Đạt như tránh, không bàn về trời, chỉ muốn bàn về người,

không muốn bàn về tạo hóa, chỉ muốn bàn về đạo đức. Ấy là theo mạch Nho

giáo Khổng, Mạnh. Nhưng cũng từa tựa như Tự Đức, thầy Nguyễn Đức Đạt dù

có lúc quật ngựa chạy ra ngoài lề đường Hán Nho rồi cũng trở lại đó” [38,

tr.124]. Và những phân tích về thuyết âm dương, bát quái, ngũ hành được các

nho sĩ thế kỷ XIX sử dụng như một tín điều thì với Nguyễn Đức Đạt có khi được

dùng để “cắt nghĩa một cách lý thú nguồn gốc của sự sống, ý nghĩa của sự chết”

[38, tr.159]. Những đánh giá này vô cùng quý giá, tạo cơ sở khoa học cho nghiên

cứu của chúng tôi khi luận giải về nội dung tư tưởng triết học của Nguyễn Đức

Đạt trong luận án.

Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, tập 2 (Nhà xuất bản Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1997) tác giả Lê Sỹ Thắng đã trình bày những nét lớn trong thế

giới quan, nhân sinh quan của Nguyễn Đức Đạt thông qua những kiến giải về

“Đạo”, về “Vận số và số mệnh”, về “Phúc, đức”, về “lý tưởng đời người”. Tác

23

giả nhấn mạnh “trong quan niệm của Nguyễn Đức Đạt có ảnh hưởng của tư

tưởng Lão Tử về Đạo. Nguyễn Đức Đạt đã thể hiện tuy không thật rành mạch, rõ

ràng, quan niệm coi Đạo là bản thể của vũ trụ. Dẫu sao, quan niệm chủ yếu của

ông đồng nhất đạo với đạo lý làm người, mà nội dung cơ bản là tam cương, ngũ

thường” [95, tr.122]. Trong cuốn sách, tác giả cũng đã đề cập và phân tích những

khái niệm về vận số, số mệnh, phúc, thiện theo quan niệm của Nguyễn Đức Đạt,

đồng thời tác giả đánh giá “tư tưởng Nguyễn Đức Đạt về nhân sinh quan có cái

riêng của ông, gần gũi với mọi người, đặc biệt là không bị gò bó, nghiệt ngã

trong tam cương, ngũ thường, thấm đượm lòng nhân ái” [95, tr.132]. Thông qua

những nội dung phân tích của tác giả cùng những dẫn chứng qua tác phẩm Nam

Sơn tùng thoại, cuốn sách góp phần hình thành trong tư duy người đọc những

hiểu biết, định hướng cơ bản về thế giới quan và nhân sinh quan trong tư tưởng

của Nguyễn Đức Đạt. Cuốn sách có nhiều giá trị về mặt lý luận để chúng tôi kế

thừa làm rõ các nội dung trong tư tưởng triết học của Nguyễn Đức Đạt.

Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với cuốn Đại cương lịch sử triết học Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 đã dành một mục viết về tư tưởng triết học

triều Nguyễn, trong đó tác giả phân tích tư tưởng triết học của Nguyễn Đức Đạt

với hai nội dung thế giới quan và nhân sinh quan trong tư tưởng của ông. Những

trình bày có tính định hướng này của Nguyễn Hùng Hậu về khái niệm đạo, con

đường và biện pháp cầu đạo, họa phúc và thiên mệnh trong tư tưởng Nguyễn

Đức Đạt được coi là cơ sở quan trọng để chúng tôi luận giải về tư tưởng triết học

của Nguyễn Đức Đạt trong đề tài luận án.

Trong bài viết Tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ đầu nhà Nguyễn (trong

cuốn Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam - từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ

XX) tác giả Trịnh Doãn Chính đã phân tích tư tưởng triết học của Nguyễn Đức

Đạt qua tác phẩm Nam Sơn tùng thoại với hai nội dung cơ bản: thế giới quan và

nhân sinh quan. Theo tác giả, thế giới quan trong tư tưởng triết học của Nguyễn

Đức Đạt được thể hiện thông qua “đạo”, “đại đạo như trời che đất chở, nó tự che

24

chở lấy mình, vì nó rất cao nên không gì vượt lên trên, vì nó rất rộng nên không

gì vượt ra ngoài, nó sâu như biển, ngàn vạn dòng nước chảy vào cũng không

đầy” [17, tr.693]. Tác giả cho rằng, Nguyễn Đức Đạt tiếp thu tư tưởng đạo của

Lão Tử để khẳng định đạo là bao la, rộng lớn, không có giới hạn và cũng không

thể gọi được tên. Muốn cầu đạo phải dùng tâm thông qua việc thực hiện bốn điều

chớ nên làm (“Tứ bất”) của Khổng Tử và bốn đầu mối (“Tứ đoan”) của Mạnh Tử.

Giống như Lê Sỹ Thắng, PGS.TS Trịnh Doãn Chính cũng cho rằng, tư tưởng của

Nguyễn Đức Đạt về “vận số” là mâu thuẫn nhau “ông bác bỏ số mệnh (họa phúc

đều do tự mình làm ra), nhưng phú quý bần tiện là do số không thể đổi được” [17,

tr.694]. Đồng thời tác giả cũng trình bày những nội dung về nhân sinh quan qua

việc học, mệnh trời, phúc đức, lý tưởng đời người... Những trình bày này tuy chỉ

là ở mức gợi mở nhưng rất có ý nghĩa để chúng tôi kế thừa, vận dụng bổ sung vào

làm rõ các nội dung tư tưởng triết học trong đề tài luận án của mình.

Trong cuốn sách Nhà giáo danh tiếng đất Lam Hồng, tác giả Ninh Viết

Giao trong bài viết về Nguyễn Đức Đạt có trình bày những tư tưởng của ông về

thiên đạo, lịch sử, đạo đức và trị đạo trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại. Tác giả

không đề cập riêng rẽ từng nội dung nhưng qua cách trình bày chúng ta có thể tìm

thấy tư tưởng triết học của Nguyễn Đức Đạt được thể hiện trong quan niệm về

Thiên đạo và Trị đạo. Theo tác giả, “Nguyễn Đức Đạt cũng cho rằng có trời và

mệnh trời nhưng tư tưởng mệnh trời của ông khác và trái với tư tưởng tiền định....

Chiều hướng tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt là nhấn mạnh vào con người và xã

hội làm ra họa phúc của mình, nhấn mạnh vào đạo đức và nỗ lực của con người là

cái có thể biết được. Đây là một điểm tích cực dù nhỏ của Nguyễn Đức Đạt. Song

nói vậy, không phải ông cho là không có Trời. Nhưng ông cho Trời không chỉ là

khí thanh, ông vẫn cho Trời là chủ thể muôn vật. Ông cũng cho Trời không chỉ là

thần tối cao mà còn có tình cảm và ý chí như người” [15, tr.73].

Như vậy có thể khẳng định, tất cả những nghiên cứu trên của các học giả

về tư tưởng triết học của Nguyễn Đức Đạt mới chỉ đi vào lý giải thế giới quan

25

thông qua quan niệm về trời và mệnh trời là chính yếu. Tuy nhiên, những phân

tích còn sơ lược và chỉ mang tính gợi mở, đòi hỏi chúng tôi phải kế thừa, luận

giải chi tiết, sâu sắc về từng nội dung để thấy được nét nổi bật trong tư tưởng

triết học của Nguyễn Đức Đạt.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu về tâm tính học

Các công trình nghiên cứu về tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt chủ yếu

được các học giả đi trước quan tâm trên các lĩnh vực giáo dục (tu dưỡng, giáo

hóa) và Đạo học. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về tâm tính học của

Nguyễn Đức Đạt cũng hết sức hạn chế, đòi hỏi chúng tôi phải có những nghiên

cứu tổng thể, toàn diện trong đề tài luận án của mình.

Trong cuốn Nhà giáo danh tiếng đất Lam Hồng, tác giả Ninh Viết Giao

khi trình bày về nội dung tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt đã nhận xét “Là nhà

giáo dục, Nguyễn Đức Đạt đã rất quan tâm đến các sách kinh điển của đạo Nho”.

Luận giải quan điểm đó, tác giả đã chỉ ra và phân tích sự ảnh hưởng của Nho

giáo và sách kinh điển của đạo nho đối với Nguyễn Đức Đạt là vô cùng lớn “ông

đã so sánh các kinh với trời đất, với những chân lý bất biến, thiêng liêng, vĩnh

hằng” [15, tr.70]. Tác giả cũng cho rằng: Là một nhà giáo dục, Nguyễn Đức Đạt

rất để tâm đến việc học, ông rất coi trọng phương pháp giáo dục và nội dung

giáo dục “Nguyễn Đức Đạt bàn về động cơ học tập và phương pháp học tập có

phần gần với phương pháp giáo dục hiện đại” [15, tr.71]. Bài viết cũng đưa ra

những đánh giá tích cực để khẳng định vị thế của tư tưởng giáo dục Nguyễn Đức

Đạt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tác giả viết: “Chính trong những ngày

ngồi dạy học và trước những câu hỏi đặt ra của học sinh, ông đã nghiền ngẫm,

suy nghĩ, ghi chép lại một cách sinh động, hấp dẫn trong “Nam sơn tùng thoại”.

Công trình này đã nâng ông lên không chỉ là nhà giáo dục có tài, mà còn là nhà

triết học uyên thâm. Qua “Nam Sơn tùng thoại”, ngoài nhiều ý kiến chịu ảnh

hưởng nặng nề của Khổng Mạnh, Nguyễn Đức Đạt cũng tỏ ra có quan điểm

riêng khá xác đáng và phù hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc” [15, tr. 69]

26

hay “Cái tên Nguyễn Đức Đạt có người biết, có người không nhớ. Nhưng cái tên

“Thám Nhất”, “Thám Hoành Sơn”, “Thầy Giáo Nam Sơn”,... còn mãi với làng

Hoành Sơn, với núi Nam Hoa, với bao giai thoại về ông, với các trước tác khác

của ông như: Đông hiên hà dạ tập, Hồ dạng thi, Vịnh sử thi tập, Việt sử thặng

bình, Cần kiệm vựng biên, Khảo cổ ức thuyết... nhất là trong lòng người dân xứ

Nghệ: Nguyễn Đức Đạt vẫn lừng lững như núi Nam Sơn bên dòng sông Nam bất

hủ. Bởi ông không chỉ là nhà giáo dục đào tạo được nhiều người thành danh, nhà

văn mà còn là nhà triết học, nhà sử học, dân tộc học,...” [15, tr.82]. Như vậy, bài

viết của tác giả Ninh Viết Giao đã đề cập đến nhiều nội dung trong tư tưởng giáo

dục Nguyễn Đức Đạt như mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục và cả những

đánh giá sâu sắc về tư tưởng của ông đã giúp chúng tôi có nguồn tài liệu tham

khảo bổ ích và kể thừa để phân tích làm rõ quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về tu

dưỡng, giáo dục trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ở đề tài luận án của mình.

Tác giả Lê Sỹ Thắng trong cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997 đã trình bày và phân tích khá cụ thể nhiều nội

dung trong tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt như việc đề cao vai trò của

giáo dục, mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáp dục. Những

trình bày này tuy mới ở dạng khái quát tư tưởng nhưng tác giả cũng đã có những

nhận xét đặc sắc “Nguyễn Đức Đạt đã trình bày một cách tập trung, có hệ thống

tư tưởng về giáo dục. Nhìn chung ông đã đề xuất nhiều quan điểm đúng đắn

trong đó có những tia sáng đến nay vẫn còn rực rỡ. Tuy nhiên, cuối cùng ông

vẫn không phá bỏ được lối học cũ kỹ của nhà trường Nho học đương thời” [95,

tr.121]. Tuy độ dài của cuốn sách viết về nội dung này không dài nhưng rất hữu

ích để chúng tôi phân tích sâu hơn về tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt trong

tác phẩm Nam Sơn tùng thoại.

Tóm lại, việc khảo cứu các công trình trên đây cho thấy tư tưởng Nguyễn

Đức Đạt những năm gần đây chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu nhiều,

nhưng nhìn chung, những công trình nghiên cứu này cũng đã đạt được những kết

27

quả nhất định. Nhờ có những công trình nghiên cứu này mà chúng ta hình dung

được phần nào hệ thống tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt, đặc biệt là những ưu

điểm trong tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt ở tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, giống

như nhận xét của GS. Trần Văn Giàu trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở

Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 1: “tác phẩm lớn của

Nguyễn Đức Đạt, sách Nam Sơn tùng thoại là sự trình bày toàn bộ Nho giáo một

cách độc đáo, có hệ thống, không thấy ở trong các sách khác; các sách khác có

nhiều, thường chỉ giải thích kinh truyện từng câu, từng đoạn, hoặc nếu có thảo

luận thì cũng thảo luận ở điểm này phần nọ mà thôi” [38, tr.11]. Từ đây, giúp

chúng tôi xác định cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học và hệ

thống nội dung tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại để

có những phân tích chi tiết, sâu sắc, cùng những nhận định khách quan và rút ra

được nhiều bài học có giá trị ở đương thời và hiện nay.

1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng về đạo trị quốc

và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

Tìm hiểu tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức

Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại là mảng vấn đề chưa được nhiều học giả

quan tâm bởi nhiều lý do, vì thế các công trình nghiên cứu tư tưởng của ông về

đạo trị quốc và thực thi chính sự cũng rất hạn chế. Tiêu biểu cho nhóm nghiên

cứu này là:

Trong bài Nguyễn Đức Đạt và tác phẩm “Nam Sơn tùng thoại”, tác giả Lê

Sỹ Thắng trình bày những nét lớn trong tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt, trong đó

ông dành hơn 10 trang để phân tích tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự

của Nguyễn Đức Đạt. Các nội dung thể hiện mối quan hệ giữa vua với dân, vua

với quan lại, về đạo đức của vua, vị trí vai trò của pháp luật, của đức và nhân

trong chính sách cai trị, mối quan hệ giữa pháp và thế... được tác giả trình bày

một cách khoa học, với những dẫn chứng thể hiện tư tưởng rõ ràng, mạch lạc của

Nguyễn Đức Đạt trình bày thông qua những câu trả lời với học trò về các vấn đề

28

trên. Tác giả cũng dành một nội dung quan trọng có tính kết luận để nói về

Nguyễn Đức Đạt “tựu trung, xuyên suốt tư tưởng chính trị của Nguyễn Đức Đạt

là: vua sáng, tôi hiền, nhân dân no đủ và tôn trọng chính lệnh. Muốn vậy, mọi

chính sách đều phải lấy dân làm gốc và lấy an dân làm mục đích cao nhất.

Đương nhiên đó là những yếu tố tích cực được xây dựng trên cơ sở rút kinh

nghiệm lịch sử của Việt Nam, căn cứ trên thực tế xã hội đương thời và tiếp thu

có chọn lọc một số quan điểm của Pháp gia. Nòng cốt của cơ sở nói trên là tư

tưởng nhân chính của Nho giáo” [95, tr.143]. Những khái quát này vô cùng quý

giá, tạo cơ sở khoa học để chúng tôi đi sâu nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Đức Đạt

nói chung và tư tưởng chính trị của ông nói riêng.

Nhận định trên của nhà nghiên cứu Lê Sỹ Thắng cũng giống với nhận

định của PGS. TS Trịnh Doãn Chính khi bàn về tư tưởng chính trị của Nguyễn

Đức Đạt. Trong bài Tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ đầu nhà Nguyễn,

PGS.TS. Trịnh Doãn Chính đã dành một mục để trình bày về tư tưởng thực thi

chính sự của Nguyễn Đức Đạt. Bằng việc so sánh quan niệm của Nguyễn Đức

Đạt về mối quan hệ vua - dân, vua - quan lại với tư tưởng của Minh Mệnh, tác

giả viết: “Về chính trị, theo ông (ở đây là chỉ Nguyễn Đức Đạt), phải hữu vi

trước rồi sau đó mới vô vi. Tư tưởng này giống Minh Mệnh. Ông cho rằng, vua

nên yêu kính dân như yêu kính bản thân mình. Vua phải trọng dụng hiền thần mà

xa lánh kẻ nịnh bợ, im lặng”[17, tr. 695]. Trong bài viết, tác giả còn phân tích

những yêu cầu của Nguyễn Đức Đạt với đấng minh quân trong việc trị nước, đó

là đạo đức phải cao, ân tứ phải sâu, tôn trọng chính lệnh, phải biết kết hợp đức trị

và pháp trị, lấy an dân làm gốc...

Ngoài ra, trong cuốn sách Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ

XIX đến Cách mạng tháng tám, tập 1 của GS. Trần Văn Giàu trong khi trình bày

về nguyên lý trị đạo thời Nguyễn, tác giả cũng đã nêu khái quát tư tưởng về đạo

trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt khi ông dùng Nguyễn Đức

Đạt để dẫn chứng cho những quan điểm của mình khi nói về Nho giáo Việt Nam

29

thế kỷ XIX. Khi trình bày về các phương châm lớn của trị đạo thời Nguyễn, tác

giả chỉ ra những phương châm mà triều Nguyễn dùng để cai trị đất nước giai

đoạn này là phục cổ như kính thiên, ái dân, cần chính, thân hiền, lấy xưa làm

mẫu mực chính trị, đường lối trọng vương khinh bá... Những phương châm này

về cơ bản đó là lý thuyết về trị đạo của Khổng - Mạnh. Nguyễn Đức Đạt là một

môn đồ ưu tú của chốn “cửa Khổng sân Trình” nên ông không thoát ra khỏi

những tư tưởng chính trị của Khổng - Mạnh. Tác giả nhận xét: “Nguyễn Đức

Đạt, Phan Thanh Giản, các vua Nguyễn, các quan đều nhất luật theo chỉ đạo của

Nho giáo cổ truyền, dạy rằng “quốc dụng trông vào người và đất”, nông tang thì

được khuyến khích, thương mại thì phải ức chế vì thương mại là trục lợi, trục lợi

là nguồn gốc của mọi sự rối ren và cướp đoạt nhau, trái lại làm ruộng thì dễ giữ

vẹn lòng mình, thiên hạ bình an. Cần làm cho dân giàu nhưng giàu bằng cày

ruộng và chỉ bằng cày ruộng mà thôi. Nước mạnh là bởi được lòng dân, không

phải bởi đâu khác. Được lòng dân thì dù chỉ có gậy thôi cũng đuổi được giặc,

Mạnh Tử đã dạy như thế chẳng đúng vương đạo hay sao? Nhà Nho và triều đình

tin chắc vào “chân lý vĩnh cửu” đó” [38, tr.295]. Đồng thời, tác giả cũng đã phân

tích tư tưởng đạo đức của Nho giáo được cô đọng trong hai chữ Luân thường

hay cương thường, nó được coi là rất hệ trọng để làm người, để dựng nước. Qua

đây, bài viết luận giải năm mối quan hệ trong ngũ luân (quan hệ vua tôi, cha con,

chồng vợ, anh em, bạn bè) và năm điều trong ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí,

tín) là những quy định phản ánh quan niệm của nho gia về con người, xã hội,

trong nước, trong gia đình. Tác giả nhận định: “Nho giáo cho rằng năm mối quan

hệ giữa người và người (vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn hữu) là những

mối quan hệ chính mà bất kỳ người nào cũng không tránh khỏi, giữ được tốt năm

mối quan hệ ấy thì xã hội hòa mục, gia đạo yên vui” [38, tr.218]. Với những luận

giải về từng mối quan hệ, tác giả dùng tư tưởng của các nhà Nho trích dẫn cho

những nhận xét của mình trong đó có tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt, qua đó tư

tưởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt được thể hiện rất rõ nét. Chẳng hạn, khi nói

30

về chữ “nhân” của Nho giáo, tác giả cho rằng, Nguyễn Đức Đạt “có lối giải thích

đặc sắc về đạo nhân của Khổng Tử”, “Nguyễn Đức Đạt xem đức nhân là nhu cầu

nội tại của bản thân người quân tử, như ngứa thì phải gãi, mỏi thì phải nằm,

không thể không được” [38, tr.256]. Như vậy có thể thấy, những trình bày của

GS. Trần Văn Giàu đã giúp cho người đọc hiểu được tư tưởng về đạo trị quốc và

thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt mang đậm màu sắc của Nho giáo.

Trong cuốn Nhà giáo danh tiếng đất Lam Hồng, tác giả Ninh Viết Giao

cũng bàn đến tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt

với quan niệm về Trị đạo, về “chữ trung, chữ hiếu, chữ nhân”. Ông viết:

“Nguyễn Đức Đạt đã bàn về Trị đạo, trong đó có vương đạo và bá đạo. Muốn lập

vương đạo hay bá đạo thì phải dùng “chính trị người hiền”. Người hiền tài là của

quý của triều đình, của quốc gia. Khẳng định vai trò quyết định của người hiền,

người tài đối với sự tồn vong của một triều đại” [15, tr.75]. Mặc dù tác giả chỉ

khái quát những luận điểm cơ bản bằng hình ảnh cụ thể qua cách thức Nguyễn

Đức Đạt trả lời câu hỏi của học trò nhưng đây được coi là những gợi ý rất xác

thực để chúng tôi tiếp tục hướng nghiên cứu của đề tài luận án. Theo tác giả,

“Giới thiệu một số nét trên, ta thấy Nguyễn Đức Đạt có nhiều ý kiến về đạo nho.

Ý kiến của ông được trình bày không phải đơn thuần bằng khái niệm mà bằng

hình ảnh cụ thể, nên sinh động, hấp dẫn” [15, tr.79].

Trong bài Tìm hiểu tư tưởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt (Tạp chí Triết

học, số 10, tháng 10/2002), trên cơ sở làm rõ quan điểm, cách lý giải của

Nguyễn Đức Đạt về những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo, tác giả

Nguyễn Văn Phúc cho rằng: “đối với Nguyễn Đức Đạt, đạo đức Nho giáo là lý

tưởng của ông, những nguyên lý của Lão giáo chẳng qua chỉ là phương tiện để

biện minh cho đạo đức Nho giáo, dù rằng với sự biện minh ấy, những tư tưởng

đạo đức mà ông nêu ra đã có những nét riêng” [82, tr.53]. Ngoài những phân tích

về trung, hiếu, nhân chính, bổn phận, hạnh phúc..., tác giả còn khẳng định mối

quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt. Cũng

31

trong bài viết này, tác giả Nguyễn Văn Phúc cũng đưa ra nhận xét về điểm hạn

chế trong tư tưởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt: “Nguyễn Đức Đạt biện hộ cho

một hệ thống đạo đức đang từng bước bị đẩy lùi vào hậu trường của lịch sử do

không đáp ứng được các yêu cầu của thời đại. Theo nghĩa đó, có thể nói ông là

một người bảo thủ” [82, tr.57]. Hoặc trong bài viết Quan niệm của Nguyễn Đức

Đạt về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong “Nam Sơn tùng thoại”

(Tạp chí Triết học, số 6, tháng 6 -2008) tác giả Mai Vũ Dũng khi phân tích, lý

giải các phạm trù trung, hiếu, lễ, đức, nhân và sự thống nhất giữa đạo đức và

pháp luật thì những quan niệm về đạo đức của vua - quan - dân trong tư tưởng

Nguyễn Đức Đạt đều được thể hiện rõ nét.

Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với cuốn Đại cương lịch sử triết học Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 đã dành một mục viết về tư tưởng triết học

triều Nguyễn, trong đó tác giả tập trung phân tích những vấn đề chính trị, đạo

đức trong tư tưởng Nguyễn Đức Đạt ở nội dung về nhân sinh quan trong tư

tưởng của ông. Ở đây tác giả Nguyễn Hùng Hậu tập trung vào trình bày cụ thể

vấn đề nhân sinh quan với quan điểm chính trị là chủ đạo để khẳng định “tư

tưởng của Nguyễn Đức Đạt hướng đến vua sáng tôi hiền, nhân dân no đủ và tôn

trọng chính lệnh. Muốn vậy thì phải an dân, lấy dân làm gốc” [45, tr.348].

Những trình bày và luận giải này có ý nghĩa định hướng cho chúng tôi trong việc

phân tích tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt

trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại.

Qua nghiên cứu những công trình, bài viết trên chúng ta thấy các tác giả

mới chỉ nêu ra những tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn

Đức Đạt để thấy được tư tưởng của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng

Nho giáo Khổng - Mạnh, nhưng các học giả chưa phân tích được nguyên nhân

của những ảnh hưởng đó và còn hạn chế trong việc diễn giải các quan điểm Nho

giáo của Nguyễn Đức Đạt, những trình bày này mới chỉ là việc nêu khái quát

quan điểm, chưa có sự so sánh với các quan điểm của các nhà nho khác. Đây là

32

nhiệm vụ đòi hỏi chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong đề tài luận án.

1.4. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết

Các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước về tư tưởng Nguyễn

Đức Đạt mới chỉ là những gợi mở, những trình bày khái quát và nêu ra được một

số nội dung cơ bản, việc phân tích đánh giá tư tưởng của ông còn hết sức sơ

lược, chưa có những nghiên cứu mô tả diện mạo tổng thể tư tưởng Nguyễn Đức

Đạt trong Nam Sơn tùng thoại như một giới thiệu sản phẩm tư tưởng tích hợp

của Nho giáo ở Việt Nam tới ông Nguyễn Đức Đạt, với sự tiếp nhận, thảo luận

và tâm đắc và làm rõ điểm đặc sắc riêng biệt của ông, nhấn mạnh ở sự luận giải,

chiêm nghiệm và thực hành… góp phần làm đa dạng, phong phú hệ thống tư

tưởng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Để góp phần làm rõ hơn và nghiên cứu

có hệ thống về tư tưởng Nguyễn Đức Đạt, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những

nghiên cứu của các học giả đi trước, luận án tập trung khai thác trên bình diện

triết học một cách hệ thống, chi tiết đề tài “Tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại” với những vấn đề cần tập trung giải quyết sau:

+ Phân tích bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, tư tưởng Việt Nam giai đoạn

nửa cuối thế kỷ XIX dẫn đến sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại.

+ Triển khai và làm rõ nội dung tư tưởng triết học và tâm tính học của

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại và rút ra ý nghĩa của

những tư tưởng đó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và hiện nay.

+ Làm rõ nội dung tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của

Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, trên cơ sở đó làm rõ những

33

ý nghĩa của những tư tưởng đó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Có thể nói, từ trước đến nay, việc nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Đức

Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại chưa thực sự nhận được sự quan tâm

một cách thỏa đáng của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Vì vậy, việc tìm

hiểu, phân tích và hệ thống hóa tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam

Sơn tùng thoại là một việc làm cần thiết để trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá

khách quan, thỏa đáng về những đóng góp của ông vào lịch sử Việt Nam giai

đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

Tuy nhiên, các công trình do chúng tôi trực tiếp khảo cứu ở trên ít nhiều đã

phác họa chân dung tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng

thoại, chúng tôi coi đó là tấm gương phản chiếu tình hình chính trị - xã hội đương

thời cũng như tình hình Nho học và vị thế của Nho giáo trong điều kiện đất nước

đứng trước những biến cố phức tạp. Chính vì vậy, việc trân trọng những thành quả

nghiên cứu của những người đi trước, lấy đó làm tài liệu tham khảo là điều chúng

34

tôi luôn quan tâm trong quá trình thực hiện luận án tiến sĩ của mình.

Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT

TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI

2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX

Nghiên cứu về tư tưởng của bất cứ tác gia nào, ở bất cứ giai đoạn nào cần

phải đề cập tới những biến động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có ảnh

hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới quá trình hình thành tư tưởng của họ. Đây được

coi là cơ sở để lý giải tính qui định, thậm chí là tất yếu dẫn tới sự hình thành các

quan niệm, quan điểm của nhà tư tưởng ở một giai đoạn lịch sử nhất định.

Nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại cũng

không ngoại lệ. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX với sự

xâm lược của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta,

sau đó là những biến đổi bước đầu trong cơ cấu giai cấp ở Việt Nam và sự phân

hóa giai cấp sâu sắc hơn, xuất hiện những giai tầng xã hội mới, cùng với đó là sự

ra đời những tư tưởng cải cách, canh tân đất nước... tất thảy những điều này đều

ảnh hưởng đến các quan điểm của Nguyễn Đức Đạt về triết học, tâm tính học, về

đạo trị quốc và thực thi chính sự được ông trình bày trong tác phẩm Nam Sơn

tùng thoại.

2.1.1. Về tình hình kinh tế, chính trị ở phương Tây và Việt Nam nửa

cuối thế kỷ XIX

Thế kỷ XIX là thời kỳ có nhiều thay đổi trong quá trình phát triển lịch sử

xã hội loài người ở cả phương Tây, phương Đông và Việt Nam.

Ở phương Tây, các nước tư bản mà đứng đầu là Anh, Pháp, Mỹ đến giữa

thế kỷ XIX đã trở thành những đế quốc lớn mạnh, có nền kinh tế đạt tới mức độ

phát triển cao “Luân Đôn trở thành một trung tâm thương mại với 80 vạn dân, là

thành phố đầu tiên của châu Âu tiến lên con đường công nghiệp hóa và trở thành

thị trường của thế giới” [81, tr.38]; hay nước Pháp là nước đứng hàng thứ hai

35

trong nền kinh tế thế giới. Sự chuyển biến này đã làm cho xã hội tư bản thay đổi

rất lớn trên tất cả các mặt, dẫn đến những cạnh tranh gay gắt trong việc xác lập

sự ảnh hưởng chính trị của các nước đế quốc trên thế giới. Đặc biệt là với nhu

cầu tìm kiếm thuộc địa nhằm cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ

hàng hóa, các nước đế quốc đã không ngừng chạy đua xâm chiếm thuộc địa ở

châu Á - một vùng rộng lớn, đầy tiềm năng. Vì thế, trong thế kỷ XIX, hàng loạt

các nước châu Á đã trở thành mục tiêu xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa đế

quốc, trong đó có Việt Nam.

Ở phương Đông, với âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc

nhằm mở rộng thị trường, khai thác thuộc địa của phương Tây, bên cạnh sự hèn

nhát, yếu kém về tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị đương thời đã làm cho

nhiều nước trong khu vực châu Á trở thành thuộc địa và nửa thuộc địa:

Trong thế kỷ XIX, với âm mưu thôn tính Trung Quốc, thực dân Anh đã tìm

mọi cách ép buộc triều đình Mãn Thanh chấp nhận hiệp ước bồi thường chiến

tranh. Trong khi đó, nhà nước phong kiến Trung Quốc lại thực hiện chính sách bế

quan tỏa cảng với bên ngoài và chuyên chế với bên trong. Tuy nhiên họ không

ngăn nổi phong trào của Hán tộc, cũng không chống đỡ nổi sự xâu xé của phương

Tây. Cuối cùng, sau hiệp ước Nam Kinh ngày 29/8/1842, Trung Quốc chấp nhận

mở cửa, tự do mậu dịch, giao thương với nước ngoài, nhường một số địa bàn cho

các nước phương Tây, trong đó Hương Cảng bị cắt hẳn cho nước Anh.

Ở Nhật Bản, vào giữa thế kỷ XIX, những cuộc nổi dậy của Samurai chống

lại người nước ngoài được dùng làm cớ để quân Anh và quân Pháp đổ bộ vào

Nhật Bản và sau đó hạm đội Mĩ - Anh - Pháp - Hà Lan tấn công Shimonoseki

đòi quyền qua lại cảng này. Chế độ phong kiến Nhật Bản sau một thời gian dài

thống trị xã hội đến lúc này cũng không còn đủ sức chống lại sự xâm nhập của

đế quốc Âu - Mĩ, rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng.

Inđônêxia bị Hà Lan thống trị, Philippin bị Tây Ban Nha và Mỹ chiếm

36

đóng, Xiêm bị biến thành khu đệm giữa các vùng thuộc địa của các nước đế

quốc và bị lệ thuộc nhiều mặt vào các nước tư bản. Còn các nước Lào,

Cămpuchia và Việt Nam đều bị Pháp thôn tính.

Ở Việt Nam, thế kỷ XIX được chia thành hai giai đoạn khác nhau đánh

dấu bằng cuộc tiến hành xâm lược của thực dân Pháp năm 1858: “Ở Việt Nam,

thế kỷ XIX có thể được chia thành hai giai đoạn rõ rệt mà mỗi giai đoạn là một

nửa thế kỷ. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu với việc thiết lập triều Nguyễn sau khi

Nguyễn Ánh đánh bại vương triều Tây Sơn. Giai đoạn thứ hai bắt đầu khi thực

dân Pháp mở đầu cuộc xâm lược vũ trang vào năm 1858 ở cửa biển Đà Nẵng và

kết thúc với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng năm 1896” [95,

tr.5]. Nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giai đoạn lịch sử này là khác nhau, vì thế “trong

giai đoạn thứ nhất, tư tưởng phải soi sáng cho nhiệm vụ xây dựng lại đất nước

từng bị chia cắt và tàn phá, xây dựng lại xã hội đã từng bị đảo lộn ghê gớm trong

thế kỷ XVIII. Trong giai đoạn thứ hai, tư tưởng phải trả lời cho các câu hỏi mà

thực tiễn bảo vệ nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ đặt ra trước sự xâm lược của

chủ nghĩa thực dân Pháp” [95, tr.5]. Như vậy, có thể thấy, sang giai đoạn nửa sau

thế kỷ XIX, hầu hết các nước châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc…

đều bị các nước tư bản phương Tây xâm chiếm và trở thành thuộc địa của chúng,

Việt Nam cũng không ngoại lệ. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp

đã được hình thành từ rất sớm nhưng phải đến năm 1858 chúng mới đủ thời cơ

chín muốn để liên quân với Tây Ban Nha nổ súng tấn công vào Đà Nẵng, chính

thức mở đầu cuộc xâm lược ở Việt Nam. Từ đây, thực dân Pháp tích cực đẩy

mạnh công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam, làm cho tình hình kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội nước ta có những chuyển biến rõ rệt.

* Về kinh tế

Sau nhiều năm với sự cố gắng của các vua triều Nguyễn nhằm ổn định trật

tự xã hội, phát triển kinh tế, đặc biệt là khôi phục lại nền nông nghiệp, đưa nông

dân về với ruộng đất, ổn định làng xã như mong muốn, nền kinh tế Việt Nam đã

37

đạt được một số kết quả đáng ghi nhận “một nước nông nghiệp với vài đô thị và

ít nhiều mầm mống kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Những vấn đề ruộng đất, đê

điều, nông dân… luôn được triều đình đặt lên hàng đầu” [24, tr.369]. Thế nhưng,

từ khi nổ súng xâm lược Việt Nam năm 1858, thực dân Pháp đã từng bước đặt

ách đô hộ lên toàn lãnh thổ Việt Nam, tiến hành đẩy mạnh khai thác thuộc địa

làm cho nền kinh tế nước ta có những thay đổi so với trước.

Nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này chủ yếu vẫn là một nền kinh tế nông

nghiệp, vấn đề ruộng đất luôn được nhà Nguyễn quan tâm với nhiều chính sách

về khai hoang, phục hóa nhằm khuyến khích nông dân mở rộng diện tích ruộng

đất canh tác, góp phần cải thiện phần nào đời sống của nông dân và nâng cao thu

nhập cho nhà nước. Bên cạnh đó, nhằm khai thác những nguồn lợi sẵn có của

Việt Nam, thực dân Pháp không ngừng tìm cách chiếm đoạt ruộng đất của nhân

dân Việt Nam, lập đồn điền và đầu tư vào ngành sản xuất nông nghiệp trồng lúa

nước để đẩy mạnh xuất khẩu: “Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, tốc độ

chiếm hữu ruộng đất, nhất là của người Âu, được đẩy mạnh trên quy mô toàn

quốc. Ngoài ra, chính quyền thực dân Pháp còn khuyến khích việc mở rộng đồn

điền bằng cách tạo dựng các cơ sở pháp lý thuận lợi cũng như khuyến khích

nhiều mặt, như trích công quỹ giúp các chủ đồn điền, mở rộng diện tích, thu hút

nhân công lao động. Do vậy, diện tích đất đai do thực dân Pháp chiếm đoạt từ

tay người nông dân Việt Nam ngày càng nhiều với tốc độ nhanh” [24, tr.383].

Thiên tai, hạn hán, lũ lụt hoành hành, cùng với chính sách thuế ruộng đất quá cao

đã làm cho người dân đói khổ triền miên, nông dân phải bỏ ruộng đất đi phiêu

bạt khắp nơi, làm thuê cho các chủ đồn điền người Pháp. Không có sự xuất hiện

của những điền sản người Việt có diện tích canh tác lớn mà chủ yếu là các điền

chủ người Pháp có diện tích đồn điền lớn từ 50ha trở lên. Họ không chỉ tập trung

vào trồng cây lương thực truyền thống mà còn bắt đầu thử nghiệm trồng những

cây công nghiệp khác như chè, cà phê, cao su, hồ tiêu, bông, đay, thuốc lá… và

38

chăn nuôi gia súc mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Trong thương nghiệp, ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, có thể nói triều

đình nhà Nguyễn đã phần nào có những thay đổi so với trước do những biến

động mạnh mẽ của bối cảnh lịch sử cùng những khó khăn bên trong của đất

nước. Về nội thương, triều đình thực hiện chính sách “ức thương” chỉ với một số

mặt hàng giới hạn có sự kiểm soát, thu thuế. Về ngoại thương, triều đình đã nới

rộng việc giao lưu buôn bán với nước ngoài (nhưng chủ yếu vẫn là người Trung

Quốc ra vào buôn bán ở Việt Nam) còn với người phương Tây thì luôn tìm cách

cản trở, họ phải xin phép buôn bán từng chuyến một. Có thể nói đây là một sai

lầm của triều Nguyễn làm hạn chế sự phát triển các nhân tố thương mại trong

nền kinh tế: “cho đến cuối thế kỷ XIX, nội thương Việt Nam vẫn mang tính chất

truyền thống với hệ thống chợ làng có ở khắp nơi. Hàng hóa buôn bán trao đổi

chủ yếu là nông phẩm giữa những người nông dân” [ 24, tr.392]. Sau khi Pháp

đặt ách đô hộ lên đất nước ta thì chính sách ngoại thương hoàn toàn nằm trong

tay Pháp, với việc tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Pháp vào Việt Nam và

hàng hóa Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài. Những chính sách thương mại này

ít nhiều đã tạo ra những chuyển biến nhất định trong kinh tế thương mại nước ta.

Sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế cũng có những chuyển biến nhất

định. Do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, với việc tiến hành

khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có của Việt Nam mà chủ yếu là các mỏ than

đã hình thành một số ngành công nghiệp khai khoáng, một số đồn điền, hãng

buôn, xí nghiệp và mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ…. Bên cạnh đó,

với mục tiêu chính của thực dân Pháp là tìm cách thu được lợi nhuận nhiều nhất

và nhanh nhất nên chúng đã tận dụng nguồn tài nguyên và sức lao động rẻ mạt ở

Việt Nam để phát triển các ngành công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp sản xuất

hàng tiêu dùng như đồ gốm, sành sứ, dệt vải, làm giấy phát triển khắp nơi. Các

thủ đoạn này của thực dân Pháp một mặt nhằm kìm hãm sự phát triển của nền

kinh tế Việt Nam, mặt khác biến nền kinh tế Việt Nam lạc hậu và phụ thuộc chặt

39

chẽ vào kinh tế Pháp.

Như vậy, nền kinh tế Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đã có những chuyển

biến nhất định: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập vào Việt Nam,

kinh tế hàng hóa và kinh tế tiền tệ được mở rộng, nền kinh tế tự cấp tự túc từng

bước được thu hẹp… Giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam được gọi là nền kinh

tế thuộc địa nửa phong kiến (không hoàn toàn là phong kiến cũng không hoàn

toàn là tư bản chủ nghĩa). Sự thay đổi về kinh tế như trên tất yếu đòi hỏi phải có

sự thay đổi tương ứng của kiến trúc thượng tầng. Nho giáo là một bộ phận cấu

thành nên kiến trúc thượng tầng của nước ta trong giai đoạn này, đòi hỏi phải có

những thay đổi để đáp ứng yêu cầu. Đây cũng chính là vấn đề đòi hỏi các nhà tư

tưởng Việt Nam thế kỷ XIX cần phải thay đổi nhằm đề xuất những biện pháp

hữu hiệu nhất cho nhà cầm quyền, góp phần đưa đất nước thoát ra khỏi sự bế tắc

nhằm phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Đứng trước

nhiệm vụ lịch sử ấy, mỗi nhà nho có những nhận thức và con đường thực hiện

khác nhau, có những người thức thời đưa ra những tư tưởng đổi mới, cải cách

như Trần Đình Túc, Đinh Văn Điền, Nguyền Trường Tộ, nhưng cũng có những

người vẫn kiên định theo lập trường Nho giáo để bảo vệ dân tộc và phát triển

kinh tế đất nước, trong đó có Nguyễn Đức Đạt.

* Về chính trị

Tình hình chính trị ở Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX nổi bật lên

đó là sự xâm lược của thực dân Pháp và các cuộc đấu tranh chống xâm lược của

nhân dân ta để bảo vệ nền độc lập, tự chủ.

Từ đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1858, Việt Nam là một quốc gia độc

lập, có chủ quyền. Tuy nhiên, chế độ phong kiến Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX

đã lâm vào khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng. Đây chính là nguyên nhân

dẫn đến sự thất bại nhanh chóng của triều đình trước âm mưu xâm lược và hành

động của thực dân Pháp. Năm 1858 đánh dấu bước chuyển căn bản của nền

chính trị Việt Nam, từ quốc gia độc lập tự chủ trở thành thuộc địa nửa phong

40

kiến. Sáng 01/09/1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công và đổ bộ lên bán đảo

Sơn Trà - Đà Nẵng. Sau năm tháng bị cầm chân ở Đà Nẵng, đến tháng

02/1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định và sau đó mở rộng tấn công xâm

chiếm các tỉnh miền Đông rồi miền Tây Nam Kỳ, và mở hàng loạt các đợt tấn

công xâm lược với quy mô ồ ạt ở Bắc Kỳ. Trong khoảng thời gian từ năm 1858

đến năm 1884, thực dân Pháp đã xâm chiếm được cả ba miền Bắc - Trung - Nam

và áp đặt chính sách cai trị thực dân trên lãnh thổ Việt Nam, ép buộc triều đình

Huế ký hàng loạt các hiệp ước (Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Harmand

1883) công nhận sự đô hộ của thực dân Pháp. Có thể thấy, trong quá trình xâm

chiếm Việt Nam, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập bộ máy thống trị của

mình ở cả Nam Kỳ và Bắc Kỳ với hệ thống chính quyền do là người Pháp nắm,

mọi quyền hành nằm trong tay người Pháp và đồng thời vẫn duy trì chính quyền

phong kiến và tay sai làm chỗ dựa, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của

chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Thực hiện chính sách “chia để trị”, thực

dân Pháp đã chia cắt lãnh thổ nước ta thành ba miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam

Kỳ, mỗi kỳ có những thể chế cai trị riêng. Đồng thời, chúng còn câu kết với giai

cấp địa chủ để tăng cường bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân.

Trước sự xâm lăng của giặc Pháp, quân dân triều đình và nhân dân cả

nước nô nức đứng lên đấu tranh chống lại sự xâm lược của đế quốc Pháp, đặc

biệt các phong trào kháng chiến của nhân dân ngày càng dâng cao làm cho Pháp

vô cùng bối rối không thể thực hiện được mưu đồ đánh nhanh, thắng nhanh.

“Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1858 - 1896 ghi đậm dấu ấn của những trận đánh

vô cùng ác liệt và quả cảm của quan quân triều đình chống lại đội quân viến

chinh Pháp, dấu ấn của những cuộc khởi nghĩa liên tục và dày khắp của nhân dân

trong cả nước, với lòng quyết tâm cao, dám hy sinh tất cả vì sự sống còn của

quốc gia, dân tộc” [24, tr.416]. Từ thời điểm năm 1858, khi Pháp bắt đầu nổ

súng tấn công vào Đà Nẵng cho đến tháng 12/1859, với sự kết hợp của quan

quân triều đình và toàn thể nhân dân Việt Nam, đã tổ chức tới 11 trận đánh lớn

41

nhỏ làm cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha không thể tiến sâu vào nội địa mà chỉ

dám cố thể trên các tàu chiến, bị thiệt hại nặng nề về người và vũ khí, kết quả là

“trong một thời gian 18 tháng đánh chiếm, đội quân xâm lược không thu được

kết quả gì” [24, tr.418]. Thậm chí, khi chiến đấu chống lại sự xâm lược của thực

dân Pháp ở chiến trường Gia Định và 6 tỉnh Nam Kỳ, quân triều đình Huế đã bị

lúng túng và nhanh chóng đầu hàng giặc, khiến cho Nam Kỳ trở thành thuộc địa

của chúng, thì nhân dân Nam Kỳ bằng mọi sức lực, của cải, vũ khí, chiến thuật

của mình vẫn tiếp tục đứng dậy đấu tranh chống lại quân xâm lược như các cuộc

khởi nghĩa của Trương Định, Thiên Hộ Dương hay Nguyễn Trung Trực… Tiếp

nối truyền thống anh dũng và kiên cường ấy của quân và dân ta, cuộc chiến đấu

chống lại sự xâm chiếm của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ cũng hết sức quyết liệt. Với

hai lần quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ vào các năm 1873 - 1874 và 1882 - 1884

và cuối cùng bọn chúng đã chiếm được các vị trí trọng yếu của triều đình nhưng

quân Pháp đã không thể giành được thắng lợi một cách dễ dàng, chúng gặp phải

sự kháng cự hết sức quyết liệt của quân và dân ta. Bằng ý chí quyết tâm chiến

đấu vì chủ quyền quốc gia dân tộc, độc lập tự chủ của người dân Việt Nam, toàn

thể nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và

đã làm cho chúng chịu “tổn thất nặng nề về cả vật chất lẫn tinh thần” [24,

tr.418], đã giết được viên tướng chỉ huy tối cao Garnier trong trận Cầu Giấy lần

thứ nhất và Tổng chỉ huy H.Riviere trong trận Cầu Giấy lần thứ hai.

Các cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta chứng tỏ bản lĩnh, ý

chí không chịu khuất phục của toàn thể dân tộc Việt Nam trước nguy cơ mất

nước, đó là truyền thống yêu nước cao cả của nhân dân ta đã được hun đúc qua

hàng ngàn năm lịch sử. Những tấm gương anh dũng như Nguyễn Tri Phương,

Trương Định, Phạm Văn Nghị… mãi mãi sáng ngời và là tấm gương của mọi

người dân Việt Nam. Đồng thời, cũng thấy được sự yếu kém, hèn nhát của triều

đình nhà Nguyễn trước sức mạnh con người và vũ khí của phương Tây, luôn sợ

sệt và nuôi hy vọng cầu hòa hay tìm cách cầu viện phương Bắc mà không hiểu

42

được bản chất xâm lược của chúng, nhanh chóng đầu hàng chúng làm cho sức

chiến đấu của quân đội và nhân dân phần nào bị giảm sút trong những thời điểm

gay cấn nhất và lãnh thổ của chúng ta rơi vào tay Pháp, chịu sự đô hộ của thực

dân Pháp. Về mặt thể chế, giai đoạn này Việt Nam tồn tại song song hai chế độ:

phong kiến (triều Nguyễn) và thực dân, trong đó chính quyền triều Nguyễn ngày

càng lệ thuộc vào thực dân Pháp. Vì vậy, “trong giai đoạn này, đời sống xã hội

của đại đa số người dân Việt Nam đã rơi vào cảnh khốn cùng. Nạn đói kém

hoành hành thường xuyên, trật tự an ninh xã hội ít được đảm bảo, thêm vào đó

nạn sưu cao thuế nặng mà cả hai hệ thống bộ máy chính quyền cùng đổ lên đầu

lên cổ người lao động đã dồn họ vào cảnh cùng quẫn, không có lối thoát” [24,

tr.421]. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân

dân ta trên khắp cả nước như khởi nghĩa Phan Đình Phùng, khởi nghĩa Ba Đình,

khởi nghĩa Yên Thế…, tạo tiền đề cho việc tiếp tục đấu tranh chống giặc ngoại

xâm giai đoạn tiếp theo.

Như vậy có thể khẳng định, giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX tình hình chính

trị nước ta đã có nhiều thay đổi so với giai đoạn trước: nhà nước phong kiến

quân chủ Việt Nam đã rút lui khỏi vũ đài chính trị, nhường chỗ cho thế lực đế

quốc phương Tây, từ một nhà nước có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trở thành

nhà nước nửa phong kiến nửa thuộc địa. Rõ ràng, quyền lực và vai trò của triều

đình phong kiến đã dần được thay thế bằng quyền lực và vai trò của thực dân

Pháp, hầu hết các công việc đối nội và đối ngoại của quốc gia đều nằm trong tay

thực dân. Và khi vai trò của triều đình giảm sút, chế độ phong kiến đang dần suy

thoái, nền độc lập dân tộc đã mất thì Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng của giai

cấp thống trị (địa chủ, phong kiến) lúc ấy chắc chắn sẽ mất dần vị trí và bị phê

phán hết sức gay gắt, thậm chí đòi từ bỏ Nho giáo. Với tâm huyết của một nhà

nho chân chính, Nguyễn Đức Đạt vẫn kiên định theo con đường đã chọn, ông

vẫn cố gắng bảo vệ Nho giáo để bảo vệ triều đình, luôn tìm cách giải thích cho

sự phù hợp của Nho giáo trong đường lối trị nước và trong tác phẩm Nam Sơn

43

tùng thoại ông đã giải thích Nho giáo theo cách riêng của mình để thấy được

những giá trị tích cực của học thuyết Nho giáo như là những giá trị trong di sản

tư tưởng truyền thống còn tồn tại ở một chế độ xã hội đang có nhiều biến đổi.

2.1.2. Về văn hóa, xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX

* Về văn hóa, giáo dục

Văn hóa Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX bắt đầu có giao lưu

của hai nền văn hóa Đông - Tây, đó là nền văn hóa truyền thống mang đậm

màu sắc Nho giáo và nền văn hóa Pháp hết sức mới mẻ, hấp dẫn. Bối cảnh đó

đặt ra cho mỗi người dân Việt Nam nói chung, giới trí thức nói riêng là phải có

cách nhìn đúng đắn về truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam và sự tiến bộ

của văn hóa phương Tây, từ đó, có thái độ đúng đắn trong việc lựa chọn con

đường tiếp nhận nền văn hóa mới để vừa tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực

của văn hóa phương Tây, vừa giữ gìn được những giá trị trân quý của văn hóa

truyền thống dân tộc.

Một vấn đề nổi bật ở giai đoạn này đó là việc triều Nguyễn đã để lại cho

lịch sử một khối lượng sách khổng lồ “riêng số sách do triều Nguyễn viết ra

trong 2/3 thế kỷ nhiều hơn toàn bộ số sách của 300 năm trước đó gộp lại” [24,

tr.411]. Đây được coi là một di sản văn hóa của triều Nguyễn với hàng loạt các

bộ sách nổi tiếng về sử học, giáo dục, văn học như: Đại Nam thực lục chính

biên, Đại Nam quốc sử diễn ca, Hương thí văn tuyển, Quốc triều khoa bảng lục,

Quốc triều hương khoa lục,… Tác phẩm Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức

Đạt cũng thể hiện sự đóng góp đối với di sản văn hóa của triều Nguyễn.

Ngoài ra, trong thời kỳ này dù đất nước có chiến tranh nhưng vẫn xuất

hiện rất nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Văn Siêu, Phan Thanh

Giản, Phạm Phú Thứ… với nhiều tác phẩm đã được xuất bản. Cùng với các loại

sách được in ấn, xuất bản, trong thời kỳ này loại hình báo chí cũng bắt đầu xuất

hiện như tờ Công báo (1861), tờ Tin tức Sài Gòn (1864), Gia Định báo (1865)

và có ảnh hưởng đến đời sống xã hội Việt Nam. Sự xuất hiện của báo chí tạo

44

điều kiện cho các trào lưu tư tưởng, văn hóa tiến bộ phương Tây nhanh chóng

lan tràn vào Việt Nam, thúc đẩy sự giao lưu giữa hai nền văn hóa, tạo điều kiện

cho các tầng lớp nhân dân tiếp thu những tiến bộ của văn hóa phương Tây, làm

đa dạng, phong phú nền văn hóa dân tộc, “từ đó càng tăng thêm tinh thần yêu

nước, đấu tranh chống thực dân phong kiến giành độc lập dân tộc” [24, tr.415].

Trong bối cảnh đó, giới trí thức Việt Nam có sự phân hóa trong việc lựa

chọn giữ gìn giá trị tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc hay là đi theo trào

lưu văn hóa phương Tây. Nguyễn Đức Đạt đã đi theo con đường thứ nhất, luôn

trung thành với triều Nguyễn, cố gắng bảo vệ Nho giáo theo cách riêng của mình

và tác phẩm Nam Sơn tùng thoại ra đời cũng là một cách để ông thể hiện quan

điểm của mình về vấn đề trên.

Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, các trung tâm thành thị

như Thăng Long, Bến Nghé, Đà Nẵng, Gia Định… trở thành những nơi giao

lưu văn hóa mạnh mẽ nhất, nơi thể hiện một cách sâu sắc nhất những ảnh

hưởng của văn hóa phương Tây (nổi bật là văn hóa Pháp) vào nước ta. Cùng

với đó là sự xuất hiện của những tầng lớp dân cư xã hội mới như quan chức,

những người phục vụ chính quyền thực dân, những nhà tư sản mại bản… rất

quan tâm đến những hình thức văn hóa mới của phương Tây, bởi “điều kiện

sinh hoạt vật chất của họ dồi dào chừng nào thì lòng hâm mộ của họ đối với

văn hóa Tây phương càng nồng nàn chừng ấy” [1, tr.401]. Đồng thời, với mục

đích đào tạo ra một đội ngũ người Việt giúp ích cho việc cai trị của thực dân

Pháp, chúng đã mở hệ thống trường Pháp - Việt để dạy tiếng Pháp và chữ quốc

ngữ. Chính giai đoạn này, chữ quốc ngữ bắt đầu được hình thành. Ban đầu,

mục đích dạy chữ quốc ngữ của thực dân Pháp là dần thay thế chữ Hán, chữ

Nôm, cắt đứt sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc ở Việt Nam, chuẩn bị cho

công cuộc Pháp hóa người bản xứ. Nhưng chúng thật không ngờ rằng, sự xuất

hiện của loại hình chữ viết này đã được đông đảo dân chúng đón nhận và trở

45

thành một thứ vũ khí đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.

Nền giáo dục ở nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX cũng giống như

lĩnh vực văn hóa, có nhiều biến động do sự xâm lược của thực dân Pháp mang

đến. Ngoài nền giáo dục phong kiến đã có từ những triều đại trước đó, thì ở nước

ta lúc này còn tồn tại song song nền giáo dục Pháp - Việt. Chính sách giáo dục,

khoa cử của triều Nguyễn thời kỳ này vẫn luôn được duy trì (tuy mức độ có giảm

sút do phải chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm). Dù cho

xuất phát từ mục đích chính của nền giáo dục phong kiến là lựa chọn người tài

giỏi ra làm quan, giúp dân giúp nước, nội dung giáo dục của triều Nguyễn vẫn

còn mang tính giáo điều, lạc hậu, nhưng nền giáo dục ở thời kỳ này bắt đầu có

những cải cách đáng ghi nhận, đặc biệt là dưới thời Tự Đức. Chẳng hạn, việc vua

Tự Đức cho mở các lớp học ngoại ngữ hay cử người ra nước ngoài học các nghề

đóng tàu, đúc súng, khai mỏ, luyện kim, học tiếng… nhằm mục đích tiếp cận với

khoa học kỹ thuật phương Tây; ngoài trường lớp Nho học còn mở thêm các

trường dạy võ, nhà học thuốc…; quan tâm đến việc dịch sách phương Tây sang

chữ Hán và dạy chữ Pháp; mở rộng đối tượng học quan ra các miền biên ải và

các vùng dân tộc thiểu số “lấy giáo hóa làm việc đầu, mà đối với người Nùng,

Mán, các huyện, châu thì tổng giáo cũng chuẩn cho liệu đặt, dân mới cũng chuẩn

cho đi thi, tỏ giáo hóa dạy dỗ dân, vốn không chia rẽ…” [87, tr.157]. Sự thay đổi

này trong nền giáo dục khoa cử triều Nguyễn có nguyên nhân từ sự thâm nhập

văn minh thực dân Pháp, để nền giáo dục Việt Nam không bị đồng hóa theo

bước chân xâm lược của kẻ thù.

Kẻ thù xâm lược thực dân hiểu rằng muốn nhanh chóng biến Việt Nam trở

thành thuộc địa hoàn toàn của chúng thì biện pháp quan trọng là phải tìm cách

mị dân và đồng hóa văn hóa. Vì vậy, chính sách giáo dục của thực dân Pháp giai

đoạn này không nhằm nâng cao dân trí mà chúng lợi dụng nền giáo dục Nho

giáo để tạo ra một tầng lớp người biết phục tùng có thể dễ dàng sai bảo, giúp

việc đắc lực cho công cuộc bình định và cai trị lâu dài của chúng. Từ năm 1867,

46

sau khi chiếm xong Nam Kỳ, nhằm từng bước hạn chế và xóa bỏ nền giáo dục

phong kiến, thực dân Pháp tiến hành áp đặt nền giáo dục mới (giáo dục phương

Tây) vào Nam Kỳ; các trường dạy nghề, trường trung học phổ thông trong hệ

thống trường Pháp - Việt dần dần được mọc lên cùng với những quy chế nghiêm

ngặt về giáo dục. Với mục đích đào tạo ra các thông dịch viên, những người

phục vụ cho quân đội xâm lược và bộ máy cai trị của chúng, thực dân Pháp chỉ

chú trọng vào dạy tiếng Pháp trong các cấp học, chữ Hán và chữ quốc ngữ bị

chèn ép, coi nhẹ, chỉ được học đủ để biết đọc và biết viết. Thế nhưng, với một

nền văn hóa dân tộc lâu đời cùng lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,

tất cả những việc làm của thực dân Pháp trong những thập niên đầu của giai

đoạn nửa cuối thế kỷ XIX chưa thể đạt được mục tiêu đề ra, cũng “mới chỉ đào

tạo được một lực lượng trí thức dân tộc ít ỏi” [24, tr.408]. Trong khi đó, nền giáo

dục phong kiến với tư tưởng Nho giáo thống trị vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng

không nhỏ trong đời sống xã hội Việt Nam, làm cho sự đối kháng Đông - Tây về

văn hóa, văn minh thời gian này được bộc lộ rõ nét. Đây được coi là cơ sở cho

Nguyễn Đức Đạt tiếp tục bảo tồn tư tưởng giáo dục Nho giáo của mình. Tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt là một minh chứng rõ ràng của

việc bảo tồn tư tưởng Nho giáo nói trên.

* Về cơ cấu xã hội

Sự xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế,

chính trị, văn hóa xã hội nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX có nhiều thay đổi

và đương nhiên sẽ kéo theo sự biến đổi của cơ cấu xã hội Việt Nam với sự phân

hóa giai cấp sâu sắc: ngoài hai giai cấp chính trong xã hội phong kiến là địa chủ

và nông dân, trong cơ cấu xã hội Việt Nam lúc này còn xuất hiện những giai

tầng xã hội mới là công nhân, tư sản, tiểu tư sản thành thị. Nói cách khác, từ khi

Pháp tiến hành xâm lược nước ta, sự phân chia giai cấp theo kiểu phương Tây đã

dần thay thế cho sự phân chia cơ cấu xã hội của chế độ phong kiến theo tứ dân:

sĩ, nông, công, thương.

47

Kết cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam thời kỳ này có sự đan xen giữa

những giai cấp cũ (địa chủ phong kiến, nông dân) với những giai tầng xã hội mới

(sản phẩm của chế độ thực dân). Mỗi giai cấp và giai tầng xã hội lại có địa vị kinh

tế, thái độ chính trị khác nhau nên họ có vai trò và trạng thái tâm lý khác nhau.

Thứ nhất là giai cấp địa chủ phong kiến. Đây là giai cấp đã có từ trong chế

độ phong kiến, được triều Nguyễn hết sức coi trọng. Từ khi thực dân Pháp vào

Việt Nam, giai cấp này đã kết cấu chặt chẽ với thực dân Pháp, trở thành tay sai

của chúng trong công cuộc cai trị và đàn áp các cuộc khởi nghĩa của quân và dân

ta. Trở thành tay sai của thực dân Pháp, được chúng dung dưỡng và chia thêm

nhiều ruộng đất, vì thế luôn đứng về phía thực dân Pháp đàn áp, bóc lột nhân dân.

Thứ hai là giai cấp nông dân. Đây là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội

Việt Nam, chiếm tới 95% dân số Việt Nam. Giai cấp này không những bị địa

chủ phong kiến áp bức, bóc lột rất nặng nề mà từ khi thực dân Pháp vào Việt

Nam, họ còn bị cướp đoạt ruộng đất trầm trọng hơn nữa “người nông dân bị tước

đoạt đến tấc đất cuối cùng” [24, tr.397], cộng thêm với tình trạng sưu cao, thuế

nặng do chế độ thực dân đặt ra cũng như tình trạng thiên tai liên tiếp xảy ra làm

cho giai cấp nông ngày càng bị bần cùng hóa. Họ là lớp người chịu thiệt nhiều

nhất trong xã hội Việt Nam lúc này khi phải thường xuyên gánh chịu những tai

họa của tự nhiên cũng như những bất công của xã hội. Tình cảnh đó làm cho họ

ngày càng căm thù bọn thực dân và phong kiến tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân

với địa chủ phong kiến và thực dân ngày càng lớn dẫn đến những cuộc đấu tranh

của nông dân ngày càng sôi nổi, quyết liệt ở mọi vùng miền. Mặc dù những cuộc

đấu tranh này có những thất bại, phải chịu nhiều tổn thất nhưng bằng tinh thần yêu

nước quật cường, tha thiết với độc lập tự do, các phong trào đấu tranh của giai cấp

nông dân chống thực dân đế quốc, chống phong kiến không bao giờ ngưng.

Thứ ba là giai cấp công nhân. Khi thực dân Pháp đang trong quá trình đấu

tranh đặt ách đô hộ vào lãnh thổ Việt Nam, công nhân chưa trở thành giai cấp, họ

mới chỉ là một tầng lớp người làm thuê trong các công xưởng của thực dân và

48

trong những đồn điền rộng lớn (phải đến khi thực dân Pháp tiến hành công cuộc

khai thác thuộc địa lần thứ nhất thì công nhân mới trở thành một giai cấp theo

đúng nghĩa). Đa số những người trong tầng lớp này xuất thân từ giai cấp nông

dân, có quan hệ rất mật thiết với nông dân, họ là nạn nhân của chính sách cướp

đoạt ruộng đất, bị đế quốc thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, không

có tài sản trong tay, phải đi làm thuê trong các đồn điền và xí nghiệp công ty, vì

thế họ dễ dàng liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống thực dân, phong

kiến và nhanh chóng trưởng thành trong các phong trào đấu tranh cách mạng.

Thứ tư là tầng lớp những nhà tư sản. Ở giai đoạn này, tư sản chưa trở

thành giai cấp bởi số lượng các nhà tư sản rất hạn chế “trước khi thực dân Pháp

khai thác thuộc địa, phải nói rằng số người kinh doanh công thương nghiệp ở

Việt Nam là không nhiều” [24, tr.397]. Tầng lớp này bao gồm tư sản công

nghiệp, tư sản thương nghiệp..., họ là những người đứng ra kinh doanh riêng

biệt. Tuy nhiên thế lực kinh tế và địa vị chính trị của họ nhỏ bé và yếu ớt vì thế

trong quá trình phát triển, họ bị phân hóa thành hai thành phần: một số người đi

theo thực dân Pháp, tham gia vào công cuộc đàn áp và cai trị nhân dân (gọi là tư

sản mại bản) và một số người tham gia vào cơ quan chuyên môn cao, sau này

chính họ góp phần vào phát triển đất nước (gọi là tư sản dân tộc). Tầng lớp

người này còn nhỏ bé, kinh doanh lẻ tẻ trong một số ngành, vì thế, địa vị chính

trị của họ trong xã hội còn hạn chế. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận

những đóng góp của họ, đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, họ có vai trò

quan trọng trong việc truyền bá những tư tưởng mới vào Việt Nam.

Thứ năm là tầng lớp tiểu tư sản. Họ là những học sinh, trí thức, viên chức,

những người buôn bán nhỏ, làm nghề tự do... sống chủ yếu ở thành thị. Đời sống

vật chất của tầng lớp này có phần khá hơn các tầng lớp lao động khác nhưng

cũng rất bấp bênh và dễ bị phá sản, trở thành những người vô sản. Tầng lớp này

cũng thường xuyên bị đế quốc thực dân chèn ép cả về chuyên môn nghề nghiệp

và chính trị, đồng thời họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ

49

bên ngoài, vì vậy họ rất có tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường trong cuộc đấu

tranh với kẻ thù, được coi là đồng minh đáng tin cậy của giai cấp công nhân, đặc

biệt là giới trí thức và học sinh.

Có thể thấy, chính sách cai trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ

đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm

xuất hiện mâu thuẫn xã hội mới. Lúc này, trong xã hội Việt Nam bên cạnh mâu

thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ kiến, còn

có mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay

sai. Giải quyết hai mâu thuẫn này đòi hỏi phải có lực lượng lãnh đạo cách mạng

tiến bộ. Tuy thời kỳ này ở Việt Nam đã xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới

là công nhân và tư sản Việt Nam, nhưng do nhiều nguyên nhân họ chưa đủ điều

kiện để trở thành những giai cấp độc lập. Vì thế, họ chưa thể thực hiện được sứ

mệnh lịch sử là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với bối cảnh xã hội như

vậy thì rõ ràng vai trò của tầng lớp tiểu tư sản trí thức là rất lớn và quan trọng

trong việc tìm ra những biện pháp phù hợp để giải quyết tình trạng thực tiễn cấp

bách của dân tộc lúc này.

Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam giai đoạn này là thời kỳ có nhiều biến động

lớn do sự xâm lược của thực dân Pháp và những vấn đề xã hội phức tạp, vì thế

đã xuất hiện những mâu thuẫn mới về mặt tư tưởng. Những thành quả về thiết

lập vương triều trên nền tảng tư tưởng Nho giáo của các vị vua đầu triều như Gia

Long, Minh Mệnh đến thời Thiệu Trị dường như bị chững lại, trong khi đó thực

tiễn đời sống chính trị - xã hội và sự chuẩn bị cần thiết cho sự đối phó với âm

mưu xâm lược của phương Tây đang đòi hỏi triều đình phải có những sách lược

phù hợp. Trước tình cảnh nước nhà nguy khốn như vậy, đã thúc đẩy một số quan

lại và sĩ phu tiến bộ thức thời, mạnh dạn đưa nhiều đề nghị cải cách đổi mới các

mặt thuộc công việc: nội trị, ngoại giao, kinh tế, cũng như văn hóa, xã hội của

Nhà nước quân chủ. Trong số đó, phải kể đến những người như Trần Đình Túc,

Nguyễn Huy Tế, Đinh Văn Điền..., đáng chú ý hơn cả là các đề nghị cải cách của

50

Nguyễn Trường Tộ. Thực tế này làm cho xã hội Việt Nam xuất hiện thêm những

mâu thuẫn mới, đó là mâu thuẫn giữa những giá trị trong tư tưởng Nho giáo với

hiện thực xã hội Việt Nam nhiều bất công lúc đó; và mâu thuẫn giữa tư tưởng

cách tân với tư tưởng thủ cựu, bảo thủ trong xã hội lúc bấy giờ.

Giải quyết hai mâu thuẫn này có quan hệ mật thiết với nhau, bởi có duy

tân, cải cách thì mới tìm được con đường bảo vệ độc lập dân tộc, mới xóa bỏ

được những bất công trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến và muốn bảo vệ

được độc lập dân tộc trước sự xâm lược của thực dân đòi hỏi phải cách tân. Vào

lúc này, tuy một số nhà trí thức đã có những tư tưởng tiến bộ trong việc đề xuất

cải cách, canh tân đất nước. Nhưng do hạn chế lịch sử, những đề nghị cải cách

còn mang tính lẻ tẻ, chưa xuất phát từ những nội dung cơ bản của thời đại -

hướng đến giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội lúc bấy giờ (mâu thuẫn

giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và mâu thuẫn giữa giai cấp

nông dân với địa chủ phong kiến) nên chưa được sự ủng hộ của nhân dân và

triều đình nhà Nguyễn, dẫn đến mọi sự cải cách, canh tân đều bị khước từ hoặc

nếu có thực hiện sự cải cách cũng chỉ mang tính nửa vời. Còn các nho sĩ Việt

Nam giai đoạn này lại chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, cho

nên họ luôn nỗ lực biện minh cho tính hợp lý của Nho giáo Khổng - Mạnh đối

với xã hội đương thời; họ luôn bảo vệ nền cổ học hay Nho học mà sẵn sàng hòa

hoãn với thực dân Pháp và họ được coi là những nhà nho thủ cựu, trong đó có

Nguyễn Đức Đạt.

2.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Nguyễn Đức Đạt

2.2.1. Sự phục hưng Nho giáo vào đầu triều Nguyễn

Sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam luôn song hành với

quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng, đó là quá trình đan xen tồn tại của

nhiều luồng tư tưởng trong lịch sử, bao gồm tư tưởng văn hóa truyền thống bản

địa của người Việt, tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Đạo giáo,

Lão giáo và sự giao thoa của hai nền văn minh lớn Á - Âu. Lịch sử tư tưởng

51

Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX là thời kỳ tiêu biểu của quá trình tiếp

biến và chọn lọc văn hóa tư tưởng của nhân loại, cùng với văn hóa truyền thống

bản địa góp phần củng cố, xây dựng những giá trị truyền thống của dân tộc

Việt Nam từ ngàn đời nay.

Nho giáo được du nhập vào nước ta từ những thế kỷ đầu Công nguyên,

theo bước chân xâm lược của phong kiến Trung Hoa, ban đầu nó không được

đón nhận và ít có ảnh hưởng đối với xã hội, đối với nhân dân Việt Nam như Phật

giáo và Đạo giáo. Thế nhưng, Nho giáo là một học thuyết chú trọng vào việc xây

dựng bộ máy chính quyền, tổ chức cai trị và quản lý đất nước, được coi là công

cụ thống trị tinh thần hiệu quả nhất thông qua việc truyền bá những chỉ dụ của

vua và tuyên truyền của các nhà Nho. Vì thế, “từ thế kỷ XV trở đi, Nho giáo

được nhà nước Đại Việt đưa lên địa vị ngày càng cao, để cuối cùng chiếm địa vị

cao nhất trong Tam giáo (Nho - Phật - Đạo)” [107, tr.381]. Đến thế kỷ XVII,

XVIII với sự sùng bái Phật giáo của các vương triều Lê - Trịnh - Nguyễn, Nho

giáo dần mất địa vị độc tôn trong tư tưởng của triều đình và giới trí thức đương

thời. Sang thế kỷ XIX, sau khi triều Nguyễn lên nắm quyền cai trị đất nước,

nhằm thiết lập một chế độ quân chủ tập quyền chuyên chế để bảo vệ vương

quyền và trị nước, an dân, quản lý xã hội thì không thể có một hệ tư tưởng nào

đáp ứng được tốt hơn Nho giáo. Do đó, vào đầu triều Nguyễn, Nho giáo được

khôi phục trở thành quốc giáo và tiếp tục phát triển hơn thế kỷ XVII, XVIII.

Là một học thuyết chính trị - xã hội, Nho giáo không giống như các tôn

giáo khác (chú trọng giải quyết nhu cầu về tinh thần của con người) mà đi sâu

vào giáo dục con người trong cuộc sống hiện tại của họ. Những giáo lý hà khắc

của Nho giáo buộc người dân phải thực hiện một cách nghiêm ngặt và như thế sẽ

thực hiện được mục đích chính trị của triều Nguyễn là trị nước an dân, cột chặt

người dân vào vương triều, đồng thời củng cố được quyền lực của vương triều.

Với mục đích góp phần củng cố chế độ quân chủ tập quyền, Nho giáo

triều Nguyễn đã được nhà vua và giới nho sĩ khai thác nhiều nhất trên hai bình

52

diện: chính trị và đạo đức. Trên bình diện chính trị, tư tưởng Nho giáo thường

xuyên được các vua nhà Nguyễn nhắc tới để cắt nghĩa những công việc triều

chính và mọi hiện tượng xã hội, đồng thời cũng là để củng cố uy quyền tối

thượng của nhà vua, vì vua là con trời, thay trời trị dân. Trên bình diện đạo đức,

với thuyết tam cương ngũ thường khắc nghiệt của Nho giáo là nhằm biện hộ cho

quyền uy tối thượng của nhà vua, giúp nhà vua trị nước an dân, chú trọng đầu

tiên là trung, hiếu, tiết nghĩa.

Để củng cố vị trí thống trị của Nho giáo trên tất cả các mặt của đời sống

xã hội, các vua nhà Nguyễn rất có ý thức trong việc tạo cơ hội cho Nho giáo phát

triển bằng cách thực thi chính sách và giáo dục khoa cử, bởi thông qua giáo dục

khoa cử tư tưởng Nho giáo được truyền bá một cách rộng rãi và sâu sắc. Bản

thân các ông vua đều là những người có tri thức Nho học uyên thâm nên rất quan

tâm đến việc ra đề thi và chấm thi Nho học để chọn lựa được những nhân tài

thực sự cho đất nước. Chẳng hạn, vua Tự Đức đã dịch sách Luận ngữ sang chữ

Nôm với mục đích truyền bá tư tưởng Nho giáo vào trong dân chúng, hay là việc

“Tự Đức tự tay thảo ra chế sách (luận đề) và tự tay phê điểm các bài đối sách”

[95,tr.71], ông còn viết cuốn Đạo biện nhằm phê phán Thiên Chúa Giáo, đạo

Lão Trang, đề cao Nho giáo, hoặc là việc ông đã cho dịch Thập huấn điều của

Minh Mệnh ra chữ Nôm để cho dân dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hiểu và thực hành cho

đúng. Điều này chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của các vua nhà Nguyễn trong

việc truyền bá Nho giáo và đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn.

Để bảo vệ vị trí chính thống của Nho giáo, triều Nguyễn đã có những biện

pháp cụ thể với từng loại tôn giáo bằng nhiều chính sách cụ thể: “bế quan tỏa

cảng”; “cấm đạo” đối với Thiên Chúa Giáo (Minh Mệnh ban “Thập huấn điều”

để khuyên dân bỏ tà - Thiên Chúa Giáo, theo chính - Nho giáo); Tự Đức cấm

đạo khắp cả nước; hạn chế sự phát triển của Phật giáo bằng cách cấm xây dựng

các đền chùa mới, không có chế độ đãi ngộ đối với tăng ni, phật tử, sử dụng

những cách mị dân như: lập đàn chay, siêu độ, trùng tu chùa... với mục đích cuối

53

cùng là phục vụ cho sự ổn định của vương triều; luôn từ chối các nhân tố tư

tưởng mới, coi người phương Tây là “Tây di” và chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư

tưởng Hoa Hạ. Chính sự đề cao tuyệt đối của Nho giáo trong giai đoạn nửa đầu

thế kỷ XIX của nhà Nguyễn đã ảnh hưởng đến tất cả các mặt của đời sống xã hội

và làm cho đời sống tinh thần của nhân dân bị xáo trộn, đời sống tư tưởng trở

nên nghèo nàn hơn vì các yếu tố tư tưởng truyền thống bị suy giảm, Phật giáo,

Đạo giáo bị hạn chế.

Việc quá đề cao Nho giáo của triều đình nhà Nguyễn dẫn đến hệ quả tất

yếu là toàn bộ các tư tưởng về kinh tế, đối ngoại, giáo dục... ở Việt Nam đầu triều

Nguyễn đều bị ảnh hưởng. Đó là tư tưởng “trọng nông ức thương” coi trọng nông

nghiệp hạ thấp thương nghiệp, xếp thương nghiệp ở vị trí cuối cùng trong bảng

xếp hạng các ngành nghề “sĩ - nông - công - thương” xuất phát từ tư tưởng “dĩ

nông vi bản, dĩ thương vi mạt” của Nho giáo. Tư tưởng đối ngoại “bế quan tỏa

cảng”, cấm giao thương với các nước phương Tây, tự coi mình là “Hoa Hạ” sánh

vai cùng văn minh Trung Hoa, coi người phương Tây là “Tây di”. Tư tưởng giáo

dục trọng khoa bảng, mở trường học ở khắp nơi trên cả nước, thông qua việc thi

cử để chọn ra những nhân tài ra làm quan. Những tư tưởng độc tôn Nho giáo này

của triều Nguyễn vô hình chung đã tự hạn chế và ràng buộc mình trong giáo lý hà

khắc của Nho học, không chịu mở cửa lĩnh hội những thành tựu của nhân loại đã

dẫn đến sự bất lực của Nho giáo trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp.

Một vấn đề nữa cũng cần phải nói về Nho giáo triều Nguyễn, đó là ở giai

đoạn đầu thế kỷ XIX các nho sĩ Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn của Tống Nho

và Minh Nho với lối học thực dụng và giáo dục người dân bậc trung thành quân

tử. Trong đó, giới nho sĩ ở Nam Kỳ lại chịu ảnh hưởng của Minh Nho nhiều hơn

là Tống Nho, tức là chú trọng nhiều vào lối học thực hành (thực học) mà ít quan

tâm hơn đến thuyết lý. Tống Nho với lối học đi sâu vào lĩnh vực siêu hình học,

chú trọng tới phép tu tâm dưỡng tính để thành thánh nhân… đã có ảnh hưởng rất

lớn đến các nho sĩ Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Bằng lối học theo tinh thần Tống Nho,

54

các nho sĩ sẽ đáp ứng được yêu cầu của chế độ khoa cử triều Nguyễn và khả

năng đỗ đạt cao hơn hẳn nho sĩ Nam Kỳ. Tuy vậy, về phương diện chính trị - xã

hội, Nho giáo luôn được coi là nền tảng tư tưởng và công cụ trị nước, an dân cho

nên các nho sĩ thời kỳ này vẫn luôn tuân theo một khuôn mẫu truyền thống, sùng

thượng tư tưởng Nho giáo Khổng Mạnh, đặc biệt là tinh thần Nho giáo của

Khổng Tử, trong đó có Nguyễn Đức Đạt. Đây cũng chính là tiền đề có ảnh

hưởng đến tư tưởng Nho giáo của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn

tùng thoại khi ông bàn luận đến các vấn đề triết học, chính trị - đạo đức.

Như vậy, có thể nói, trong bối cảnh tư tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XIX, việc triều đình nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, sử dụng Nho

giáo với tư cách là hệ tư tưởng thống trị xã hội và cho dù Nho giáo đã trở thành

yếu tố cản trở lớn đối với sự phát triển của đất nước, nhưng chúng ta cũng không

thể phủ nhận Nho giáo đã góp phần tích cực vào ổn định xã hội và sản sinh ra

nhiều nhân tài phù hợp với thời đại, trong đó có Nguyễn Đức Đạt.

2.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với hệ tư tưởng triều

Nguyễn

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, tức là dựa trên nền tảng đạo

đức cá nhân và xã hội để thực hiện các mục đích chính trị trong bối cảnh xã hội

Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc hỗn loạn. Do đó, nội dung tư tưởng của

Nho giáo chủ yếu là các chuẩn mực đạo đức cá nhân và xã hội để thiết lập trật tự

xã hội và hướng tới xây dựng mô hình xã hội lý tưởng. Học thuyết này còn có nội

dung triết học khá sâu sắc về bản tính con người và đạo trị nước. Trải qua quá

trình lịch sử phát triển lâu dài trong điều kiện xã hội phong kiến Trung Quốc Cổ -

Trung đại có nhiều biến cố, đến thời kỳ Tống - Minh đã xuất hiện một nền học

thuật Nho học khá phát triển nhằm xây dựng một hệ tư tưởng dựa trên nền tảng

đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh để phục vụ cho mục đích thống trị xã hội.

Về thực chất, Tống - Minh Nho là sự tìm tòi cách đọc hiểu những nguyên

lý đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh. Trong quá trình phát triển của

55

nó, các yếu tố học thuật của Phật giáo và Đạo giáo (cả Đạo gia và Đạo giáo) đã

đóng vai trò không nhỏ mà nhiều khi các học giả thường sử dụng các khái niệm

Phật giáo hóa, Đạo giáo hóa Nho giáo. Đó là những vấn đề bản thể luận, nhận

thức luận, vấn đề về mối quan hệ giữa thể và dụng, v.v. Về phương diện đạo

đức, Nho học thời kỳ này chú trọng đến mối quan hệ “tứ thất” (tứ đoan và thất

tình), làm xuất hiện các khuynh hướng nghiên cứu khác nhau như Đạo học, Lý

học, Tâm học, Tống học, v.v. Tuy nhiên, các khuynh hướng này đều không vượt

ra ngoài mục tiêu cơ bản là đề cao những giá trị cốt lõi của học thuyết Khổng -

Mạnh, đồng thời đưa vị thế của Nho giáo lên địa vị thống trị về mặt hệ tư tưởng

để không tụt hậu, thua kém hai học thuyết còn lại về mặt học thuật.

Trải qua những biến cố lịch sử, từ sự du nhập khá sớm và nắm quyền

thống trị về mặt chính trị thời Bắc thuộc, sự giao lưu học thuật trong thời kỳ độc

lập của nước ta thời kỳ Trung thế kỷ, sự phát triển về mặt Nho học đã ít nhiều

ảnh hưởng đến nước ta qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu như Chu Văn An,

Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Ngô

Thì Sĩ, Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm và nhiều nhà nho khác. Tuy

nhiên, người Việt Nam chúng ta chủ yếu nắm bắt những nội dung cơ bản để ứng

dụng vào lĩnh vực xây dựng và bảo vệ tổ quốc, do đó, ảnh hưởng của Nho học

trên thực tế không làm xuất hiện các cuộc tranh luận mang tính chất luận chiến

để hình thành nên các học phái như ở một số nước trong khu vực chịu ảnh hưởng

của văn hóa Trung Hoa nói chung, Nho học nói riêng. Tuy nhiên, những vấn đề

của Nho học vẫn được các nhà tư tưởng tiêu biểu của nước ta sử dụng để lý giải

hiện thực đời sống xã hội và đặc biệt, trong lĩnh vực giáo dục, họ đã đưa vào

chương trình dạy học của mình để đào tạo các nhân tài cho đất nước, trong số đó

có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đức Đạt.

Đến giai đoạn triều Nguyễn, như chúng tôi đã đề cập ở trên, Nho giáo đã

có ảnh hưởng rất lớn đến sự định hình hệ tư tưởng của triều đại. Cũng chính

trong hệ tư tưởng này, những dấu ấn của Nho học thời Tống - Minh đã được thể

56

hiện khá rõ nét. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Nho học Trung Quốc đối với tiến

trình lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung, giai đoạn triều Nguyễn nói riêng,

được thể hiện trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực với những nội dung sau:

Thứ nhất, Nho giáo không thừa nhận vai trò sáng thế của Chúa trời, không

cho rằng chúa trời sinh ra vạn vật nhưng lại cho rằng, trời sinh tính và ban mệnh

cho con người. Những khái niệm âm, dương, ngũ hành, lý, khí… được coi là

những nhân tố đầu tiên của chủ nghĩa duy vật thô sơ. Đặc biệt, khi lý giải về mối

quan hệ giữa khí và lý, đã có một số nhà nho tiến rất gần tới quan niệm duy vật

luận khi cho rằng khí có trước và lý là quy luật tồn tại vận động của khí; vũ trụ,

vạn vật là tồn tại khách quan và vận động theo một quy luật nhất định, con người

muốn nắm được thế chủ động phải nắm được nó, vận dụng nó, cải tạo nó phải

trải qua quá trình học tập, tu dưỡng theo “bát điều mục” (Cách vật, trí tri, chính

tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Tuy nhiên, các nhà nho giai

đoạn sau, nhất là Hán Nho và Tống Nho không đi theo khuynh hướng duy vật

nói trên, họ lại cho lý là cái có trước khí, luôn tuyệt đối hóa sự tồn tại khách

quan của tự nhiên, biến nó thành cái “mệnh trời” rất ghê gớm, quyết định mọi

thứ trên đời, thậm chí thần thánh hóa “mệnh trời”, hoàn toàn chịu khuất phục

trước “số mệnh”. Họ cho rằng các vấn đề trong xã hội như trị loạn, thịnh suy,

bệnh tật, sang hèn… đều là do “mệnh trời” cả, có khi là sự tương ứng của một vì

sao trên trời với một người nào đó mà xuất hiện người làm vua, làm tướng hay

dân thường v.v. Những tư tưởng này đã ảnh hưởng đến quan điểm của các nhà

nho Việt Nam, trong đó có các nho sĩ triều Nguyễn như Tự Đức, Nguyễn Đức

Đạt, Nguyễn Công Trứ…

Thứ hai, nội dung giáo dục của Nho giáo chú trọng vào việc dạy cho con

người suy nghĩ và hành động theo những chuẩn mực nhất định. Nhà trường với

những sách kinh điển của đạo Nho được coi là khuôn mẫu hướng dẫn cho con

người về cách tư duy và hành động để con người có cách nhìn nhận sự vật xung

quanh bao gồm cả hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội. Kể cả khi gặp các

57

vấn đề về quốc tế dân sinh, Khổng Tử và các môn đệ của ông đều trở lại với quá

khứ xem Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vũ đã làm thế nào để giải quyết. Họ

thường lấy trích dẫn của kinh truyện làm cơ sở lý luận cho những quyết định đề

nghị về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa; lấy hành vi và lời nói của những bậc

minh quân, lương tướng ngày xưa làm tiêu chuẩn chân lý, bản thân Khổng Tử thì

luôn nhấn mạnh “ôn cố nhi tri tân”. Điều này, xét về mặt nguyên tắc thì không

có gì là sai: khi chúng ta vẫn phải học tập kế thừa những thành tựu tốt đẹp về

mọi mặt của người xưa, nhưng cái sai ở đây lại là sự tuyệt đối hóa kinh nghiệm

của người xưa, coi kinh nghiệm xưa là tuyệt đỉnh của chân lý, là mẫu mực không

thể vượt qua được. Bằng cách suy nghĩ thủ cựu này của Nho giáo làm cho sự

sáng tạo của loài người bị cắt cánh, không dám hơn xưa, luôn đẩy lùi con người

về quá khứ. Cái nếp suy nghĩ này đã thấm sâu vào trí thức và nhân dân Việt

Nam, nhất là những nhà nho chính thống như Nguyễn Đức Đạt.

Thứ ba, Nho giáo phát hiện và quy định khuôn phép cho nhiều mối quan

hệ xã hội sẵn có trong “tam cương”, “ngũ thường” như vua tôi, cha con, vợ

chồng, bạn bè, anh em, thầy trò. Đây được coi là những khuôn phép được hình

thành một cách tự nhiên trong cuộc sống của con người. Nhưng ở đây, Khổng

Tử và các môn đệ xuất sắc của đạo Nho đã cực đoan hóa những khuôn phép đã

định sẵn này trở thành nguyên tắc cứng nhắc, bắt buộc mọi người phải thực hiện

theo. Đặc biệt là những khuôn phép đối với phụ nữ như “tại gia tòng phụ, xuất

giá tòng phu, phu tử tòng tử” rất bất công. Tinh thần phân biệt đối xử với phụ nữ

của Nho giáo làm cho mọi hoạt động, mọi cương vị xã hội đều loại bỏ phụ nữ,

coi đàn bà là loại người luôn mang lại tai ương, làm bất cứ việc gì cần phải

tránh. Cũng từ những khuôn mẫu về các mối quan hệ trong xã hội này, Nho giáo

đã gây ra một tinh thần tôn ty, đẳng cấp quá khắt khe trong nhân dân với việc đề

cao, tuyệt đối hóa, cường điệu hóa nhà vua, những người có chức sắc trong triều,

còn dân thường chỉ là những hạ đẳng của xã hội. Ở Việt Nam, những khuôn

phép này trải qua hàng ngàn năm lịch sử vẫn luôn được thực hiện rập khuôn theo

58

nguyên tắc của Nho giáo. Khi phê phán, đánh giá thái độ và hành vi của mỗi

người trong mối quan hệ “tam cương”, “ngũ thường” luôn lấy cái “khuôn vàng

thước ngọc” của Nho giáo ra đo, ra ướm, từ đó mà khen hết lời hay chê hết mức.

Thứ tư, tư tưởng nhân nghĩa được Nho giáo hết sức chú trọng, coi nhân

nghĩa là nguyên tắc xử thế của mọi người. Theo Nho giáo, điều trái với nhân

nghĩa không phải chỉ là những việc hại đến tính mạng, tài sản, danh dự, tình cảm

của cá nhân mà còn xâm phạm đến độc lập, tự do của dân tộc. Vì vậy, mỗi người

khi định làm việc nhỏ, việc lớn cần cân nhắc xem có hại đến nhân nghĩa không,

luôn luôn đem nhân nghĩa ra làm tiêu chí để đánh giá phẩm chất của con người.

Tư tưởng này xuất phát từ quan điểm chính trị của Nho giáo về việc nhấn mạnh

“lễ trị”, “đức trị” bên cạnh “uy trị” và “pháp trị”. Lễ và pháp không trái nhau, lễ

là nội dung, mục đích của pháp, pháp là biện pháp để giữ lấy lễ, thậm chí còn là

sự luật pháp hóa các nguyên tắc đạo đức. Khổng Tử nhấn mạnh tới yếu tố “đức

trị” là muốn nói đến tính tự giác của việc thực hiện các tiêu chuẩn đạo đức, khác

với việc lấy hình phạt mà ép buộc người ta làm, không có tính tự giác. Bằng

quan điểm đạo đức, Nho giáo đã chủ trương không vì cầu sống mà hại nhân

nghĩa, càng không vì giàu sang, phú quý mà làm điều bất nhân, dám vì nhân

nghĩa, thậm chí vì chính nghĩa mà hi sinh cả mạng sống của mình. Chính tư

tưởng này của Nho giáo đã giúp nhiều người giữ vững khí tiết trong những

trường hợp nguy hiểm ác liệt nhất để lại tiếng thơm cho muôn đời. Tuy nhiên,

khi đã tuyệt đối hóa tác dụng của đạo đức, đẩy “nhân nghĩa” lên thành một biện

pháp quan trọng nhất để cải tạo xã hội (mà không thấy được cơ sở kinh tế của xã

hội quyết định tư tưởng, hành vi của con người) thì đó lại là nếp nghĩ sai lầm,

dẫn đến tình trạng nhiều người nhiệt tình khí phách có thừa nhưng không làm

được sự nghiệp gì đáng kể. Ở Việt Nam, tư tưởng nhân nghĩa này của Nho giáo

luôn được các văn sĩ trí thức lấy đó làm mục đích sống và hành động, dấy nghĩa

quân, lập lên nhiều chiến công lừng lẫy. Còn khi gặp lúc vận nước hiểm nghèo,

59

họ sẵn sàng coi cái chết nhẹ như lông hồng.

Như vậy, có thể thấy những điểm đậm nét mà Nho giáo đã in dấu ấn trong

lịch sử tư tưởng Việt Nam qua nhiều thế kỷ, bao gồm cả những mặt tích cực và

tiêu cực. Những ảnh hưởng này của Nho giáo được kết hợp với tinh thần yêu

nước, trí sáng tạo, tính cần cù của nhân dân ta, làm động lực cho nhân dân ta

giành được nhiều chiến thắng vang dội, làm cho Việt Nam ở nhiều thời kỳ trở

nên thịnh trị. Vì thế, có thể khẳng định, hệ tư tưởng Nho giáo luôn được coi là bộ

phận cốt lõi định hướng cho sự phát triển lịch sử tư tưởng Việt Nam, trong đó có

hệ tư tưởng của giai đoạn triều Nguyễn.

2.2.3. Ảnh hưởng của các học thuyết ngoài Nho giáo đầu triều Nguyễn

Ở Việt Nam, vào thời Nguyễn Đức Đạt đã có tới bốn học thuyết tôn giáo -

triết học được du nhập từ bên ngoài vào, đó là: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và

Ky Tô giáo. Với Phật giáo và Đạo giáo, ngay từ đầu đã được kết hợp với Nho

giáo trở thành “Tam giáo đồng nguyên” có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành

tư tưởng truyền thống dân tộc. Đặc biệt, ở giai đoạn đầu thế kỷ XIX, khi Nho

giáo được đưa lên địa vị độc tôn nhưng thái độ của các vua triều Nguyễn cũng

không tỏ ra hà khắc với Phật giáo và Đạo giáo, và cũng không tạo điều kiện để

tam giáo cùng nhau chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia. Còn

riêng đối với Ky Tô giáo, có lẽ xuất phát từ mục đích chính trị của triều Nguyễn

là muốn bảo vệ lợi ích của chế độ phong kiến, của hoàng tộc và độc tôn Nho

giáo, muốn giữ gìn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - tục lệ mà Ky Tô giáo phủ nhận,

mà các vua triều Nguyễn luôn luôn có thái độ kỳ thị với tôn giáo này dù cho

trước đó, họ đã nhận được sự ủng hộ rất lớn của Ky Tô giáo trong việc thiết lập

vương triều. Trong tác phẩm Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, giáo sư

Choi Byung Wook đã từng nhận xét về mối quan hệ giữa vua Minh Mạng với

Ky Tô giáo như sau: “Sự ác cảm của Minh Mạng với Ky Tô giáo xuất phát từ ba

mối lo ngại: Thứ nhất, ông muốn bảo vệ việc thờ cúng tổ tiên. Chắc hẳn, ông còn

nhớ đến thái độ của người anh cả mình (tức Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh - TG),

60

người mà sau một thời gian dài quan hệ với giáo sĩ Pháp, đã từ chối quỳ lạy

trước bài vị tổ tiên… Thứ hai, chính là một số điểm không hợp lý trong Kinh

cựu ước, mà theo quan điểm của ông, đã dựa trên quan điểm của Tân Nho giáo

nhấn mạnh đến nguyên nhân và kết quả. Thứ ba, là những thông tin sai lệch mà

ông nhận được và chấp nhận về người theo Ky Tô giáo…” [18, tr.61].

Phật giáo ngay từ khi hình thành đã nhanh chóng được truyền bá khắp nơi

và có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xã hội. Ở Việt Nam, Phật giáo được

truyền bá vào ngay từ đầu công nguyên.Trong quá trình du nhập và phát triển,

đạo Phật đã trải qua bao thăng trầm do nhiều nguyên nhân khác nhau, có lúc

thịnh lúc suy, có lúc phân tán lại có lúc thống nhất. Tuy nhiên, xét trên tổng thể,

Phật giáo đã trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống của người Việt, có ảnh

hưởng sâu sắc trên các mặt về đời sống tinh thần của người dân như đạo đức, tư

tưởng, lối sống... Từ khi du nhập vào nước ta đến nay, Phật giáo đã gắn bó chặt

chẽ với tín ngưỡng bản địa, dung hợp với Nho giáo và Đạo giáo để trở thành tín

ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng triết học Phật giáo được thể hiện trên hai bình diện: thế giới

quan và nhân sinh quan với quan niệm cho rằng, các sự vật và hiện tượng trong

vũ trụ vô cùng, vô tận (vô thuỷ, vô chung), luôn thường xuyên biến đổi liên tục

(vô thường). Sự biến đổi ấy là không ngừng: sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã

và diệt vong (thành, trụ, hoại, diệt) được tuân theo luật nhân quả thông qua

“duyên”. Từ đó, Phật giáo chỉ ra cơ sở của mọi sự biến đổi trong thế giới vạn vật

và cả của con người, đó là “Thập nhị nhân duyên” (mười hai quan hệ nhân

duyên): vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ hay lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ,

hữu, sinh, lão tử. Sự tan hợp, hợp tan của các duyên này làm nên sự phân hóa vô

cùng của vạn vật, thế nên sự tồn tại của vạn vật chỉ là tương đối trong dòng biến

hóa hư ảo,vô thường mà thôi. Thế giới của con người cũng do sự kết hợp của

nhân duyên với hai thành phần thể xác (“sắc”) và tinh thần (“danh”) tương ứng

với năm yếu tố (ngũ uẩn): Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức. Sự biến hóa không

61

ngừng nghỉ của ngũ uẩn làm cho con người cũng như mọi sinh vật biến ảo vô

thường, vô định, không có cái tôi. Con người không nhận thức được điều này sẽ

dẫn đến lầm tưởng về sự tồn tại mãi mãi nên cứ khát khao, tham dục, mong

muốn, thế nên con người đã gây ra nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên. Vì

vậy, Phật giáo chủ trương tìm con đường giải thoát bằng sự kiên định để thực

hiện “Bát chính đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ”, chỉ có như vậy thì con người mới

có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ.

Ở Việt Nam, Phật giáo rất gần gũi và dễ hòa hợp với tín ngưỡng dân gian

của người Việt, có nhiều điểm giống nhau trong tín ngưỡng Việt Nam và đạo

Phật. Nếu tín ngưỡng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam là thờ cúng tổ

tiên, thờ thần thì với Phật giáo, thờ Phật hay Quan âm cũng được coi là tổ tiên, là

một vị thần có thể phù hộ độ trì cho chúng sinh. Ông Bụt trong tín ngưỡng dân

gian cũng rất giống Đức Phật trong Phật giáo, đều rất gần gũi với người dân, có

lòng từ bi, bác ái, vị tha, có lòng nhân đạo cao cả. Đồng thời, Phật giáo còn thể

hiện sự gần gũi với tín ngưỡng dân gian khi nó ăn sâu bám rễ vào làng xã với

những hoạt động hội hè và kết hợp với tín ngưỡng bản địa tạo nên sự phong phú

của nên văn hóa dân tộc. Mỗi làng đều có chùa, mỗi ngôi chùa ngoài thờ Phật

còn thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Hội chùa cũng giống như

hội làng, được tổ chức thường xuyên và mọi người dân đều hồ hởi tham gia, có

cơ hội giao lưu thể hiện tình cảm, hồn nhiên hòa bản thân mình vào làng xã,

không bị gò bó bởi những khuôn phép và luật lệ. Ngôi chùa còn là nơi để mọi

người tụ họp, giao lưu, trở thành một trung tâm văn hóa làng. Chính điều này đã

dẫn đến sức sống lâu bền của Phật giáo trong đời sống nhân dân Việt Nam, cho

dù có lúc thịnh vượng (thời Lý - Trần) hay lúc bị giảm sút thì Phật giáo vẫn được

duy trì và mở rộng ở các làng xã nông thôn. Ở thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn độc

tôn Nho giáo thì các chính sách đối với Phật giáo sẽ trở lên nghiêm ngặt hơn

nhằm hạn chế sự phát triển của Phật giáo. Với chủ trương thu hẹp sự ảnh hưởng

của Phật giáo đối với đời sống nhân dân, triều đình đã có nhiều biện pháp quản

62

lý Phật giáo như: tăng cường giám sát nhà sư, giảm xây chùa, đúc tượng, hạn chế

lượng người theo đạo Phật… Tuy nhiên, không phải đời vua nào của triều

Nguyễn cũng xa lánh Phật giáo mà có những nhà vua rất gần gũi với đạo Phật,

tin sùng Phật như Minh Mệnh và Thiệu Trị. Vì thế, dưới triều Nguyễn, hàng loạt

các chùa tháp được phục chế, sửa chữa và xây mới ở cả miền Bắc, miền Trung

và miền Nam góp phần quan trọng vào sự phát triển lâu dài của Phật giáo: “Ở

ngoài Bắc, các chùa Dâu, Bút Tháp, Phật Tích, Vĩnh Nghiêm, Keo, Sài Sơn, Tây

Phương, v.v… đều được phục chế và sửa chữa. Ở miền Trung, đặc biệt là Kinh

đô Huế, hàng loạt chùa tháp được xây dựng rất khang trang, vừa mang sắc thái

của văn hóa Việt cổ, vừa đượm sắc thái của văn hóa Chăm, tạo nên những phong

cách kiến trúc mới mẻ. Ở miền Nam, thì chùa tháp được xây dựng thời kỳ này

tiếp thu được nhiều nét của kiến trúc Đông Nam Á” [107, tr.521]

Đạo giáo du nhập vào nước ta cùng thời với Nho giáo, khoảng thế kỷ thứ

II sau công nguyên. Tư tưởng của Đạo giáo được thể hiện trong quan niệm về vũ

trụ, vạn vật, về nhân sinh và lý vô vi. Đạo giáo cho rằng trước khi vũ trụ thành

hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi

là Đạo. Đạo biến hóa ra Âm Dương, Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ

và vạn vật. Vạn vật được hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi

cuối cùng tan rã để trở về trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn

gốc của nó là Đạo. Nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra và cuối

cùng thì trở về Đạo, hòa vào Đạo. Việc sống hay chết của con người là một việc

phục tùng theo lẽ tự nhiên nhất định. Do đó, con người và vạn vật muốn hòa vào

Đạo thì theo lý “vô vi” (Lão Tử), tức là không làm gì thái quá, hòa nhập với tự

nhiên, tôn trọng tự nhiên. “Vô vi” theo Lão Tử là con người hãy sống hòa mình

với tự nhiên, biểu hiện trong xã hội là hãy đừng tranh giành với người khác và

cưỡng chế, áp đặt nhau. Về sau, Trang Tử tiếp tục phát triển quan điểm của Lão

Tử, đẩy nó lên tới mức cực đoan trở thành nên thoát thế tục và quay về với xã

hội nguyên thủy. Như vậy có thể nói, với chủ trương vô vi của Lão Tử, sau này

63

được Trang Tử bổ sung thêm chất duy tâm đã làm cho Đạo giáo mang tinh thần

tích cực: phê phán sự áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị trong xã hội là không

hợp lẽ tự nhiên, không thuận theo tự nhiên.

Khi du nhập vào Việt Nam, Đạo giáo được nhân dân ta tiếp nhận theo tinh

thần biến đổi cho phù hợp với tín ngưỡng bản địa, vì thế, dưới mọi triều đại

phong kiến Đạo giáo vẫn rất hưng thịnh và được hòa nhập với các tôn giáo khác

trong đời sống xã hội Việt Nam. Biểu hiện ở chỗ, khi Phật giáo trở thành quốc

giáo thì nhà sư vừa kiêm pháp, ban bùa chú, vừa kiêm nhà phương thuật, yểm tà

ma; trong chùa không chỉ có tượng Phật mà còn có cả tượng Thánh. Khi Nho

giáo trở thành quốc giáo, Đạo giáo cũng không trở lên thù địch đối lập với Nho

giáo, các vua quan triều đình cũng như trong dân gian vẫn tin dùng bói toán, xem

đất, thờ mẫu… Vì thế, các nhà tư tưởng Việt Nam dù theo một học thuyết, tôn

giáo nhất định nhưng vẫn có thói quen trong nếp sống, suy nghĩ và tư tưởng thể

hiện sự dung hợp các tôn giáo, trong đó có Nguyễn Đức Đạt.

Có thể nói, hiện tượng tam giáo hội nhập ở Việt Nam là một minh chứng

rõ nét cho sự tồn tại phức hợp các tín ngưỡng tôn giáo của người Việt Nam, tạo

nên nét đặc sắc trong văn hóa dân tộc. Cho dù có tồn tại nhiều giáo lý của các

đạo khác nhau nhưng người dân Việt Nam luôn chỉ hướng đến và quan tâm tới

những giá trị đạo đức và nhân sinh có ý nghĩa, phù hợp với phong tục tập quán

và nhu cầu của dân tộc mình để tiếp nhận và tạo nên một truyền thống văn hóa

đa dạng phong phú của mình. Nguyễn Đức Đạt là một nhà tư tưởng sống và hoạt

động trong thời kỳ Nho giáo được phục hưng và trở thành quốc giáo, vì thế xét

trên phương diện học thuật, tư tưởng của ông trong tác phẩm Nam Sơn tùng

thoại cũng chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo về bản thể luận thế giới,

64

về nhận thức luận, về thiền học, trong đó có học thuyết về Tính.

2.3. Vài nét khái quát về thân thế, sự nghiệp Nguyễn Đức Đạt và tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại

2.3.1. Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đức Đạt

Nguyễn Đức Đạt sinh trưởng và hoạt động ở thế kỷ XIX, viết về tiểu sử

của ông hầu hết các tác giả đều dựa vào tư liệu sử học Quốc triều Đăng Khoa

Lục, quyển nhì, biên tập viên Cao Xuân Dục, dịch giả Lê Mạnh Liêu của Trung

tâm học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, mà cho rằng: Nguyễn Đức

Đạt sinh năm Giáp Thân (1824) tại xã Nam Đồng, tổng Trung Cần, huyện Thanh

Chương, tỉnh Nghệ An [27, tr.127]. Còn theo Tự thuật (trong Khả Am văn tập)

của Nguyễn Đức Đạt, ông sinh năm Ất Dậu (1825) và mất năm Đinh Hợi (1887),

nhưng trong bản khai lý lịch đi thi, lý trưởng bản xã ghi nhầm là sinh năm Giáp

Thân (1824) [97, tr.842]. Như vậy, cho dù xác định năm sinh nào thì chúng ta

vẫn có thể khẳng định rằng: ông sinh ra ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ và qua đời

trong nửa cuối thế kỷ XIX - giai đoạn lịch sử có nhiều biến động với việc đất

nước bị đế quốc thực dân xâm lược.

Nguyễn Đức Đạt được sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu

học và khoa bảng “Nguyễn Đức Đạt là con của Nguyễn Đức Hiển, đỗ Hương

cống khoa Kỷ Mão (1819); anh của Nguyễn Đức Huy, đỗ Cử nhân khoa Giáp

Tý (1864); anh họ của Nguyễn Đức Quý, đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Thân

(1884); cha của Nguyễn Đức Đảng, đỗ Cử nhân khoa Nhâm Ngọ (1882)” [28,

tr.113, 142, 267, 363, 431, 468]. Vì vậy, việc Nguyễn Đức Đạt sớm tiếp xúc

với những tri thức Nho học và quyết tâm học tập, đỗ đạt thành tài cũng là điều

dễ hiểu đối với ông.

Từ thuở nhỏ, Nguyễn Đức Đạt đã được cha dạy học, đến năm 19 tuổi mới

bắt đầu phải đi học xa nhà. Vì thế, tư tưởng giáo dục Nho giáo sớm được hấp thụ

vào con người ông, nó được ăn sâu bám rễ từ khi ông còn bé và trở thành một bộ

65

phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của ông.

Nghệ An - quê hương Nguyễn Đức Đạt nổi tiếng là địa danh có truyền

thống hiếu học, yêu lao động, cần cù chịu khó và ý chí phấn đấu cao. Mảnh đất

này từ bao đời đã được coi là “địa linh nhân kiệt”, được biết đến bởi những

thành tích đạt được trên con đường khoa cử và trong lịch sử đấu tranh dựng xây

đất nước. Chính nơi đây đã sản sinh ra những người con ưu tú của đất nước,

những nhân vật lịch sử kiệt xuất như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng

Dung... Sách “Nam Đàn - Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh” của tác giả Ninh

Viết Giao và Trần Thanh Tâm viết: “Ở Nam Đàn, kỳ tích lồng trong thắng cảnh.

Kỳ tích làm cho thắng cảnh lung linh, sinh động, thêm gắn bó lòng người. Thắng

cảnh làm cho kỳ tích sống mãi với thế gian, với đất trời vạn thuở dù xã hội có

đổi thay. Và tất cả kỳ tích thắng cảnh đều đưa chúng ta nghĩ đến những người

con ưu tú, vĩ đại của đất nước, quê hương. Đó là niềm tự hào chính đáng mà

không phải đâu cũng có, thời gian nào cũng có” [36, tr.56-57].

Bản thân Nguyễn Đức Đạt là người có tư chất thông minh, nhanh nhạy, học

giỏi. Năm 23 tuổi (1847), ông thi đậu Cử nhân ở trường Nghệ An. Đầu đời vua Tự

Đức, ông vào kinh thi Hội, đến khoa Quý Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853) ông

đỗ Thám hoa (năm 29 tuổi) cùng với một người cùng quê khác là Nguyễn Văn

Giao. Sự kiện trong một khoa thi ở cùng một vùng quê có “Song Nguyên” là điều

rất hiếm có trong lịch sử, làm nức lòng người dân xứ Nghệ, là niềm tự hào của gia

đình, dòng tộc và góp phần tô thắm thêm truyền thống quê hương.

Bắt đầu sự nghiệp làm quan của Nguyễn Đức Đạt là việc ông được bổ

chức Thị giảng ở Viện Tập Hiền, làm việc ở kinh đô Huế ngay sau khi kỳ thi kết

thúc với kết quả cao. Trong thời gian làm việc ở đây, ông bị đau ốm thường

xuyên nên đến tháng 10 năm 1856, ông phải xin về quê dưỡng bệnh. Sau khi sức

khỏe ổn định, ông quay trở lại Kinh đô làm việc vào đầu năm Canh Thân (1860),

lúc này ông được thăng chức Cấp Sự Trung.

Làm việc đến năm 1863, ông tiếp tục được thăng chức và cử đi nhậm

66

chức Đốc học Hà Nội. Trên đường đi nhậm chức, ông ghé thăm quê nhà và gặp

Tổng đốc Nghệ An lúc đó là Vũ Trọng Bình, người vô cùng mến mộ tài đức của

ông nên đã mời ông ở lại rồi xin triều đình bổ nhiệm ông làm Đốc học Nghệ An.

Vì muốn được ở gần thăm nom phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi đã già nên ông

đồng ý ở lại quê nhà giữ chức Đốc học Nghệ An. Làm việc tại đây được 2 năm

thì đến năm 1865 có chiếu triệu ông về Kinh đô và được thăng chức Chưởng ấn

ngự sử ở Đô sát viện. Ông giữ chức này chưa đầy nửa năm thì thân phụ ông mất

(8/1865), ông xin phép về quê chịu tang. Không bao lâu sau, mẹ ông cũng qua

đời ngay, vì vậy ông đã xin nghỉ việc quan trường để ở nhà chịu tang, lo việc thờ

phụng mẹ cha.

Trong thời gian cư tang, từ năm 1866 đến năm 1869, ông bắt đầu nhận

dạy học cho các học trò ở quê nhà. Lúc đầu, ông đến dạy ở làng Hương Vân, sau

đó số lượng học trò tới xin học ngày càng đông. Cảm mến con người và tài năng

của ông, dân làng Lãng Đông (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh

Nghệ An) đã dựng hẳn một ngôi trường đón ông về dạy học ở đây.

Hết thời gian cư tang cha mẹ (3 năm), mùa đông năm Kỷ Tị (1869), theo

lời Tỉnh thần (Tổng đốc Nghệ An) tâu về, triều đình lại cử ông làm Đốc học

Nghệ An lần thứ hai. Sau đó, ông tiếp tục được bổ làm quyền Án sát tỉnh Thanh

Hóa (cuối năm 1871). Giữ chức mới ở Thanh Hóa không bao lâu, khoảng tháng

8 năm Nhâm dần 1872, ông lại được triệu trở lại chức vụ Đốc học Nghệ An (lần

thứ 3). Tuy nhiên, khi về Nghệ An giữ chức cũ chưa đầy 10 ngày, ông lại được

thăng chức và điều đi Hưng Yên giữ chức Bố chánh sứ kiêm chức Tuần phủ

tỉnh Hưng Yên.

Có thể nói, ở chặng đường đầu làm quan, Nguyễn Đức Đạt từng giữ nhiều

chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước đương thời. Tuy nhiên, do bệnh tật

đau ốm và cha mẹ mất, con đường làm quan của ông bị gián đoạn nhiều lần,

trong đó có đến ba lần ông được giao giữ chức Đốc học Nghệ An.

Tháng 9 năm 1872, Nguyễn Đức Đạt đến Hưng Yên làm việc với chức Bố

67

chánh sứ kiêm chức Tuần phủ. Tại đây, bằng tài năng và tâm huyết của mình,

với tư cách là người đứng đầu, ông tìm cách đối phó với quân Pháp đang ráo riết

chuẩn bị đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất để Hưng Yên không bị thất thủ, người

dân nơi đây được yên ổn làm ăn. Kết quả là “Năm Tự Đức thứ 26 (1873) các

tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình thất thủ, riêng Hưng Yên sát bên

cạnh vẫn giữ được” [28, tr.267], ông được vua Tự Đức khen và cho chính thức

giữ chức Tuần phủ Hưng Yên.

Tuy nhiên, vào tháng Giêng năm 1876, trước những hành động khiêu

khích của thực dân Pháp nhằm xâm chiếm trên toàn bộ lãnh thổ Bắc Kỳ, nhiệm

vụ đặt ra với Nguyễn Đức Đạt hết sức nặng nề. Ông một mặt phải lo giữ cho

Hưng Yên được yên ổn trước sự nhòm ngó của thực dân Pháp, mặt khác phải lo

chống nạn thủy tai do hệ thống đê điều bị hư hỏng, mà triều đình lại đặt ra chính

sách thuế mới làm hao tổn sức dân, đời sống nhân dân khổ cực. Chính vì thế mà

Nguyễn Đức Đạt đã dâng tờ sớ xin hoãn thuế cho dân mong giảm bớt gánh nặng

cùng lúc của nhân dân. Việc làm này của ông không những không được chấp

nhận mà còn bị vua Tự Đức khiển trách, giáng cấp dù vẫn cho lưu chức. Thế

nhưng, với tư cách một vị quan, đồng thời là một nhà nho đã đem bao tâm huyết

và tài năng giúp triều đình, lo cho nhân dân mà bị giáng cấp, lòng tự trọng không

cho phép ông tiếp tục sự nghiệp quan trường, ông lấy cớ ốm đau xin cáo quan về

ở ẩn và tiếp tục sự nghiệp dạy học vào tháng 3 năm 1876. Từ đó, con đường làm

quan của Nguyễn Đức Đạt tiếp tục bị gián đoạn với thời gian khá dài (cho đến

năm 1885 khi vua Hàm Nghi gửi chiếu chỉ giao cho ông làm Tổng đốc sở lỵ).

Cảm tạ tấm lòng và sự nhiệt huyết với học trò của ông, giữa năm 1877,

học trò cùng dân làng Hoành Sơn góp công sức, của cải dựng cho ông một gian

nhà và một ngôi trường mang tên trường Đông Sơn hay còn gọi là trường Nam

Sơn để ông sinh sống và dạy học. Trong suốt 7 năm (1877- 1883), ông chuyên

tâm vào công việc dạy học và viết sách. Chính thời gian này, thành tựu trên lĩnh

vực giáo dục của ông được thể hiện rõ nhất với việc đào tạo ra nhiều học trò giỏi

68

và : “Bình sinh tính điềm đạm, chỉ lấy việc viết sách dạy học làm vui. Học trò

nhiều người thi đậu Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, Tú tài” [28, tr.267]. Những tác

phẩm được ông viết trong thời gian này rất nhiều (có sách được in, có sách chưa

được in), tiêu biểu là các trước tác sau: “Nam Sơn song khóa, Nam Sơn tùng

thoại, Hồ dạng thi, Vịnh sử thi, Việt sử thặng bình, Cần kiệm vựng biên, Khảo cổ

ức thuyết đã được lưu hành ở đời” [28, tr.267].

Khi phong trào Cần Vương bùng nổ (1885), Nguyễn Đức Đạt nhận được

chiếu chỉ của vua Hàm Nghi bổ làm Lại bộ Thượng Thư kiêm An Tĩnh Tổng đốc

lỵ sở . Với chức này, ông có nhiệm vụ thuyết phục và tập hợp thân hào các nơi đi

theo phong trào Cần Vương. Lúc này, tuy tuổi đã cao, sức đã yếu nhưng ông vẫn

nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương của vua Hàm Nghi và đã cùng

nhiều người có chung chí hướng tập hợp nghĩa quân tham gia phong trào khởi

nghĩa. Thế nhưng, phong trào Cần Vương ở những buổi đầu còn chưa tập hợp

được đông đủ nhân dân tham gia nên các khởi nghĩa đã bị thất bại. Lúc này,

Nguyễn Đức Đạt vì già yếu không thể tiếp tục tham gia phong trào nên đành cải

trang thành người mù đến lánh ở chùa Đông Sơn. Tại làng Hoành Sơn, trường

học Nam Sơn và nhà ở của ông đã bị giặc đốt phá trở thành đống tro tàn. Đầu

năm 1886, giặc tạm lắng việc lùng quét tìm người tham gia khởi nghĩa, Nguyễn

Đức Đạt trở về quê nhà nhưng ở đó chỉ còn sót lại đống tàn tro. Do tuổi cao sức

yếu, ông mất vào ngày mùng 1 tháng 2 năm 1887, thọ 63 tuổi.

* Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đức Đạt

Trong thời gian làm quan bị gián đoạn, Nguyễn Đức Đạt luôn tìm niềm

vui trong đọc sách thánh hiền và truyền dạy cho các học trò của mình những yếu

chỉ của Nho giáo. Ngoài thời gian dạy học, ông lại tập trung viết sách. Các tác

phẩm của Nguyễn Đức Đạt được viết về nhiều lĩnh vực với những nội dung khác

nhau. Trong đó phải kể đến các tác phẩm tiêu biểu là:

1. Bản điều trần về việc đê điều: nằm trong Điều trần đê chính sự nghi tập

(Điều trần đê chính sự nghi thỉnh hưu vựng tập).

69

2. Cần kiệm vựng biên (1870). Gồm những lời dạy của người xưa qua các

sách Kinh, Sử, Tử, Tập về cần, kiệm có kèm theo lời bình luận của người biên tập.

Sách chia làm 10 mục, theo 10 chủ điểm khác nhau: 1. Huấn cần (lời dạy về

chuyên cần); 2. Cần chính (siêng năng trong việc trị nước); 3. Cần chức (siêng

năng trong chức vụ); 4. Cần học (siêng năng trong học tập): 5. Cần nghiệp (siêng

năng trong nghề nghiệp); 6. Huấn kiệm (lời dạy về tiết kiệm); 7. Chủ kiệm (sự tiết

kiệm của người làm vua); 8. Phụ kiệm (sự tiết kiệm của quan lại); 9. Nho kiệm (sự

tiết kiệm của người trí thức); 10. Tập kiệm (rèn luyện sự giản dị, tiết kiệm).

3. Hồ dạng thi tập (1881). Gồm 444 bài thơ tập cổ (dùng các câu thơ cổ

chắp thành bài thơ mới), gồm các bài tức sự (đỗ Tiến sĩ, vào chầu vua...), vịnh

thiên nhiên (sương, gió, xuân, trăng thu, đêm hè, cuối đông...), vịnh phong cảnh

(bản làng trong núi, buổi chiều bên sông...), cảm tác (qua nhà bạn đã mất, mất

ngủ, nhớ nhà...) và các bài tự thuật, tạp hứng, tạp vịnh, mừng tặng, tạp thi...

4. Khả Am văn tập: Thơ văn Nguyễn Đức Đạt gồm: Phú (nghề đánh cá,

giải thích chữ "nhẫn"...), Kí (nghề kiếm củi, việc sửa chữa đền miếu, khai bút);

Thuyết (vỏ quýt chữa bệnh, việc sửa chữa đền miếu, khai bút); Văn tế (tế mẹ

thầy học, cầu thi đỗ...), Hành trạng Thượng thư Hồ Trọng Đĩnh; Trướng (mừng

thọ, mừng thi đỗ, mừng được phong tặng, viếng tang...); Biểu tạ ơn vua phong

tặng cho cha mẹ, mừng vua lên ngôi)

5. Khảo cổ ức thuyết (1877) Gồm những bài khảo cứu về các nhân vật

quan trọng, các sự kiện lịch sử lớn của Trung Quốc (từ Thượng cổ đến đời

Minh) và của Việt Nam, như Nghiêu nhường thiên hạ; tiệc Hồng Môn; Ngũ Hồ

làm loạn triều Tấn; Kinh Dương Vương là thủy tổ của 5 loại người Việt; Lê Thái

Tổ giành lại được đất nước; Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa; tài lược của Lê

Thánh Tông…

6. Nam Sơn di thảo: Thơ văn của Nguyễn Đức Đạt, gồm trướng (mừng

thọ, mừng thi đỗ, mừng thăng quan, viếng tang...), ký (nhà thờ, đình), biểu (tạ

ơn...); phú (vịnh hoa cỏ, trúc...); khải (ca ngợi công đức...); 150 bài thơ (tự thuật,

70

tả cảnh sông núi, tiễn tặng bạn bè...).

7. Nam Sơn song khóa chế nghĩa: Gồm 117 bài chế nghĩa do Nguyễn Đức

Đạt soạn, dùng làm mẫu cho người tập làm văn thi cử, đề tài lấy trong Kinh,

Truyện...

8. Nam Sơn song khóa phú tuyển: Các bài phú do Nguyễn Đức Đạt soạn,

dùng làm mẫu cho người tập làm văn thi cử, đề tài là thành ngữ, cảnh thiên

nhiên, nhân vật lịch sử trong các sách kinh điển Trung quốc.

9. Nam Sơn tùng thoại (1880) Gồm những bài giảng về học vấn, đức độ,

lễ nhạc, đạo làm vua, khảo sát, sự vật …

10. Việt sử thặng bình (1881) Các sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt

Nam từ Kinh Dương Vương đến nhà Tây Sơn trình bày dưới hình thức vấn đáp.

11. Vịnh sử thi tập (1883) Gồm 570 bài thơ vịnh 225 nhân vật lịch sử

Trung Quốc: Phục Hi, Mô Mẫu (tên một người đàn bà xấu xí thời cổ), Đế

Nghiêu, Đế Thuấn, Hạ Vũ, Đế Khải, Hằng Nga, Thiếu Khang, Thương Thang,

Vũ Đinh, Đát Kỉ, Y Doãn, Tỉ Can, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương, Vũ Canh,

Thành Vương, Khang Vương, Tiết Đạo Hành, Nghiêu Quân Tố, Mộc Lan (tập

Thượng); Đường Cao Tổ, Đường Thái Tông, Chu Khảo Đình, Mạnh Tử (tập

Hạ)... Mỗi bài thơ đều có tiểu sử nhânvật.

12. Vĩnh quốc từ bi (1853) Ca ngợi Nguyễn Hữu Độ, Nguyên là Khâm sai

đại diện cho triều Nguyễn để điều đình với Pháp ở ngoài Bắc. Khi chết dân lập

bia để kỷ niệm, đồng thời lập đền thờ tại phố Sinh Từ để thờ.

Những sáng tác này của Nguyễn Đức Đạt cho đến nay đã bị thất lạc rất

nhiều, chỉ có duy nhất tác phẩm Nam Sơn tùng thoại là đã được dịch sang Tiếng

Việt nhưng cũng vẫn chưa được xuất bản và một số cuốn còn được lưu dưới hình

thức khắc in chưa được dịch ra Tiếng Việt tại thư viện Viện Hán Nôm như Khả

Am văn tập (2 bản), Cần kiệm vựng biên (4 bản), Nam Sơn di thảo (1 bản), Nam

Sơn song khóa chế nghĩa (1 bản), Việt sử thặng bình (3 bản).

Như vậy, thời gian làm quan của Nguyễn Đức Đạt không dài và thường

71

xuyên bị gián đoạn vì nhiều lý do khác nhau, nhưng dù ở cương vị nào ông cũng

luôn thể hiện lương tâm và trách nhiệm của một viên quan đối với triều đình và

ông tin vào sự nghiệp chống giặc cứu nước của nhân dân. Quá trình hoạt động

nhà nước và tham gia dạy học đã giúp cho Nguyễn Đức Đạt có được môi trường,

điều kiện để ông vận dụng quan điểm của mình theo lập trường Nho giáo vào

hoạt động thực tiễn. Ngoài ra, chính trong quá trình dạy học, ông đã nhận thấy

những giá trị của Nho giáo, đặc biệt là học thuyết đạo đức của Nho giáo cần

được các thế hệ học trò tiếp nhận và vận dụng vào việc vun đắp đạo làm người.

Với khát vọng rèn luyện đạo đức cho con người, đào tạo những người có tài, có

đức để xây dựng đất nước đã hình thành ở ông tư tưởng về nhiều nội dung Nho

giáo phong phú và đặc sắc.

2.3.2. Tác phẩm “Nam Sơn tùng thoại”

Về thời gian ra đời, tác phẩm Nam Sơn tùng thoại là một trước tác Nho

học đồ sộ, được ra đời trong giai đoạn Nguyễn Đức Đạt dạy học thời gian cuối

đời ở trường Nam Sơn (Đông Sơn) sau khi ông cáo quan về ở ẩn. Ngay trong lời

Tựa, tác giả đã nêu rất tỉ mỉ về hoàn cảnh ra đời tác phẩm Nam Sơn tùng thoại:

“Ông ham xem sách, lại hay đau ốm, ngày tiến đạt thì ít, ngày ở quê thì nhiều;

những lúc nhàn rỗi ngồi bên lò lửa đem những chuyện đời thường ra nói cho đỡ

mỏi mệt. Thường cùng với vài ba người học trò ngồi trước cửa sổ quây quần nói

chuyện, nói rất nhiều nhưng chỉ là thuận miệng mà nói ra thôi. Nghe chuyện cũ,

lời nói tuy khá hay, nhưng đâu phải là đầy đủ, ý tưởng ấy không thể coi là cớ (để

làm sách) đâu. Không ngờ các học trò quá yêu ta, cùng nhau thu lựa thành tập,

xếp làm 32 loại, bảo ta làm tựa, rồi mọi người nói sắp cho in” [32, tr.2]. Cuối lời

Tựa thứ nhất của cuốn sách đã ghi lại, sách được soạn năm Kỷ Mão niên hiệu Tự

Đức thứ 32 (1879), sau khi Nguyễn Đức Đạt đã xem và đồng ý cho in vào năm

Tự Đức 33 (1880). “Sách này làm xong đã được tiên sinh giám định, học trò là

các tiến sỹ, phó bảng, cử nhân hiệu đính; trông nom việc khắc in là ông Từ Đức

Tường, cử nhân, làm Lệnh doãn huyện Gia Lộc” [32, tr.4].

72

Hay trong lời Tựa thứ hai của cuốn sách Nam Sơn tùng thoại, môn sinh

(học trò) của Nguyễn Đức Đạt là Tiến sĩ khoa Ất Hợi (1875) Đinh Văn Chất đã

ghi lại: “Tiên sinh ta về già càng nhiều sách, (sách) chứa trong tráp có đến hàng

chục. Bộ Nam Sơn tùng thoại này là những lời tiên sinh cùng mọi người bàn bạc

và trả lời những câu hỏi. Sách có cả thảy 32 thiên; riêng thiên “Bình cư” là lời

học trò chép những việc của tiên sinh trong khi làm quan và khi nghỉ” [32, tr.3].

Trong thời gian dạy học những năm cuối đời từ 1877 đến 1883, Nguyễn Đức Đạt

viết 4 tác phẩm, đều đã được in và lưu hành ở đời, bao gồm: Nam Sơn tùng thoại

(1880), Việt sử thặng bình và Hồ dạng thi (1881), Vịnh sử thi (1883). Trong đó,

Nam Sơn tùng thoại ra đời đầu tiên, cùng với những trước tác khác của Nguyễn

Đức Đạt làm thành những tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy của ông và đồng

thời cung cấp những tri thức về lịch sử Việt Nam, lịch sử Trung Quốc, thơ ca cổ,

tư tưởng Nho giáo… cho học trò.

Về bố cục, tác phẩm Nam Sơn tùng thoại là trước tác duy nhất của Nguyễn

Đức Đạt đã được Viện Triết học dịch sang Tiếng Việt, tuy nhiên nó mới chỉ được

lưu giữ dưới dạng văn bản đánh máy A4 mà chưa được xuất bản, chúng tôi sử

dụng nó là tư liệu chính cho luận án. Bộ sách gồm có bốn quyển, cộng 292 tờ

(khổ giấy 26 x 15cm), tờ 2 trang, trang 8 dòng, dòng 20 chữ, khắc in rõ ràng, tất

cả khoảng 93.000 chữ, chia thành 32 thiên (Kể cả thiên Bình Cư là lời học trò kể

lại tính tình nếp sống hằng ngày của ông). Quyển một gồm 10 thiên bàn về

những điều cần thiết của những người đi học như những vấn đề liên quan đến

việc học tập (Học vấn), sách vở (Thư tịch), văn chương, mối quan hệ thầy trò, bè

bạn (Sư hữu), đạo đức, tâm tính con người (Đức tính), ... Quyển hai gồm 8 thiên,

tác giả luận giải những điều cần thiết của công việc điều hành chính sự như cách

cai trị đất nước (Trị đạo), pháp chế, chính thuật,binh pháp, thưởng phạt,... Quyển

3 gồm 8 thiên, được tác giả luận bàn về những vấn đề chính trị và cách thức cai

trị của người cầm quyền như cách dùng người của vua và cách thi hành chức

trách của các quan (Nhậm sử), đạo vua - tôi, lý trong gia đình và cách lập nghiệp

73

(Quân đạo, Thần liêu, Tự luận, Thuật nghiệp, Thiệp thế), ... Quyển 4 gồm 6 thiên,

tác giả trình bày những vấn đề trong đời sống xã hội và sự tu dưỡng của bản thân

như danh dự phẩm giá con người (Danh phẩm), vận số, phúc đức, trong đó

Nguyễn Đức Đạt dành một thiên nói về cách ăn ở, sinh hoạt, đối nhân xử thế trong

cuộc đời ông (Bình cư). Đọc Nam Sơn tùng thoại, chúng ta thấy được đây là tác

phẩm đặc sắc và hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Đức Đạt được trình bày dưới dạng

vấn đáp, tương tự như sách Luận ngữ của Khổng Tử. Cách trình bày này thể hiện

tư duy sinh động, không rập khuôn theo cách viết quen thuộc, lối mòn cũ và được

coi là một đóng góp mới cho văn xuôi nghị luận Việt Nam thế kỷ XIX.

Bố cục sách được chia làm 4 quyển như trên, nhưng về cơ bản có thể phân

chia thành 3 nhóm nội dung: 1. Nội thánh học, gồm tư tưởng về đạo, về tâm tính,

tu dưỡng; 2. Ngoại vương chi học, gồm những suy nghĩ, kinh nghiệm về đạo trị

quốc, thực thi chính sự như chính trị, binh bị, luật pháp, lý tài, lễ nhạc, quản trị

nhân lực, ngoại giao, quan hệ vua tôi, ứng đối bách gia…; 3. Ghi chép về một số

việc chiêm nghiệm, tạp ghi và cuộc đời hành trạng sinh hoạt của chính Nguyễn

Đức Đạt (đặc biệt trong Bình cư). Ở phần sau, đi vào nội dung luận án, chúng tôi

tiến hành khảo cứu, phân tích, đánh giá tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt theo lôgic

bố cục phân chia nội dung chính là nội thánh và ngoại vương.

Về mục đích, theo lời “Tựa”, Nam Sơn tùng thoại được Nguyễn Đức Đạt

viết với mục đích là “thầy truyền trò tập”, “để lại cho đời sau dùng” [32, tr.2].

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, những trường học do các nhà nho

tự mở để dạy cho các học trò những kiến thức Nho học thì việc một nho sĩ Việt

biên soạn được cuốn sách sử dụng dạy trong ngôi trường Nho học như vậy là rất

ít. Xuất phát từ mục đích của nền giáo dục Việt Nam thế kỷ XIX là chú trọng

đào tạo nhân tài thông quan việc mở các khoa thi với nội dung thi cử là Tứ thư,

ngũ Kinh, Thơ, Phú, Lịch sử, cổ văn... thì các sách được sử dụng trong các ngôi

trường Nho học sẽ chủ yếu là “sách của Trung Quốc”, do vậy sự ra đời của tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại được coi là một bước đột phá trong tư duy của các

74

nhà nho Việt Nam. Bằng việc giải thích lại các tư tưởng Nho giáo theo cách

riêng của mình, Nguyễn Đức Đạt muốn những giá trị của tư tưởng Nho giáo

truyền thống mãi được lưu giữ ở đương thời và sau nữa, như trong lời Tựa thứ

hai đã viết: “Rùa thiêng, ngọc quý ta đã có. Lấy ta suy ra người lại không dám

bảo rằng người ta không thích như mình. Chỉ sợ người đến hỏi mượn để chép

ngày một đông, bản chính cung ứng sao cho khắp được. Nhân thế mới nhiều lần

xin cho in mà phát hành” [32, tr.3]

Về nội dung, Nam Sơn tùng thoại là một tác phẩm lớn có vị trí quan trọng

trong các trước tác của Nguyễn Đức Đạt, chứa đựng nhiều nội dung từ những

vấn đề về sử học, văn học, địa lý, chính trị, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, các mối

quan hệ xã hội và cách hành xử… Tác phẩm diễn giảng và bàn luận về các nội

dung của Nho giáo thông qua những trích lục, những ví dụ thực tiễn sinh động,

cùng cách trình bày theo hình thức vấn đáp, trò truyện bằng ngôn ngữ đời

thường, Nguyễn Đức Đạt đã giúp người đọc hiểu được sâu sắc hơn những quan

điểm trong sách kinh điển của Nho gia. Đúng như nhận xét của Trần Văn Giàu

trong tác phẩm “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách

mạng tháng Tám”: “Sách Nam Sơn tùng thoại là sự trình bày toàn bộ Nho giáo

một cách độc đáo, có hệ thống, không thấy trong các sách khác” [38, tr.11]. Đây

được coi là một đánh giá xác đáng về giá trị học thuật của bộ sách này.

Về cách làm sách Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt là ghi chép

tổng hợp những đoạn thảo luận, nghị luận, những chiêm nghiệm cá nhân ông,

thảo luận bàn bạc, khảo luận về rất nhiều lĩnh vực và nội dung trong cuộc sống.

Đồng thời, Nam Sơn tùng thoại còn đề cập cả những nội dung trong kinh điển,

trong cổ sử, cả thảo luận triết học, sử học, chính trị học, tu dưỡng, đạo đức, văn

chương, binh bị, lý tài, giáo dục, khoa cử, dùng người… được chia thành từng

môn loại, từng mục nội dung. Rõ ràng, đây là cách làm vừa truyền thống theo

cách làm của nhà nho vừa có đôi chút cái mới và phá cách. Các nhà nho Trung

Quốc thời Tống Minh đã từng có một số sách làm kiểu này, như Truyền tập lục

75

tập hợp các ngôn luận của Vương Dương Minh, đời Thanh có Nhật tri lục của

Cố Viêm Võ… là những cuốn ghi chép tổng hợp nổi tiếng. Về tập hợp sách có

tính chất luận thuật, tạp thuật cũng là một xu hướng của giai đoạn nửa cuối thế

kỷ XIX, cùng lúc có một số cuốn như Phương Đình tùy bút lục của Nguyễn Văn

Siêu. Cuốn sách được làm như một sự đúc rút, một chiêm nghiệm của người

trước, để nhằm hữu ích cho sự học tập chiêm nghiệm đời sau. Đây có thể xem là

sự kế thừa và dư ba của loại thư và bách môn loại thư đã thịnh hành từ cuối thế

kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX được xác lập bởi những tên tuổi như Lê Quý Đôn, Ngô

Thì Sỹ, Ngô Thì Nhậm, Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú… Việc tập hợp các phần

nghị luận, giảng giải, trao đổi của Nguyễn Đức Đạt với học trò và được học trò

tập hợp lại, chia môn tách loại là cách làm tương tự như truyền thống, cái khác

chính ở chỗ đưa vào một số nội dung, chép một số việc mà nho gia thời trước

không làm hoặc rất ít làm.

Như vậy, nghiên cứu tác phẩm một cách cặn kẽ sẽ giúp chúng ta tìm hiểu

được sâu hơn tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt. Đồng thời, qua tác phẩm này chúng

ta có điều kiện hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đức Đạt với tư

cách là một vị quan hoạt động xã hội, nhà tư tưởng và nhà giáo dục theo tinh

76

thần Nho giáo của triều Nguyễn.

Tiểu kết chương 2

Nguyễn Đức Đạt sống và hoạt động trong bối cảnh lịch sử - xã hội Việt

Nam nửa cuối thế kỷ XIX có nhiều thay đổi khác trước. Chủ nghĩa tư bản

phương Tây đã chi phối trên toàn thế giới, trong đó có cả khu vực Đông Á và

Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, triều Nguyễn đã không sáng suốt nhận thức

được xu thế của thời đại, lại thực hiện nhiều chính sách bất cập để đất nước dần

rơi vào tay thực dân Pháp. Từ một quốc gia độc lập, Việt Nam trở thành một

nước thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân bị đế quốc thực dân đàn áp, bóc lột hết

sức nặng nề. Tình trạng đó dẫn đến những cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại

triều đình, chống lại đế quốc thực dân liên tiếp xảy ra ở khắp mọi nơi với mục

đích giành lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho chính bản thân mình, song do

nhiều nguyên nhân làm cho các cuộc đấu tranh đó bị thất bại. Nói đến những

cuộc đấu tranh ấy, ngoài tinh thần và ý chí quyết tâm của nhân dân, chúng ta

phải thừa nhận công lao to lớn của những quan quân cùng những chí sĩ yêu

nước, họ đã kiên cường đấu tranh dù cho bị giặc truy đuổi, bắt giữ giam cầm, đốt

nhà… trong đó có Nguyễn Đức Đạt.

Nguyễn Đức Đạt sinh ra, lớn lên và được giáo dục, đào tạo trong một gia

đình có truyền thống Nho học, ông đã có sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt

đẹp của gia đình, của miền quê Nam Đàn và đặc biệt là chịu ảnh hưởng của thời

đại đã dẫn ông đến sự hình thành tư tưởng lấy việc học tập và thực hành Nho học

là mục tiêu mà suốt cuộc đời ông theo đuổi. Với ý thức trách nhiệm của một nhà

nho yêu nước, hết lòng vì cuộc sống ấm no của nhân dân, ông muốn giữ gìn

những giá trị tư tưởng truyền thống của dân tộc, đặc biệt là Nho giáo. Tác phẩm

Nam Sơn tùng thoại ra đời là nhằm mục đích trình bày một cách thoải mái và

77

toàn diện những vấn đề của Nho học mà Nguyễn Đức Đạt tâm đắc.

Chương 3. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VÀ TÂM TÍNH HỌC CỦA

NGUYỄN ĐỨC ĐẠT TRONG TÁC PHẨM NAM SƠN TÙNG THOẠI

VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

3.1. Tư tưởng triết học

3.1.1. Quan niệm về “Trời” và “Mệnh trời”

Trong triết học Nho giáo, “trời”, “mệnh trời” là những khái niệm cơ bản,

được đề cập đến đầu tiên như là cơ sở triết học cho các tư tưởng khác. Theo quan

điểm của Nho giáo, trời đất sinh ra vạn vật “Vạn vật bản hồ thiên” [53,tr.115]. Ở

đây theo Nho giáo, có thể hiểu trời là một lực lượng siêu nhiên có sức mạnh, có

quyền uy tuyệt đối và trời cũng chính là lực lượng quyết định đến thân phận và

cuộc sống của con người, sắp đặt các địa vị trong xã hội. Do đó, con người

không thể cãi lại mệnh trời và mọi cố gắng của con người đều không nằm ngoài

ý trời bởi lẽ “làm gì được mệnh trời?” [53,tr.553]. Trong Luận ngữ có viết:

“Sống chết có số, giàu sang bởi trời” [53, tr.476]; hay “Đạo ta có được thi hành

hay không là do mệnh trời, (đạo của ta) phải phế bỏ cũng do mệnh trời” [53,

tr.553]. Cho nên Khổng Tử yêu cầu con người phải biết mệnh trời, sợ mệnh trời

và thuận mệnh trời. Thực hiện ba nội dung này được coi như là điều kiện tất yếu

để con người hoàn thiện mình. Đây là quan niệm duy tâm của Khổng Tử mà sau

này có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà nho thế hệ sau.

Tuy vậy, cũng trong quan niệm về trời, Khổng Tử còn xuất phát từ cái

nhìn trực quan, mang sắc thái duy vật chất phác, để lý giải “trời” như là giới tự

nhiên và có qui luật vận động, biến đổi của nó, được gọi là “quy luật tự nhiên”:

“Trời có nói gì chăng? Bốn mùa vận hành, các loài vật sinh sôi nảy nở. Trời có

nói gì chăng?” [53, tr.630]. Tư tưởng này của Khổng Tử trái với quan niệm của

chủ nghĩa thần bí tôn giáo đương thời và chứng tỏ quan niệm về “trời”, “mệnh

78

trời” của Khổng Tử thể hiện sự pha trộn giữa lập trường duy vật và duy tâm.

Sự pha trộn này cũng được thể hiện trong quan niệm về trời của Mạnh Tử

(372-289 TCN) khi ông coi trời là giới tự nhiên: “Trời cao lồng lộng, các ngôi

sao trên trời xa tít, nhưng nếu ta tìm hiểu những điều sẵn có, thì ta có thể ngồi

một chỗ mà tính đúng ngày đông chí, ngàn năm sau cũng không hề sai” [53,

tr.1084]. Đồng thời ông cũng khẳng định mọi sự vật, sự việc đều do mệnh trời

quyết định, con người cần phải tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy:

“Chẳng có điều gì là không do số mệnh. Hãy thuận theo ý trời mà chấp nhận số

mệnh chính đáng. Vì thế, người nào biết mệnh trời thì không đứng dưới bức

tường sắp đổ” [53, tr.1287]. Rõ ràng, quan niệm duy vật về trời, mệnh trời của

Mạnh Tử còn khá mờ nhạt, xu hướng chung là ông tiếp tục phát triển tư tưởng

“thiên mệnh” theo khuynh hướng duy tâm của Khổng Tử.

Sang thời Hán, tư tưởng về “trời”, “mệnh trời” của Nho giáo Khổng -

Mạnh đã được Đổng Trọng Thư (179 - 104 TCN) tiếp thu theo khuynh hướng

duy tâm cực đoan, cùng với tư tưởng của học phái Âm dương ngũ hành và học

phái Pháp gia thời Chiến Quốc để xây dựng lên một hệ tư tưởng thần học hoàn

chỉnh. Đổng Trọng Thư cho rằng, trời có hai khí âm dương, hai khí đó lại sinh ra

ngũ hành (mộc, hỏa, thổ, kim, thủy). Sự tuần hoàn của ngũ hành mà dẫn đến bốn

mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trong đó ngũ

hành tương sinh là thể hiện ân đức của trời, ngũ hành tương thắng là thể hiện

hình phạt của trời. Những hoạt động tốt hay xấu của con người ở trần thế có thể

làm cho trời vui hay giận, qua đó trời “ban ơn” hay “trừng phạt” bằng việc được

mùa hay mất mùa, mưa thuận gió hòa hay thiên tai dịch họa.... Quan niệm này

của Đổng Trọng Thư cho thấy, trời là lực lượng có ý chí, có tình cảm; trời thông

qua sự vận hành của âm dương ngũ hành mà sinh ra vạn vật và cả con người.

Đồng thời, ông còn đưa ra thuyết “thiên nhân cảm ứng” một mặt khẳng định

trên vua là ông trời có đầy quyền lực và luôn quan tâm đến việc trị nước an dân,

tránh cho vua mắc phải những sai lầm, làm trăm họ yên vui thiên hạ thái bình,

79

mặt khác lý giải sự suy sụp, loạn ly của một triều đại hay vấn đề thiên tai dịch

họa liên tiếp xảy ra là bởi nhà vua không nghe lời răn của trời, không tự sửa lỗi

theo sự cảnh báo của trời.

Như vậy, có thể thấy, quan niệm về “trời” và “mệnh trời” luôn được quan

tâm bàn luận trong lịch sử Nho học từ Nho giáo Tiên Tần đến các học phái thuộc

Nho gia đời sau (như Đổng Trọng Thư). Mặc dù những giải thích của họ chưa có

sự phân định rạch ròi giữa duy vật và duy tâm, nhưng chúng ta đều thấy được

thái độ trân trọng của họ khi bàn về “trời”, “mệnh trời” và luôn khẳng định tính

quyết định của “trời” và “mệnh trời”, coi đó là căn cứ để lý giải những vấn đề về

con người, xã hội...

Ở Việt Nam, các nhà nho chịu ảnh hưởng rất lớn tư tưởng của các nhà nho

Trung Quốc, cho nên vấn đề “trời”, “mệnh trời” cũng thường xuyên được đề cập

đến trong tư tưởng của các nhà nho phong kiến Việt Nam và các nhà nho thế kỷ

XIX trong đó có Nguyễn Đức Đạt.

Nguyễn Đức Đạt được sinh ra và trưởng thành trong môi trường giáo dục

Nho học và ông luôn là một nho sĩ trung thành của triều Nguyễn, vì thế tất cả

suy nghĩ, hành động và việc làm của ông đều xuất phát từ tư tưởng Nho giáo,

tuân theo khuôn khổ của Nho giáo. Khi nói đến trời, đến đạo trời, Nguyễn Đức

Đạt có nhắc đến trời, có thừa nhận sự tồn tại của trời, nhưng đó chỉ là nhắc lại

những câu vắn tắt mà các nhà nho trước ông thường dùng, còn ông ít bàn đến

trời, đạo trời, mệnh trời. Trong 32 thiên của sách Nam Sơn tùng thoại, Nguyễn

Đức Đạt đề cập đến hầu hết các vấn đề của Nho giáo nhưng không có thiên nào

dành riêng cho việc bàn về khía cạnh siêu nhiên của “trời”. Tuy nhiên, tư tưởng

về “trời” và “mệnh trời” của ông cũng được thể hiện khá rõ khi ông quan niệm

trời là khí thanh, trời là chủ tể muôn vật và “Trời đất với vạn vật, khi cho mưa

móc cũng có khi giáng sấm sét, đối với dân, khi cho được mùa vui vẻ cũng có

khi giáng dịch lệ hung hoang, đối với vua, khi cho điềm lành, cũng có khi cho tai

dụ để khiển trách, rút lại đều là lòng yêu cả” [33, tr.294]. Có thể thấy quan niệm

80

về trời của Nguyễn Đức Đạt chịu ảnh hưởng của tư tưởng duy tâm Nho giáo (đặc

biệt là trong Nho giáo Đổng Trọng Thư) khi ông cho rằng trời là lực lượng siêu

nhiên, là chúa tể ngự trị ở bên trên chi phối mọi sự vật hiện tượng và cả con

người. Đồng thời, ông còn khẳng định sức mạnh toàn năng của trời là có khả

năng răn đe, thưởng phạt các hành vi cũng như suy nghĩ của con người (bao gồm

cả nhà vua và nhân dân). Điều này đến thời Nguyễn Đức Đạt không phải là điều

gì đó làm chúng ta phải lý giải nhiều, bởi lẽ tư tưởng duy tâm với thuyết mệnh

trời là cơ sở cho những khẳng định về địa vị thống trị của triều Nguyễn. Vị vua

thứ hai của triều đại này vốn rất am hiểu tư tưởng Nho học, nhận thức rất rõ vai

trò của thuyết mệnh trời và lấy niên hiệu Minh Mệnh (nhận thức rõ mệnh trời),

điều đó cũng thể hiện rất rõ tâm thế của ông trong “Minh Mệnh chính yếu”.

Mặc dù tiếp tục nhấn mạnh yếu tố duy tâm trong quan niệm về trời của

Nho giáo như trên nhưng trong cách diễn giải của Nguyễn Đức Đạt về trời chúng

ta thấy sự đặc sắc trong những lập luận tiếp theo của ông: “Tâm là trời. Trời hư

không cho nên lớn. Tâm người ta cũng hư không, không giới hạn” [32, tr.102].

Nguyễn Đức Đạt không tiếp tục lý giải tính siêu nhiên, huyền bí của trời mà ông

đi vào giải thích trời là gì theo cách riêng của mình. Ông đã đồng nhất tâm con

người với trời, ông cho rằng tâm con người không có giới hạn là do trời bao la

rộng lớn, cho nên, việc con người không được phép khinh trời chính là không

được phép khinh tâm mình vậy, con người muốn làm việc gì đều phải thuận theo

trời tức là thuận lòng mình vậy, trái ý trời tức là trái với tâm mình. Ông nói:

“người quân tử tôn trọng trời để tôn trọng tính mình, bảo tồn tâm mình để bảo

tồn thiên lý. Tâm với tính là một, là trời. Không tôn trọng cái đáng tôn trọng gọi

là “khinh mạn trời”, không bảo tồn cái đáng bảo tồn gọi là “bỏ trời”. Khinh mạn

trời, bỏ trời thì trời cũng khinh bỉ. Làm tôi mà vua không cho là trung, làm con

mà cha mẹ không cho là hiếu thì trời còn cho mình ra gì? Cho nên người quân tử

không thể không làm cho mình thành thân, muốn thành thân thì không thể không

thuận trời, phụng sự trời mà bảo tồn lấy thiên lý là con hiếu, dòm ngó trời mà

81

cướp bóc là giặc trời” [32, tr.22]. Rõ ràng, sự diễn giải này cho thấy, Nguyễn

Đức Đạt quan tâm rất nhiều đến việc làm của con người, của người quân tử, mục

đích cuối cùng của việc làm con hiếu, tôi trung, quân tử thành thân đó là phải giữ

cho tâm mình trong sáng. Vì thế, khi nói đến mối quan hệ giữa “trời” với

“người”, Nguyễn Đức Đạt nói: “Chưa biết được người, sao biết được trời” [32,

tr.95] bởi theo ông, điều quan trọng nhất trong cuộc sống là phải hiểu được con

người làm gì, muốn gì và hành động như thế nào. Ý kiến này của Nguyễn Đức

Đạt rất giống với quan niệm của Khổng Tử trong Luận ngữ về “việc người và

quỉ thần”, về sự sống và cái chết. Khi Quí Lộ hỏi Khổng Tử về việc thờ quỉ thần,

Khổng Tử nói: “Thờ người còn chưa nổi, làm sao thờ được ma?” …“Sống còn

chưa biết rõ, làm sao biết được sự chết” [53, tr.449]. Điều này cho thấy rõ ràng

tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu, bám rễ vào tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt.

Tuy Nguyễn Đức Đạt có nói đến trời, có thừa nhận sự tồn tại của trời

nhưng ông lại phủ nhận sự tồn tại của “mệnh trời” với tư cách là cái tiền định.

Khi được hỏi về “mệnh trời” ông đáp: “Mệnh là việc sau. Sinh rồi mới biết mệnh

sinh. Chết rồi mới biết mệnh chết. Chưa sinh chưa chết thì mệnh chưa định” [33,

tr.396]. Quan điểm này của Nguyễn Đức Đạt cho thấy tư tưởng về mệnh trời là

khác và trái với tư tưởng tiền định, hay nói cách khác, ông phủ nhận sự tiền định

của mệnh trời, không thừa nhận sự quyết định của thiên mệnh đến thành bại,

vinh nhục, sướng khổ của đời con người là do trời. Ở điểm này, quan điểm của

Nguyễn Đức Đạt khác với quan điểm của các nhà nho Việt Nam đương thời như

Minh Mệnh, Nguyễn Công Trứ… khi họ luôn thừa nhận sự tồn tại của “thiên

mệnh” và những biến đổi xã hội đều do “mệnh trời”. Chẳng hạn như quan niệm

của Nguyễn Công Trứ: “Bởi số chạy đâu cho khỏi số…/ Chung cục thời chi

cũng tại trời” (trích Cách ở đời) hay “Chỉ giàu khó, sang hèn là phận cả” (trích

Ngao du thỏa chí).

Cũng theo mạch lôgic trên, Nguyễn Đức Đạt tiếp tục khẳng định: “việc

đời tự thành, tự bại, tự thịnh, tự suy không can gì đến lý số! Cây tùng cây bách

82

chịu được sương, âm dương có yêu cái nọ ghét cái kia đâu! Mặt trời quá trưa thì

xế; nước biển sáng có thủy triều, tối có thủy tịch; trời đất có đẩy cái nọ, kéo cái

kia đâu? Cho nên có câu nói: Họa, phúc không điềm gì không tự mình làm lấy

cả” [33, tr.388]. Hay khi có người hỏi họa với phúc có phải từ trời không, ông

đáp: “Họa chăng chỉ bằng lừa dối người, phúc chẳng gì bằng tha thứ người, có

việc gì đến trời” [33, tr.401]. Đây là sự diễn giải đặc sắc của Nguyễn Đức Đạt

khi ông phủ nhận sự tồn tại của “mệnh trời” với tư cách là cái tiền định và chỉ ra

quy luật biến đổi tự nhiên của con người, của sự vật hiện tượng và cả của xã hội.

Với cách luận giải như trên về “mệnh trời” của Nguyễn Đức Đạt, chúng ta

thấy, chiều hướng tư tưởng của ông không phải là “thiên đạo”, mà đó là “nhân

đạo”, tức là ông muốn nhấn mạnh vào con người và xã hội làm ra họa phúc của

mình, nhấn mạnh vào đạo đức và nỗ lực của con người là cái có thể biết được, có

thể chủ động và có trách nhiệm trong cuộc sống của mình. Vì thế ông đòi hỏi

con người phải tích cực rèn luyện, nỗ lực phấn đấu và điều quan trọng nhất là

con người phải cố gắng học tập tiếp thu tri thức thì sẽ đạt được những thành

công như mong đợi và có thể chuyển họa thành phúc, đổi nguy ra an bởi “quân

tử lấy kiến thức riêng của mình mà xét vận bĩ hay thái, tự cư xử vừa chỗ ngay

thẳng thì lo gì điên đảo” [33, tr.389].

Rõ ràng, cách lý giải của Nguyễn Đức Đạt về trời và quan hệ giữa trời với

người đã chịu ảnh hưởng rất lớn tư tưởng của Nho giáo (là từ trời để chủ yếu lý

giải về người). Điều này cũng dễ hiểu, khi bản thân Nguyễn Đức Đạt vẫn là một

nhà nho, lại là nhà nho mô phạm, cho nên ông chưa thể thoát ra khỏi sự kiềm tỏa

của lịch sử mà ở đó Nho giáo đóng vai trò hệ tư tưởng cho chế độ phong kiến,

cho nên tư tưởng của ông cuối cùng cũng không thể phá tan được những giới hạn

cho phép của một nhà nho chân truyền, ông vẫn thừa nhận sự tồn tại của trời như

trong Nho giáo Khổng - Mạnh.

Nguyễn Đức Đạt một mặt phủ nhận sự tiền định của mệnh trời, nhưng mặt

khác ông lại thừa nhận số mệnh là cái không đổi được dù nó là cái đến sau. Ông

83

nói: “Số không thể đổi được, nên đổi được không phải là số. Không có số phận

mà phát đạt cũng như đám cỏ trong rừng có hoa mùa đông, dẫu đẹp nhưng

không thành ra quả được… lành dữ thừa trừ đều là mệnh cả” [33, tr.390] hay

“gặp thời hay không là do mệnh, mệnh đã định thì quỷ thần không địch được”

[33, tr.389], “mệnh là chủ tể các hiện tượng trên đời” [33, tr.384]. Vì vậy mà khi

có người hỏi “Họa, phúc ở người ta làm ra, lại đổ cho mệnh được không? Ông

đáp: Mình làm ra trước, mệnh mới đến sau” [33, tr.384], tức là họa phúc một nửa

là do số mệnh, một nửa là do con người tạo ra. Những kiến giải này của Nguyễn

Đức Đạt cho thấy sự không nhất quán trong tư tưởng của ông. Điều này cũng dễ

dàng hiểu được khi mà chúng ta thấy cuộc đời ông luôn là sự cố gắng, nỗ lực

phấn đấu với mục đích phụng sự cho dân cho nước, xây dựng xã hội thái hòa, an

bình thịnh trị nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn, lại chịu ảnh

hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo Khổng - Mạnh nên cuối cùng ông vẫn đi

đến thừa nhận sự tồn tại của mệnh trời, của vận số.

3.1.2. Quan niệm về “Đạo” và con đường đạt “Đạo”

Đạo theo quan niệm của Nho giáo là hệ quả của việc noi theo tính, tức cái

mà trời phú, hay là con đường mà tất cả các mối quan hệ người vận hành trên đó.

Nguyễn Đức Đạt là một nhà nho theo truyền thống Nho học của gia đình và khi

Nho giáo được đưa lên địa vị thống trị của chế độ phong kiến Việt Nam thời

Nguyễn, thì quan điểm về “Đạo” của ông theo tinh thần của Nho giáo Khổng

Mạnh là điều đương nhiên. Trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn

Đức Đạt, tư tưởng về “Đạo” được ông trình bày một cách khá chi tiết theo cách

riêng có của ông.

Khi giải đáp về “Đạo”, đứng trên lập trường của Nho giáo, Nguyễn Đức

Đạt cho rằng: “Đại đạo như trời che, đất chở”, “Đạo tự che chở lấy. Vì nó rất

cao, không gì vượt lên trên, thì che sao được? Vì nó rất rộng, không gì ra ngoài,

thì chở sao được?”, “Nó sâu như biển, lấy đến ức, vạn trượng dây cũng không đo

đến đáy được, có đến ngàn vạn dòng nước chảy vào cũng không đầy được” [32,

84

tr.19]. Ở đây, Nguyễn Đức Đạt lý giải Đạo được coi như là trời đất, nó bao la

rộng lớn không gì có thể sánh được, nó vừa là nguồn gốc, vừa là quy luật biến

hóa của vạn vật. Nói cách khác, “đạo” vốn là cái có sẵn một cách tự nhiên, là

bản nguyên và qui luật của thế giới cho nên nó rộng lớn đến mức không gì so

sánh được và không thể nhận thức được hết. Rõ ràng, quan niệm về Đạo này của

Nguyễn Đức Đạt cho chúng ta thấy, ông đã sử dụng khái niệm Đạo của Lão giáo

với tư cách là bản nguyên của vũ trụ để lý giải về Đạo của mình và thoạt nhìn có

vẻ đó là tư tưởng triết học tự nhiên.

Khi đề cập đến thuộc tính của “đạo”, Nguyễn Đức Đạt lại cho rằng, “Đạo”

không phải là hư vô, tuy không có hình tượng nhưng nó là có thật và ở trong trời

đất. Ông nói: “Xúc động vào sự vật mà thấy, thế là “thực”, thực cũng là có, lẩn

khuất ở trong tâm, thế là “hư không”, hư không cũng là không có. Vậy, có mà

chưa từng có, không mà chưa từng không. Thế gọi là “chí đạo” [32, tr.20]. Khái

niệm “hư không” này của Nguyễn Đức Đạt có nguồn gốc từ thuyết “tính không”

của nhà Phật và tư tưởng về Đạo của Lão Tử, để lý giải Đạo vừa là có, vừa là

không, nó là có bởi vì nó bộc lộ ra khi người ta hành động, nó là không bởi vì nó

ở trong tâm con người, Đạo “mênh mông, chỉ có thể noi theo mà không biết đâu

là cùng cực, có thể biết mà không thể gọi tên được” [32, tr.30]. Quan niệm này

của Nguyễn Đức Đạt thể hiện sự dung hợp tam giáo (Nho - Phật - Lão) trong tư

tưởng của ông. Đây cũng là xu hướng chung của các nhà nho Việt Nam thế kỷ

XVIII, XIX như Lê Quí Đôn, Ngô Thì Nhậm.

Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm “đạo”, Nguyễn Đức Đạt không đặt ra

mục tiêu truy tìm nguồn gốc của Đạo như Lão Tử, mà lý giải về nó theo tinh

thần Đạo học của Tống Nho, coi cơ sở nền tảng của Đạo là dương và âm được

trình bày trong Chu Dịch (Nhất âm nhất dương chi vị đạo - một âm một dương

gọi là đạo). Dương là thuộc tính của Càn (trời) và Âm là thuộc tính của Khôn

(đất) để giải thích về nguồn gốc của Đạo bằng mối quan hệ giữa Đạo - Tính -

Tình - Tâm. Như vậy, cho dù mới chỉ đưa ra quan niệm về Đạo là gì, Nguyễn

85

Đức Đạt đã cho thấy quan niệm về Đạo của ông theo tinh thần của Tống Nho,

một giai đoạn được coi là đỉnh cao trong lịch sử Nho học, ở đó Nho giáo đã được

Đạo giáo hóa và Phật giáo hóa về phương diện bản thể luận và nhận thức luận.

Tuy nhiên, sự kế thừa cách lập luận của Tống Nho và Minh Nho ở Nguyễn Đức

Đạt suy cho cùng, cũng không nằm ngoài mục đích đọc hiểu và làm rõ hơn các

nguyên tắc đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh. Do vậy, ông luôn tìm cách

trình bày về Đạo với tính cách là đạo làm người, tức là đạo của các mối quan hệ

giữa con người với con người, con người với xã hội.

Đứng trên lập trường Nho giáo, Nguyễn Đức Đạt trình bày tính tích cực

về mặt dụng của Đạo như sau: Khi được hỏi về “công dụng của đạo, ông đáp:

“Là dạy học, là làm quan”; “Học là vì mình, dạy học là vì người, làm quan là

kiêm cả vì người lẫn vì mình” [32, tr.25]. Ở đây Nguyễn Đức Đạt đã giải thích

cho công dụng của Đạo là vì người, là vì mình theo quan điểm của Nho giáo:

Làm quan giỏi thì tiếp tục học, học mà giỏi thì ra làm quan (“Sĩ nhi ưu tắc học,

học nhi ưu tắc sĩ” của Tử Hạ - Luận ngữ). Và trong quan niệm về cầu đạo, nhắc

lại tư tưởng của Khổng Tử, rằng “nếu ai cầu đạo thì đạo sẽ tới”, Nguyễn Đức

Đạt cũng cho rằng: “Đạo vốn không khó cầu, khó thì không phải là đạo” [32,

tr.27]. Quan điểm này của Nguyễn Đức Đạt không khác xa quan điểm của

Khổng Tử về cầu đạo, song điểm tích cực trong quan niệm của ông thể hiện ở

chỗ khi ông cho rằng, Đạo không khó cầu, dù ngu độn hay thông minh, ai cũng

có thể cầu được đạo, ai cũng có thể được như Khổng Tử và Nhan Hồi. Trong khi

đó, Khổng Tử lại cho rằng, “chỉ có kẻ thượng trí và hạ ngu là không thay đổi”.

Qua đó cho thấy, khả năng đạt đạo đối với từng con người cá nhân cụ thể, ở

Nguyễn Đức Đạt mang tính phổ cập rộng hơn, nhất quán hơn ở Khổng Tử bởi

theo Khổng Tử, kẻ “hạ ngu” dù có học đến mấy, cầu đạo đến mấy cũng không

thể đạt đạo. Tuy nhiên, khái niệm đạo mà cả Khổng Tử lẫn Nguyễn Đức Đạt nói

tới ở đây là con đường dẫn đến sự hoàn thiện nhân cách và trí tuệ của con người

để nó trở nên tốt tính, có ích cho xã hội. “Đạo” ở đây chỉ là một khía cạnh nào đó

86

được biểu hiện ra từ cái gọi là “đại đạo” mà Nguyễn Đức Đạt trình bày ở trên.

“Đại đạo” được hiểu là tổng hòa tất cả các yếu tố của thế giới tự nhiên và xã hội,

còn “đạo” mà Nho giáo Khổng - Mạnh đề cập tới, được Nguyễn Đức Đạt lý giải

cả về mặt “thể” lẫn “dụng” của nó, có thể hiểu là “đạo người”.

Rõ ràng, dù chịu ảnh hưởng của Lão Tử hay Tống Nho thì Nguyễn Đức

Đạt vẫn luôn đứng trên lập trường của Nho giáo chính thống để diễn giải các

quan điểm Nho học theo cách riêng của mình. Chính ông muốn đem lại cho khái

niệm Đạo một nội dung mới, gắn nó với đạo lý của con người, từ đó khẳng định

hành vi đạo đức của con người chịu sự dẫn dắt của Đạo, cho nên Đạo từ chỗ là

nguyên lý phổ quát của trời đất, vũ trụ mang tính trừu tượng được thể hiện qua

hành vi đạo đức cụ thể của con người. Nói cách khác, Nguyễn Đức Đạt đã đồng

nhất khái niệm “Đạo” với đạo lý làm người mà nội dung cơ bản là tam cương,

ngũ thường: “Đạo là dẫn lối. Tự mình dẫn lối hay dẫn lối cho người cũng là một.

Dẫn lối mà rõ ràng thì Đạo rõ rệt, dẫn lối mà mù mịt luẩn quẩn thì Đạo tối tăm.

Xem cách dẫn lối thì biết ngay học thuật: học thuật chính trực thì Đạo sáng sủa,

học thuật dị đoan thì Đạo mờ tối” [32, tr.21].

Ngoài ra, Nguyễn Đức Đạt còn giải thích nguồn gốc và hệ quả của Đạo.

Ông cho rằng, nguồn gốc của Đạo là Tính, hệ quả của Đạo là Tình và tình từ tính

mà ra. Ông nói: “Tình và tính đều thống nhất ở tâm; chỗ tính ngưng trệ là tình,

chỗ tình tĩnh mịch là tính, đắm đuối tình mà phóng túng tính thì là ngu, thuận

tình mà thích tính thì là thánh, thánh chẳng phải đạo là gì” [32, tr.22]. Cách lập

luận về mối quan hệ giữa Đạo - Tính - Tình - Tâm này vốn đã được đề cập nhiều

trong lịch sử Nho giáo Trung Quốc, cụ thể là Tính lý học được Nguyễn Đức Đạt

tiếp thu theo cách của mình để giải thích về nguồn gốc và hệ quả của Đạo. Ông

khẳng định, Tính - Đạo - Tình là một quá trình tu thân cầu đạo mà ở đó, con người

cần phải tồn tâm dưỡng tính (tư tưởng của Mạnh Tử), tồn thiên lý, diệt nhân dục

(lập trường của Tống Nho) để đạo ngày một sáng lên, thêm rõ ràng hơn: “Người

quân tử tôn trọng trời để tôn trọng tính mình, bảo tồn tâm mình để bảo tồn thiên

87

lý. Tâm với tính là một, là trời. Không tôn trọng cái đáng tôn trọng gọi là “khinh

mạn trời”, không bảo tồn cái đáng bảo tồn gọi là “bỏ trời”. Khinh mạn trời, bỏ trời

thì trời cũng khinh bỉ. Làm tôi mà vua không cho là trung, làm con mà cha mẹ

không cho là hiếu thì trời còn cho mình ra gì? Cho nên người quân tử không thể

không làm cho mình thành thân, muốn thành thân thì không thể không thuận trời,

phụng sự trời mà bảo tồn lấy thiên lý là con hiền, dòm ngó trời mà cướp bóc là

giặc trời” [32, tr.22]. Như vậy, để “tồn thiên lý, diệt nhân dục” và để làm cho đạo

ngày một sáng lên thì con người phải học để tiến tới sự đắc đạo.

Nguyễn Đức Đạt còn đề xuất phương pháp tu đạo, cầu đạo thông qua việc

giải quyết mối quan hệ giữa kiến thức và sự cố gắng, giữa tri thức và thực hành.

Khi trả lời câu hỏi về vị trí của kiến thức và sự nỗ lực của con người trong việc

cầu Đạo, ông nhấn mạnh đến vai trò của kiến thức, coi “Kiến thức quan trọng

hơn” bởi ông cho rằng, “Ví như muốn đi đến Nam kỳ mà lại ra trạm Bắc, ngựa

chạy càng nhanh, đầy tớ càng khoẻ, đi như bay thì cách Nam kỳ càng xa. Nếu

đổi đường đi mà đi về phía Nam sáng đi tối nghỉ không sai phương hướng thì lo

gì mà không đến” [32, tr.27]. Điều đó chứng tỏ rằng, kiến thức mà ông đề cập tới

về thực chất là kiến thức kinh nghiệm, nó phải đi trước, hay nói đúng hơn, là có

trước khi thực hiện một việc làm nào đó. Kiến thức đó là kinh nghiệm được

truyền tải từ người này sang người khác, thế hệ này sang thế hệ khác và mang

tính quyết định đối với việc thực hành trong quá trình cầu Đạo. Theo Nguyễn

Đức Đạt, trong quá trình thực hành có thể đem lại kết quả mong muốn, vấn đề là

ở chỗ con người có nỗ lực vận dụng kiến thức một cách hợp lý để thực hành

đúng hướng, tiến hành công việc nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Từ đó ông

nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa tri thức và thực hành, coi sở học và vận dụng

kiến thức đó vào thực tiễn mới đạt được kết quả, tức đạt đạo. Đó là tư tưởng học

đi đôi với hành (gắn tri thức với thực hành) mà Khổng Tử luôn nhấn mạnh. Biện

pháp cầu Đạo theo Nguyễn Đức Đạt là phải thu cái tâm phóng túng, phải từ bỏ

bốn điều không hợp và khuyếch trương bốn đầu mối, giữ lấy cái tinh làm sự khởi

88

đầu của việc tu đạo, phải thực hiện dần dần, thực hiện suốt đời bằng con đường

học tập và tu dưỡng. Ông nói: “Cái lối “dần dần” thật là tinh diệu! Tiến dần dần

cho bằng trời thì bằng trời, tiến dần dần cho bằng người thì bằng người. Giọt

nước rơi làm thủng được tảng đá, sợi dây cưa làm đứt được cây gỗ. Ôi! giọt

nước có rắn hơn đá đâu, sợi dây có dai hơn cây gỗ đâu? Chỉ là vì “dần dần” mà

được thế”, “Trời cao ngất không phải chất một hòn đá mà đến được, đường xa

thăm thẳm không phải một bước mà tới được. Cho nên học không nên bỏ dở,

cũng không nên vội” [32, tr.24]. Ở đây, Nguyễn Đức Đạt đã chỉ ra phương pháp

tiệm cận, tức là phải “tiến dần dần” để đạt được Đạo, bởi lẽ, con đường học tập

và tu dưỡng là vô tận, phải tiến hành suốt đời, từng bước, không vội vã theo tinh

thần “nước chảy đá mòn, dây cưa đứt gỗ”. Đây là quan điểm rất tiến bộ, nó rất

gần với phương pháp nhận thức khoa học: quá trình nhận thức của con người là

đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều.

3.2. Tư tưởng về Tâm tính học

Tâm tính học, hay còn gọi là Tâm tính luận lấy gốc từ cụm từ “tâm tính”

được cả ba giáo (Nho, Phật, Đạo) sử dụng với tâm thế không hoàn toàn đồng

nhất, mặc dù có điểm chung coi tâm là lòng, là ý thức. Trong phạm vi nghiên

cứu của đề tài, chúng tôi tiếp cận tư tưởng về Tâm tính học trong tác phẩm Nam

Sơn tùng thoại theo tinh thần của Nho học. Trên thực tế không thể phủ nhận Tâm

tính học thuộc lĩnh vực triết học bởi lẽ tâm là không giản đơn là khái niệm dùng

để chỉ “cơ quan nhận thức”, mà còn là một phạm trù với những mối liên hệ mật

thiết của nó với tính và tình. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập ở trên, Tống -

Minh Nho là cách đọc hiểu mới đối với tư tưởng của Nho giáo Khổng - Mạnh, ở

đó mối quan hệ giữa “tâm con đỏ” (Mạnh Tử) với bản tính “thiện” mà trời phú

với tư cách là những tiền đề cơ bản để con người dựa vào đó để tu dưỡng theo

chủ trương từ “tồn tâm dưỡng tính” (Mạnh Tử) đến “Tồn thiên lý, diệt nhân dục”

(Trình - Chu). Chính vì vậy, cách tiếp cận tới Tâm tính học được Nguyễn Đức

Đạt trình bày trong tác phẩm của mình, được chúng tôi xác định là đạo đức học

89

hay nói chính xác hơn, là triết học đạo đức. Xét về mặt thể, đó là những phạm trù

đạo đức cơ bản của Nho giáo và mặt dụng của nó là chỗ dựa để uốn nắn con

người, làm cho con người có tinh thần chính tâm thành ý và tiếp tục phấn đấu trở

thành người có ích cho xã hội. Mặt dụng của nó được chúng tôi trình bày ở

chương 4 của luận án.

Tâm tính học trong mối liên hệ Đạo học, Lý học, Tâm học tuy khác nhau

về tên gọi và có một số nội hàm khác nhau, song nhìn chung, đó là tâm thế học

của Nho học được bắt đầu từ Hàn Dũ (768-824) - người tiên phong trong việc

phục dựng những nội dung cơ bản của Nho giáo truyền thống. Về sau, các nhà

nho đời Tống - Minh ra sức tìm tòi cách đọc hiểu các nội dung đó theo tinh thần

mới mà về thực chất, là tiến hành Phật giáo hóa và Đạo giáo hóa một số lĩnh vực

chủ yếu của Nho giáo Khổng - Mạnh. Trong công trình này, chúng tôi chỉ tập

trung phân tích quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về “Tâm”, “Tính”, “Tình”; về

học vấn, về tu dưỡng và giáo hóa trên cơ sở giáo dục theo tinh thần Nho giáo.

3.2.1. Quan niệm về “Tâm”, “Tính” và “Tình”

Trong các chương Đức tính và Tài tình của Nam Sơn tùng thoại, Nguyễn

Đức Đạt đề cập đến các khái niệm về “Tâm”, “Tính” và “Tình” cũng như mối

quan hệ giữa chúng. Đây là những khái niệm của Lý học, Đạo học hay Tâm học

trong Tống Nho, từng trở thành chủ đề tranh luận về “tứ đoan” và “thất tình”1 để

tìm biện pháp “tồn thiên lý, diệt nhân dục”. Nguyễn Đức Đạt không tạo dựng diễn

đàn để tranh luận về vai trò của “Lý” và “Khí” trong sự hoạt động chi phối của

chúng đối với “tứ đoan” và “thất tình”, nhưng chủ tâm của ông là thông qua các

ẩn dụ, thậm chí là các hình tượng cụ thể, dễ hiểu để người khác nắm bắt những nội

dung chủ yếu của “Tâm”, “Tính” và “Tình”. Vì vậy, khi có người hỏi thế nào là

1Tứ đoan: bốn đầu mối, gồm “trắc ẩn chi tâm” (lòng trắc ẩn), “tu ố chi tâm” (lòng xấu hổ), “từ nhượng chi tâm” (lòng từ nhượng), “Thị phi chi tâm” (lòng phân biệt đúng sai) - quan điểm của Mạnh Tử, cho rằng “lòng trắc ẩn là đầu mối của Nhân, lòng xấu hổ là đầu mối của Nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của Lễ, biết phân biệt đúng sai là đầu mối của Trí” (Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã. Tu ố chi tâm, nghĩa chi đoan dã. Từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã. Thị phi chi tâm, trí chi đoan dã) (Mạnh Tử - Công Tôn Sửu thượng). Thất tình: bảy tình: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghết, ham muốn)

90

Tâm học, ông đáp: “Tâm học như gương. Gương ở trong hộp, mở nắp ra thì soi

thấy cả lông tóc, bỏ nắp mà không đậy thì bụi mờ đi. Tâm không gì bằng trong

sạch, nuôi tâm không gì bằng điềm tĩnh, điềm tĩnh thì sáng suốt, nếu để ngoại vật

nó quyến rũ thì vẩn đục lên. Tâm chỉ có một tấc vuông mà chứa được đến ngàn

hộc trần cấu2. Tuyệt được cái dụ dỗ bên ngoài thì tâm linh, không chứa trần cấu

thì tâm sáng” [32, tr.97]. Như vậy, để tâm sáng thì phải tránh sự tác động của vật

dục, tức là tâm phải sạch như Mạnh Tử từng nói đến như tâm của “con đỏ”.

Giữ gìn tâm (tồn tâm) theo Nguyễn Đức Đạt là phải duy trì được cái tâm

“trống rỗng” (hư không) như trời. Ông nói: “Trời hư không, cho nên lớn, tâm

người ta cũng hư không, không có giới hạn” [32, tr.102]. Vậy trong trường hợp

tâm bị nhiễm bẩn có “rửa” được không? Ông đáp: “Giống vật có tâm nhưng vật

vẫn là vật. Người mọi rợ có tâm, nhưng mọi rợ vẫn là mọi rợ. Sao cho không

phải giống vật, không phải mọi rợ, thế là rửa đó”. Lại hỏi: Thế nào là trời rửa

(thiên trạc) và người rửa (nhân trạc)? Ông đáp: “Thánh nhân thì trời rửa cho, bậc

thứ là người tự rửa lấy. Trời rửa thì là tính (là tự nhiên), người rửa thì là khắc

phục. Tâm Khổng Tử hồn nhiên, tâm Nhan Tử thì sạch làu, tâm Mạnh Tử thì

sáng sủa, tâm họ Tuân, họ Dương thì mờ mờ, tâm người dưới bậc ấy thì vẩn vẩn,

xa cách, giống vật, người mọi rợ chỉ một tấc thôi” [32, tr.103].

Như vậy, theo Nguyễn Đức Đạt, tâm của những con người bình thường,

dưới các bậc thánh và hiền khá xa, nhưng lại gần với người mọi rợ và với vật. Thể

của tâm là hư không, sạch và tĩnh là tính vốn có của nó, song sự tập nhiễm là ở

con người. Chính vì vậy ông đã phân loại tâm, đồng thời cảnh tỉnh những kẻ phàm

tục rất dễ làm cho tâm bị vật dục che lấp. Nguyễn Đức Đạt không chỉ đồng nhất

giữa tâm và trời, mà còn gọi tâm là “thiên quân”. Ông nói: “Thiên quân” (tức là

tâm) điềm tĩnh mà giữ về đạo năm tướng (ngũ tướng), tức ngũ quan: 2 tai, 2 mắt

và mồm thì thù ứng mà giữ về lễ, bốn tá (tứ tá - chân tay), thì siêng năng mà giữ

2Trần cấu: ghét bẩn và bụi bặm.

91

về làm lụng. Bậc thánh nhân lấy tài năng mà dùng tứ tá, lấy đạo đức mà hướng

dẫn ngũ tướng, còn đại quyên thì giao cho thiên quân, nên trong người thanh túc,

trên dưới hòa mục. Thế gọi là “hòa nhau với Tạo hóa (Hoài Nam tử)” [32, tr.103].

Khi đề cập đến “Tính” và mối quan hệ của nó với “Tâm”, Nguyễn Đức

Đạt cũng đồng nhất cả hai khái niệm này với “Trời”, bởi “tính của người là trời,

biết được tính là biết được trời” [32, tr.95]. Và, tính do trời phú cho muôn người

như nhau nhưng tại sao ở người thì thiêng mà ở vật thì xuẩn? Ông lý giải: “Có

đủ năm đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín - TTN) mới linh, nếu mất năm đức ấy thì

người không bằng loài vật. Bỏ hình thể mà bàn về tâm tính thì biết loài nào linh,

loài nào xuẩn” [32, tr.101]. Trời không chỉ ban tính cho con người, mà còn ban

mệnh, do đó tính và mệnh đi liền với nhau. Tuy nhiên, Nguyễn Đức Đạt cho

rằng, tính trọng hơn mệnh, bởi “Tính nhờ mệnh mà hành được, nhưng mệnh

không có tính thì làm sao được? Ví như đi con đường phẳng, phải nhờ ngựa ký,

nay trói hai chân ngựa lại, thì nó đi sao được. Ôi! Tính cũng như lúa, mệnh cũng

như đất, sao lại có người thạo nghề làm ruộng, mà lại không chọn lấy giống thóc

tốt” [32, tr.104]. Cuối cùng, mối quan hệ giữa tâm và tính hết sức chặt chẽ, bởi

muốn có chính tính thì phải có tâm sáng, tức “sáng lòng và ngay tính”. Ông nói:

“Muốn cho tâm sáng sủa phải kết bạn với người biết nhiều; muốn cho tính ngay

thẳng phải ở luôn gần người có lễ, như trao cái cân mà cân thời không sai, cắm

cây nêu mà trông thì không nhầm”[32, tr.106].

Cũng tương tự, giữa “Tính” và “Tình” có mối liên hệ “tương sinh” và

“tương tác”, giống như “Lửa ở gỗ nảy ra mà đốt được gỗ, tình ở tính sinh ra mà

làm phóng đãng được tính. Người quân tử phải tiết chế tính, chứ không để cho

tính theo tình, cũng như khuân gỗ đi chỗ khác, không để cho lửa bén vào” [32,

tr.107]. Vậy “Tâm” và “Tình” quan hệ với nhau như thế nào? Nguyễn Đức Đạt

nói: “Tâm tiếp xúc với vật thì sinh tình, vật giao cấu với tình thì sinh dục. Tình

là người của tâm và mối của dục. Muốn thông tâm không gì bằng điều hòa ngữ

ấy, muốn ngăn dục không gì bằng cấm chỉ mối ấy” [32, tr.107]. Sự thận trọng

92

như vậy, suy cho cùng là để thực hiện phương châm “tồn thiên lý, diệt nhân dục”

của Tân Nho giáo. Nhưng làm thế nào để phân biệt được thiên lý với nhân dục,

ông nói: “Trong thiên hạ không có nhân dục nào ngoài thiên lý, cũng không có

thiên lý nào ngoài nhân dục... Nếu biết được thực tình của nước lửa, thì có thể

nói chuyện lý, dục được, biết được cơ của lý dục thì có thể nói chuyện tồn hay ít

được”3 [32, tr.108].

Cuối cùng, làm thế nào để nhận biết được tính là câu hỏi cần được làm

sáng tỏ. Theo Nguyễn Đức Đạt, “tính người vốn hậu, nhưng theo vật dục mà sai

mất gốc thì đổi hóa bạc. Này! Đi đêm không phân biệt được nam bắc, nhưng

sáng ra, mặt trời lên thì rõ ngay. Tính cũng là mặt trời buổi sáng của người ta cần

làm như thế nào tự nhận cho đúng. Người nhận được đúng tính là thấy được bản

tính; người nhận sai là lẫn với tính khác” [32, tr.115]. Chính vì vậy, để nhận biết

được tính, theo Nguyễn Đức Đạt, không có con đường nào khác là phải học để

nắm được đạo, bởi lẽ “đạo là cái gương để soi tính, học là cái cửa để vào đạo.

Không học thì không biết đạo, không biết đạo thì không trở lại tính được” [32,

tr.115]. Và, do “chủ tể của việc thấy và việc đi thì không gì thần diệu bằng tâm...

Tâm mà bế tắc thì... không thông hiểu vật loại... [do đó], muốn biết cao thấp phải

dùng thước thăng bằng; muốn biết nặng nhẹ phải dùng cân; muốn biết xa gần

phải dùng ống dòm; muốn đạt tâm tính chẳng gì bằng học!” [32, tr.119]. Với

cách lập luận và trình bày quan điểm của mình về tâm tính học, Nguyễn Đức Đạt

đã đưa ra quan niệm về “Đạo” và con đường đạt “Đạo” để một lần nữa khẳng

định vai trò của học vấn, của tu dưỡng và giáo hóa.

3.2.2. Quan niệm về học vấn, về tu dưỡng và giáo hóa

Trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại Nguyễn Đức Đạt có nhiều chỗ đề cập

đến vấn đề học vấn, tu dưỡng, giáo hóa của con người, đặc biệt là mẫu người

quân tử được coi như là đích để con người hướng tới với những phẩm hạnh đạo

đức lý tưởng. Chúng ta có thể tìm thấy quan niệm của ông về học vấn, về tu

93

dưỡng đạo đức trong các chương Chí hạnh, Sĩ tiến, v.v… Không chỉ việc học 3Tồn ít: Tồn là giữ, ít là ngăn.

tập, tu dưỡng được ông quan niệm như là điều thường trực, đòi hỏi con người

phải bền chí như sự tạo tác sự vật từ vô dụng trở thành hữu dụng, ông còn đề cao

sự giáo dục như là hình thức giáo hóa có điều kiện để con người có tri thức (cách

vật trí tri), có tâm đạo đức trong sáng (chính tâm thành ý) để thực hiện lý tưởng

của Nho giáo là trị bình. Nguyễn Đức Đạt có thời gian làm quan không nhiều,

ông chủ yếu tham gia vào việc dạy học và viết sách. Cuốn Nam Sơn tùng thoại

có thể được coi là cẩm nang giáo dục theo tinh thần Nho giáo được ông tích lũy

trong quá trình dạy học của mình trên các phương diện: mục đích, đối tượng, nội

dung và phương pháp giáo dục.

3.2.2.1. Quan niệm về học vấn

Trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, một vấn đề luôn được thầy trò ông

Nam Sơn bàn luận khá nhiều và dường như nó được xuất hiện trong hầu hết các

chương của sách này, đó là quan niệm về sự học, về tri thức. Trong Luận ngữ

của Khổng Tử, tri thức không chỉ là sự hiểu biết của con người về thế giới xung

quanh, đặc biệt là về mối quan hệ giữa con người với con người, mà còn là tiêu

chí của người quân tử về thiên mệnh (tri mệnh). Do đó, sự hiểu biết có khi được

đồng nhất với năng lực tư duy, với sự minh triết là trí, chẳng hạn khi Phàn Trì

hỏi về tri, Khổng Tử đáp là “tri nhân”, nghĩa là phải biết người để đối xử với

người cho đúng. Trong Nam Sơn tùng thoại cũng vậy, mục đích của tri thức là

hướng tới nhận thức về đạo theo tinh thần Nho giáo, đó là đạo làm người, do đó

con đường để đạt đạo được Nguyễn Đức Đạt khẳng định một cách dứt khoát là

phải học. Trong mục sau, vấn đề tu dưỡng, giáo hóa sẽ được trình bày cụ thể hơn,

còn ở đây, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu quan niệm của ông về học vấn để có

được tri thức, sự hiểu biết và vai trò của nó ra sao trong đời sống của con người.

Theo lối lập luận mâu thuẫn định đề của Lão Tử, Nguyễn Đức Đạt nói về

tri và năng, tức là sự hiểu biết và khả năng đạt tới sự hiểu biết. Khi có người hỏi:

Thế nào là “tri” và “năng”? Ông đáp: “Không biết, không làm được là tri năng”.

94

Người ấy chưa hiểu, ông lại nói: “Cái gì không biết thực là không biết, cái gì

không làm được thì chịu là không làm được, rồi cũng biết được, làm được”. Lại

hỏi: Đã không tri năng thì là người độn làm thế nào? Ông đáp: “Lâu dần thì biết

rộng, chứa dần thì vững chắc, tuy độn cũng hóa nhanh” [32, tr.113]. Khổng Tử

từng dạy: “Biết thì bảo là biết, không biết thì bảo là không biết, thế mới gọi là

biết”. Như vậy, câu trả lời đầu tiên là theo cách của Lão Tử, còn câu thứ hai gần

với Khổng Tử. Câu thứ ba là theo cách của ông, bởi nhận thức là một quá trình,

phải bền chí học hành, tìm hiểu mới có thể biết được.

Tuy nhiên, sự học hành theo quan điểm của Nho giáo là học đòi theo các

nguyên lý mà thánh nhân đời xưa khái quát. Ông nói: “Học để theo phép thánh,

theo thánh thì lấy chí làm gốc, chí thì lấy gắng sức làm gốc, gắng sức lại lấy sáng

suốt làm gốc. Ôi! Đạo là chỉ cốt tự mình sáng suốt mà thôi. Lượm nhặt những

cái hay tốt trong sáu kinh4 là sáng về kinh (minh kinh), tìm tòi được những cái

uẩn áo của vạn tượng là sáng về vật, nói đúng chừng, đi đúng mực là sáng về

hạnh, suốt cơ sự, hiểu thấu lý lẽ là sáng về tâm, nuôi dưỡng được tinh thần là

sáng về tính. Sáng được kinh và vật là kẻ sỹ, sáng được hạnh là bậc hiền, ngũ

sự5đều sáng là bậc thánh” [32, tr.26]. Như vậy, để hiểu được các nguyên lý mà

thánh nhân đời xưa vạch ra, tức là có tri thức về các sự vật và hiện tượng, con

người phải dựa vào sự sáng suốt của chính mình. Ở đây, ông phân định ba hạng

tương ứng với năng lực hiểu biết (trí) gồm: kẻ sĩ, bậc hiền và bậc thánh, trong số

đó, kẻ sĩ dựa vào kinh sách và có thể còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn; bậc hiền

vừa sáng về vật, lời nói và hành động đúng mực; bậc thánh biết trước mọi sự

việc, sự vật đã, đang và có thể xảy ra.

Trong ba bậc nói trên, theo chúng tôi, bậc hiền có năng lực tư duy, có

nhận thức vừa thực tế, vừa siêu việt, tuy dưới bậc thánh nhưng lại trên bậc kẻ sĩ,

mà kẻ sĩ thường khi bị gán cho cái bệnh “mọt sách”, chỉ biết đọc, nhớ chứ chưa

4 Sáu kinh (Lục kinh) gồm: Thi, Thư, Dịch, Lễ ký, Xuân Thu, Chu Lễ. 5 Ngũ sự: 1.Mạo là dáng điệu; 2. Ngôn là lời nói; 3. Thị là trông nhìn; 4. Thính là nghe thấy; 5. Tư là bụng nghĩ (điển suất ở thiên Hồng Phạm, Kinh Thư).

95

đạt tới tầm tư duy trừu tượng. Bậc hiền rất coi trọng lời nói, bởi ngôn ngữ, như

chúng ta đều biết, là hình thức biểu hiện của tư duy, cho nên khi được hỏi: “Chỉ

cẩn thận cái lưỡi mà đủ được ru?”. Ông đáp: “Lời nói do lưỡi mà ra, nhưng có

phải lưỡi nói đâu? Người hiền nói ít, vì tâm địa tốt, người nhân nói dè dặt vì tâm

địa nhân. Xét được việc mình làm thì không cần dè dặt mà tự dè dặt” [32, tr.87].

Không chỉ dè dặt, mà lời nói của bậc hiền trí phải đúng nơi, đúng lúc: “Thời

chưa nên nói mà nói, cũng như chim oanh hót vào mùa đông, con gà gáy gáy vào

canh hai, khiến người nghe cho là gở” [32, tr.85].

Về năng lực của các chủ thể tư duy (trí giả), Nguyễn Đức Đạt còn đưa ra

sự so sánh giữa trí và ngu. Ông không nhắc lại lời của Khổng Tử, cho bậc

thượng trí và hạ ngu là hai hạng người khó thay đổi, mà cho rằng, có trí lớn, trí

nhỏ: “Trí lớn như cầm cân, nắm được cân lạng thì nhân lý cũng đúng, còn như

phá cái chuông để làm nồi chõ, bẻ gươm Ngự tràng6 để lấy cái dùi, con dao thì

không đáng gọi là trí, mà lại là trò cười, hai đằng cách nhau không biết bao dặm

đường!” [32, tr.91]. Trí giả là người vừa có trí, lại vừa có tài. Tuy nhiên, điều đó

chưa đủ. Để được gọi là người “đại trí”, thì chủ thể của tài trí phải là người có

hiểu biết tốt về việc mà mình nên làm hay không nên làm: “Người đại trí khéo là

cái khéo như Nhi Thuyết7. Khéo cởi được nút, không phải là nút nào cũng cởi

được hết, nút nào không cởi được thì không cởi. Trí giả thông suốt được việc,

không phải là mọi việc đều thông hết, việc nào không thông được thì không

thông” [32, tr.92]. Chính vì vậy, “Trí với ngu khác nhau về tính; khéo với vụng

khác nhau về hình tang… người đại trí, đại xảo không thể nào cùng đạo với quần

chúng” [32, tr.148].

Người trí và người ngu khác nhau về tính bởi đích đến trong quá trình

nhận thức là đạo. Nhưng khi được hỏi về “Nguồn đạo là gì?” Nguyễn Đức Đạt

đáp: “Nguồn ở tính”. Lại hỏi: “Dòng đạo chảy đi đâu?”,ông nói: “Chảy là tình”.

6 Ngự tràng: tên một cái gươm cổ. 7 Nhi Thuyết: người nước Tống. Hoài Nam tử nói Nhi Thuyết khéo gỡ nút, nút xoắn thế nào cũng gỡ được.

96

Lại hỏi: “Tình không phải là tính, sao gọi là đạo?” Ông đáp: “Tình với tính đều ở

một chỗ (nguyên chú: đều thống nhất ở tâm). Chỗ tính hiển hiện (nguyên chú:

kết đọng) là tình, chỗ tình lắng đọng là tính; đắm đuối tình mà phóng đãng tính

thời là ngu; thuận tình mà thích tính thì là thánh nhân; thánh chẳng phải đạo là

gì?” [32, tr.22]. Ở đây, chúng ta thấy mối quan hệ giữa tính và tình được Nguyễn

Đức Đạt giải thích gần giống với cách lý giải bản chất và hiện tượng của triết

học Mácxít. Đồng thời, ông còn nhấn mạnh, tâm chính là nơi dưỡng tính và điều

tiết tình, song để dưỡng tính thì “Nuôi tính thì trước hết phải thu giữ khí lại. Khí

là ngựa, thần là xe, mà tính là người. Xe với ngựa hợp sức với nhau thì xe đi

người đi, thần với khí nương nhau thì thần linh hoạt, tính linh hoạt” [32, tr.101].

Cho nên, “lấy lời nói mà cảm hóa người không bằng lấy thân, lấy thân không

bằng lấy tâm. Ngoài trong thiên hạ không ai là không cảm hóa được, tâm người

quân tử không có điều gì là không nói rõ được!” [32, tr.80].

Trong Nam Sơn tùng thoại, Nguyễn Đức Đạt không xem trí như một khái

niệm độc lập, mà là một phạm trù triết học trong mối liên hệ mật thiết với nhân và

dũng với tư cách là những bộ phận cấu thành của ba đạt đức người quân tử. Ông

nói: “Trí là người ngự xe, nhân là cái xe, dũng là con ngựa. Người ngự khéo, con

ngựa khỏe, không chạy thì thôi, chạy thì phải nhanh. Trí sáng suốt mà nhân không

vững thế là người ngự giỏi mà xe không chắc. Trí sáng suốt, nhân vững mà dũng

không cố gắng, thế là người ngự khéo, xe chắc mà ngựa không giỏi” [32, tr.95].

Ba phạm trù này có mối liên hệ mật thiết với nhau, thiếu hoặc không tương thích

sẽ dẫn đến sự bất cập trong nhân cách của người quân tử. Ông còn nói rằng:

“Người trí chưa chắc đã nhân, nhưng người nhân tất phải có trí; người dũng chưa

chắc đã có nghĩa, nhưng người nghĩa thì tất phải có dũng. Tỉnh nên không hôn mê,

thẳng nên không sợ hãi. Thực là quân tử” [33, tr.370]. Chính vì vậy, để hội tụ đủ

ba yếu tố của đạt đức, tiếp tục chinh phục cái đích cuối cùng trong “bát điều mục”

là “bình thiên hạ” (làm cho thiên hạ được thái bình), thì người quân tử phải tu thân

mà sự khởi đầu là “cách vật” (nghiên cứu sự vật để đạt được sự hiểu biết về nó).

97

Ông nói: “Cùng một vật, đem hết tâm tư mà nghiên cứu là “cách”, lấy tai mắt mà

suy xét cho rộng là “bác”. Cách thì có thể có nhận thức sâu, bác thì có thể chứng

thực tài năng, ít người kiêm được cả hai món ấy, nhưng cách được thì hơn, đừng

có chỉ chuộng bác” [33, tr.419]. Không chỉ đề cao sự “cách vật” để có tri thức,

Nguyễn Đức Đạt còn liên hệ giữa trí và dũng. Ông nói: “Chỉ có kẻ ngu được thì

mới trí được, nhát được thì mới dũng được. Cái gì không cần biết thì tựa như ngu,

cái gì không nên làm thì tựa như nhát, biết cái không biết không được, thì là trí,

làm cái không làm không được thì là dũng” [33, tr.438].

3.2.2.2. Quan niệm về tu dưỡng

Tu thân là một trong những vòng khâu quan trọng của “Bát điều mục”

(cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ), được

trình bày một cách logic, thể hiện các bước đi cơ bản có trình tự của con người

có ý chí cầu đạo và hành đạo theo tinh thần nhập thế tích cực trong sách Đại học

của Nho gia. Theo chúng tôi, “Bát điều mục” đã trở thành cương lĩnh hành động

đối với những người đặt niềm tin của mình vào các nguyên lý nhân sinh mà

thánh hiền đã vạch ra. Nguyễn Đức Đạt không chỉ là người nhiệt thành với đạo

của thánh hiền, mà còn góp phần mình vào việc làm sáng tỏ thêm, cụ thể hóa

thêm các nguyên lý đó để đưa con người trở nên thuần hậu, có ích cho cộng

đồng mà nó thuộc về, thậm chí còn trở thành mẫu người lý tưởng, sống có trách

nhiệm trước gia đình và thiên hạ.

Mục đích của tu dưỡng theo tinh thần Nho giáo là để thành danh. Nguyễn

Công Trứ từng nói: “Đã trót sinh ra trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”

[40, tr.78]. Cái danh mà kẻ sĩ hướng tới không phải vì sự “vinh thân phì gia”, mà

vì sự thịnh vượng của xã hội, trong đó có gia đình mình. Vì vậy, khi có người

hỏi về “lập danh”, Nguyễn Đức Đạt trả lời: “Nên làm nhân nghĩa. Có người còn

giả nhân nghĩa để thành được danh, huống chi là cố sức làm thực” [32, tr.69].

Danh ở đây phải là sự phản ánh của cái thực. Giả nhân nghĩa để thành danh là

điều có thật, song danh đó trước sau sẽ “như cái kim trong bọc, lâu ngày sẽ bị lộ

98

ra”, nó không phù hợp với cái thực, còn một khi cái danh đạt được do con lấy

lòng thành để thực làm, thực đạt, thì chắc chắn sẽ bền. Chính vì vậy, thánh nhân

đã dạy: “Lấy lòng thành [thực] làm chỗ dựa cho ta”. Ông còn nói: “Kẻ sĩ có ý

mong được như thánh hiền, mà lại không có sự nghiệp làm được như thánh hiền.

Thế mà muốn cho thực được tốt, danh được nổi thì làm sao được? Ôi! Thực

không thể lấy trộm được, danh không thể cầu may được; phải gìn giữ lấy chí

nuôi lấy khí dè dặt lời nói, dùi mài phẩm hạnh, bốn đường ấy không sửa sang

được thì làm gì có danh với thực” [32, tr.71]. Thành danh là kết quả của một quá

trình tu dưỡng, phấn đấu của kẻ sĩ, song lại có những điều mà con người muốn

bản thân mình ngày một hoàn thiện thêm, trở thành con người toàn diện, thì suốt

đời phải “phục lễ”. Ông nói: Có lẽ chỉ có “lễ”. Ôi! Không thể một chốc bỏ được,

người mà vô lễ, không trọn vẹn được” [32, tr.69].

Như vậy, trong quá trình tu dưỡng, con người cần chú ý đến nhân nghĩa,

đến lễ, đặc biệt phải biết phân biệt giữa “nghĩa” và “lợi” theo tinh thần “kiến lợi

tư nghĩa” (thấy điều lợi phải nghĩ đến cái lợi đó có hợp nghĩa không) của Khổng

Tử. Có người hỏi về việc mài giũa tâm chí nên như thế nào? Nguyễn Đức Đạt trả

lời: “Lấy nghĩa thì động, lấy lợi dụ dỗ thì không động; lấy lễ thì yêu, lấy vinh

hoa mà ép nài thì không yêu; lấy thiện thì vui, lấy dâm dật mà dắt díu thì không

vui. Có lỗi thì sợ, lấy uy mà hiếp thì không sợ. Như thế mới là người trác lạc”

[32, tr.69]. Có người hỏi: “Người quân tử làm nhân là mong lấy lợi, làm việc tu

thân là để mọi người đều biết có phải không? Ông đáp: “Người quân tử làm điều

gì nhân không phải có ý cầu mong được vãng sinh8, cũng như ngứa thì phải gãi,

mỏi thì phải nằm, không thể đừng được. Đến như việc tu thân thì trong lòng lo

sợ, xem việc nhỏ mọn cũng như việc to lớn, trong chỗ tối tăm cũng như nơi sáng

tỏ, ví như đi qua cái cầu độc mộc không vì vắng người mà dáng run sợ” [32,

tr.77-78]. Vì vậy, trong quá trình tu dưỡng, con người ta không thể tránh được

lỗi, do đó cần phải thận trọng. Trong trường hợp mắc lỗi thì cần phải sửa chữa.

8Vãng sinh: thuật ngữ nhà Phật, sách Hoài Nam tử nói: “Không phải cầu mong được siêu sinh tịnh độ”.

99

Nguyễn Đức Đạt cho rằng, “có lỗi nhỏ mà đổi được thì không có lỗi lớn” [32,

tr.73]. Trong quá trình này, theo Nguyễn Đức Đạt, lười biếng là lỗi lớn, bởi “trò

chơi đùa là giặc của công danh, lười biếng là ma của tâm tính, sự nghiệp mà biết

chuyên tri chỗ thiết yếu thì công to tất ghi tác ở đương thời; chí mà giữ được

kiên trinh lúc bế tắc thì tiếng tăm tất lưu truyền mãi hậu thế” [32, tr.75-76].

Trong quan niệm về tâm tính, Nguyễn Đức Đạt chú trọng đến sự tu dưỡng

cả về mặt nội tâm lẫn hình thức bên ngoài nhằm đạt tới sự toàn diện. Cho nên,

khi có người hỏi rằng, người quân tử nuôi dưỡng mình trọng bề trong hay trọng

bề ngoài? Ông đáp: “Trọng cả trong lẫn ngoài. Vì nuôi dưỡng trong mà bỏ ngoài

thì không thể hỗn hợp với đời được, nuôi dưỡng ngoài mà bỏ trong thì không

toàn được chân tính; ngoài tuy lờ mờ ở lẫn với mọi người, trong thì sáng sủa lấy

đạo bọc mình. Đối phó lúc thảng thốt, không sót điều gì, ở lâu mà không nhiễm

trần tục, chỉ có người đắc đạo mới được như thế” [32, tr.79].

Có người hỏi: “Học đạo để cầu lấy gì?”, ông đáp: “Cầu cho đắc đạo”. Lại

hỏi: “Đắc đạo có cách nào không?”, ông đáp: “Ở tự lòng ta. Lòng là một cõi

“thái hư”. Chân thực thì hư không, càn rỡ thì làm cái hư không đó bị đục bẩn.

Cho nên cầu đạo chẳng gì bằng thu cái tâm phóng túng, thu cái tâm không gì

bằng khu trục những sự càn rỡ”. Dám hỏi: “Cách thu phóng tâm và khu trục sự

càn rỡ thế nào?”. Tiên sinh đáp: “Trừ bỏ bốn điều chớ nên làm là để khu trục sự

càn rỡ, khuyếch trương bốn mối9 là để thu cái tâm phóng túng” [32, tr.23]. Cách

lập luận này của Nguyễn Đức Đạt lại một lần nữa khẳng định sự tiếp thu học

thuyết về “tính” và “mệnh” của Khổng - Mạnh trên lập trường của Tống Nho để

phát triển lên thành cái gọi là “thiên lý”, “cùng lý”. Chính vì vậy, việc Nguyễn

Đức Đạt kêu gọi con người phải thận trọng trên con đường tu đạo mà trước hết ở

chỗ thấm nhuần quan điểm của Khổng Tử về “Lễ”: những điều trái lễ chớ nên để

mắt nhìn tới, điều trái lễ chớ để vào tai, điều trái lễ chớ nói tới, điều trái lễ chớ

9Bốn điều chớ nên làm: còn gọi là “tứ bất” - không hợp lễ thì không nhìn, không nghe, không làm, không nói (Luận ngữ); Bốn mối, còn gọi là “tứ đoan” - trắc ẩn là đầu mối của Nhân, tu ố là đầu mối của Nghĩa, từ nhượng là đầu mối của Lễ, thị phi là đầu mối của Trí (Mạnh Tử).

100

động tới (Trái lễ không nhìn, trái lễ không nghe, trái lễ không nói, trái lễ không

làm) [53, tr.472] cũng như duy trì bốn đầu mối theo quan điểm của Mạnh Tử:

“Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng cung

kính là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí” [53, tr. 1205].

Như vậy, tu dưỡng cũng là cách để đạt đạo. Người quân tử khi đã đạt đạo

thì tiến và lui không bị lỗi. Trong thiên Sĩ tiến Nguyễn Đức Đạt nói: “Trị cũng

tiến, loạn cũng tiến. Trị thì tiến về chính sự, loạn thì tiến về đạo học. Tiến về chính

sự thì việc trị an làm được, tiến về đạo học thì đạo thông thuộc về mình. Người

quân tử tiến, khó có ai sánh đôi được” [32, tr.124]. Đây là cách diễn đạt tư tưởng

của Khổng Tử về hành - tàng cả trong trường hợp được dùng hay bỏ, trong bối

cảnh đất nước trị hay loạn. Theo Nguyễn Đức Đạt, nếu lúc có đạo thì hiện, lúc vô

đạo thì ẩn là cách ứng xử của bậc hiền; còn trong trường hợp đối với bậc thánh thì

khi thiên hạ có đạo - thánh nhân ẩn, thiên hạ vô đạo - thánh nhân hiện, bởi lẽ khi

“thiên hạ hòa bình thì muôn vật cùng yên thế chẳng là ẩn ru? Thiên hạ loạn lạc thì

làm đạo để thay đổi vận đời, thế chẳng phải là hiện ru?” [32, tr.127].

Nói tóm lại, “chí của nhà nho chân chính đặt ở công danh”, song cái danh

đó phải phù hợp với thực, tức là thể hiện tài năng thực sự của mình để thi hành

sứ mệnh “kinh bang tế thế” chứ không phải để “vinh thân phì gia”. Theo Nguyễn

Đức Đạt, để có sự phù hợp giữa danh và thực thì trong quá trình tu dưỡng, con

người cần dựa vào những chuẩn mực đạo đức bất di bất dịch mà thánh hiền đời

xưa vạch ra, đó là Nhân, Nghĩa và Lễ với tư cách là những chuẩn mực căn bản

cho việc tu dưỡng. Tuy nhiên, ngoài những chuẩn mực đó, ông còn đề cao chữ

thận để khi có kết quả của tu dưỡng, tức đạt đạo, tiến tới sự nghiệp hành đạo cứu

đời. Tu thân chỉ là một phần của Nho học mà chúng ta đang đề cập tới, đó là tâm

tính học. Chính tâm thành ý là nền tảng để con người định hướng đúng đắn trên

con đường phấn đấu thành danh. Để hành trang của con người đi theo lý tưởng

“trị quốc bình thiên hạ” được đầy đủ và chắc chắn, Nho giáo rất đề cao lĩnh vực

giáo dục, lấy chủ trương, phương pháp giáo dục của “chí thánh tiên sư” (Khổng

101

Tử) làm tiêu chí để cầu đạo và hành đạo.

3.2.2.3. Quan niệm về giáo hóa

Giáo dục là lĩnh vực chủ yếu trong nội dung giáo hóa của Nho giáo,

đồng thời là hình thức cung cấp các kiến thức về tự nhiên và xã hội cho con

người. Tuy nhiên, với tư cách là học thuyết chính trị - đạo đức, theo đó đạo đức

được coi là phương tiện chủ yếu để thực hiện mục tiêu chính trị của một triều

đại xác định. Giáo dục cũng gắn liền với quá trình “tu thân, tề gia, trị quốc,

bình thiên hạ” của Nho giáo, nói cách khác, là những bộ phận cấu thành của

giáo huấn, bởi lẽ nếu thiếu giáo dục thì con người không có hành trang căn bản

bao gồm “cách vật”, “trí tri”, “chính tâm” và “thành ý” để tiến hành các bước

tiếp theo nêu trên. Chính vì vậy, quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về giáo hóa

không vượt ra khỏi phạm vi của giáo dục Nho giáo nói chung, Nho học nói

riêng, được thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, về mục đích giáo dục

Nho giáo đặt ra nhiệm vụ giáo dục với mục đích đào tạo ra những con

người lý tưởng, hoàn thiện cả về đạo đức, nhân cách cũng như tri thức, lối sống

để gánh vác việc trị nước, trị dân nhằm ổn định trật tự xã hội. Nói cách khác,

mục đích chủ yếu và bao trùm là giáo dục đạo làm người.Cho nên, khi nói đến

mẫu người quân tử, Nguyễn Đức Đạt cũng giống như các nhà giáo dục tiền bối

luôn đặt đối lập với kẻ tiểu nhân để làm nổi bật phẩm chất đạo đức của người

quân tử. Với cách đặt mục đích giáo dục như vậy, người quân tử được hiểu là

những người có nhân cách và vai trò nhất định trong xã hội, tức làluôn chú trọng

rèn luyện để có được ba phẩm chất, hay còn gọi là ba đạt đức gồm: Nhân, Trí,

Dũng. Nguyễn Đức Đạt cònđưa ra sự phân định thứ hạng người, cho rằng:

“Quân tử thì tranh đức, bậc thứ thì tranh lễ, dưới cùng thì tranh danh, còn tranh

lợi là hành vi của thứ nhân” [33, tr.348].

Nguyễn Đức Đạt còn chỉ ra mục đích của việc học là để làm quan, giúp

vua, giúp nước: “Đọc sách cốt để đi thi, thi có người đỗ, có người không đỗ.

102

Người quân tử không vì không đỗ mà phụ mình. Học cổ nhân là để làm quan, mà

làm quan có khi đắc dụng, có khi bất đắc dụng. Người quân tử không vì bất đắc

dụng mà (khuất mình) theo người. Những sự oán hờn trời đất làm thế nào mà

giải được. Những sự cùng quẫn của người đời làm thế nào cho thông được.

Người quân tử không cầu ở ngoài mà chỉ xét ở mình thôi” [32, tr.16].

Mục đích của giáo dục được Nguyễn Đức Đạt thể hiện qua câu hỏi: “Học

để làm gì?” và chính ông trả lời câu hỏi đó rằng mục đích của giáo dục là “học

để biết”, học “để làm quan”, học để “làm người” có ý nghĩa, chứ không phải là

nhồi nhét những kiến thức như là việc “chất vào kho”. Lập luận này cho thấy yêu

cầu của Nguyễn Đức Đạt về mục đích của việc học là hướng đến hoạt động thực

tế, khác hẳn với cách học “tầm chương trích cú”, chỉ khư khư phụ thuộc vào

sách vở của một số nhà nho.

Thứ hai, về đối tượng giáo dục

Xuất phát từ việc nhận rõ một trong những vai trò đặc biệt quan trọng của

việc học là nhờ có học mà con người có thể thay đổi được tư chất vốn có của

mình. Theo Nguyễn Đức Đạt, nếu “chịu khó học thì người ngu cũng hóa khôn,

không học thì khôn không bằng dại” [32, tr.8], cho nên ông xác định việc học là

của tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, giàu hay nghèo thì ai cũng phải

học, cái nghèo không liên quan đến học. Với quan niệm như vậy chúng ta thấy ở

Nguyễn Đức Đạt có tâm thếcủa quan niệm Khổng - Mạnh về đối tượng giáo dục,

đó là không phân biệt đẳng cấp và luôn đề cao tinh thần say mê học tập, ý chí

quyết tâm hoàn thiện phẩm chất đạo đức và nhân cách của mình.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong quan điểm của Khổng Tử về “hữu

giáo vô loại”, tức không phân biệt đẳng cấp đối với những người theo học,

nhưng lại phân biệt đối xử với phụ nữ, cho rằng, những hạng “tôi trai tớ gái khó

bảo, gần thì họ nhờn, xa thì họ trách móc”, thì ở Nguyễn Đức Đạt lại đề cập đến

học vấn của hai người phụ nữ Trung Hoa với tài làm văn. Ông nói: “Danh với

103

thực phải đối chương nhau, đã gọi là kinh sinh, há lại không học kinh ư? Xưa

Nghê Khoan và Thường Lâm10 nghèo mà vẫn dùi mài kinh văn, huống chi người

phong lưu no ấm, đã gọi là văn sĩ há lại không biết làm văn ư? Kìa Tô Huệ và

Tào Chiêu11 là con gái mà tài làm văn, huống chi nghiễm nhiên là hạng râu

mày?” [32, tr.10]. Tuy nhiên, dù có quan điểm mới như vậy về đối tượng giáo

dục, Nguyễn Đức Đạt vẫn lấy sự học của người quân tử làm mẫu mực cho tất cả

những người muốn học để đạt đạo.

Thứ ba, về nội dung giáo dục

Như chúng ta đều biết, để cứu vãn xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu đang

lâm vào tình trạng hỗn loạn, Khổng Tử đề xuất học thuyết về con người và đạo

làm người với mục đích đưa xã hội trở về trạng thái ổn định và tiến tới thiết lập

lại xã hội lý tưởng mà ông quan niệm về nó từng tồn tại dưới thời Nghiêu Thuấn.

Do đó, nội dung giáo dục chủ yếu của Nho giáo là những chuẩn mực, quy phạm

đạo đức cơ bản trong xã hội mà con người cần phải tuân thủ. Nội dung đó được

Khổng Tử đề xuất và được các thế hệ nhà nho sau ông mở rộng, gồm ba đạt đức

là Nhân, Trí, Dũng (Khổng Tử), tứ đức gồm Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí (Mạnh Tử), Lễ

Pháp kiêm trị (Tuân Tử). Đến thời Hán, Đổng Trọng Thư qui giản ngũ luân về

tam cương gồm ba mối quan hệ cơ bản, phản ánh đạo đức xã hội là vua - tôi, cha

- con, chồng - vợ và năm chuẩn mực đạo đức cá nhân là ngũ thường gồm Nhân,

Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Ngoài ra, Nho giáo cũng quan tâm đến các nội dung khác

như “văn chương” và “lục nghệ” để tạo ra những con người vừa có đức, vừa có

tài, hay còn gọi là mẫu người lý tưởng.

Vốn là người đứng trên lập trường quan điểm chính thống của Nho

giáo, Nguyễn Đức Đạt không thể vượt ra khỏi phạm vi giáo huấn được đúc

kết trong các kinh điển của Nho giáo. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa

10 Nghê Khoan và Thường Lâm: là những người ham học, vừa đi bừa vừa mang kinh học, sau thành những người tài giỏi thời Hán. 11 Tô Huệ, Tào Chiêu: Tô Huệ người đời Hán, vợ Đậu Thao, tác giả bài “Chức cẩm hồi văn”; Tào Chiêu tức Ban Chiêu, em gái Ban Cố, vợ Tào Thế Phúc, học rất giỏi, vua Hán rất trọng, bắt Hoàng hậu và các cung nhân thờ làm bậc thầy.

104

là Nguyễn Đức Đạt hoàn toàn tiếp thu một cách y nguyên, mang tính thụ động

những nội dung đó, mà trong quá trình giáo dục, ông đã có những quan điểm

mới ít nhiều mang tính sáng tạo của mình do nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt

Nam đương thời.

Một là, Nguyễn Đức Đạt tập trung vào việc giáo dục những phẩm chất

cần có của kẻ sĩ, người quân tử

Nguyễn Đức Đạt đã dựa vào quan điểm của Khổng Tử về nhân, coi nhân

là lòng yêu thương người khác như bản thân mình, đồng thời phải biết người (tri

nhân). Từ đó, ông nêu quan điểm về nhân như sau: “Người quân tử làm điều gì

nhân không phải có ý cầu mong được vãng sinh cũng như ngứa thì phải gãi, mỏi

thì phải nằm, không thể đừng được, đến như việc tu thân thì trong lòng lo sợ,

xem việc nhỏ mọn cũng như việc to lớn, trong chỗ tối tăm cũng như nơi sáng tỏ,

ví như đi qua cái cầu độc mộc không vì vắng người mà đáng run sợ!” [32, tr.77].

Quan niệm về “trí”, “dũng” của Nguyễn Đức Đạt cũng tương tự. Theo ông, Trí

là tri thức, là sự hiểu biết để có thể phân biệt được thiện - ác, phải - trái. Khi

Phàn Trì hỏi Khổng Tử về người “trí”, ông trả lời: “tri nhân” (đó là người) “biết

người” [53, tr.493]. Bởi lẽ, “chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét

người (một cách chính đáng)” [53, tr.267]. Tuy nhiên, theo Nguyễn Đức Đạt,

người có đức trí không phải cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu mà cần phải hiểu

rằng, người có đức trí là do họ không ngừng học hỏi để nâng cao sự hiểu biết về

sự vật, hiểu về chính mình: “Tự xét lại tâm mình, mọi việc đều nhìn nhận được

rõ ràng, thế là trí. Hiền mà không hiền tự tâm mình, không phải là thực hiền. Trí

mà không trí tự tâm mình, không phải là thực trí” [33, tr.377]. Ở đây Nguyễn

Đức Đạt chịu ảnh hưởng của Tâm học do phái Lục - Vương đưa ra, theo đó con

đường nhận thức thế giới do tâm quyết định. Rõ ràng, nhờ có Trí, con người mới

có đủ tri thức xét đoán sự vật, có đủ sáng suốt, minh mẫn để hiểu được đạo lý

làm người, phân biệt được phải - trái, thiện - ác, từ đó thường xuyên trau dồi đạo

đức và hành động cho đúng lẽ phải. Một phẩm chất đáng quý nữa của người

105

quân tử không thể không nhắc đến, đó là Dũng. Dũng ở đây chính là lòng can

đảm, là khí tiết thanh cao, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách vì đạo

nghĩa. Theo Nguyễn Đức Đạt, nhờ có dũng con người mới dám bày tỏ ý kiến của

mình một cách cao minh và mới dám hành động một cách thanh cao khi vận

nước gặp loạn. Nhờ có dũng con người mới làm chủ được mình, giữ được đạo

đức và khí tiết trong mọi hoàn cảnh, thậm chí có thể hy sinh mình để bảo vệ điều

nhân nghĩa (xả thân thủ nghĩa).

Theo Nguyễn Đức Đạt, người quân tử phải là người hội tụ được đầy đủ

những phẩm chất, năng lực nhân, trí, dũng và nghĩa thì mới có thể hoàn thiện

bản thân, bởi “Người trí chưa chắc đã nhân, nhưng người nhân tất phải có trí;

người dũng chưa chắc đã nghĩa, nhưng người nghĩa thì tất phải có dũng” [33,

tr.370]. Trong các phẩm chất nhân, nghĩa, trí, dũng ấy, Nguyễn Đức Đạt vẫn coi

trọng chữ “nhân” hơn cả: “Những người tài quá hơn đức, hạnh kém hơn trí,

động12 làm gì là phải hối hận” [33, tr.370]. Thêm nữa, khi có được đức rồi cũng

không bao giờ được tự phụ cho là mình đã có, bởi “Có tài mà quên hẳn tài mới là

đại tài, có đức mà quên hẳn đức mới là thịnh đức” [33, tr.372]. Cách lập luận

như vậy chúng ta thường thấy trong tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử, chương

38 của sách này viết: “Người có đức cao không có ý cầu đức, cho nên có đức;

người có đức thấp thì có ý cầu đức, cho nên không có đức” [35, tr.38]. Thoạt

nghe có vẻ ngược lẽ, tương tự như mâu thuẫn nhưng suy ngẫm kỹ ta sẽ thấy

được tính hợp lí của vấn đề, bởi theo Nguyễn Đức Đạt: “Kẻ tự khoe khoang là kẻ

tự che lấp mình; kẻ tự coi mình dồi dào là kẻ tự làm cho mình kiệt quệ. Cái đuốc

lửa lập loè tự khoe rằng “ta là mặt trời, mặt trăng”, nếu bịt cửa sổ lại thì có còn

sáng được không? Cái ngòi nhỏ róc rách tự khoe rằng ta đã là cái con sông con,

nếu lấp dòng nước lại thì có cạn khô không? Cho nên bậc đại đạo phải lẫn với

người trần; người thịnh đức phải như người ngu” [33, tr.374].

Điều đáng lưu ý ở đây là khi xét nội hàm nhân cách người quân tử,

106

Nguyễn Đức Đạt đã bổ sung thêm đức Nghĩa cho ba đạt đức vốn có của nó theo 12 Động: có nghĩa là động đến, hễ làm gì đều phải hối hận.

quan điểm của Khổng Tử. Trong tác phẩm Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Người trí

chẳng nghi hoặc, người nhân chẳng lo âu, người dũng chẳng sợ hãi” [53, tr.418].

Trần Đình Hượu cho rằng, “Học thuyết của Khổng Tử không giúp cho trí tuệ và

khoa học phát triển, vì tuy trí là biết nhiều nhưng ông qui sự biết vào đạo đức.

Ông chống hiện tượng trí bị cực hóa mà ông gọi là đãng (biết hỗn tạp, ngoài lễ

và nghĩa, ba hoa)… Yêu cầu “bất hoặc” (không lầm) gán cho trí chỉ có nghĩa là

yêu cầu không được lầm lẫn về lễ và nghĩa… Dũng là xét mình không sai lầm thì

không lo sợ gì, là quả cảm, là sức mạnh tinh thần dám làm điều nghĩa. Loại

người có sức mà làm nhiều việc bậy không được gọi là dũng. Khổng Tử còn đề

ra một sự phòng phạm về dũng: lấy “kính nhường”, “thận trọng” và “học” để trị,

đối phó với dũng; ông cho rằng chỉ có dũng mà không có nghĩa sẽ gây loạn” [52,

tr.63-64]. Nhận xét này quả không sai, nó còn giúp chúng ta thấy được vai trò

chi phối của đức nhân với hai đức còn lại là trí và dũng, và sự chi phối đó lấy

nghĩa với tư cách vừa là mục đích để định hướng cho trí và dũng, vừa được dùng

làm phương tiện để thực hiện mục đích đó.

Hai là, Nguyễn Đức Đạt chú trọng đến giáo dục đạo đức ứng xử trong

các mối quan hệ gia đình và xã hội

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, vì thế nội dung giáo dục

của Nho giáo là hướng đến những mối quan hệ giữa người với người diễn ra từ

trong gia đình đến ngoài xã hội, đó là: quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, quan hệ

cá nhân với gia đình và quan hệ cá nhân với xã hội. Trong Nam Sơn tùng thoại,

Nguyễn Đức Đạt trình bày các mối quan hệ đạo đức này ở nhiều chương, song

tập trung nhất là ở các chương Quân đạo (đạo làm vua), Thần liêu (Đạo làm tôi)

và Tụ luân (tụ hội gia đình).

Với nội dung giáo dục đạo đức trong gia đình, Nguyễn Đức Đạt đưa ra

khái niệm thông dụng, nghĩa là mọi đối tượng đều chung một nguyên tắc định

sẵn, đó là “Cha từ, con hiếu, anh thuận, em cùng, chồng kính, vợ nghe, bè bạn

107

tin nhau, dù cho ngu dốt như người làm mướn, kẻ ăn xin, cứ dần dần nói với họ

cũng được. Thế là thông dụng” [33, tr.292]. Nguyên tắc đó dựa trên tình thân

ruột thịt giữa cha và con, dù biết là sự hy sinh không kể công lao, nhưng bậc cha

mẹ nào cũng phải làm. Vì vậy, theo ông: “Trị con xem thì cho là to, nhưng tự

cha mẹ coi thì như không! Thân thể cha mẹ để lại cho con, cho cháu, yêu cháu

cũng như yêu con. Nuôi con khó nhọc tức là thỏa lòng13, có công đức gì mà dám

khoe!” [33, tr.293]. Như vậy, nuôi con, dạy con đúng cách cũng là sự báo hiếu

với cha mẹ mình (thỏa lòng).

Khi được hỏi: Làm tôi phải trung, làm con phải hiếu, có là để báo đáp

không? Nguyễn Đức Đạt đáp: “Trung hiếu là tự làm hết chức phận. Nếu cho

rằng, bề tôi trung để báo đáp nhà vua, thế là đạo trung đã suy; con ở hiếu để đền

ơn cha, thế là đạo hiếu còn kém. Cho nên, lấy trung mà đáp lại lễ của vua, lễ suy

thì trung cũng suy, lấy hiếu mà đáp lòng từ của cha, từ kém thì hiếu cũng bạc.

Chứ tự mình ghi ơn lễ và từ ở trong lòng, để mong báo đáp quân thân ở trên thì

sao bằng quên cả lễ lẫn từ, mà tự nhiên thật trung, thật hiếu” [33, tr.295]. Thoạt

nghe có vẻ mâu thuẫn, song theo quan điểm của Nguyễn Đức Đạt thì giữa nghĩa

vụ và lòng thành có sự cách biệt, bởi lẽ mối quan hệ đó nếu dựa trên nguyên tắc

có đi có lại thì trung chưa tận trung một khi lễ từ vua chưa được đảm bảo, hiếu

chưa tận hiếu khi cha mẹ chưa thật từ. Mặt khác, đứng trên lập trường của Nho

gia, ông cho rằng: “Đạo ở trong mà đi tìm bên ngoài, phúc ở gần mà đi cầu ở xa.

Kính không để thờ cha mẹ, tổ tiên mà đi thờ miếu cổ đền hoang, có của không

đem giúp anh em họ hàng, lại đem đúc chuông làm chùa, đó là đại mê tín. Trên

trời không có Thần, Phật nào bất hiếu, bất đễ, người ta sao lại có người bất hiếu,

bất đễ mà được Thần, Phật phù hộ cho!” [33, tr.296]. Ở đây Nguyễn Đức Đạt rõ

ràng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông về “Phật tức tâm, tâm tức Phật” để

13 Nguyên chú: Ta nuôi con là để thỏa mãn tấm lòng yêu cháu của cha mẹ, và cũng để đến bù nợ hiếu với cha mẹ mà chưa trả được.

108

nói về thực hành đạo hiếu, nhằm tránh tình trạng “Bụt trong nhà lại thờ ma ngoài

đồng”, và đạo hiếu kính lại có nguồn gốc từ trời (thiên lý), cho nên khi con

người không nhận thức được điều đó thì trở thành mê tín.

Về mối quan hệ “vua - tôi” được Nguyễn Đức Đạt bàn đến trong quan

niệm về đạo làm vua và đạo làm tôi. Ông đã chỉ rõ những phẩm chất, vai trò và

trách nhiệm của vua đối với nhân dân và đất nước. Đó là vua cần phải yêu dân

và kính dân như chính bản thân mình, phải quan tâm đến lợi ích của người dân

và chú trọng chăm lo cho đời sống cho nhân dân bởi “dân là người bảo vệ cho

thân mình, chẳng yêu sao được, lại là chúa tể của thân mình, chẳng kính sao

được” [33, tr.266]. Đổi lại, bề tôi phải hết lòng trung với vua, thậm chí sâu sắc

hơn, đó là “thần sự quân dĩ trung” (bề tôi lấy lòng trung mà thờ vua).

Như vậy, hai mối quan hệ vua - tôi và cha - con tuy cung bậc khác nhau,

song suy cho cùng, đều có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ, bởi lẽ quân thần

(vua cha) là những bậc đứng đầu đất nước và gia đình, do đó, không phải ngẫu

nhiên mà trong nhiều chương, nơi nào đề cập đến đạo đức ứng xử thì ở đó

thường xuất hiện hai cặp quan hệ này với nhiều cách lý giải khác nhau, song đều

hướng tới việc làm rõ bản chất của chúng là nhân - trung và từ - hiếu.

Về mối quan hệ giữa thầy và trò, Nguyễn Đức Đạt cho rằng, đây là mối

quan hệ trao truyền, do đó trách nhiệm của người thầy là người chỉ dẫn cho học

trò những tri thức, các chuẩn mực đạo đức. Trong mối quan hệ này, Nguyễn Đức

Đạt đã khẳng định: “Không có thầy thì ai dạy bảo cho, ví như trèo núi, người có trí

khôn thì đưa đường, người có sức khỏe thì dìu dắt như thế thì trèo lên được đỉnh

mới thôi. Vậy thầy là người có trí khôn, mà người bạn là người có sức khỏe” [32,

tr.64]. Vai trò của người thầy, theo Nguyễn Đức Đạt, là dẫn dụ những người có

năng lực kém hơn. Ông nói: “Học có hai bậc: bậc thượng thì học được sáng thêm;

bậc hạ thì học lại tối đi. Được sáng thêm là vì học bằng tâm, bị tối đi là vì học

bằng lực. Người học tối không phải không muốn học, chỉ vì kiến thức bó buộc,

nếu có người dẫn dụ cho, biết đâu cái tối tăm chẳng thành sáng sủa?” [32, tr.16].

109

Như vậy, thầy là người dạy bảo, truyền thụ tri thức, đạo lý cho các thế hệ học trò,

uốn nắn và giúp học trò trở thành những công dân có ích cho xã hội. Người thầy

luôn là tấm gương về cả tài năng và đạo đức để học trò phấn đấu trở thành những

người có học vấn, có đạo đức, có năng lực để giúp ích cho đời, cho dân.

Trong mối quan hệ bạn bè, Nguyễn Đức Đạt căn dặn học trò phải chú ý

chọn bạn mà chơi, bởi lẽ “Trong thiên hạ người hiền như ngọc, người bất hiền

như đá. Ngọc chỉ có một hòn mà đá thì có hàng trăm, hàng nghìn, chọn bạn mà

kết giao thế nào cũng có ích, không chọn thì thế nào cũng có hại” [32, tr.64].

Ông nhấn mạnh việc chọn người để kết giao thành bạn bè có ảnh hưởng rất lớn

đối với mỗi người. Biết cách chọn bạn tốt để chơi sẽ giúp ta có môi trường tốt học

tập, phấn đấu thành người có ích cho xã hội. Trong trường lớp, bạn bè đóng vai

trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ mình, giúp đỡ mình cùng tiến bộ như cách ví

của Nguyễn Đức Đạt “bạn là gậy” mà “gậy dùng để làm cho vững” [32, tr.58]. Vả

lại, phải biết coi “bạn cũng như núi”, bởi “Trèo núi đến lưng chừng đã thấy cao,

nhưng ngẩng mặt trông lên lại thấy núi ở trên còn cao ngất. Trong phòng học có

bạn hiền, phẩm hạnh ta đã cao, trông sang tả hữu, lại còn nhiều người hơn ta, như

vậy thì việc ta tu thân há chẳng mỗi ngày một tiến sao!” [32, tr.58].

Như vậy, tuy nội dung giáo dục Nguyễn Đức Đạt tuy không vượt ra khỏi

phạm vi các nội dung tư tưởng giáo dục của Nho giáo với quan niệm “đức” là

gốc, “tài” là ngọn; muốn cây tốt tươi thì phải chăm phần gốc, dẫn đến việc coi

nhẹ phần ngọn. Song ở cuối thế kỷ XIX, các nhà nho ít nhiều cũng được biết về

sự phát triển của văn minh nhân loại, do đó trong nhiều tài liệu của Nho giáo nói

chung, ở Nam Sơn tùng thoại nói riêng, vấn đề “cách vật” đã trở thành cơ sở cho

xu hướng thực học đang ngày được quan tâm nhiều hơn. Ông cho rằng, việc học

phải bắt nguồn từ chính thực tiễn thì mới đem lại kết quả cao, chẳng hạn khi có

người hỏi: “Trăm nghề đều có thầy là người sáng tạo ra nghề ấy có phải không?

Ông đáp: “Học lấy tự nhiên làm thầy. Người khéo trị thủy lấy nước làm thầy chứ

không phải là vua Hạ Vũ, người rành làm ruộng lấy lúa làm thầy chứ không phải

110

là ông Hậu Tắc” [33, tr.335]. Như vậy, việc coi tự nhiên và các qui luật của nó là

thầy chứng tỏ một điều là, ông chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các lập luận của Lão

Tử về tính tuân thủ tự nhiên, thậm chí phải bắt chước tự nhiên. Tương tự như

vậy, coi đối tượng của “cách vật” là thầy, theo chúng tôi, cũng là điều mới mẻ

trong diễn đạt thâm thúy của ông.

Thứ tư, về phương pháp giáo dục

Trên cơ sở xác định mục tiêu cũng như nội dung giáo dục, Nho giáo rất

quan tâm đến các phương pháp giáo dục sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.

Những phương pháp giáo dục được các nhà Nho đề cập đến bao gồm cả

phương pháp của người dạy và phương pháp của người học cho đến nay vẫn

còn nhiều giá trị.

Về phương pháp dạy, có các phương pháp sau: phương pháp phân loại đối

tượng học trò (tùy thuộc vào từng đối tượng mà giảng giải đạo lý theo những

mức độ khác nhau); phương pháp gợi mở, nêu vấn đề (thông qua những cuộc hỏi

đáp, thảo luận, thậm chí là tranh cãi giữa thầy và trò để qua đó người học tự tìm

ra kiến thức mới) và phương pháp nêu gương (lấy người thầy là tấm gương sáng

trong hành vi, cử chỉ, đạo đức để học trò noi theo). Trong quá trình dạy học của

mình Khổng Tử và Mạnh Tử thường xuyên sử dụng các phương pháp nhằm phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

Về phương pháp học, Khổng Tử và các nhà Nho khác cũng đưa ra các

phương pháp tích cực như sau: Phương pháp ôn cũ để biết mới (Khổng Tử nêu

trong Luận ngữ: “Ôn cố tri tân”; “Học đi đôi với hành”; “Học gắn với tập”; “Học

kết hợp với tư”, v.v. (ôn cũ để biết mới, học phải đi đôi với thực hành, học phải

gắn với tập luyện, học phải kết hợp với suy nghĩ, v.v.). Những phương pháp giáo

dục này của Nho giáo có nhiều điểm tích cực và tiến bộ, nhưng do chịu sự chi

phối bởi ý thức hệ phong kiến, cho nên những phương pháp đó vẫn không tách

rời được mục tiêu chính trị là đào tạo ra những con người phù hợp với yêu cầu,

111

đòi hỏi của xã hội phong kiến.

Nguyễn Đức Đạt đã tiếp thu các quan điểm nêu trên của Khổng Tử về

phương pháp giáo dục, cùng với việc xác định mục tiêu cũng như nội dung giáo

dục để đưa ra những phương pháp, cách thức truyền đạt lại cho học trò của mình

với mục đích giúp cho họ hiểu và vận dụng những kiến thức đã học để hành xử

trong cuộc sống. Có thể dẫn ra một số điểm bổ sung của ông cho nền giáo dục

Nho giáo như sau:

Một là, phương pháp đối thoại giữa thầy với trò, giữa các học trò với nhau

Có thể thấy rằng, phương pháp đối thoại là một phương pháp giáo dục rất

căn bản và phổ biến của Nguyễn Đức Đạt. Trong Nam Sơn tùng thoại, bằng

phương pháp đối thoại, ông đã đặt người học vào “tình huống có vấn đề”, buộc

người học phải tự nỗ lực, cố gắng để phát huy tính chủ động, tích cực trong suy

nghĩ của họ, xóa bỏ sự thụ động trong việc tiếp thu tri thức. Nguyễn Đức Đạt là

người sử dụng phương pháp này rất nhiều trong quá trình dạy học của mình và

được nhiều thế hệ học trò ưa thích. Cho đến nay, phương pháp dạy học tiến bộ

này vẫn được chúng ta hết sức coi trọng nhằm phát huy tính tích cực, tự giác,

sáng tạo của người học.

Hai là, phương pháp dạy học gắn với đặc điểm đối tượng người học

Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học theo Nguyễn Đức Đạt cần phải luôn

chú ý đến tính cách của từng học sinh để có những sự dạy bảo, uốn nắn cho phù

hợp. Ông nói: “Người đã có trí tuệ thông minh muốn học điều nhân hậu thì lấy

nhân làm thầy, người nhu nhược muốn học quyết đoán thì lấy nghĩa làm thầy,

người rông càn muốn học khiêm tốn thì lấy lễ làm thầy, người lỗ độn muốn học

nhanh nhẹn thì lấy trí làm thầy, người xảo quyệt muốn học chân thực thì lấy tín

làm thầy” [32, tr.62]. Chúng ta thấy rằng, phương pháp này được Nguyễn Đức

Đạt nêu ra chính là sự phát triển quan điểm của Khổng Tử - cần thiết phải căn cứ

vào đặc điểm của từng đối tượng để áp dụng phương pháp và những nội dung

kiến thức phù hợp trong quá trình giáo dục. Nếu Khổng Tử phân chia các nhóm

112

người học thành hai loại thượng trí và hạ ngu, hay trung trí trở lên và trung trí

trở xuống, thì Nguyễn Đức Đạt gọi đó là bậc thượng và bậc hạ. Vấn đề ở chỗ,

với đối tượng từ “trung trí trở xuống”, theo Khổng Tử chỉ nên dạy cho họ những

điều giản đơn để họ biết cách ứng xử thường ngày với nhau, thì ở Nguyễn Đức

Đạt, quan điểm giáo dục đại chúng hơn, hướng tới dạy cho mọi đối tượng theo

xu hướng cải đổi tính cách xấu thành tiến bộ hơn, lành mạnh hơn. Như vậy,

phương pháp này của Nguyễn Đức Đạt rất có ý nghĩa trong cả thời đại của ông

và hiện nay khi mà nền giáo dục hiện đại đòi hỏi quá trình dạy học phải căn cứ

vào nhu cầu và đặc điểm của người học để đem những nội dung kiến thức phù

hợp vào dạy học. Tư tưởng này của Nguyễn Đức Đạt cũng tương tự như quan

điểm của Jonh Deway - nhà giáo dục nổi tiếng phương Tây thế kỷ XIX cho rằng:

“Hiểu được học sinh trong mối quan hệ tác động qua lại với nội dung là công

việc của người thầy, trong khi đó trí óc của học sinh hiển nhiên không bận bịu vì

chính bản thân nó, mà bận bịu với đề tài mà chúng đang học” [54, tr.220].

Ba là, phương pháp chuyên tâm, siêng năng, cần cù trong học tập được

coi là chìa khóa của mọi thành công

Nguyễn Đức Đạt cho rằng, học là phải nắm lấy cái “tinh”, tức là cái cốt

yếu và các ý chính: “Học mà không tinh sẽ thành con mọt sách” [32, tr.10];

không được ham học quá rộng so với khả năng của người học, bởi rộng thì ít

sáng “sức kiến thức có hạn mà sự lý vô cùng, học giả không quý biết hết, chỉ quý

biết cho đến nơi đến chốn; không cần nhớ hết, chỉ cần nhớ cho tinh tường” [32,

tr.13]. Để đạt được điều này, ông yêu cầu người học phải đọc thật nhiều, nghĩ

thật kỹ, có như vậy mới thông minh lên mỗi ngày. Theo ông, người học phải:

“Cốt ở chuyên, tâm không chuyên thì rối bời. Việc học không thể rối bời được,

miệng nói mà lòng không lý hội được cũng như người điếc đi nghe hát tự mình

không thấy thích, tay mở sách mà lòng không hiểu rõ cũng như người lòa đi sờ,

tự mình không hiểu rõ, biết được gì” [32, tr.16]. Với Nguyễn Đức Đạt, sự

chuyên cần, siêng năng trong học tập là rất hữu ích và vô cùng cần thiết, bởi con

113

đường học tập và tu dưỡng là vô tận, suốt đời, cần phải có sự kiên trì bền bỉ và

quyết tâm cao. Vì vậy, ông yêu cầu “học không nên bỏ dở, cũng không nên vội”

[32, tr.24], phải rèn luyện không ngừng để có tri thức mới, “siêng năng thì học

được rộng, chuyên cần thì học được tinh. Quân tử chỉ quý ở học chứ có quý ở

bẩm chất đâu” [32, tr.110]. Phương pháp này xuất phát từ những phẩm chất đạo

đức tốt đẹp của người dân Việt Nam từ xa xưa, đó là luôn cần cù, chịu khó, sáng

tạo trong bất cứ công việc gì.

Bốn là, phương pháp học tập tự nhiên, học ở mọi lúc, mọi nơi

Một phương pháp học khá mới mẻ và độc đáo nữa của Nguyễn Đức Đạt,

đó là phương pháp học tập tự nhiên, học ở mọi nơi, mọi lúc. Theo Nguyễn Đức

Đạt “chân nho lấy tự nhiên làm thầy” [32, tr.64]; và “Trồng cỏ ở sân, nuôi cá ở

chậu là học trong lúc chơi cây cảnh, chim cá. Như vậy, không lúc nào, không

chỗ nào không phải là học” [32, tr.9]. Qua đó cho thấy phương pháp học mà ông

nêu ra khác với lối học từ chương của Nho học truyền thống, nghĩa là học phải

gắn liền với cuộc sống tự nhiên của con người.

Quan điểm về “chân nho” lấy tự nhiên làm thầy đã được Nguyễn Đức Đạt

làm rõ thêm khi ông phê phán lối học chỉ vùi đầu vào sách vở. Ông nói: “Người

quân tử mà chỉ chuyên về sách là lối học lấy tai mắt mà truyền, chứ không phải

học lấy tinh túy, chẳng qua chỉ là trang sức là ngoài giả mạo mà thôi” [32, tr.65].

Khi có người hỏi: “Đọc sách nên như thế nào ?Ông đáp: “Đọc sách cốt phải

hiểu, hiểu cốt phải thông. Sách cũng như là rừng, chim ở rừng ra nhưng không

phải vì chim mà có rừng, lý ở sách ra, không phải vì lý mà có sách. Nệ sách thì

thà rằng không đọc sách” [32, tr.42]. Với cách lý giải trên, Nguyễn Đức Đạt tiếp

tục khẳng định ý nghĩa quan trọng của phương pháp học tập tự nhiên, rất gần với

phương pháp giáo dục hiện đại ngày nay.

Nguyễn Đức Đạt nói: “Tính tình người dạy học thường ở trong hai cái lỗi:

dựa chiếu (ý nói không trải ra ngồi giảng sách) mà không giải là lỗi; giảng thì cứ

phải tìm tòi những điều u uẩn moi móc những điều nhỏ mọn suốt ngày đêm cũng

114

là lỗi. Hai cái lỗi ấy giống nhau, nhưng nguyên do mắc lỗi thì khác nhau. Cái lỗi

không chịu giảng thì thầy kém hay mắc, cái lỗi giảng kỹ quá thì thầy giỏi hay mắc.

Tính tình người đi học thường ở trong hai thứ bệnh, nghe lời thầy dạy mà không

chịu tập là bệnh; tập mà phẫn uất, khắc khổ quên cả ăn ngủ cũng là bệnh. Bệnh thì

giống nhau, mà nguyên do mắc bệnh thì khác nhau. Bệnh không chịu tập thì học

trò hèn hay mắc, bệnh tập quá độ thì học trò có chí hay mắc.” [33, tr.317].

Như vậy, có thể thấy Nguyễn Đức Đạt đã nêu ra rất nhiều phương pháp

dạy và học tiến bộ, nhưng chúng ta vẫn nhận thấy rằng, phương pháp giáo dục

nói riêng hay toàn bộ tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt nói chung vẫn

chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của Nho học, dù cho đã có được một số biểu hiện

khá rõ nét về tính dung hợp Nho, Đạo, Phật mà ông đã sử dụng để luận giải cho

các vấn đề người đối thoại với ông đặt ra.

3.3. Ý nghĩa của tư tưởng triết học và tâm tính học Nguyễn Đức Đạt

trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

Nguyễn Đức Đạt là một nho sĩ thấm nhuần tư tưởng chính thống, ông luôn

quan tâm đến việc biện hộ và truyền bá giáo lý Nho giáo, vì vậy, giá trị chủ yếu

trong tư tưởng triết học và tâm tính học của ông chính là sự tiếp nhận, luận giải

và chiêm nghiệm những nội dung cơ bản của Nho giáo ở Việt Nam trong thời

đại của ông, làm rõ những điểm đặc sắc riêng biệt của ông để đánh giá chính xác

nhất sản phẩm tư tưởng mà ông để lại cho hậu thế.

Thứ nhất, khi bàn về những giá trị trong tư tưởng triết học của Nguyễn

Đức Đạt, chúng ta thấy với cách luận giải về trời, mệnh trời như phần trên đã

trình bày, ở một khía cạnh nhất định đã thể hiện nhu cầu của thời đại về tính ổn

định của xã hội phong kiến, đặc biệt là đề cao sức mạnh siêu nhiên của trời và

mệnh trời trong việc biện hộ cho vị thế của triều Nguyễn. Với quan niệm đồng

nhất tâm và trời của Nguyễn Đức Đạt sau này đã được Phan Bội Châu - người

học trò xuất sắc của ông kế thừa và khẳng định trời chính là lòng người, là nhân

dân: “Người ta vì có trời mới có mình, nên chức phận của mình cốt ở “sự thiên”.

115

“Sự thiên”, nghĩa là thừa thuận trời; nhưng thừa thuận trời, há phải nhìn ở trời

đâu! Trời cũng là ở tâm tính ta; giữ gìn lấy lương tâm mà tâm mình không mất,

dưỡng dục lấy chân tính mà tính mình không chết, chính lấy điều đó mà thờ trời

vậy” [16, tr.283]. Rõ ràng những giá trị này của Nguyễn Đức Đạt không ai có thể

phủ nhận được.

Thứ hai, trong quan niệm về tri thức, về trí năng Nguyễn Đức Đạt thiên về

tính duy tâm, cho nên ông không thể có được quan điểm đúng đắn về con đường

nhận thức mà ở đó, trực quan sinh động là tiền đề cho tư duy trừu tượng và sau

đó, là kiểm chứng sự nhận thức bằng thực tiễn. Tuy nhiên, đóng góp của ông cho

vấn đề nhận thức duy tâm theo tinh thần Nho giáo là ở chỗ ông nhấn mạnh đến ý

chí của người quân tử trong việc nhận thức để nâng cao trí và dũng.

Thứ ba, qua việc phân tích, trình bày quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về

tâm tính học cho thấy, các khái niệm “Tâm”, “Tính” và “Tình” có mối liên hệ

mật thiết với nhau, tới mức “Tâm” và “Tính” được đồng nhất với “trời”, “Tâm”

còn được gọi là “thiên quân”. “Tâm” là lòng, cho nên con người phải biết “tồn

tâm” để “dưỡng tính” mà trời phú. Để tồn được tâm, Nguyễn Đức Đạt yêu cầu

con người phải biết ngăn chặn sự tác động tiêu cực của vật dục từ bên ngoài,

thậm chí phải năng “rửa tâm” cho nó luôn sáng như gương “minh tâm” và đạt tới

“chính tính”. Từ việc trình bày tư tưởng về tâm tính học, Nguyễn Đức Đạt đi tới

khẳng định rằng, để “minh tâm chính tính” thì điều kiện tiên quyết đối với con

người là phải cầu đạo, học đạo, đạt đạo và hành đạo. Nắm được tâm thế của Nho

giáo nói chung, bản thân Nguyễn Đức Đạt nói riêng trong quan niệm về Đạo

chúng ta mới đánh giá đúng mức việc ông đã mở rộng nội hàm của khái niệm

Đạo, gắn Đạo với đạo lý làm người và trên cơ sở đó họ đề xuất biện pháp tu đạo

(tu thân và hành đạo) một cách tích cực trước các diễn biến của thời cuộc mà họ

đang trải nghiệm. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà ở Nguyễn Đức Đạt

có sự gắn kết giữa quan niệm về “Đạo” với tư tưởng chính trị - xã hội một cách

rõ nét khi ông nhấn mạnh, đạo là bất hủ, nó gắn liền với vận mệnh của đất nước

116

và do đó, “đạo có mất thì nước mới mất” [32, tr.167].

Thứ tư, khi triển khai quan điểm của Khổng Tử về khả năng đạt đạo [của

người cầu đạo], Nguyễn Đức Đạt “chia đều” khả năng đó cho tất cả mọi người.

Điều này chứng tỏ ông không chỉ là người tán thành quan điểm “hữu giáo vô

loại” của Khổng Tử đối với những người có tâm nguyện được học để mở mang

trí tuệ, mà còn mở rộng đối tượng hơn Nho giáo truyền thống khi ông khẳng

định quyền lợi đó cũng được dành cho cả phụ nữ.

Thứ năm, con đường hoàn thiện nhân cách trong tư tưởng về tâm tính học

của Nguyễn Đức Đạt trên thực tế không vượt ra ngoài chủ trương của Nho giáo

Khổng - Mạnh về “tồn tâm dưỡng tính” và của Tân Nho giáo về “tồn thiên lý,

diệt nhân dục”. Con đường đó xuyên suốt quá trình tu dưỡng và học tập của con

người mà Nguyễn Đức Đạt dành phần lớn dung lượng của Nam Sơn tùng thoại

cho việc giáo dục như chúng ta đã phân tích ở trên.

Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức

Đạt, ngoài những giá trị nêu trên, chúng ta cũng phải thừa nhận những hạn chế

mang tính lịch sử không thể tránh khỏi. Đó là:

Một là, Nguyễn Đức Đạt khẳng định sức mạnh toàn năng của trời, cho

rằng trời có khả năng răn đe, thưởng phạt các hành vi, suy nghĩ của con người

giống như khuynh hướng thần bí hóa của các nhà Nho trong xã hội phong kiến

Việt Nam. Đây là điểm hạn chế lớn nhất trong quan niệm về trời của Nguyễn

Đức Đạt, điều mà GS. Trần Văn Giàu từng nhận xét về ông như sau: “Hình như

thuyết của ông tiếp cận với một thứ duy tâm chủ quan” [38, tr.124]. Chúng ta

thấy rằng, chính quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về “thiên mệnh”, “mệnh trời”

của Nho giáo đã đưa ông đến việc quá đề cao vai trò của thiên tử, bởi thiên tử là

người đầu tiên thừa hành mệnh trời. Do đó, ông xem trời là yếu tố cuối cùng,

quyết định sự thành công trong mọi việc của muôn dân. Điều này đã thể hiện sự

mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Đức Đạt khi cho rằng, mọi việc do con người

quyết định nhưng việc giàu nghèo của đời người lại do số mệnh qui định, không

117

thể thay đổi được: “Phú quý bần tiện là do số không thể đổi được” [33, tr.390].

Từ đó ông đi đến khẳng định rằng, sự thành đạt của kẻ sĩ ít hay nhiều đều do ý

trời, con người có cố gắng nhưng về cơ bản là phải nhờ trời.

Hai là, tư tưởng thiên mệnh được ông đề cao tới mức mang màu sắc chính

trị nhằm biện hộ cho sự thống trị duy nhất của triều Nguyễn. Điều này là đương

nhiên, bởi ông là nhà tư tưởng, đồng thời là nhà hoạt động nhà nước. Sự biện hộ

này chúng ta đã từng biết đến trong tư tưởng của Hêghen liên quan đến sự tồn tại

của nhà nước Phổ: “Tồn tại là hợp lý, vì hợp lý nên nó tồn tại”.

Ba là, trong quan niệm về học vấn và con đường đạt tới tri thức dưới dạng

trí với những cấp độ khác nhau (trí lớn, trí nhỏ, thượng trí, đại trí trong sự đối lập

với ngu) được ông lý giải vừa trên nền tảng duy tâm, lại vừa mang màu sắc duy

vật khi đề cao vai trò của ngũ sự (các cơ quan cảm giác). Qua đó cho thấy tính

thiếu nhất quán trong cách lý giải về trí, về tri.

Bốn là, quan niệm về “đạo” trong tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt chịu ảnh

hưởng sâu sắc của Lão Trang và Huyền học, theo đó “đạo” của Nho gia vốn

được coi là con đường mà tất cả các mối quan hệ người vận hành trên đó, lại bị

chuyển về trạng thái huyền bí tới mức bất khả tri, chỉ có thánh hiền mới nắm bắt

được nó, hoặc có trường hợp, được ông đồng nhất giữa “đạo” và “thánh”.

Năm là, hạn chế trong quan niệm về giáo dục của Nguyễn Đức Đạt.

Tuy Nguyễn Đức Đạt muốn xây dựng một xã hội học tập theo tinh thần

Khổng Tử, song nói về học vấn, thừa nhận mục đích “học cổ nhân là để làm

quan”, nhưng “mà làm quan có khi đắc dụng, có khi bất đắc dụng… Những sự

oán hờn trời đất làm thế nào mà giải được? Những sự cùng quẫn của người đời

làm thế nào cho thông được?” [32, tr.16]. Cho nên, theo ông, chỉ có người quân

tử mới kiên định việc học, không “khuất mình theo người”, “không cầu ở ngoài,

chỉ xét mình thôi”. Điều đó chứng tỏ việc học của con người có đạt tới mục đích

cuối cùng hay không là do số mệnh quyết định.

Một điểm hạn chế khác nữa trong quan niệm về cách thức giáo dục ở

118

Nguyễn Đức Đạt là phương pháp dạy học trong một lớp có năng lực tư duy khác

nhau: “Dạy học có 4 điều là: người nào cao thì nén họ xuống, người nào lui thì

tiến họ lên, người hẹp thì mở mang ra, người phù phiếm thì cho đi vào thực tiễn.

Đó là bốn điều mà người quân tử dùng để dạy người” [32, tr.62]. Câu hỏi đặt ra là

tại sao lại phải “nén người cao xuống?”, trong khi đó người dạy phải cố gắng phát

hiện người có tố chất tài năng để đào tạo họ thành những người tài đức cho xã hội.

Hay quan điểm bậc quân tử không cần học luật, việc xử kiện là của các pháp quan.

Chúng tôi cho rằng, những quan điểm này của Nguyễn Đức Đạt là không đúng.

Tựu trung lại, có thể khẳng định những hạn chế nêu trên vừa mang tính

lịch sử, vừa mang tính lập trường bảo thủ của các nhà nho (hạn chế của việc chịu

ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo chính thống), dù ở thế kỷ XIX, khi

triết học với tư cách một khoa học trên thế giới đã đạt được nhiều thành tựu đáng

kể, thì các nhà nho lại cho kinh điển của thánh hiền đời xưa là kho chứa các

minh triết tới mức trở thành phương châm cho mọi hành động của con người.Vì

thế, tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt dù có những quan điểm mới, tiến bộ so với

các tư tưởng trong kinh điển của Nho giáo, song những quan điểm mới và tiến

bộ đó vẫn chưa thể vượt ra khỏi tính bảo thủ, rập khuôn cố hữu của Nho giáo để

có những quan điểm mới, tiến bộ vượt bậc.

Nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Đức Đạt, đánh giá những giá trị và hạn chế

trong tư tưởng triết học và tâm tính học của ông có ý nghĩa vô cùng quan trọng

để xác định vị thế tư tưởng của ông trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đồng thời

làm rõ đóng góp của ông trong việc góp phần khẳng định sức sống (của những

hạt nhân hợp lý) của Nho giáo qua nhiều thế kỷ.

Thứ nhất, tư tưởng Nguyễn Đức Đạt góp phần làm mới một số tư tưởng

triết học Nho giáo trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam thế kỷ XIX.

Trong tư tưởng về trời, mệnh trời, số mệnh của Nguyễn Đức Đạt, khi phủ

nhận sự tiền định của thiên mệnh, ông hết sức chú trọng đến yếu tố con người,

ông tin vào khả năng của con người sẽ làm ra mọi việc, sẽ quyết định mọi việc,

119

đặc biệt là kẻ sĩ và người quân tử trong xã hội. Chính điều này đã có tác dụng cổ

vũ tinh thần lạc quan của con người vào cuộc sống, rằng cuộc sống dù có khó

khăn, gian khổ đến mấy nhưng chỉ cần con người cố gắng, nỗ lực thì sẽ đạt được

điều mình mong muốn.

Trong quan niệm về học vấn, đóng góp này của Nguyễn Đức Đạt thể hiện ý

nghĩa ở chỗ, một mặt góp phần đề cao yếu tố tri thức trong đời sống thực tiễn của

xã hội mà muốn có nó, buộc nhà nước và mỗi cá nhân con người phải coi trọng tu

thân để “tồn tâm dưỡng tính”, cao hơn nữa là “tồn thiên lý, diệt nhân dục” và mặt

khác, nâng cao trình độ hiểu biết của con người không chỉ hạn hẹp, giản đơn ở

Nho giáo Khổng Mạnh, mà phải có sự phát triển về mặt lý luận thông qua sự tiếp

biến của Nho giáo với Đạo Lão - Trang và Phật giáo, tức là luận giải các vấn đề về

nhận thức luận thông qua mối quan hệ tam giáo (đồng nguyên, dung hợp, hòa hợp,

thống nhất, v.v.) trong giới trí thức Nho học Việt Nam đương thời.

Bàn về tâm tính học, Nguyễn Đức Đạt không tổ chức hay tham gia vào

việc tranh luận về “tứ đoan - thất tình”14 như Nho học Trung Hoa và Hàn Quốc

thời kỳ trung thế kỷ, mà chủ yếu thông qua tùng đàm để giáo dục học trò làm thế

nào để gìn giữ cho được “tứ đoan”, kết hợp nó với tính thiện trời phú cho mỗi

con người từ khi sơ sinh và trải qua quá trình tu dưỡng đạo đức mà thành người

tốt tính, có ích cho xã hội. Ông không trình bày riêng chương nào về “tứ đoan -

thất tình”, song trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại chúng ta vẫn thường xuyên

bắt gặp ý nghĩa của các cụm từ này khi ông bàn đến đạo và con đường đạt đạo.

Con đường ấy có thể đạt được thì theo Nguyễn Đức Đạt dứt khoát phải học, phải

14Tứ đoan: bốn đầu mối, gồm “trắc ẩn chi tâm” (lòng trắc ẩn), “tu ố chi tâm” (lòng xấu hổ), “từ nhượng chi tâm” (lòng từ nhượng), “Thị phi chi tâm” (lòng phân biệt đúng sai) - quan điểm của Mạnh Tử, cho rằng “lòng trắc ẩn là đầu mối của Nhân, lòng xấu hổ là đầu mối của Nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của Lễ, biết phân biệt đúng sai là đầu mối của Trí” (Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã. Tu ố chi tâm, nghĩa chi đoan dã. Từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã. Thị phi chi tâm, trí chi đoan dã) (Mạnh Tử - Công Tôn Sửu thượng). Thất tình: bảy tình: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghết, ham muốn).

120

tu dưỡng và được giáo dục (giáo hóa).

Thứ hai, quan niệm về học vấn, tu dưỡng, giáo hóa của Nguyễn Đức Đạt có

ý nghĩa góp phần khẳng định vai trò và giá trị của nền giáo dục Nho học đối với

việc đào tạo nhân tài cho bộ máy nhà nước phong kiến triều Nguyễn thế kỷ XIX

Với mục tiêu xây dựng một xã hội ổn định và phát triển, Nguyễn Đức Đạt

đã nêu quan điểm về mục đích giáo dục nhằm đào tạo ra những người có đạo

đức, luôn biết tu dưỡng rèn luyện bản thân để có thể trở thành người có đủ cả

đức lẫn tài và biết đem những kiến thức đã học vận dụng vào thực tiễn giúp đời,

giúp người; đồng thời giáo dục còn giúp cho mọi người có được đạo và hành đạo

theo danh và thực của từng người. Tư tưởng này của ông đã mang lại ý nghĩa to

lớn cho xã hội đương thời trong việc góp phần hình thành nhân cách con người,

trong đó lấy đạo đức làm gốc của giáo dục. Là nhà nho, tin tưởng và trung thành

tuyệt đối với tính chính thống của Nho giáo Khổng Mạnh, song trong tư tưởng

giáo dục của ông lại đặc biệt coi trọng thực tế, tránh đi theo lối mòn “tầm

chương trích cú”, đó là sự tiếp thu “thực học” của các nước trong khu vực cũng

như của Việt Nam từ thế kỷ XVIII.

Tuy không vượt ra khỏi mục đích của giáo dục là học “để biết”, học “để

làm quan”, học “để làm người”, song quan điểm của Nguyễn Đức Đạt luôn

hướng tới đào tạo ra mẫu người quân tử có cả đức lẫn tài, điều đó đã được ông lý

giải khá dứt khoát, đó là giữa đức và tài phải có mối liên hệ khăng khít, hữu cơ

thì người quân tử mới phát huy được sức mạnh của mình. Mục đích của giáo dục

theo Nguyễn Đức Đạt, không chỉ để làm quan, mà còn cho chính bản thân mỗi

con người về sự hiểu biết thế giới xung quanh (tự nhiên và xã hội). Do đó, ông

yêu cầu việc học là suốt đời, được làm quan lại càng phải tiếp tục học thì mới

đáp ứng được yêu cầu của “Bát điều mục” trong Nho giáo. Ngoài lĩnh vực cốt

yếu là giáo dục đạo đức, ông còn chú trọng đến giáo dục các kiến thức cần thiết,

giúp người học hiểu biết thêm về tự nhiên và xã hội mà Nho giáo gọi là “cách

vật”. Cách vật theo Nguyễn Đức Đạt, là để có kiến thức phân biệt sai, đúng;

121

danh và thực, v.v.

Phương pháp mà Nguyễn Đức Đạt chỉ ra để việc dạy và học đạt được kết

quả cao như: phương pháp chuyên cần, siêng năng; phương pháp đối thoại và

phương pháp học tập tự nhiên… mang nhiều giá trị quý báu, phù hợp với mọi

thời đại. Một trong những đóng góp của Nguyễn Đức Đạt cho phương pháp giáo

dục đương thời là học dần từng bước, không quá nóng vội để tránh “dục tốc bất

đạt”. Trong đàm thoại, ông luôn lấy những dẫn chứng cụ thể, đơn giản từ cuộc

sống thực tiễn để lý giải cho những vấn đề mang tính lý luận trừu tượng của Nho

giáo. Chính vì vậy, nhiều vấn đề đặt ra như nghèo có nên đi học không? Già rồi

còn học để làm gì? Lối siêng năng trong học tập (tam cần) là gì? v.v... Tác hại

của việc đỗ sớm mà kiến thức lại quá ít so với sự lý vô cùng trong trời đất, theo

Nguyễn Đức Đạt, vô cùng nguy hiểm. Cho nên, theo ông, học “đừng có thích

rộng, bởi rộng thì ít sáng” [32, tr.13].

Những thành công đã đạt được trong suốt cuộc đời hoạt động nhà nước và

sự nghiệp giáo dục của Nguyễn Đức Đạt đã minh chứng cho tư tưởng Nho giáo

của ông có giá trị và ý nghĩa lý luận to lớn góp phần cổ vũ tinh thần cho các Nho

sĩ trong việc phụng sự đất nước, làm giàu đời sống tinh thần, an cư lạc nghiệp

cho người dân và giúp cho triều đình xây dựng được hệ tư tưởng phong kiến dựa

trên học thuyết Nho giáo.

Thứ ba, quan niệm về học vấn, tu dưỡng và giáo hóa của Nguyễn Đức Đạt

có ý nghĩa định hướng cho chúng ta rút ra những bài học thiết thực để vận dụng

vào quá trình đổi mới nền giáo dục nước ta hiện nay

Sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay đã được

Đảng chỉ rõ, đó là đổi mới sâu sắc và toàn diện nền giáo dục do tình trạng yếu

kém cả về chất lượng và số lượng, không đáp ứng kịp thời sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trải qua một thời kỳ khá dài thực hiện công

cuộc đổi mới trong lĩnh vực giáo dục, song chất lượng và hiệu quả còn thấp; ba

nhiệm vụ “dạy chữ, dạy nghề và dạy người” thì mới tập trung vào dạy chữ nhiều

122

hơn; giáo dục tri thức được coi trọng hơn giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức;

nội dung giáo dục vừa thừa, vừa thiếu; phương pháp giáo dục chậm đổi mới,

nặng về lý thuyết mà ít thực hành, chưa coi trọng, khuyến khích người học tích

cực, năng động, sáng tạo trong học tập; một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý

giáo dục còn thiếu gương mẫu về đạo đức, lối sống... Vì thế, một việc làm cần

thiết đối với việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền giáo dục là phải tiếp thu

những tinh hoa, những tư tưởng giáo dục hiện đại của thế giới, nhưng đồng thời

phải biết kế thừa, phát huy những giá trị trong tư tưởng giáo dục và nền giáo dục

truyền thống của dân tộc, trong đó có tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt.

Một là, về mục đích giáo dục: Nguyễn Đức Đạt đã đặt ra mục đích là rèn

luyện, tu dưỡng bản thân để trở thành người tốt tính, có ích cho xã hội. Học,

trước hết theo Nguyễn Đức Đạt, là để hiểu “đạo”, để tu thân và còn nhằm tới

mục đích để làm quan, “hành đạo”, đem những kiến thức của mình vào cuộc

sống. Đây là hạt nhân hợp lý trong mục đích giáo dục của Nguyễn Đức Đạt khi

ông dành toàn bộ tâm huyết của mình vào việc đào tạo con người có đạo đức

hoàn thiện để trở thành người “quân tử” - có đạo đức và tài trí, trọng nghĩa hơn

lợi, luôn học tập, tu dưỡng và thực hành cái đức của mình. Ở nước ta hiện nay,

khi mà mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động vào cả lĩnh vực giáo dục,

đào tạo thì việc giáo dục đạo đức càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa sâu sắc.

Hai là, về nội dung giáo dục. Việc phát huy những giá trị cốt lõi trong tư

tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt về những chuẩn mực đạo đức: Nhân, lễ,

nghĩa, trí, dũng (thông qua các phạm trù đạo đức: Trung, Hiếu, Phúc, Họa) giúp

cho con người biết sống, biết hy sinh về người khác, trong đó lòng nhân ái tức là

“Nhân” là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá con người có đạo đức hay

không và phải căn cứ vào hoạt động thực tiễn của họ, dựa vào suy nghĩ và hành

động của họ.

Coi trọng, đề cao đạo đức là một trong những giá trị mà trong giáo dục và

đào tạo ở nước ta hiện nay cần chú trọng bởi lẽ việc tu dưỡng đạo đức, giáo dục

123

đạo đức truyền thống nhằm hình thành và củng cố lòng yêu nước, tự hào, tự tôn

dân tộc. Từ đó, xây dựng ý thức bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị đạo

đức, bản lĩnh đạo đức như một hoạt động biểu hiện tập trung nhất của việc giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lòng nhân ái, bao dung là nét đẹp văn hóa cao quý

trong tâm hồn con người Việt Nam. Nó được hình thành trên cơ sở nối tiếp và

phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, là tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng

đồng, tinh thần tương thân tương ái, cách ứng xử cũng như các phẩm chất: cần

cù, chăm chỉ, thông minh đều được nảy sinh từ cội nguồn đó. Vì thế, những quan

niệm của Nguyễn Đức Đạt trong việc giáo dục những phẩm chất cho con người

là những gợi mở có ý nghĩa quan trọng cho chúng ta trong việc xây dựng nội

dung giáo dục đạo đức trong chương trình giáo dục của mình. Đặc biệt trong

công tác cán bộ nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới việc đào

tạo những con người có đủ đạo đức và năng lực chuyên môn chất lượng cao đáp

ứng tình hình mới, nhất là các cán bộ cấp chiến lược.

Ba là, về phương pháp giáo dục. Phương pháp giáo dục ở nước ta hiện

nay được đánh giá có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nhưng về cơ bản vẫn còn

lạc hậu. Biểu hiện là: vẫn còn phổ biến tình trạng dạy nặng về lý thuyết mà ít

thực hành; thiên về “nhồi sọ”, truyền thụ một chiều không khuyến khích được

tính tích cực, năng động, sáng tạo của người học. Nguyễn Đức Đạt nêu phương

pháp chuyên và cần, muốn có kiến thức, theo ông nên tập trung vào việc đọc

sách thật nhiều. Đây là điều mà xã hội chúng ta cần quan tâm, khi phong trào

đọc sách trong xã hội hiện đại đang bị suy giảm, nhiều người, trong đó có cả

những người làm nghiên cứu khoa học cũng đang lười đọc, thậm chí chỉ dựa vào

các trang thông tin mạng thì kết quả nghiên cứu rõ ràng thiếu thuyết phục.

Nghiên cứu phương pháp giáo dục mà Nguyễn Đức Đạt phát triển từ Nho

giáo và sáng tạo của ông, chúng tôi thấy có thể rút ra nhiều bài học có giá trị để

vận dụng cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Trước hết là bài học về phương

pháp phát huy tính chủ động, tích cực của người học. Đây là một trong những

124

quan điểm tiến bộ của Nguyễn Đức Đạt khi ông luôn chú ý đến việc dạy học trò

tích lũy chuyên cần, chủ động, sáng tạo. Tiếp đó, bài học về phương pháp gợi

mở, gợi ý cho người học; phương pháp đối thoại hai chiều giữa người dạy và

người học nhằm phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của người học. Cả

người dạy và người học đều phải coi việc tự tu dưỡng là thường xuyên và liên

tục. Người thầy là người làm gương về đạo đức, mẫu mực để học trò noi theo.

Người học được gợi mở sự say mê, hứng thú về đạo lý, học tập đạo đức phải có

sự chủ động, tích cực, chuyên cần chăm chỉ luyện tập, thực hành đạo lý.

Ngày nay, trước những yêu cầu cũng như thay đổi của quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc giáo dục và đào tạo con người toàn diện

là một yêu cầu bức thiết. Vì vậy, tìm hiểu, nhận thức và vận dụng những giá trị

hợp lý trong quan niệm về giáo dục của Nguyễn Đức Đạt sẽ góp phần nhất định

vào việc khắc phục, loại trừ những biểu hiện, hành vi trái đạo đức và vi phạm

pháp luật trong xã hội hiện nay, phần nào khắc phục nguy cơ ngày càng tụt hậu

của giáo dục nước ta so với xu hướng giáo dục của thời đại.

Như vậy, có thể khẳng định, tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn

Đức Đạt về cơ bản mang tính tái tạo trên nền tảng của Nho giáo trong sự phát

triển ở Việt Nam thế kỷ XIX. Tư tưởng này không phải thuần túy riêng Nho, mà

là sự tích hợp, dung hợp của tam giáo với các yếu tố bản địa. Sự tích hợp hay

dung hợp đó được qui định bởi chính đời sống tinh thần của dân tộc trong bối

cảnh lịch sử cụ thể, khi nhân tố chủ quan của con người không còn mang tính thụ

động tuyệt đối, mà ở mức độ nhất định, nó thể hiện trách nhiệm đối với tồn tại của

chính chủ thể nhận thức và hành động, tới mức theo Nguyễn Đức Đạt, con người

có thể thay đổi vận mệnh của mình, chứ không phải lệ thuộc hoàn toàn vào mệnh

trời. Muốn vậy, mỗi người cần phải tích cực tu dưỡng, học tập, trau dồi tri thức, có

tâm và có đức để có thể giải quyết được các vấn đề của cuộc sống.

Tiểu kết chương 3

Tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt được trình bày

125

trong Nam Sơn tùng thoại tập trung vào các vấn đề chủ yếu là trời và thuyết

mệnh trời, quan niệm về tri thức, về “đạo”, “tâm - tính - tình” và về tu dưỡng,

giáo hóa (giáo dục). Các vấn đề này có nguồn gốc từ Tân Nho giáo Trung Hoa

thời Trung thế kỷ, song được Nguyễn Đức Đạt lĩnh hội và trình bày nó theo cách

của mình để phù hợp với hình thức “tùng đàm”, giúp người nghe lĩnh hội một

cách dễ dàng hơn.

Mặc dù việc trình bày các nội dung tư tưởng triết học và tâm tính học có

những mâu thuẫn nội tại do ông sử dụng cách lý giải vốn chịu sự chi phối của

Lão - Trang, song cách thức trình bày như vậy cũng phù hợp với tinh thần của

Nho giáo đương thời trước những vấn đề đặt ra của thời đại. Để hiểu trời và

mệnh trời, nắm được tri thức cần thiết để ứng phó với cuộc sống xã hội đang có

những diễn biến phức tạp, nói cách khác, để đạt đạo và hành đạo, con người

không có con đường nào khác là tu dưỡng theo tinh thần của Mạnh Tử và Trình -

Chu, phải “tồn tâm dưỡng tính”, nỗ lực học tập để thực hiện lý tưởng Nho gia

theo lộ trình được thiết định sẵn - đó là “Bát điều mục”.

Tuy nhiên, sự tu dưỡng hay giáo hóa theo Nguyễn Đức Đạt cùng đều

hướng tới mục đích thành danh của con người, cho nên, tư tưởng giáo dục của

ông không vượt ra khỏi phạm vi của Nho giáo, đặc biệt là Tân Nho giáo và lối

học từ chương, học cốt để đi thi. Chính vì vậy, nội dung giáo dục được trình bày

trong Nam Sơn tùng thoại vẫn không thoát được phạm vi các quan niệm đạo đức

với những chuẩn mực đã được định sẵn bởi Nho giáo Khổng - Mạnh.

Tư tưởng triết học và tâm tính học của Nguyễn Đức Đạt, theo chúng tôi,

là cơ sở lý luận được kế thừa từ Tân Nho giáo, một mặt nó phản ánh tình hình

Nho học Việt Nam thế kỷ XIX trong sự song hành với chủ trương, đường lối trị

nước của các ông vua triều Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng và đặc biệt, vào

thời của ông là Tự Đức. Vì vậy, để thấy được vai trò của tư tưởng triết học đối

với lĩnh vực trị nước và thực thi chính sự của triều Nguyễn, chúng tôi tập trung

phân tích quan điểm của Nguyễn Đức Đạt về đạo của vua, của bề tôi và vai trò

126

của pháp luật trong Nam Sơn tùng thoại.

Chương 4. TƯ TƯỞNG NGUYỄN ĐỨC ĐẠT VỀ ĐẠO TRỊ QUỐC

VÀ THỰC THI CHÍNH SỰ TRONG TÁC PHẨM

NAM SƠN TÙNG THOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

Đạo trị quốc và thực thi chính sự, như chúng ta đều biết, thuộc lĩnh vực tư

tưởng chính trị. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập ở trên, Nho giáo vốn dĩ là

học thuyết chính trị - xã hội, tức là sự hướng tới quản lý con người, định hướng

hoạt động của con người nhằm thiết lập trật tự xã hội và xây dựng mô hình xã

hội lý tưởng. Phương tiện để Nho giáo thực hiện mục đích chính trị đó chính là

đạo đức, nói cách khác, là chất liệu để Nho giáo thiết kế đường lối “đức trị”.

Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính trị

thuộc lĩnh vực chính trị - đạo đức, nó hoàn toàn phù hợp với tâm thế của Nguyễn

Đức Đạt trong bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XIX trước những yêu cầu cấp

thiết của triều Nguyễn về củng cố và phát triển nhà nước phong kiến trung ương

tập quyền hùng mạnh. Tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính trị là tư tưởng

phái sinh từ các nội dung tư tưởng triết học, tâm tính học mà chúng tôi đã trình

bày ở chương 3.

4.1. Tư tưởng về đạo trị quốc

4.1.1. Quan niệm về đạo trị nước của nhà vua

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam có nhiều quan niệm về đạo làm vua như

quan niệm của Lê Thánh Tông, Minh Mệnh, Cao Bá Quát... Về cơ bản, quan

niệm về đạo trị nước của nhà vua được các nhà nho Việt Nam nhấn mạnh yếu tố

đạo đức và đặt ra yêu cầu đối với nhà vua là phải có đạo đức, biết kính trời, biết

tự sửa mình để làm gương, biết quan tâm chăm lo đời sống của nhân dân. Chẳng

hạn Lê Thánh Tông cho rằng người làm vua phải là người: “Dưới thời nuôi dạy

nhân dân, trên thời kính trời”; “Giữ lòng trong sạch, ít ham muốn vật chất, từ bỏ

hẳn việc chơi bời săn bắn”; “Tìm người tài giỏi để bày tỏ văn nghiệp và đức độ”

127

[dẫn theo 108, tr.106]. Cao Bá Quát thì từng khẳng định đã là một ông vua thì

phải làm tròn trách nhiệm “đạo làm vua”, phải biết chăm lo cho đời sống của

người dân để học không bị đói rách, tránh được nạn binh đao: “Một ông vua tốt

có đạo đức phải học tập những bậc tiền bối trước đây, phải xây dựng được xã hội

yên bình hạnh phúc như thời vua Nghiêu, vua Thuấn” [dẫn theo 108, tr.107]. Và

các nhà vua triều Nguyễn như Minh Mệnh thì luôn đặt ra yêu cầu cao đối với

nhà vua trong đường lối trị nước của mình, đó là phải biết được sự luân chuyển

của trời đất, có tấm lòng nhân hậu và thương yêu dân, biết sửa chữa lỗi lầm của

mình để làm gương cho thiên hạ và luôn phải kính trời.

Kế thừa tư tưởng chính trị của Nho giáo, Nguyễn Đức Đạt luôn nhấn

mạnh vai trò của đạo đức trong đường lối trị nước. Ông luôn đề cao sự nêu

gương đạo đức của ông vua như quan điểm “vô vi” của Nho giáo: “Vô vi là khi

đã hữu vi xong rồi” [32, tr.132]. Ông giải thích rằng người cầm quyền phải “hữu

vi” rồi sau đó mới “vô vi”. Có thể nói, Nguyễn Đức Đạt đã thể hiện quan điểm

“vô vi” không giống như của Lão Tử (không làm gì mà làm tất cả), ngược lại

ông thể hiện quan điểm “vô vi” là phải biết chú trọng đường lối “Đức trị” và

“Nhân chính” của Nho giáo. Từ đó, Nguyễn Đức Đạt đã nêu một số ý kiến về

các mối quan hệ giữa vua với dân, vua với quan lại, vua với pháp luật và về đạo

đức của vua… trong đạo trị nước của nhà vua.

Thứ nhất, về mối quan hệ giữa vua với dân

Nguyễn Đức Đạt đã kế thừa tư tưởng của Nho giáo, cho rằng nhà vua -

người cầm quyền không được dùng những thủ đoạn tàn bạo, xảo trá trong việc

thực hiện đường lối trị nước. Bởi lẽ, sự thịnh trị của đất nước như thế nào, cuộc

sống của người dân ra sao phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức của người làm vua:

“Vua là tâm, thiên hạ là chi thể. Tâm mà nóng thì các chi thể rối loạn; tâm mà

tĩnh thì các chi thể yên ổn.” [33, tr.277]; “Người lái buôn giỏi thì quý hàng hóa;

người thợ giỏi thì quý gỗ; nhà làm ruộng giỏi thì quý thóc; kẻ sĩ thì quý kinh sử;

ông vua giỏi thì quý đạo đức.” [33, tr.257]. Theo cách lập luận của Nguyễn Đức

128

Đạt, một ông vua muốn giữ được ngôi lâu dài không những cần có oai (uy thế)

mà còn cần đến đức, bởi vì dân không sợ là do vua không oai, dân không yêu là

do vua không có đức. Đức càng nhiều thì vua càng được dân yêu, oai nghiêm

càng nhiều thì vua càng được dân trọng. Đồng thời, Nguyễn Đức Đạt còn đặt ra

yêu cầu đối với nhà vua bên cạnh tiêu chí có trí và dũng (sự thông minh và lòng

dũng cảm), thì cần thiết hơn cả là phải có nhân đức, khoan hồng và độ lượng,

biết cách giải quyết mối quan hệ với nhân dân và biết cách làm cho nhân dân, đất

nước giàu có. Khi có người hỏi: “Trí và dũng đầy đủ cả thì trị thiên hạ có khó

gì?,ông đáp: “Trí có thể kết hợp được lòng dân, nhưng không nhân thì dân không

đẹp lòng. Trí, dũng mà lại nhân thì lợi cho thiên hạ, không nhân thì nhiễu thiên

hạ” [32, tr.134].

Vốn là một nhà nho theo tinh thần chính thống, cho nên trong quan niệm

của Nguyễn Đức Đạt về “đạo làm vua” có sự chi phối rất rõ nét của tư tưởng

thân dân, ái dân theo tinh thần Nho giáo. Theo ông, trong việc trị nước, điều mà

người cầm quyền phải quan tâm trước tiên là làm sao cho đời sống nhân dân

luôn no ấm, đất nước giàu mạnh, trong chính sách cai trị của nhà vua phải có sự

biến đổi cho phù hợp với từng thời kỳ và phải biết sửa chữa những khiếm khuyết

sai lầm đã xảy ra trong thực tế, bởi ông ví “đạo trị nước” của một ông vua giống

như cái nhà, nếu bị “dột phải giọi lại cho kín, tối phải thắp đèn cho sáng. Nếu

ghét dột mà dỡ nhà đi thì hại tệ hơn dột, ghét tối mà khoét cửa đục tường, khác

nào bắc thang cho kẻ trộm!” [32, tr.132].

Tiếp nhận tư tưởng “ái dân” trong Kinh Thư, đặc biệt là chịu ảnh hưởng tư

tưởng thân dân của Mạnh Tử, Nguyễn Đức Đạt khẳng định rằng, điều căn bản

của việc trị nước là ở dân, mục đích cao nhất của việc trị nước là phải làm cho

nhân dân được yên vui, giàu mạnh. Muốn vậy thì chính lệnh phải hợp với lòng

dân và luôn được nhân dân tôn trọng, tránh tình trạng không tôn trọng chính lệnh

trong nhân dân, hay có người khinh thường chính lệnh, đặc biệt là trong nước có

129

chính lệnh hại dân thì nước sẽ loạn.

Nguyễn Đức Đạt tiếp tục khẳng định vai trò sức mạnh của nhân dân mà

người cầm quyền tài năng có thể tập hợp được dân chúng tạo nên vững bền và

giàu mạnh, ông nói: “Cốt yếu làm cho nước mạnh ở sự tu tập được dân về với

mình. Dân theo về thì đất mở mang, thóc thừa thãi mà binh cũng ganh đua. Cho

nên không thể không coi trọng dân số” [32, tr.205]. Vấn đề này đã từng có rất

nhiều nhà nho trong lịch sử nước ta đề cập đến. Đặc biệt là trong quan niệm của

Nguyễn Trãi khi đề cao tư tưởng “nhân nghĩa” và vai trò của nhân dân đối với sự

giàu mạnh của đất nước. Nguyễn Trãi từng khẳng định “việc nhân nghĩa cốt ở

yên dân”, tức là ông luôn xác định an dân là tiêu chí quan trọng của sự bình trị ở

một triều đại, một quốc gia và cần thiết phải quan tâm thường xuyên. Nguyễn

Trãi mơ ước xây dựng một xã hội mà mọi người dân đều có cuộc sống yên bình,

hạnh phúc, trên dưới hiền hòa, không có tiếng hờn giận oán sầu. Do đó, để đi tới

một xã hội thái bình thì theo ông nên thực hiện đường lối trị nước bằng văn trị và

chủ trương “hòa”: “Hòa là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc… xin bệ hạ

yêu nuôi dân chúng để cho các nơi làng mạc không còn tiếng oán giận than sầu”

[32, tr.113]. Còn Lê Quý Đôn bên cạnh việc nhấn mạnh vai trò sức mạnh của

nhân dân đối với sự tồn vong của đất nước, ông còn đề cập đến trách nhiệm của

nhà vua trong việc chăm lo đời sống muôn dân, thậm chí vua còn phải nuôi dân,

bởi nếu không làm được như vậy thì dân sẽ trở thành thù địch, vua mất ngôi và

lộc trời cũng sẽ hết “Dân được coi là gốc của nước, gốc có vững thì nước mới

yên, ý dân vì vậy mà trở thành ý trời” [108, tr.212].

Các nhà nho nước ta luôn nhận thức được vai trò và sức mạnh to lớn của

nhân dân đối với sự tồn vong của dân tộc cho nên họ đặt ra những yêu cầu đối

với người lãnh đạo đất nước làm sao để an dân. Nguyễn Đức Đạt cũng tiếp thu

quan điểm này của các nhà nho đi trước và ông cho rằng dân chúng là “cột quý

phụ” [32, tr.171] của đất nước, vì thế họ luôn cần được yêu thương, quan tâm,

giúp đỡ, tất cả mọi chính sách đều phải vì họ mà thực hiện. Theo Nguyễn Đức

130

Đạt, mọi chính sách cai trị đất nước của nhà vua cần phải lấy dân làm gốc thì

mới đạt được sự giàu mạnh và tự cường của đất nước. Từ đó ông khuyên người

cầm quyền trị dân nên khoan thư dân, nhưng cũng không nên buông lỏng hay hà

khắc hẹp hòi với dân.

Như vậy, có thể nói, mối quan hệ vua - dân trong tư tưởng Nguyễn Đức Đạt

khá rõ ràng, đó là yêu dân và đặc biệt là vua phải kính trọng dân, coi dân là chủ

tể của vua: “Yêu dân như yêu thân mình, kính như kính thân mình. Ôi! Dân là

người bảo vệ cho thân mình chẳng yêu sao được? Lại là chủ tể của thân mình,

chẳng kính sao được?” [33, tr.266]. Tư tưởng kính dân đã từng được Khổng Tử

nói đến, nhưng trong chế độ xã hội phong kiến Việt Nam thì các nhà nho trước

ông và sau ông cũng mới nói đến việc thương dân và trọng dân thôi (Nguyễn

Trãi), chứ “kính dân” thì không được ai nói tới cả. Sở dĩ Nguyễn Đức Đạt yêu

cầu nhà vua, người cầm quyền phải “yêu, kính dân” bởi ông nhận thấy được vai

trò của dân là bảo vệ vua, là chủ tể nên phải yêu và kính. Như vậy, mối quan hệ

giữa vua và dân được Nguyễn Đức Đạt chỉ ra không còn quan hệ một chiều nữa

mà đó là quan hệ bình đẳng, đôi bên báo đáp lẫn nhau. Bởi vậy, nếu “dân không

được vua cho như lòng sở nguyện, thì vua cũng không thể trưng cầu ở dân được”

[33, tr.288], làm được như vậy thì nhà vua mới được dân kính trọng và nền chính

trị mới được thịnh vượng.

Để dân quy phục, Nguyễn Đức Đạt yêu cầu nhà vua, người cầm quyền

không được để mình lười biếng, nhàn rỗi, họ luôn phải biết giữ mình để giữ dân.

Ông cho rằng, trời sinh ra vua là để giúp dân, nuôi dân, đó cũng là cách tự nuôi

mình. Thực hiện trách nhiệm của vua đối với dân trước hết là phảil àm gương:

muốn trị người thì phải tự trị mình trước, muốn dân không chơi thì tự mình siêng

năng trước: “Bắt dân cần kiệm mà mình lười biếng hoang phí, dạy dân nhân

nghĩa mà mình tàn bạo, dối trá thế là “chê điều đáng làm, làm điều đáng chê” [32,

tr.152]. Như vậy, ở đây Nguyễn Đức Đạt đã nhấn mạnh đức của người làm vua

theo quan điểm Nho giáo là phải “cần” - tức là sự cần cù siêng năng, không được

131

để cho mình nhàn rỗi - đây vừa là yêu cầu đạo đức cá nhân của người làm vua,

vừa là đạo trị dân. Điều này có ý nghĩa không chỉ đối với cá nhân nhà vua, mà

còn phải làm cho đức tính ấy được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, bởi lẽ giữ

“đức cần” là việc làm trong suốt cuộc đời mỗi người.

Bên cạnh việc yêu cầu nhà vua, người cầm quyền phải “chuyên cần”,

Nguyễn Đức Đạt còn đòi hỏi người cầm quyền, kẻ bề trên cai trị đất nước phải là

một minh quân chứ không thể là hôn quân. Bởi theo ông, một hôn quân chỉ thích

cuộc sống hưởng thụ với lầu gác cao, hồ ao sâu, vườn tược rộng, vội việc yến

tiệc vui chơi… làm ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người dân và quan trọng

hơn cả là sự phát triển của đất nước. Đòi hỏi này của Nguyễn Đức Đạt chính là

nhấn mạnh đến đường lối “Đức trị” của Nho giáo vốn lấy đạo đức của người cai

trị đất nước để làm gương và trị vì thiên hạ. Muốn làm được điều đó thì bậc

minh chúa phải có “đức cao”, ân tín phải “sâu”, thu dùng hiền tài phải “rộng”,

giúp đỡ mọi người phải “hậu”, phải “quý” mưu lược, “tôn” nho thuật, “cần” việc

cày cấy, “kíp” việc xử hình án [33, tr.267].

Một phẩm chất cần thiết nữa của một ông vua trị nước theo Nguyễn Đức

Đạt là phải lấy đạo đức làm thành, lấy nhân nghĩa làm quách, bởi thành quách

được xây dựng từ các yếu tố đạo đức ấy thì không có kẻ thù nào đánh được,

không có kẻ gian nào vào được. Phẩm chất đạo đức tốt đẹp ấy của nhà vua sẽ

hướng người dân đến việc tự giác đua nhau làm điều thiện không cần phải

khuyên. Nguyễn Đức Đạt là người từng làm quan cho triều đình, hơn ai hết, ông

thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân trong xã hội và thực chất của chế độ

phong kiến triều Nguyễn, vì thế ông đặt ra yêu cầu phẩm chất đạo đức này của

nhà vua là để đời sống của nhân dân được cải thiện, không diễn ra các phong

trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình ở nhiều nơi.

Ngoài những phẩm chất trên, theo Nguyễn Đức Đạt, ông vua còn phải biết

giữ chữ tín ở lời nói và biết trọng dụng người hiền tài, bởi ông cho rằng: “mệnh

lệnh bằng lời nói chưa bằng mệnh lệnh không phải nói. Cao Dao không nói được

132

mà làm chức Đại lý, dân vẫn không phạm pháp vì quý lời nói. Trong bụng thành

thực, ngoài mặt không lộ vẻ ghét yêu, lòng tinh thành rất mực cảm động người ta

như bóng nắng mùa đông, bóng mát mùa hạ, không phải gọi mà người ta tự đến,

nghĩ thế thì cần gì phải ra lệnh cấm cho nhiều. Cho nên ông vua chí đức cảm hóa

người cũng như ông thần ở miếu thiêng, cứ nghiễm nhiên im lặng mà dân lành

vẫn được giáng phúc” [33, tr.276]. Có thể nói những yêu cầu về phẩm chất của

nhà vua được Nguyễn Đức Đạt chỉ ra được coi là tiếng chuông cảnh tỉnh cho nhà

vua, người cầm quyền trong xã hội phong kiến đương thời về việc cần thiết phải

thay đổi để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà vua với nhân dân.

Thứ hai, về mối quan hệ giữa vua với quan lại

Đề cập đến vai trò của quan lại trong triều, Nguyễn Đức Đạt cho rằng, quan

lại là con ngựa tứ của ông vua, là cột trấn thủ, bởi “Chính nhân nói thẳng, có lợi

cho công việc nhưng trái tai. Tà nhân chỉ vâng dạ, hại cho đức, nhưng bùi tai” [33,

tr.272]. Vả lại, “vua có trực thần là gốc của việc trị, vua có nịnh thần là gốc của

việc loạn; tin người im lịm thì bại vong, theo người nói thẳng thì xương thịnh.

Tránh con đường bại vong, hướng vào con đường xương thịnh đó là đạo thường

trị”[33, tr.273]. Quan niệm này của Nguyễn Đức Đạt rất giống với quan niệm của

Khổng Tử: coi trọng những người đức ngay thẳng vì họ có thể giúp vua trở thành

bậc thánh minh, còn bọn quan lại gian nịnh thì không chỉ gieo tai họa cho dân

chúng mà còn lừa dối cả nhà vua. Nguyễn Đức Đạt chỉ ra cách thức yêu ghét của

nhà vua, đó là nhà vua nên sợ người mình yêu và nên yêu người mình sợ. Từ đó,

Nguyễn Đức Đạt cho rằng, việc điều hành đất nước là rất quan trọng, nhà vua phải

biết lắng nghe ý kiến của nhiều người (trăm quan) theo tinh thần nhiều người thì

sáng suốt hơn một người: “Ngàn người kéo không cây gỗ nào không chuyển; vạn

người đi săn không con thú nào chạy thoát, đàn sắt có một dây, gảy không nghe

được, nồi canh hòa một quả mơ ăn không thấy chua” [33, tr.262]. Vì thế, Nguyễn

Đức Đạt chỉ ra vai trò to lớn của quan lại cũng như sự cần thiết trọng dụng người

hiền tài của nhà vua để người có mưu dùng mưu, người có sức dùng sức, ai nấy sẽ

133

tự hiến tài tùy thuộc vào năng lực và tính chất của công việc.

Nguyễn Đức Đạt cho rằng, nhà vua phải biết trọng dụng người hiền tài và

xa lánh kẻ chỉ giỏi nịnh bợ để tiến thân và cầu lợi, bởi vì hiền tài là nguyên khí

của quốc gia, là vốn quý của triều đình: “Hiền tài là trời đất sinh ra và yêu quý

lắm. Người tài tất được trời soi xét, kẻ ghét người tài tất bị trời phạt! Ôi! Ghét

người tài không phải là tranh nhau với người tài, chính là tranh nhau với trời;

tranh mà không được thì không tài nào trốn khỏi trời phạt” [32, tr.257]. Từ đó

ông khẳng định vai trò quyết định của người hiền tài đối với sự tồn vong của một

triều đại: “Kẻ sĩ là rìu, là bút của nhân chúa, nên chí của nhân chúa không ngay

ngắn thì không dùng được kẻ sĩ” và nếu để “mất kẻ sĩ thì mất nước, mà mất rất

chóng; được kẻ sĩ thì nước thịnh, mà thịnh lâu dài” [33, tr.258]. Tư tưởng này

nhằm mục đích phê phán sự bất tài và thiếu lễ của các vua triều Nguyễn nên đã

không thu hút được nhân tài đảm đương việc nước. Đúng như nhận xét của GS.

Trần Văn Giàu: “Triều Nguyễn là một chế độ đang suy tàn không làm sao sinh ra

nhân tài xuất chúng, tuy vẫn có thể thấy những người có khí tiết mạnh và nhiệt

tình cao. Hơn nữa đất nước lại đang đứng trước họa xâm lược của người phương

Tây mà sự đào tạo nhân tài lại theo con đường khoa mục đã lỗi thời thì làm gì có

nhân tài đảm đương nổi việc nước. Vua quan thủ cựu như thế, tai điếc sao nghe

được đàn, mặt phẳng sao chứa được nước” [36, tr.292].

Quan lại là “những vú già, kẻ thị tỳ được nhà vua ủy thác việc giúp nuôi

dân, nên nếu làm hại dân thì tức là trái với sự ủy thác ấy” [33, tr.280] có trách

nhiệm giúp vua trị nước yên dân, làm cho dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Do đó, theo Nguyễn Đức Đạt, quan lại cần phải gắng sức trau dồi phẩm chất đạo

đức của mình cho xứng đáng với cái danh nghĩa ấy. Bản thân ông là một tấm

gương về trách nhiệm của người làm quan đối với triều đình, với nước, với dân,

dù cho làm chức vụ gì thì đối với ông, lòng thương yêu nhân dân vẫn không hề

thay đổi, lúc nào ông cũng giữ trọn đạo làm tôi với vua và tận tụy với nhân dân.

Đặc biệt, Nguyễn Đức Đạt còn nhấn mạnh sự phân công rõ ràng giữa các

134

công việc của triều chính với từng chức quan: “quan to coi việc lớn không được

lấn chức quan nhỏ, lấn thì phiền, phiền thì quan nhỏ không bẩm mệnh vào đâu,

không bẩm mệnh là sai trái. Quan nhỏ coi việc nhỏ, không được ỷ lại vào quan

trên, ỷ lại thì sinh lười biếng, lười biếng thì quan trên “vô công”, vô công là đồi

bại” [32, tr.172]. Đây là cách triển khai tư tưởng chính danh của Nho giáo Tiên

Tần, theo đó chính danh là định phận, gắn liền với chức phận được giao.

Từ đó, Nguyễn Đức Đạt đặt ra yêu cầu đối với nhà vua trong việc trị nước

là phải nghiêm với quan lại, tránh sự lừa dối của quan lại, cũng như không được

lừa dối quan lại, phải “khảo xét quan lại có trình hạn, trình hạn phải đúng thì

quan lại không có thì giờ nhàn rỗi mà làm gian tà” [32, tr.154]. Đồng thời, nhà

vua phải biết tôn trọng bề tôi, có lòng khoan dung độ lượng thì mới tận dụng

được lòng trung quân của bề tôi. Sở dĩ ông đưa ra yêu cầu như vậy là vì dưới

triều Nguyễn bọn quan lại, cường hào như những con sâu, con mọt, những loài

“rái cá” luôn tìm mọi cách cướp bóc, ức hiếp lương dân trầm trọng để nuôi béo

thân mình. Từ đó ông chỉ ra rằng, làm vua trị nước phải trừ hết bọn lai dịch, sâu

mọt đó đi; phải tiêu diệt hết bọn cường hào gian ác thì dân chúng mới được yên:

“trị nước cũng như nhổ cỏ ruộng lúa, bỏ đi ít mà lợi nhiều. Người nuôi cá ở hồ

ao phải trừ giống rái cá, huống chi là trị người” [32, tr.173]. Đây chính là tiếng

nói phê phán hiện thực xã hội Nguyễn Đức Đạt đang sống.

Thứ ba, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong trị nước

Trong khi luận chứng cho đường lối “đức trị” hay “nhân trị” của Nho

giáo, Nguyễn Đức Đạt đã có những kiến giải mang tính độc đáo trong chính sách

cai trị của nhà vua: đề cao yếu tố đạo đức nhưng vẫn nhận thấy vai trò quan

trọng của pháp luật. Bởi theo ông, dù cho ở thời kỳ nào, vua sáng suốt công

minh đến đâu thì bên cạnh việc giáo hóa muôn dân bằng các chuẩn mực đạo đức

thì vẫn cần thiết phải có việc hình án, có pháp luật để trị nước. Ông còn đưa ra

quan điểm “định lượng” cho việc phân định vương đạo với bá đạo: “Một phần

hình hai phần giáo là đạo vương, một phần giáo hai phần hình là đạo bá. Chuyên

135

hình mà bỏ giáo thì mất nước” [32, tr.221].

Nói đến việc kết hợp giữa “đức trị” với “pháp trị” trong đường lối trị nước

của các nhà tư tưởng Việt Nam trước Nguyễn Đức Đạt không thể không nhắc

đến Lê Quý Đôn. Lê Quý Đôn đã đưa ra đường lối trị nước trên cơ sở kết hợp

giữa “đức trị” của Nho giáo với “pháp trị” của Pháp gia khi ông quan niệm về

“lý” và “thế”. Từ quan niệm “lý” là ngũ thường của Nho gia và “thế” là thế lực,

sức mạnh của Pháp gia, Lê Quý Đôn đưa ra quan điểm về đường lối trị nước,

theo đó nhà cầm quyền phải biết kết hợp sức mạnh với nhân nghĩa: “Việc trong

thiên hạ không có gì ngoài “lý” và “thế”. Nhưng hai cái đó thường dựa vào nhau.

Biết “lý” mà không xét “thế” việc sẽ không thành, xét “thế” mà không biết “lý”

cũng không làm nên việc” [dẫn theo 108, tr.122]. Nguyễn Đức Đạt đã kế thừa tư

tưởng của Lê Quý Đôn về “Đức và Pháp” để khẳng định mối quan hệ giữa “Đức

và Hình” của mình: “Không có đức thì hình không nghiêm, không có hình thì

đức không quý, hình và đức phải giúp lẫn nhau mới thành chính trị” [32, tr.222].

Bên cạnh đó, Nguyễn Đức Đạt còn nói thêm rằng, khi thực hiện đường lối trị

nước, nhà vua luôn phải tuân theo pháp luật và pháp luật là để ngăn cấm vua. Ý

kiến này được coi là độc đáo, vượt ra khỏi khuôn khổ ý thức hệ của một nhà nho

phong kiến có tư tưởng chính thống, bảo thủ mà theo Lê Sỹ Thắng thì “đây là ý

kiến không có trong Tứ thư và trong di sản tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX trở về

trước” [94, tr.135]. Sở dĩ có nhận xét như vậy là bởi quan niệm của Nguyễn Đức

Đạt về mối quan hệ giữa vua và pháp luật: “Vua là để chế ngự các quan, mà

pháp luật là để ngăn cấm vua... Có cấm được mình thì mới cấm được dân, mình

không tự phạm thì dân không dám phạm” [33, tr.275]. Theo cách lập luận này

của Nguyễn Đức Đạt thì pháp luật không chỉ có tác dụng như nhau đối với mọi

người, mà ngay cả nhà vua cũng chịu sự chế định của pháp luật, mặc dù theo

quan niệm truyền thống, nhà vua là người lập ra và ban hành pháp luật, có quyền

uy tuyệt đối. Rõ ràng, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến trung ương tập

quyền, mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhà vua thì quan niệm về việc vua

136

cũng phải tuân thủ pháp luật của Nguyễn Đức Đạt là khá táo bạo.

Trong đường lối trị nước, mặc dù rất coi trọng pháp luật, bởi “bỏ pháp luật

sao trị được người” [32, tr.162], nhưng Nguyễn Đức Đạt do chịu ảnh hưởng bởi

Nho giáo và tư tưởng đức trị của Nho giáo nên ông vẫn luôn nhấn mạnh yếu tố

“đức trị” và “nhân chính” mang ý nghĩa quyết định trong đạo trị nước của nhà

vua. Theo ông, phải có sự kết hợp giữa “Đức - Nhân - Pháp”, trong đó “Đức” và

“Nhân” phải bao trùm “Pháp” thì mới đạt được hiệu quả: “Ông vua lấy oai thị

dân, là không phải đạo, mà chỉ dùng pháp luật nghiêm khắc, thì không ích gì cho

việc cai trị! Pháp lệnh không thể bỏ được, nhưng cũng không thể cậy được, chỉ

trông cậy vào pháp lệnh thì hỏng việc, tất phải đem tấm lòng nhân hậu mà thi

hành chính lệnh rõ ràng” [32, tr.157], và rằng: “Dân đã không vui sống, thì

không thể đem lễ mà tiết chế họ được, dân đã không sợ chết thì không thể đem

pháp lệnh mà cấm đoán họ được. Cho nên, đấng tiên vương phải làm cho dân

giàu rồi sau mới dạy, dạy rồi sau mới dùng hình pháp” [32, tr.159]. Cách lập

luận này của Nguyễn Đức Đạt là muốn nhấn mạnh quan điểm đức trị trong chính

sách cai trị của nhà vua. Điều này thể hiện quan điểm trị nước của Nguyễn Đức

Đạt là dựa trên nền tảng kết hợp đức trị với pháp trị, tùy thuộc vào điều kiện cụ

thể để điều chỉnh giữa đạo đức và hình phạt.

Nguyễn Đức Đạt còn đề cập đến việc lập pháp làm sao cho thuận lòng

dân, cho mềm dẻo, theo tinh thần của đạo đức và vì đạo đức, lấy lợi ích, nguyện

vọng của dân làm gốc, lấy ngay thẳng làm chuẩn đúng. Muốn vậy, nhà vua phải

tự mình giản kiệm, tức là phải tự mình biết giản ước những điều ham muốn dục

vọng, lấy mục đích là vì dânthì dân mới tin theo và thuần phục. Khi có người hỏi

về trị pháp, ông đáp: “Phép cần phải giản ước”. Lại hỏi: Thế nào là giản

ước?,ông nói: “Mình ăn cơm với muối thì thiên hạ không ai đói, mình mặc sồi

vải thì thiên hạ không ai rét; mình dùng đồ sành gốm thì thiên hạ không ai xa

phí. Người khéo lập pháp phải tự mình giản ước để giản ước cho dân, thì lòng

ham muốn yên lặng mà cái vạ tranh đoạt cũng hết. Hiệu nghiệm của việc giản

137

ước là ở dân, mà cầm cái quyền ấy thì ở vua” [32, tr.159]. Tư tưởng này của

Nguyễn Đức Đạt nhằm hướng đến việc xây dựng tinh thần tiết kiệm của những

người cầm quyền - những người đề ra và thực hiện quyết sách của nhà nước nếu

biết giản ước, tiết kiệm tiền của dân, không phung phí thì chắc chắn đời sống của

người dân sẽ được nâng cao. Tư tưởng này của Nguyễn Đức Đạt cũng chính là

sự phê phán các vua triều triều Nguyễn lúc bấy giờ đã làm nhiều việc như xây

thành đắp lũy, làm nhiều lâu đài, lăng mộ đồ sộ đã tốn không biết bao nhiêu tiền

bạc của dân mà ít quan tâm đến việc trị thủy, nạo vét kênh mương, trang bị vũ

khí cho quân đội làm cho đời sống nhân dân thời kỳ hết sức cơ hàn, khổ cực và

thực dân Pháp dễ dàng xâm lược nước ta.

Cách thức lập pháp theo Nguyễn Đức Đạt cũng phải hết sức mềm dẻo, lập

pháp cũng phải thực hiện sự kết hợp giữa giáo dục, cảm hóa, sự bao dung, độ

lượng, ân đức bởi ông cho rằng lấy giáo hóa mà phòng ngừa, lấy ân đức mà cố

kết thì tiếm loạn không tự đâu mà sinh ra. Đặc biệt, trong cách thức lập pháp,

ông còn nhấn mạnh đến việc phải lấy lợi ích và nguyện vọng của người dân làm

gốc bởi “Thuận nhân tình thì được lâu. Rễ bèo cắm xuống nước, rễ cây cắm

xuống đất, gặp nắng bèo tất khô, đưa cây xuống nước, cây tốt nhất, có thể đứng

mà đợi được.” [32, tr.161]; “Dân như ngựa, không roi vọt thì sức ngựa không

mệt, bình dị chính lệnh thì dân sinh không quẫn” [32, tr.176]. Do đó, nếu “dây

cương gò quá, ngựa non không chạy được, pháp lệnh nghiêm quá, dân chúng

không hài lòng được” [32, tr.174] và nhà vua muốn lập pháp cho công “phải lấy

ngay thẳng làm chuẩn đích” [32, tr.253]. Có thể nói, yêu cầu về cách thức lập

pháp đặt lợi ích của nhân dân lên cao nhất và đòi hỏi sự tôn trọng chính lệnh của

cả nhà vua quả là một tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ chế độ phong kiến tập

quyền còn hết sức hà khắc.

Thực chất của “đức trị” và “nhân chính” theo tư tưởng của Nguyễn Đức

Đạt là làm sao cho những yêu cầu của pháp luật trở thành những nhu cầu của đạo

đức để có thể thực hiện một cách tự giác tự nguyện: “Xe không có cái chốt sắt ba

138

tấc ở đầu trục thì không đi được, cửa không có cài then năm bậc thì không mở

đóng được. Tinh thần của người ta không thể đem mà dạy bảo người, nhưng có

thể làm cho người hiểu” [32, tr.163]. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, trong

quan điểm của Nguyễn Đức Đạt về chính sách cai trị đất nước luôn có sự kết hợp

giữa quan điểm “đức trị” với những yếu tố tích cực của “pháp trị”. Quan điểm

này của ông không phải là mới, song trong bối cảnh xã hội đương thời, việc nhấn

mạnh sự kết hợp giữa “đức trị” và “pháp trị” phần nào đã cảnh tỉnh và phê phán

sự lạm dụng hình phạt trong việc trị nước của chế độ thống trị triều Nguyễn.

Như vậy, khi bàn về đường lối trị nước, Nguyễn Đức Đạt đã đứng trên

quan điểm của Nho giáo chính thống, đồng thời có sự kết hợp với tư tưởng của

Pháp gia. Qua việc giải thích làm sâu sắc thêm những quan điểm của Nho giáo về

đạo trị nước của nhà vua, Nguyễn Đức Đạt còn nêu ra những ý kiến độc đáo chưa

từng có trong lịch sử, từ đó ông cố gắng lồng ghép việc giải thích cho người đọc

hiểu về thực chất đường lối trị nước mà triều đình nhà Nguyễn đang thi hành lúc

bấy giờ và những khát vọng của ông với tư cách một người dân trong xã hội đó

muốn bứt ra khỏi chế độ hà khắc của các vua nhà Nguyễn. Đặt trong bối cảnh xã

hội lúc bấy giờ, rõ ràng những tư tưởng về mối quan hệ giữa vua với dân, vua với

pháp luật và đạo đức của vua trong đường lối trị nước của Nguyễn Đức Đạt không

chỉ có giá trị tiến bộ mà còn chứa đựng cả yếu tố hiện thực nhất định.

4.1.2. Quan niệm về bổn phận của bề tôi

Trong Nho giáo Khổng Mạnh, bổn phận của bề tôi là phải luôn tận trung

với vua, với những bậc minh quân có đạo đức, chứ không hẳn là sự phục tùng

của bề dưới đối với bề trên một cách tuyệt đối. Theo Khổng Tử, bề tôi phải có

nghĩa vụ phụng sự nhà vua (trung), đồng thời cũng phải biết phụng dưỡng cha

mẹ một cách thành kính (hiếu).

Về bổn phận của bề tôi đối với vua: bề tôi phải có trách nhiệm xem xét

đường lối trị nước của nhà vua như thế nào để thực hiện đạo làm tôi cho phù

hợp. Tức là khi thấy vua thi hành đường lối vương đạo thì bề tôi phải trung, còn

139

nếu thấy vua đi theo đường lối bá đạo thì bề tôi phải biết khuyên can vua.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đã từng có những quan niệm về bổn

phận của bề tôi hết sức cứng nhắc khi cho rằng, bề tôi phải tận trung với vua,

biết chiều theo ý thích của vua không kể ý thích ấy có lợi hay có hại, có như thế

mới làm tròn được đạo làm tôi. Với các quan niệm như vậy về bổn phận của bề

tôi đã dẫn họ đến việc xác định trung với vua là nguyên tắc tối cao, là động lực

thúc đẩy mọi hành động của họ cho dù họ có bị trói chặt bản thân mình vào cá

nhân ông vua. Chẳng hạn Lê Quý Đôn - một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà bách khoa

toàn thư đã hết mực trung thành với một chúa Trịnh; hoặc Lý Trần Quán tự chôn

sống mình để chuộc lỗi bất trung khi học trò của ông là Nguyễn Trang đã bắt

chúa Trịnh Tông nộp cho Nguyễn Huệ.

Nhưng trong lịch sử dân tộc ta cũng có nhiều nhà nho có tư tưởng tiến bộ

vượt ra ngoài ý nghĩa kinh điển về bổn phận của bề tôi, đem lại cho nó một ý

nghĩa mới như Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng

rất sùng Nho, tin Nho nhưng ông đã dứt hẳn quan niệm “Tôi trung không thờ hai

vua”, đồng thời tiếp thu quan điểm “minh lương” trong quan niệm về đạo làm tôi,

theo ông cần phải biết lựa chọn vua sáng để thờ. Vì thế ông sẵn sàng phò nhà Hồ

khi nhà Trần đã mục nát đi ngược lại lợi ích của người dân. Còn khi cuộc kháng

chiến của nhà Hồ thất bại, Nguyễn Trãi không giống nhiều trung thần thời kỳ ấy

là tìm đến cái chết để giữ trọn đạo làm tôi, mà ông hướng vào Lam Sơn tìm đến

Lê Lợi với tinh thần tìm vua anh minh để thờ và đi theo tiếng gọi giải phóng dân

tộc. Trong suốt cuộc đời Nguyễn Trãi, ông luôn chứng tỏ trách nhiệm của một

công thần không chỉ biết trung với vua mà còn phải biết chú trọng đến lợi ích

quốc gia dân tộc; trung quân gắn liền với “ái quốc”, “ái dân”. Ngô Thì Nhậm

cũng vậy, ông là một người được hưởng nhiều ân huệ của triều đình Lê - Trịnh

bởi được sinh ra trong một dòng họ nhiều đời đỗ cao, có cha là Ngô Thì Sĩ làm

quan dưới triều Lê Trung Hưng và bản thân ông đã từng hết sức tôn sùng nhà

Chúa. Nhưng khi thực tiễn đất nước đặt ra những yêu cầu mới, khi lợi ích của

140

triều đình đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc thì quan niệm về trách

nhiệm của bề tôi ở Ngô Thì Nhậm đã có sự thay đổi, ông quyết định đi theo

Nguyễn Huệ, cống hiến mưu lược và tài năng của mình cho sự nghiệp tiêu diệt

đạo quân xâm lược nhà Thanh, đưa sự nghiệp chống ngoại xâm đến thắng lợi vẻ

vang. Hành động này đã chứng tỏ quan niệm về bổn phận của bề tôi của Ngô Thì

Nhậm đã có sự tiến bộ vượt ra ngoài những lý luận bảo thủ của Nho giáo.

Kế thừa tư tưởng của các bậc tiền bối về bổn phận của bề tôi trong lịch sử

dân tộc, Nguyễn Đức Đạt cho rằng, bề tôi phải có trách nhiệm tận trung và trách

nhiệm đối với vua. Ông cũng nhấn mạnh đức tính quan trọng mà bề tôi phải làm

là “trung tín”, nghĩa là phải trung với vua và được vua tin dùng. Như khi trả lời

câu hỏi: “Làm tôi mà “tiên ý thừa chí” có phải là trung không?,ông đáp: Thế là

để giữ lấy bổng lộc, rất hại cho đạo trung. Lại hỏi: Thế thì vua có nhầm thì chê,

có lỗi thì vạch ra, có là trung không? Ông đáp: “Thế là mua danh, cũng là trung,

nhưng bậc dưới. Theo ta nghĩ thì người trung thần thấy vua có điều thiện, phải

tuyên dương để khuyên, thấy vua có điều bất thiện, phải mềm dẻo để can ngăn.

Tiếng khen phải dành cho bề trên mà điều oán thì về kẻ dưới, sự nhàn rỗi phần

vua mà sự khó nhọc thì phần bề tôi. Thế gọi là trung thần” [33, tr.280]. Theo

cách lập luận này của Nguyễn Đức Đạt thì bề tôi phải biết can vua khi vua sai

trái, giúp vua trở nên Nghiêu Thuấn mà không kể công nhưng sự can ngăn phải

hết sức khéo léo, không được cứng nhắc bởi không khéo léo thì dù là bề tôi trung

thành nhưng vua sẽ không nghe theo, can ngăn phải dùng cách “phúng” - “tức là

không nói thẳng mà dùng việc khác để nói bóng gió” [33, tr.282]. Muốn vậy, bề

tôi phải có “thuật” để luôn giữ nghĩa mà làm việc, có lòng cung kính và cẩn thận,

để khi vua làm hết đạo vua, thì tôi cũng sẽ thể hiện hết đạo làm tôi và ngược lại.

Có thể nói, do tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, trong sách

Nam Sơn tùng thoại, khi nói về mối quan hệ vua - tôi, phạm trù đạo đức nổi lên

là phạm trù “trung” với tư cách là khái niệm trung tâm để khẳng định đức tính

lớn của bề tôi là trung tín và ưu cần: “Trung tín là cội gốc của đức. Nếu cội gốc

141

không ra cội gốc, thì dẫu đào đào, nạy nạy làm cho tốt lên cũng vô bổ cho đức,

ưu cần là nền tảng của nghiệp, nếu nền tảng không ra nền tảng thì dẫu khẩn khẩn

khoản khoản để tỏ lòng trung cũng vô ích cho nghiệp” [33, tr.287]. Cũng giống

như Nho giáo Khổng - Mạnh, Nguyễn Đức Đạt nhấn mạnh chữ “trung” chủ yếu

trong quan hệ vua - tôi. Ông cho rằng, quan hệ vua - tôi là quan hệ phụ thuộc:vua

có đức thì tôi mới trung, bổn phận của bề tôi là trung quân. Tuy nhiên, ông

không nhìn nhận trung quân một cách cứng nhắc mà đưa ra quan điểm “minh

lương” để cổ vũ cho chữ trung “Đấng minh chúa thì đạo đức phải “cao”, ân tín

phải “sâu”, thu dùng hiền tài phải “rộng”, giúp đỡ mọi người phải “hậu”, phải quý

“mưu lược”, “tôn” Nho thuật, “cần” việc cày cấy, “kịp” việc xử hình án. Hôn quân

thì không thế, chỉ thích lầu gác cao, hồ ao sâu, mở rộng vườn tược, thân với kẻ kỹ

xảo, quý của châu ngọc, yêu kẻ quyền gian, thích săn bắn, ham yến tiệc” [33,

tr.267]. Ở đây, Nguyễn Đức Đạt muốn phân biệt minh quân và hôn quân để đi đến

khẳng định rằng, nếu vua đòi bề tôi trung thì vua phải sáng, phải là một minh

quân. Từ đó ông chỉ ra hai đầu không thế tách rời của một chiếc cầu: muốn là

“minh quân” thì vua phải đạo vua, muốn là “lương thần” thì tôi phải đạo tôi và

yêu cầu kẻ bề tôi cần phải biết lựa chọn người “minh quân” sáng suốt để phục vụ

và phải có trách nhiệm giúp minh quân giữ gìn pháp luật cho đúng đắn. Điều này

khẳng định đóng góp của Nguyễn Đức Đạt không chỉ thể hiện trên bình diện tư

tưởng, mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn cuộc sống.

Trong quan niệm về “trung”, Nguyễn Đức Đạt kịch liệt phê phán những

kẻ nịnh thần chỉ biết lựa lời đón ý làm hài lòng nhà vua để vinh thân phì gia, rất

có hại cho “đạo trung”. Vì vậy, ông đã chia “đạo trung” thành những thứ bậc

khác nhau: trung bậc dưới, trung thần và đại trung thần. Sự phân chia này được

Nguyễn Đức Đạt lý giải như sau: bề tôi có nghĩa vụ phục vụ vua nhưng nếu bề

tôi đơn thuần thấy vua lầm lẫn mà chê bai, thấy vua có lỗi mà vạch ra thì đó

được gọi là “trung”, nhưng là “trung” ở bậc dưới. Trung thần chính là người

“thấy vua có điều thiện, phải tuyên dương để khuyến, thấy vua có điều bất thiện,

142

phải mềm dẻo để can ngăn. Tiếng khen phải dành cho bề trên mà tiếng oán thì về

kẻ dưới, sự nhàn rỗi về phần vua mà sự khó nhọc thì phần bề tôi” [33, tr.280].

Cao hơn trung thần là đại trung thần, là người khi thấy vua lầm lẫn phải “lấy đức

dẫn đạo cho lòng mờ tối của vua sáng tỏ ra, đem đạo mà bày tỏ cho lòng ác tâm

của vua tiêu tán đi” [33, tr.281], phải có trách nhiệm giáo dục đạo đức, đạo làm

vua cho nhà vua. Như vậy, bổn phận của trung thần, đặc biệt là đại trung thần là

phải đem hết mưu lược và tài trí của mình làm cho vua trở thành bậc minh quân.

Quan niệm “trung” trong tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt không mang tính

thụ động cứng nhắc, mà ngược lại, ông đã mở rộng khái niệm “trung” với theo

hai chiều hướng của quan hệ quân - thần: quân lương, thần trung, điều đó góp

phần khắc phục sự ngu trung, đồng thời làm sống lại ý nghĩa tích cực của chữ

“trung”. Điều đáng tiếc là ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo chính

thống, một lòng một dạ tôn quân quyền nên chỉ đề cập tới “trung quân” mà

không nói đến “ái quốc” trong mối liên hệ mật thiết của các phạm trù này, và nếu

có nói đến “ái quốc” thì cũng chỉ là yêu “nước nhỏ” của bản thân ông vua mà

thôi. Tuy nhiên nếu xem xét trong tương quan với các quan niệm khác nhau về

trung quân của những nhà tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX, chẳng hạn như

Nguyễn Công Trứ với tư tưởng trung quân gắn liền với đạo hiếu: “Có trung hiếu

nên đứng trong trời đất, Không công danh thì nát với cỏ cây”; còn Nguyễn Đình

Chiểu viết: “Hai chữ cương thường giằng cả nước, Một câu trung hiếu dựng lên

nhà”, thì quan niệm “trung” hay “đại trung” của Nguyễn Đức Đạt cũng đã thể

hiện tính chất tiến bộ nhất định khi ông lấy Đạo và Đức (có khi được gộp lại

trong khái niệm “Thiện”) làm tiêu chuẩn cao nhất mà người bề tôi phải dựa vào

đó để phụng sự nhà vua: “trước hết và bao giờ cũng tuyệt đối trung thành với

đạo và đức chứ chưa hẳn là cá nhân ông vua” [60, tr.38].

Về bổn phận của bề tôi đối với cha mẹ: thực chất đây là việc thực hành

đạo “hiếu” của đội ngũ quan lại - với tư cách là những người con trong gia đình

thực hiện đạo hiếu với cha mẹ. “Hiếu” là một phạm trù đạo đức chiếm một vị trí

143

rất quan trọng trong Nho giáo Khổng - Mạnh và rất được đề cao bởi các nhà nho

sau này. Nội dung phạm trù “hiếu” của Khổng - Mạnh được hiểu là: biết phụng

dưỡng cha mẹ mình một cách thành kính khi cha mẹ còn sống; biết tiếc thương

cha mẹ và cử hành tang lễ theo đúng lễ nghi khi cha mẹ qua đời; luôn gần gũi,

quan tâm đến tuổi thọ của cha mẹ mình, nếu có đi xa thì cần nói cho cha mẹ biết

để cha mẹ khỏi lo lắng; biết giữ gìn thân thể của mình và khuyên can cha mẹ khi

cha mẹ mắc sai lầm. Tăng Tử thậm chí còn mở rộng đạo hiếu một cách thái quá,

vượt ra ngoài phạm vi gia đình, đi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,

cho rằng “cư xử không nghiêm không phải hiếu, thờ vua không trung không phải

hiếu, ra trận không can đảm không phải hiếu…” [59, tr.229]. Sang Hán Nho,

phạm trù “hiếu” được nhắc đến không chỉ là việc thờ cha mẹ mình mà còn bao

hàm cả việc thờ vua, vì thế ở Hán Nho, mặc dù khái niệm “trung” đã được đưa

lên hàng đầu nhưng các nhà nho đã khéo lồng vào nó “chữ hiếu” và đem trung

hiếu hòa vào làm một. Đồng thời, họ còn đặt ra yêu cầu trung hiếu đều phải tuân

theo mệnh trời. Thế nên, ở thời kỳ Hán Nho trung hiếu trở thành trụ cột, là công

cụ đắc lực để giai cấp thống trị củng cố vương triều của mình.

Ở Việt Nam, đạo hiếu được hình thành từ rất sớm, trong truyền thống tập

quán lâu đời của nhân dân ta như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, trọng lão, kính

trưởng… Từ khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, đạo hiếu dần trở thành hệ tư

tưởng chính thống của các triều đại phong kiến và được các nhà nho Việt Nam

nhắc đến nhiều. Ở Việt Nam, đạo “hiếu” cùng với đạo “trung” hợp thành cụm từ

đạo đức thông dụng là “trung hiếu” có ảnh hưởng không nhỏ trong nhân sinh

quan của người Việt.

Các triều đại phong kiến Lê - Nguyễn đều lấy đạo hiếu làm nguyên tắc,

chuẩn mực để điều chỉnh hành vi của con người trong gia đình, trong rèn luyện

nhân cách và sự ràng buộc của các mối liên hệ giữa con người với nhau, đặc biệt

là trách nhiệm báo đáp của con cháu đối với ông bà, cha mẹ cả khi họ còn sống

cũng như đã khuất. Theo đó, đạo làm con phải hiếu kính với cha mẹ, phải luôn

144

biết nghe lời cha mẹ, sớm khuya phụng dưỡng khi cha mẹ già nua và không

được để cha mẹ thiếu thốn. Sau khi cha mẹ mất phải tiến hành các việc tế tự và

mai táng đúng với tục lễ. Ngoài ra, còn phải có con trai để nối dõi… Tội bất hiếu

được coi là một tội nặng trong thập ác. Nhà Nguyễn với chủ trương trọng Nho,

cho nên phạm trù “hiếu” cũng được đặc biệt quan tâm không chỉ trong đời sống

thường nhật của con người, mà cả trên lĩnh vực chính trị - đạo đức.

Vì vậy, quan niệm trung hiếu được các nhà Nho Việt Nam xác định là

những giá trị đứng đầu trong thang giá trị đạo đức của Nho giáo. Trong quan

niệm trung hiếu, tam cương ngũ thường được dùng làm thước đo giá trị cơ bản

nhất của con người. Đối với các nhà nho, đạo đức được xem là tiêu chí số một,

với hai đặc trưng cơ bản thể hiện thông qua các mối quan hệ: chữ trung đặc

trưng cho quan hệ vua - tôi, chữ hiếu đặc trưng cho quan hệ cha - con. Như

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng nói: Vua tôi cha con là nghĩa cương thường bền

vững nghìn đời, hay Nguyễn Công Trứ từng khẳng định: Có trung hiếu nên đứng

trong trời đất, còn Nguyễn Đình Chiểu viết: Hai chữ cương thường giằng co cả

nước, Một câu trung hiếu dựng lên nhà.

Kế thừa quan niệm về đạo hiếu trong Nho giáo, Nguyễn Đức Đạt cũng rất

đề cao đạo hiếu, ông đặt chữ “hiếu” ngang hàng với chữ “trung”. Khi có người

hỏi: “Trung với hiếu điều nào trọng? Ông đáp: “Nên hiếu thì phải hiếu, nên trung

thì phải trung, đằng nào cũng có phần trọng”. Lại hỏi: Kẻ liệt sĩ đành chết để làm

trọn đạo trung thế không phải là trái đạo hiếu ư? Ông đáp: “Coi việc trái đạo

hiếu lại chính là làm việc hiếu. Trung vẹn được tức là hiếu” [33, tr.292]. Nếu

như chữ “trung” đặc trưng cho quan hệ vua - tôi thì chữ “hiếu” là đặc trưng cho

quan hệ cha - con. Đây là hai mối quan hệ cơ bản trong tam cương của Nho giáo.

Ở đây, Nguyễn Đức Đạt thừa nhận vai trò của trung và hiếu là như nhau, tức là

theo ông, kẻ sĩ trung thành với vua thì đồng thời cũng phải có hiếu với cha mẹ.

Khi ông nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện đạo trung không có nghĩa là trái

với đạo hiếu, kẻ sĩ thực hiện việc trung thành tuyệt đối với nhà vua thì sẽ luôn

145

biết quan tâm, phụng dưỡng và hiếu kính với cha mẹ. Từ đó, Nguyễn Đức Đạt

đặt ra yêu cầu đối với việc thực hiện đạo hiếu là “cha từ, con hiếu, anh thuận, em

cũng thuận, chồng kính, vợ nghe, bạn bè tin nhau” [33, tr.292].

Trong học thuyết chính trị - đạo đức của Nho giáo, gia đình là đơn vị cơ

bản nhất và có vai trò quan trọng như một tế bào cấu thành nên cơ thể xã hội,

thậm chí gia đình còn được hiểu là xã hội thu nhỏ, là gốc của mọi quốc gia, là

nơi tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và hình thành nhân cách của con người. Vì vậy,

Nguyễn Đức Đạt đã nêu quan niệm của mình về “trung hiếu” cũng như cách

thức thực hành “trung hiếu” theo tinh thần “tự nhiên, nhi nhiên”. Ông nói:

“Trung hiếu là tự làm hết chức phận. Nếu cho rằng: bề tôi trung để đáp lại vua,

thế là đạo trung đã suy; con ở hiếu để đền ơn cha, thế là đạo hiếu còn kém (chữ

in nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh-TTN). Cho nên, lấy trung mà đáp lại lễ của

vua, lễ suy thì trung cũng suy, lấy hiếu mà đáp lòng từ của cha, từ kém thì hiếu

cũng bạc. Chứ tự mình ghi ơn lễ và từ ở trong lòng, mong báo đáp quân thân ở

trên thì sao bằng quên cả lễ lẫn từ, mà tự nhiên thật trung, thật hiếu” [33, tr.295].

Tư tưởng này được thể hiện cụ thể với cá nhân Nguyễn Đức Đạt, đó là sự kính

trọng phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ còn sống và tang ma chu đáo khi cha mẹ

mất. Việc lựa chọn chức Đốc học Nghệ An thay vì nhận chức Đốc học Hà Nội

để tiện chăm sóc các cụ thân sinh của ông có thể là dẫn chứng cho việc thực

hành đạo hiếu của Nguyễn Đức Đạt. Sự lựa chọn đó có nhiều ý kiến khác nhau

và thể hiện sự tiếc nuối của nhiều người nhưng ông vẫn quyết tâm với con đường

thực hiện đạo hiếu. Điều này được lý giải trong cuộc đối thoại giữa ông và học

trò: Một học trò có hỏi: “Châu Hoan ta quê mùa sao bằng đất Hà thành hoa lệ?”.

Ông đáp rằng: “Ta được nhân lúc sách đèn nhàn rỗi để phụng thờ hai thân là yên

tâm rồi, lo gì quê mùa” [33, tr.406].

4.2. Tư tưởng về chính sự và thực thi chính sự

4.2.1. Quan niệm về chính sự

Quan niệm về chính sự được Nguyễn Đức Đạt trình bày trong thiên thứ 12

146

của Nam Sơn tùng thoại, nhan đề “Chính thuật”. Ông cho rằng, chính sự là để

dẫn đạo dân mà điều cốt yếu của nó được ông lý giải như sau: “Vạn mũi tên

cùng một cái máy, máy mà nhạy thì đích phải vỡ, vạn cái mắt (mắt lưới) cùng

một cái dây lưới, nhấc dây lưới lên thì mắt phải căng ra. Ấy là điều cốt yếu” [32,

tr.170]. Bản chất của chính sự là cách trị nước, cho nên “chính sự không phiền

nhiễu, chính sự mà phiền nhiễu còn tệ hơn giặc” [32, tr.171]. Đây là ý được rút

ra từ bài học thất bại của chính sự nhà Hồ (1400-1407) do thi hành chính sự

phiền hà, dân không chịu nổi. Chính vì vậy, Nguyễn Đức Đạt cho rằng, để chính

sự thuận thiên, việc được lợi thì “phải cân nhắc xem cái nào tệ nhỏ mà thiện lớn,

kén chọn lấy cái nào hại ít mà lợi nhiều. Còn bảo pháp không có tệ, công không

có hại, thì dẫu đời xưa cũng không có. Hễ cố chấp thì cùng, hoạt bát thì thông”

[32, tr.171]. Khi được hỏi về cách trị nước, ông trả lời việc trị nước cũng như

làm nhà, mà nhà thì có bốn cột. Cột không ra cột thì nhà không ra nhà.

Chính sự và giáo huấn là hai lĩnh vực quan trọng của đạo trị nước theo

tinh thần Nho giáo. Cho nên theo ông, “Chính lúc mới [đặt] phải sơ lược, khi

pháp lệnh đã thi hành, mới cầu cho tường tận; Giáo lúc mới [mở] phải đơn giản,

khi đức hóa đã lưu hành mới cần cho hoàn bị. Chưa nên tường tận mà đã tường

tận, gọi là phiền chính. Phiền chính thì khổ dân, chưa nên hoàn bị mà đã hoàn bị

gọi là hư giáo, hư giáo thì bại tục” [32, tr.170].

Không chỉ trong thiên “Chính thuật”, ở một số thiên khác Nguyễn Đức

Đạt cũng bàn về thuật trị nước, chẳng hạn trong thiên “Trị đạo” ông yêu cầu nhà

vua phải bắt chước trời đất trong đường lối trị nước của mình. Ông nói: “Lấy

lượng khoan hồng để che chở, thế là trời, lấy lòng nhân hậu để làm nền tảng thế

là đất” [32, tr.136]. Do đó, theo ông việc trị nước “phải lấy lý mà cân nhắc, lấy

thế mà uốn nắn, lấy pháp lệnh mà khu xử, lấy hình phạt và kiềm chế, thì tệ nào

cũng trừ được, công nào cũng thành được” [32, tr.136]. Tuy nhiên, mục đích của

việc trị nước là làm cho nước được trị, khắc phục được tình trạng loạn lạc. Nước

trị hay loạn do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan và người xưa thường

147

quan niệm sự trị loạn thay thế nhau theo thời và qui luật tuần hoàn vãng phục

được trình bày trong Kinh Dịch. Khi có người hỏi về nước trị, loạn, Nguyễn Đức

Đạt đáp: “Nước sở dĩ trị, có 2 điều, sở dĩ loạn có 3 điều. Chốn phong khuê mà

trong sạch thì bên trong mạnh; các ban các cấp mà kính cẩn thì việc bên ngoài

làm được tốt, thế là nước trị. Trong cung có người vợ chuyên phòng15, lại có

người thiếp nghi kỵ vợ cả là trong cung loạn. Trong triều có kẻ gian trộm quyền,

lại có bè đảng hùa theo kẻ gian là triều đình loạn. Trong nước có chính lệnh16 hại

dân lại có người dân khinh thường chính lệnh là nước loạn” [32, tr.137].

Nhà nho trọng danh hơn lợi, song danh phải đi với thực, vì vậy Khổng Tử

đã nêu thuyết Chính danh, còn lợi phải hợp với nghĩa, thậm chí khi nhìn thấy cái

lợi thì phải nghĩ xem nó có hợp với nghĩa không (kiến lợi tư nghĩa). Trong quan

niệm về đạo trị nước, Nguyễn Đức Đạt khẳng định phải trọng cả danh và lợi.

Ông nói: “Lợi ở đất mà ra, người chăm làm ruộng thì thưởng, người lười làm

ruộng thì phạt, thế thì dân sẽ đua nhau làm lợi. Danh do việc mà ra, người chăm

việc thì cất nhắc lên, người nói phiếm thì bỏ đi, thế thì kẻ sĩ sẽ đua nhau cầu

danh. Dân đua lợi thì đất không bỏ hoang, sĩ đua danh thì việc không hỏng. Ấy

là nòng cốt của việc phú cường, cũng là hiệu quả của nhân nghĩa” [32, tr.139].

Nói tóm lại, để nước được trị thì chính sự phải dựa vào pháp luật, song

pháp luật mà thiếu sự kết hợp của nó với đạo thì không chế phục được thiên hạ.

Ngay cả khi có sự kết hợp ấy thì việc trị nước phải dựa vào thế. Bởi lẽ, theo ông:

“Pháp mà không có thế thì không dùng nổi, đạo mà không có thế thì không làm

được. Nếu nắm được thế thuận lợi thì chỉ giữ chỗ cốt yếu mà làm được rộng khắp”

[32, tr.147]. Dù bất luận trong trường hợp nào, với tư cách một nhà nho, Nguyễn

Đức Đạt bao giờ cũng đề cao vai trò của đức trị. Người cầm quyền có khả năng trị

nước tốt là người biết tự cường trên nền tảng đạo đức. Ông cho rằng, “Gọi là tự

cường là cường về đạo, trái đạo thì nhược, phải đạo thì cường, không lấy sức mà

15Chuyên phòng: quỹ lấy chồng, không nhường cho vợ lẽ. 16Coi thường chính lệnh: Chữ Hán là thắng chính. Hoài Nam tử nói: Dân mà thắng được chính lệnh thì kẻ dưới phản người trên, việc binh sẽ yếu.

148

đua được... Ôi! Đạo là cái thuyền trị nước; trị nước gốc ở yên dân, yên dân gốc ở

tu thân, tu thân gốc ở sửa tính. Tính đã sửa được thì bình tĩnh, bình tĩnh thì hư

không; chỉ có hư không mới có thể yên vào đạo, chỉ có bình tĩnh mới có thể giữ

vững đạo. Ôi! Hư không, bình tĩnh là nhu, tính phải có nhu mới thắng được

cường. Cường chỉ thắng được người không bằng mình, nhưng sức ngang nhau thì

bị hạn chế. Còn nhu thì thắng được kẻ hơn mình, sức của nó không chừng. Cho

nên có câu nói rằng: “Trái đạo thì yếu, phải đạo thì mạnh”[32, tr.150].

Trong tư tưởng trị nước và thực thi chính sự, lĩnh vực đối ngoại cũng được

Nguyễn Đức Đạt quan tâm đáng kể. Trước hết ông yêu cầu phải đề cao tính tự trị.

Có người hỏi cách giao hiếu với nước láng giềng và cách đối đãi nước lớn như thế

nào? Ông đáp: “Phải tự trị mà đợi thời”; Lại hỏi: Đưa nhiều lễ vật có nên không?

Ông đáp: “Khó lòng thỏa mãn được”; Lại hỏi: Lấy lời khiêm tốn có nên không?

Ông đáp: “Khó mà cảm động được”; Lại hỏi: Chỉ mặt trời mà thề có nên không?

Ông đáp: “Nhiều khi mặt trời còn đó mà đã nuốt lời thề rồi”[32, tr.150-151]. Rốt

cục, theo ông nâng cao tính tự trị là tốt nhất, khi đó “vua tôi một lòng giữ yên bờ

cõi cho cẩn thận, ăn mặc tiết kiệm để tiền của được dồi dào, đôn độc điều nhân

nghĩa để giữ lòng dân, tuy có nghĩa binh cũng không vin điều gì mà tranh chấp với

ta; tuy có tham binh cũng không có cơ gì mà gây hấn với ta. Cho nên có câu nói:

“Trị nước trước hết phải làm sao cho địch không đoạt được mình để đợi cơ mà

đoạt được địch”” [32, tr.151]. Trong trường hợp, khi mà nước láng giềng trí trá,

theo Nguyễn Đức Đạt, nhà vua cần phải “vô dục”, tức là không ham muốn. Ông

nói: “Chớ nên cho người ta biết mình ham muốn gì. Than ôi! Ham muốn là cái

mối tai vạ. Kìa Tề Hoàn Công thích ăn ngon mà Dịch Nha giết con để cho ăn. Phù

Sai (vua nước Ngô) thích sắc đẹp mà Câu Tiễn (vua nước Việt) đưa Tây Thi mà

làm cho mê. Kể trí trá lừa người thường nhân chỗ sơ hở mà lẻn vào. Ông vua ham

muốn mà tự cho người ngoài biết, tất bị người ta kiềm chế” [32, tr.149].

Trên đây là quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về chính sự hay đạo trị nước.

149

Từ quan niệm đó ông đi tới quan điểm về thực thi chính sự mà thực chất của nó là

đòi hỏi chủ thể thực thi chính sự phải có năng lực thi hành các nhiệm vụ được giao,

có đạo đức chân chính, được thể hiện ở tinh thần trung quân, ái quốc và thân dân.

4.2.2. Quan điểm về thực thi chính sự

Để thực thi chính sự một cách có hiệu quả, Nguyễn Đức Đạt đưa ra ba

nguyên tắc như sau:

Một là, “phải lấy điều liêm làm chất, lại phải sáng suốt để soi quả đoán để

làm, rồi kết thúc bằng điều nhân”;

Hai là, “lệnh phải tín, việc phải đơn giản rồi lấy khoan thứ mà thi hành”;

Ba là, “giữ phép như là người sợ, lo việc như là người đo đắn, không dám

làm càn” [32, tr.169]. Cả ba nguyên tắc đều dựa trên nền tảng đạo đức Nho giáo,

lấy nhân, khoan thứ và thận trọng làm căn bản.

Với quan điểm trị nước cũng như làm nhà, ở đó bốn cột đóng vai trò quyết

định thế và lực của ngôi nhà. Nhà là mô hình thu nhỏ của một nước, do đó cột

của nước được ông xác định như sau:

“Quan lại là cột trấn thủ, dân chúng là cột quy phụ17, binh lính là cột bảo

vệ, tài sản là cột tiêu dùng. Một cột hỏng thì nhà lung lay, hai cột hỏng thì nhà

bỏ hoang, ba cột hỏng thì nhà xiêu vẹo, bốn cột hỏng thì nhà sụp đổ, không

chống được. Bề tôi nịnh và trộm quyền thì gọi là cột mọt, không trấn thủ được

dân làng sinh gian, gọi là cột hờ không quy phụ nữa, binh lính hèn nhát vô dụng,

gọi là cột nát. Không bảo vệ được nước, tài sản thiếu không lấy đâu được, gọi là

cột rỗng, không có mà tiêu dùng nữa” [32, tr.171].

Theo tinh thần của Nho giáo, đức trị là căn bản, người biết dùng đức để trị

nước cũng như sao Bắc thần, đứng yên một chỗ mà tất thảy các sao khác chầu

về. Trong Nam Sơn tùng thoại cũng đặt ra vấn đề này là làm thế nào cho thiên hạ

theo về mình, đó là dùng quyền lực. Nguyễn Đức Đạt giải thích: “Nắm được cả

quyền của thiên hạ thì sai khiến được thiên hạ; để cho quyền của thiên hạ phân

150

tán ra thì bị thiên hạ sai khiến. Lấy lợi của thiên hạ làm của công thì sai khiến 17Quy phụ: sáp nhập, quy thuận, quy vào.

được thiên hạ; lấy lợi của thiên hạ làm của riêng thì bị thiên hạ sai khiến” [32,

tr.172]. Muốn sai khiến được thiên hạ thì trước hết phải quan tâm đến mối quan

hệ với dân như trên chúng tôi đã trình bày về mối quan hệ “quân - dân”. Trong

văn cảnh thực thi chính sự, Nguyễn Đức Đạt sử dụng khái niệm “nuôi dân”, ông

coi việc nuôi dân như “tự nuôi mình”, bởi theo ông: “Trong thân người ta mạch

lạc có thông mới điều hòa, siêng năng thì nó thông, nhàn rỗi thì nó tắc... Tự mình

siêng năng trước thì dân trong nước không có người chơi không, lấy của dân có

tiết độ thì dân có thừa ăn” [32, tr.172].Việc trị dân cũng cần phải chú trọng đến

cách ban hành pháp lệnh, bởi “pháp lệnh nghiêm quá dân chúng không hài lòng

được” [32, tr.174].

Nguyễn Đức Đạt đặc biệt chú trọng đến vấn đề chống nạn quan tham

nhũng lại. Ông nói rằng: “Cây có sâu thì cành lá héo, bụi có chim cắt thì chim

chóc nhốn nháo. Thuật làm chính sự ở nha môn phải trừ hết bọn lại dịch mọt

dân, ở hương thôn phải diệt hết bọn cường hào gian ác thì trăm họ mới được yên.

Cho nên trị nước cũng như nhổ cỏ ruộng lúa, bỏ đi ít mà lợi nhiều. Người nuôi

cá ở hồ ao phải trừ giống rái cá, huống chi là trị người” [32, tr.173]. Với chủ

trương lấy “liêm làm chất cho chính sự”, ông nói: “Quan lại không tốt, chính sự

không hay, là do lòng tham dìm xuống. Tham thì mờ tối mà yếu, liêm thì sáng

suốt mà mạnh, phủ huyện trễ nải chức vụ là quan hệ từ tỉnh, tỉnh uổng khuất18

pháp luật là quan hệ từ triều đình; triều đình mà không trọng kẻ bề tôi vơ vét thì

làm gì có quan lại tham ô” [32, tr.174].

Không chỉ kêu gọi loại bỏ những kẻ “lại dịch mọt dân”, ông còn đề ra

phương pháp đo tài lượng sức của những người được giao nhiệm vụ cho phù

hợp: “Vạc để đựng nước, nước ít thì vạc cạn, gương để soi hình, hình to thì

gương thiếu. Cho nên việc nhỏ mọn mà giao cho quan công khanh, việc to lớn

18Uổng khuất: (khuất uổng) oan uổng, oan khuất.

151

mà ủy cho bọn phụ trợ thì không phải là phương pháp đo tài lượng sức. Bắt con

khỉ, đuổi con chuột không cần đến vật dũng mãnh như hổ. Con tôm con sẻ bé

nhỏ không thể bắt nó hóa rồng bay cao như chim bằng được” [32, tr.174].

Chính vì vậy, trong việc dùng người, Nguyễn Đức Đạt hết sức lưu ý đến

việc lựa chọn những người xứng đáng vào bộ máy công quyền. Để “uốn nắn thế

tục”, ông yêu cầu phải quả quyết, bởi “bọn kiến thức thụt thò19 không thể cùng

lo việc lúc đầu; kẻ làm việc do dự (không quả quyết) không thể cùng làm cho

trọn việc. Bởi thế mới có người lấy dao cắt mớ tơ rối, lấy dù đập vỡ vòng ngọc20.

Trái đạo thường dùng thế lực, lâm sự phải nên như vậy” [32, tr.175]. Mặt khác,

phải “lấy quyền thế mà đối xử, lấy chính đạo làm cốt yếu. Quyền thế là xe cộ,

đạo đức là đường phẳng. Vua nước Sở thích nhỏ mà dân bớt ăn chịu đói, vua

nước Việt thích dũng sĩ mà dân lâm nguy tranh nhau chết, ấy quyền bính khêu

gợi lòng dân chóng thế! Huống chi dùng quyền (tức là quyền thế) như nước Sở,

nước Việt mà làm đạo (tức chính đạo). Vua Nghiêu, vua Thuấn thì dân theo khác

nào vang theo tiếng, dẫu ngựa chạy trạm cũng không nhanh bằng” [32, tr.177].

Cuối cùng, theo Nguyễn Đức Đạt, làm chính sự về thực chất là hành đạo.

Chủ thể của hành đạo là những người đạt đạo, tức nắm được những yếu chỉ về

đạo mà các thánh hiền đời xưa vạch ra. Do đó, chỉ có những người có đức mới

làm cho đất nước được trị, dân được an.

4.3. Ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn Đức Đạt về đạo trị quốc và thực thi

chính sự trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại

Nguyễn Đức Đạt là một trong những nhà Nho bước ra từ “cửa Khổng sân

Trình”, vì thế sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi

chính sự của ông là kỳ vọng vào một chế độ mà ở đó vua sáng, tôi hiền, nhân

dân no đủ và tôn trọng chính lệnh. Điều này được thể hiện rõ nét trong những

luận giải về chính trị, đạo đức của ông, đặc biệt là những tư tưởng mang tính tích

19Thụt thò: chữ Hán “thụt thử”, ý nói đến hoài nghi, do dự như chuột ở cửa hang, không quả quyết. 20Lấy dao cắt mối tơ vò, lấy dùi đập vỡ vòng ngọc: nguyên chú từ Bắc sử chép: “Vua Thuấn Vũ thường sai mỗi con gỡ một mớ tơ rối, một mình Văn Tuyên lấy dao cắt đứt hết tơ và nói: làm rối loạn thì phải chém”

152

cực riêng có của ông so với các nhà nho cùng thời.

Thứ nhất, giá trị nổi bật trong tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự

của Nguyễn Đức Đạt được thể hiện trong mối quan hệ giữa vua với dân: Giữa

vua với dân không còn quan hệ một chiều nữa, mà là sự báo đáp lẫn nhau dựa

trên tinh thần bình đẳng. Vua có bổn phận đối với dân và dân có bổn phận đối

với vua. Giải quyết mối quan hệ này, Nguyễn Đức Đạt đòi hỏi vua phải biết “yêu

kính dân” vua phải yêu dân như yêu thân mình, kính dân như kính thân mình.

Chúng ta thấy, bản thân Nguyễn Đức Đạt vốn dĩ là một vị quan xuất thân từ

trong nhân dân, hiểu rõ nỗi cơ cực, bần hàn của người dân và luôn đau đáu nỗi

niềm làm sao cho dân có cuộc sống tốt đẹp. Thế nhưng, điều kiện thực tế của

triều đình nhà Nguyễn lúc này đang ngày một xa dân, ít quan tâm đến cuộc sống

khổ cực của người dân thì có thể khẳng định đòi hỏi này của Nguyễn Đức Đạt

không chỉ phù hợp mà còn hết sức táo bạo và mang ý nghĩa tích cực đối với bổn

phận của nhà vua. Quan điểm tích cực này thể hiện tinh thần thân dân riêng có

của Nguyễn Đức Đạt và theo chúng tôi, có lẽ đây là trường hợp hiếm có trong

lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Nguyễn Đức Đạt còn lên tiếng phê phán những hành vi bạo ngược của giai

cấp thống trị đương thời, ông đòi nhà cầm quyền phải giảm thuế cho dân, phải

kiềm chế những ham muốn dục vọng của bản thân để không gây tốn kém tiền

của của nhân dân, biết tự mình làm gương cho kẻ khác noi theo. Theo ông, nhà

cầm quyền phải biết chăm lo đến đời sống của nhân dân, có chính sách khuyến

khích phát triển nông nghiệp cụ thể và đồng thời có biện pháp ngăn cấm những

kẻ du thực, lười biếng. Ông khuyên người cầm quyền phải biết dựa vào sức

mạnh của dân, đừng chi ly hà khắc với dân để dân bớt khổ. Đồng thời ông yêu

cầu người cầm quyền chú ý việc đốc thúc, giám sát quan lại thật nghiêm khắc,

không được để trong triều xảy ra hiện tượng “lạm quyền, trộm quyền”. Rõ ràng,

những yêu cầu này của Nguyễn Đức Đạt cho thấy sự tôn trọng và ưu tiên hàng

đầu trong đường lối trị nước là hướng đến cuộc sống tốt đẹp của nhân dân. Tư

153

tưởng này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thứ hai, giá trị của tư tưởng Nguyễn Đức Đạt được thể hiện trong mối quan

hệ giữa vua và pháp luật. Trong Nam Sơn tùng thoại, Nguyễn Đức Đạt đã đề

xuất một tư tưởng cũng rất độc đáo, đó là vua cũng phải tuân theo pháp luật.

Chúng ta thấy rằng, trong lịch sử Việt Nam, tư tưởng của các vị vua đầu triều

Nguyễn như Gia Long và Minh Mạng về chính trị - xã hội có nói đến quan điểm

trách phạt quan lại và các thành viên hoàng gia, nhưng việc ai đó khẳng định nhà

vua phải tôn trọng, tuân thủ pháp luật là điều chắc chắn chưa có. Vì thế, có thể

khẳng định quan điểm về bình đẳng trước pháp luật từ vua cho tới thường dân là

mặt tích cực đáng được ghi nhận của Nguyễn Đức Đạt, có ý nghĩa đối với thực

tiễn chính trị đương thời, khi triều Nguyễn đang ngày càng tỏ ra độc đoán,

chuyên quyền trong việc trị nước. Có lẽ, ở đây việc đề xuất quan điểm về sự

bình đẳng của mọi người trước pháp luật phản ánh kỳ vọng của Nguyễn Đức Đạt

vào một thể chế chính trị mới tiến bộ hơn triều Nguyễn đương thời.

Thứ ba, giá trị trong tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt được thể hiện khi ông

bàn về đạo làm tôi: kẻ bề tôi cần phải biết lựa chọn người “minh quân” sáng suốt

để phục vụ và phải có trách nhiệm giúp minh quân giữ gìn pháp luật cho đúng

đắn. Quan niệm này của Nguyễn Đức Đạt là sự đóng góp không chỉ thể hiện trên

bình diện tư tưởng, mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn cuộc sống. Trong

bối cảnh nước ta khi đó đang bị thực dân Pháp xâm lược, phong trào đấu tranh lúc

bấy giờ rất cần đến lòng yêu nước của nhân dân để tạo thành sức mạnh to lớn giải

phóng dân tộc thì tư tưởng lựa chọn người “minh quân” để phục vụ trong thời

điểm này của kẻ bề tôi là phải biết trung quân gắn liền với ái quốc. Chính bản thân

Nguyễn Đức Đạt là một minh chứng cho sự lựa chọn này. Mặc dù tư tưởng của

ông là luôn bảo vệ Nho giáo, nhưng hành động trong thời gian cuối đời của ông là

đã tích cực tham gia vào phong trào Cần Vương khi tuổi đã cao, sức đã yếu.

Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt về đạo trị quốc và

thực thi chính sự, chúng ta cũng phải thừa nhận những hạn chế mang tính lịch sử

154

không thể tránh khỏi. Đó là:

Một là, Nguyễn Đức Đạt chú trọng nhiều đến xu hướng phục cổ tới mức

bảo thủ và đi ngược lại xu hướng canh tân hay đổi mới. Theo ông, cái gì đã an

bài rồi thì không nên sửa đổi, như thế là đồng nghĩa với tinh thần “pháp cổ” hay

“pháp tiên vương” của Nho giáo, lấy nguyên lý xưa hơn nay, lấy xưa làm mẫu

mực chính trị cho đời sống xã hội đương thời.

Hai là, Nguyễn Đức Đạt là người nhiệt thành với tư tưởng tôn quân

quyền, đến mức ông đã dùng khái niệm “Thiên mệnh”, tức là sự “tiền định bởi

trời” của Nho giáo để biện hộ cho sự tồn tại của vua, của thiên tử. Việc ông gắn

trời với vua, với thiên tử chính là góp phần khẳng định quyền lực của nhà vua là

tối thượng. Ông cho rằng, quyền lực của nhà vua nếu có thua kém thì chỉ so với

quyền lực vô song của trời mà thôi.

Ba là, Nguyễn Đức Đạt quá đề cao phương diện đạo đức trong chính sách

cai trị, trong đường lối trị nước an dân mà rất ít chú trọng đến lĩnh vực được coi

là cơ sở, nền tảng của sự phát triển đất nước như kinh tế, tài chính, khoa học kỹ

thuật… Nếu ông có nhắc đến vấn đề phát triển kinh tế làm cho đời sống nhân

dân ấm no thì cũng chỉ là những quan điểm nhiệt thành ủng hộ chính sách “trọng

nông ức thương” của triều đình. Chính quan điểm này đã dẫn ông đến việc

cường điệu hóa vai trò của Đạo, xem nó như là nguồn gốc hưng vong của mỗi

quốc gia, coi việc lo cho đất nước tự cường không cần bằng lo cầu “Đạo”.

Bốn là, Nguyễn Đức Đạt quá đề cao vai trò của nhân tài, coi nó như một

yếu tố mang tính quyết định và tách rời các điều kiện lịch sử cụ thể, dẫn đến lãng

quên vai trò của quần chúng nhân dân.

Có thể khẳng định nguyên nhân khách quan của những hạn chế trên ở

Nguyễn Đức Đạt chính là xuất phát từ những hạn chế mang dấu ấn của học thuyết

chính trị - xã hội, đạo đức Nho giáo mà hầu hết các nhà nho thời kỳ này không

tránh khỏi. Còn nguyên nhân chủ quan chính là sự nghiệp làm quan của Nguyễn

Đức Đạt: Giai đoạn làm quan của ông có nhiều trắc trở, gián đoạn và cũng không

155

được tham gia bàn bạc việc triều chính; bản thân ông chưa bao giờ đi nước ngoài

để tận mắt chứng kiến những thành tựu của văn minh nhân loại như Phạm Phú

Thứ hay Nguyễn Trường Tộ và một số người khác để hiểu được nguyên nhân phát

triển không ngừng về mọi mặt của các nước tư bản phương Tây. Vì thế, tư tưởng

của Nguyễn Đức Đạt dù có những điểm mới, tiến bộ so với các kinh điển của Nho

giáo nhưng vẫn chưa thể vượt ra khỏi tính bảo thủ, rập khuôn của học thuyết chính

trị - xã hội, đạo đức Nho giáo để có những quan điểm đổi mới, canh tân đất nước.

Nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Đức Đạt, đánh giá những giá trị và hạn chế

trong tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của ông có ý nghĩa vô cùng

quan trọng để xác định vị thế tư tưởng của ông trong lịch sử tư tưởng Việt Nam

và rút ra những bài học có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Đầu tiên có thể khẳng định, giá trị nổi bật trong tư tưởng của Nguyễn Đức

Đạt không chỉ mang ý nghĩa là sự kế thừa, luận giải những nội dung cơ bản của

Nho giáo, mà còn là sự bổ sung cho học thuyết trị nước qua cách lý giải về đạo

trị quốc và thực thi chính sự của Nho giáo ở Việt Nam.

Là một nhà nho chân truyền, Nguyễn Đức Đạt luôn trung thành với lý

tưởng của các tiên nho về đạo trị nước của nhà vua. Quan niệm của ông về đạo

làm vua chịu sự chi phối rõ nét của tư tưởng thân dân, ông quý trọng nhân dân

như chính bản thân, mọi việc đều phải lo cho dân. Từ đó, ông đưa ra yêu cầu đối

với việc trị nước của nhà vua là đối với dân nên khoan, với quan lại nên nghiêm.

Điểm khác biệt của Nguyễn Đức Đạt so với các nhà nho Việt Nam làở chỗ ông

đề cập đến sự cần thiết phải “yêu kính dân” của bậc vua chúa, coi dân là chủ tể

của vua đã thể hiện bước tiến trong tư tưởng của ông. Với tư tưởng “yêu dân”,

“kính dân” như vậy đã thể hiện tư tưởng Nho giáo rất riêng của Nguyễn Đức Đạt

mà không thể nhầm lẫn với bất kỳ nhà Nho Việt Nam nào và đây là bài học kinh

nghiệm cho các nhà vua trong xã hội đương thời học tập về cư xử với dân phải

có lòng nhân hậu, bao dung độ lượng, không chi li hà khắc và biết chăm lo đến

đời sống của nhân dân.

156

Vào thời Nguyễn Đức Đạt, triều Nguyễn đã trải qua vị vua thứ tư là Tự

Đức, người có kiến thức Nho học khá uyên thâm và lúc nào cũng tỏ ra thận trọng

trong việc đưa ra những quyết sách về đối nội cũng như đối ngoại của triều đình.

Những thành quả mà triều Nguyễn đạt được từ khi lên cầm quyền cai trị đất

nước cho đến lúc này là hệ thống chính trị khá ổn định nhờ sự sắp đặt nền móng

của hai vị vua đầu triều là Gia Long và Minh Mạng. Tuy nhiên, trong bối cảnh

xã hội hết sức phức tạp do sự tác động của những diễn biến chính trị trong khu

vực, đặc biệt là ở Nhật Bản và Trung Quốc, Nguyễn Đức Đạt nhận thấy vai trò,

vị thế của những ông vua ở nửa cuối thế kỷ XIX không hoàn toàn mang tính tiền

định bởi trời như trước đây ông từng quan niệm. Những gì đang xảy ra trong

đường lối trị nước của Tự Đức lúc bấy giờ đều kéo theo sự bất bình của dân, do

đó việc Nguyễn Đức Đạt yêu cầu “vua phải kính dân” không phải là ngẫu nhiên.

Đặc biệt, tư tưởng về việc xem xét mối quan hệ giữa vua và pháp luật,

Nguyễn Đức Đạt cho rằng, vua cũng phải tuân theo pháp luật, tuy pháp luật là do

vua ban ra nhưng pháp luật cũng là để ngăn cấm vua, uy quyền của vua không

phải là tuyệt đối - đây là quan điểm mới mẻ, hầu như chưa từng có trong tư duy

của các nhà nho đương thời, thậm chí cũng không có trong Tứ thư. Quan điểm

này của Nguyễn Đức Đạt đã góp phần bổ sung cho việc giáo dục tri thức pháp

luật, một yếu tố không thể thiếu trong lịch sử tư tưởng trị nước của các triều đại

phong kiến Việt Nam và đương thời.

Trong quan niệm về bổn phận của bề tôi, Nguyễn Đức Đạt cũng tuân theo

giáo lý của học thuyết tam cương, ngũ thường và coi đây là nguyên tắc mà người

quân tử phải thực hiện suốt cuộc đời. Quan niệm này của Nguyễn Đức Đạt còn

có ý nghĩa to lớn đối với những người dân trong xã hội phong kiến, giúp họ nhìn

nhận và đánh giá lại bản thân trong việc thực hành đạo trung với nhà vua và đạo

hiếu với bậc sinh thành. Qua đó hình thành trong họ sự lựa chọn cách thức

“trung” như thế nào với nhà vua (tức là biết lựa chọn người minh quân sáng suốt

157

để phục vụ), không để xảy ra những hiện tượng làm loạn trong xã hội.

Những việc làm của Nguyễn Đức Đạt trong thời gian làm quan cho thấy

ông hết mực trung thành với vua, luôn thương yêu và chú ý đến đời sống của

người dân. Điều này đã minh chứng cho quan niệm của ông về đạo làm quan và

cũng là trải nghiệm sâu sắc nhất của ông về người quân tử. Đồng thời, ông cũng

luôn đòi hỏi người bề tôi phải lấy “Đạo” và “Đức” làm tiêu chuẩn cao nhất trong

việc phụng sự nhà vua. Với tư tưởng và yêu cầu rất cao của ông về đạo làm tôi

như trên đã góp phần xây dựng mẫu hình người quân tử trong xã hội đương thời

- đó là việc các nho sĩ không phải chỉ có học hết đạo thánh hiền, học để ra làm

quan mà cái quan trọng là họ phải biết gắn kết giữa “Đạo” và “Đức” trong việc

thực hiện bổn phận của bề tôi.

Cả cuộc đời Nguyễn Đức Đạt luôn ý thức được trách nhiệm của bản thân là

phải phục vụ cho vua, cho dân và cho nước. Tuy nhiên, khi thực tiễn đất nước ta ở

thế kỷ XIX xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa lợi ích quốc gia dân tộc với cá nhân

ông vua thì tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt có sự giằng co và mâu thuẫn, vì thế

việc giải quyết mối quan hệ vua - tôi ở ông mang tính nửa vời, thỏa hiệp. Cho đến

khi tham gia phong trào Cần Vương cứu nước của vua Hàm Nghi chúng ta mới

thấy rõ được sự thay đổi trong quan niệm về đạo làm quan của Nguyễn Đức Đạt

khi ông gắn trung quân với ái quốc thương dân. Tư tưởng và hoạt động của bản

thân ông là một tấm gương sáng góp phần định hướng tư tưởng và hành động của

các nho sĩ Việt Nam thế kỷ XIX, đồng thời cổ vũ tinh thần trung quân, ái quốc của

mọi người dân trong xã hội phong kiến. Tư tưởng và hành động của Nguyễn Đức

Đạt mặc dù luôn tuân theo giáo lý của Nho giáo nhưng ông không rập khuân một

cách máy móc tư tưởng Nho giáo mà khi thực tiễn chỉ ra sự mâu thuẫn trong tư

tưởng của ông, đòi hỏi phải có sự phát triển về mặt tư tưởng và bản thân ông đã

thay đổi trong hành động. Vì vậy, có thể khẳng định tư tưởng trung quân của

Nguyễn Đức Đạt không chỉ có ý nghĩa đối với thời đại của ông mà nó còn đặc biệt

158

có ý nghĩa và giá trị trong giai đoạn hiện nay, khi mà khái niệm “trung” được mở

rộng: trung với nước, hiếu với dân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng và

Nhà nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Thứ hai, tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức

Đạt có ý nghĩa rút ra những bài học sâu sắc để vận dụng vào quá trình xây dựng

và phát triển đất nước hiện nay ở Việt Nam.

Từ những diễn giải tư tưởng Nho giáo của Nguyễn Đức Đạt về vai trò

quan trọng của nhân dân, coi dân là gốc nước, là nền tảng của xã hội, là quan

trọng hơn xã tắc và nhà vua, chúng ta có thể rút ra bài học về việc lấy dân làm

gốc, phát huy dân chủ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Theo Nguyễn Đức Đạt, một đất nước mà người cầm quyền tập hợp được dân

chúng cùng với tài năng của họ sẽ vững bền và giàu mạnh. Vì thế ông cho rằng,

mọi người dân cần được yêu thương, quan tâm, tất cả mọi chính sách đều phải vì

nhân dân mà thực hiện. Có thể nói, tinh thần thân dân của Nguyễn Đức Đạt vẫn

luôn là nét nổi trội trong cuộc sống hiện thực cũng như trong trước tác của ông.

Trong quá trình làm quan ở triều đình, ông đã hết lòng thương yêu và thông cảm

với nhân dân, đặc biệt là trong trường hợp thiên tai lụt lội xảy ra ở Hưng Yên,

trong khi triều đình lại ở xa, không thấu hiểu điều đó, lại còn tăng thuế đối với

dân. Trước tình hình đó, ông đã lên tiếng, gửi tấu sớ lên triều đình xin hoãn việc

tăng thuế, đến nỗi bị phạt giáng hai cấp. Đây là bằng chứng cho thấy, dù hoàn

cảnh như thế nào thì Nguyễn Đức Đạt hơn ai hết, là người biết hy sinh quyền lợi

của mình để biện hộ dân theo đúng bản chất của nhà nho chân chính xuất thân từ

nhân dân, luôn thể hiện tinh thần nhân văn cao cả.

Ở Việt Nam, những tư tưởng như “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền

cũng là dân” được Nguyễn Trãi nhấn mạnh; đến Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói

đến sức mạnh của nhân dân đã phát biểu: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu.

Khó vạn lần dân liệu cũng xong” là tư tưởng chính trị trọng dân luôn được coi

trọng, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

159

nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của nhân dân, coi nhà nước

là của dân, do dân và vì dân. Qua đó cho thấy, những bài học về “thân dân”,

“kính dân”; về thực hiện mối quan hệ hai chiều giữa vua và dân mà Nguyễn Đức

Đạt đề xuất trong tư tưởng chính trị của mình, cho đến nay vẫn còn ý nghĩa tích

cực và đó là cái mà chúng ta cần phải kế thừa và phát huy.

Những yêu cầu của Nguyễn Đức Đạt đối với người cầm quyền và quan lại

trong việc thực thi chính sự ở mức độ nhất định là có ý nghĩa cảnh tỉnh, giáo dục

các đối tượng quan lại dưới thời phong kiến cũng như đối với cán bộ công chức

nước ta hiện nay. Đó là yêu cầu không ngừng tu dưỡng đạo đức cá nhân, làm

tròn bổn phận đạo đức đối với gia đình và xã hội, đồng thời góp phần làm lành

mạnh hóa các quan hệ xã hội.

Nếu Nguyễn Đức Đạt coi những người làm quan là “những vú già, thị tì”

giúp vua trị nước yên dân, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời đã coi cán bộ là

“công bộc của dân”. Ngày nay, chế độ phong kiến đã lùi vào quá khứ, song những

yêu cầu về mặt đạo đức đối với vua và quan lại mà Nguyễn Đức Đạt chỉ ra có thể

đối chiếu với tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, công chức nước ta hiện nay. Họ là

những người trực tiếp đề ra và thi hành các chính sách liên quan đến vận mệnh

của đất nước, nhưng điều đáng tiếc là trong số họ không ít người đang có biểu

hiện suy thoái về mặt đạo đức, tham ô, tham nhũng, thoái hóa biến chất gây ảnh

hưởng to lớn đến việc phát triển kinh tế của đất nước, làm giảm sút lòng tin của

nhân dân vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, trong cuộc chiến

chống tham nhũng hiện nay của Đảng và Nhà nước ta được tuyên bố một cách dứt

khoát rằng, không có vùng cấm hay đối tượng nào đó vượt lên trên pháp luật để

hưởng quyền bất khả xâm phạm. Điều này đã được Nguyễn Đức Đạt khẳng định

trong tư tưởng của mình, rằng “vua cũng phải tuân thủ pháp luật”.

Những giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn Đức Đạt về đạo trị quốc và

thực thi chính sự đã góp phần khẳng định giá trị trường tồn của Nho giáo đối với

160

xã hội Việt Nam nói chung, với nhà cầm quyền, quan lại và kẻ sĩ nói riêng.

Tiểu kết chương 4

Nguyễn Đức Đạt là một nhà Nho sống và hoạt động vào nửa sau thế kỷ

XIX,do đó tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sựcủa ôngtrước hết chịu

ảnh hưởng rất sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nói chung, tư tưởng Nho học thời

Tống - Minh nói riêng. Mặt khác, do tồn tại xã hội Việt Nam đương thời quy

định, cho nên những luận giải về các nội dung cơ bản của Nho giáo của Nguyễn

Đức Đạt trong Nam Sơn tùng thoại luôn có sự hiện diện của thực tiễn đời sống

tinh thần, từ đó đem lại cho tư tưởng của ông có những điểm mới mà ít nhà nho

trước ông có được. Trong các cuộc tùng đàm, Nguyễn Đức Đạt luôn tìm cách lý

giải các tư tưởng Nho giáo của ông theo tinh thần mới cho phù hợp với nhu cầu

của thời đại và đời sống tinh thần của dân tộc.

Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau nên những

luận giải của Nguyễn Đức Đạt về các tư tưởng Nho giáo tuy có nhiều điểm tích

cực, song ở đó vẫn có những mặt hạn chế nhất định, cụ thể là ông luôn nhiệt

thành với các quan điểm được trình bày trong các kinh điển của Nho gia, không

có chủ ý làm mới hoặc sai lệch tôn chỉ mục đích của học thuyết này. Vì vậy,

không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu khẳng định ông là nhà nho

mang tính bảo thủ ở Việt Nam thế kỷ XIX. Tuy nhiên, nếu gạt đi những hạn chế

trên, chúng ta có thể thấy sự cố gắng và nỗ lực của Nguyễn Đức Đạt trong việc

luận giải và bổ sung những điểm mới có giá trị trường tồn của Nho giáo đã để lại

những giá trị to lớn đáng ghi nhận. Nghiên cứu tư tưởng về đạo trị quốc và thực

thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại giúp ta

hiểu sâu sắc về một thế hệ nhà nho luôn kiên định trong việc bảo vệ và giữ gìn

161

giá trị của nền Nho học nước nhà.

KẾT LUẬN

Lịch sử tư tưởng Việt Nam gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và

giữ nước của dân tộc. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX là thời kỳ đất nước ta trải

qua muôn vàn những khó khăn trong việc vừa phải củng cố, giữ gìn đất nước,

vừa phải đấu tranh chống lại sự xâm chiếm của đế quốc thực dân Pháp, tư tưởng

nổi bật trong thời kỳ này là tư tưởng bảo vệ nền độc lập toàn vẹn lãnh thổ trước

sự xâm lược, giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. Những nhà tư tưởng

thời kỳ này bằng cách này hay cách khác đều đưa ra những luận thuyết của mình

để luận giải cho những vấn đề đang xảy ra trong xã hội. Nguyễn Đức Đạt cũng

vậy, ông là một nhà nho chính thống, luôn mang trong mình nhiệt huyết giúp

đời, giúp dân, vì thế ông luôn đứng trên lập trường Nho giáo để lý giải những

vấn đề bất cập của xã hội Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Đặc biệt, qua

tác phẩm Nam Sơn tùng thoại, tư tưởng Nho học của ông được thể hiện sâu sắc

nhất. Nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Đức Đạt trong tác phẩm Nam Sơn tùng thoại,

chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Thứ nhất, Nguyễn Đức Đạt là một nhà nho thành danh qua khoa cử dưới

triều Nguyễn, đồng thời có nhiều cống hiến trên các lĩnh vực hoạt động nhà nước

và giáo dục. Trong lĩnh vực giáo dục, thông qua hình thức tùng đàm ông đã thể

hiện các quan điểm triết học, tâm tính học, chính trị - xã hội của mình. Các quan

điểm đó được hình thành từ nhiều cơ sở khác nhau, trước hết là tư tưởng Tống -

Minh Nho, Nho Việt với tư cách là học thuyết Nho giáo được tích hợp từ sự tiếp

biến của Nho giáo với các yếu tố bản địa và các học thuyết triết học, chính trị -

xã hội và tôn giáo khác như Đạo giáo và Phật giáo. Ngoài ra, tư tưởng của ông

còn chịu sự chi phối của thời đại, cụ thể là triều Nguyễn - một triều đại lấy Nho

giáo và Nho học làm bệ đỡ hệ tư tưởng, làm cho các quan điểm của ông thấm

nhuần tổng hòa các yếu tố tạo nên bức tranh tư tưởng của thời đại. Tác phẩm

162

Nam Sơn tùng thoại là bằng chứng rõ ràng về tình hình Nho học đương thời,

đồng thời cũng phản ánh tâm tư nguyện vọng của ông về cách đọc hiểu mới các

tác phẩm kinh điển của Nho giáo Khổng - Mạnh.

Thứ hai, do chịu ảnh hưởng của Tống - Minh Nho, nền Nho học ít nhiều

đã được Phật giáo hóa và Đạo giáo hóa, cho nên Nguyễn Đức Đạt muốn lý giải

các vấn đề về trời, mệnh trời, đạo và con đường đạt đạo, vấn đề học vấn theo

cách riêng của mình. Tuy nhiên, với tư cách là một vị quan của triều đình, ông

không vượt ra khỏi tâm thế của triều đại vốn đề cao tư tưởng duy tâm về trời,

mệnh trời và vô hình trung, ông đã trở thành người biện hộ nhiệt thành cho

quyền thống trị không thể thay thế của triều Nguyễn. Ngoài ra, trong quan niệm

của ông về đạo và con đường đạt đạo, về vai trò của học vấn, của tâm, tính, tình

trong quá trình nhận thức cũng thể hiện khả năng của ông không thể vượt được

cách lập luận của Nho học Tống - Minh.

Thứ ba, tư tưởng về đạo trị quốc và thực thi chính sự của Nguyễn Đức Đạt

nếu gạt sang một bên những nguyên tắc ứng xử của Nho giáo mà nhiều học giả

thường gán cho Nguyễn Đức Đạt tư tưởng bảo thủ, thì chúng ta lại tìm thấy ở

ông những quan điểm về đạo trị nước của nhà vua, bổn phận của bề tôi và quan

điểm về thực thi chính sự là khá táo bạo, có thể vượt ra khỏi khuôn khổ của Nho

giáo chính thống như tư tưởng “thân dân”, tư tưởng về đường lối trị nước kết

hợp nhân trị, đức trị và pháp trị. Ở đó chúng ta nhận thấy kỳ vọng của ông về

một nền luật pháp bình đẳng với tất cả mọi người, không có vùng cấm với bất kỳ

ai, kể cả nhà vua. Cùng với việc nhấn mạnh yếu tố pháp luật, đề cao vai trò của

phát luật trong đời sống chính trị - xã hội, Nguyễn Đức Đạt đã góp phần bổ sung

cho việc giáo dục tri thức pháp luật - yếu tố rất quan trọng trong lịch sử tư tưởng

trị nước của các triều đại phong kiến Việt Nam và đương thời. Quan niệm về bổn

phận của bề tôi tuân theo giáo lý của học thuyết tam cương, ngũ thường với việc

thực hành đạo trung với nhà vua và đạo hiếu với bậc sinh thành của Nguyễn Đức

163

Đạt, đặc biệt là sự lựa chọn cách thức “trung” - chọn người minh quân sáng suốt

để phục vụ cũng có ý nghĩa to lớn đối với những người dân trong xã hội phong

kiến, giúp họ nhìn nhận và đánh giá lại bản thân.

Thứ tư, tư tưởng của Nguyễn Đức Đạt về tâm tính học được thể hiện

thông qua các nội dung: “tâm - tính - tình”, học vấn, tu dưỡng, giáo hóa đều thể

hiện sự kế thừa, phát triển tư tưởng của Nho giáo, khẳng định vai trò và giá trị

của nền giáo dục Nho học đối với việc đào tạo nhân tài cho bộ máy nhà nước

phong kiến triều Nguyễn thế kỷ XIX, đồng thời cũng giúp chúng ta rút ra nhiều

bài học bổ ích để vận dụng vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện

nay. Mục đích giáo dục được Nguyễn Đức Đạt chỉ ra là nhằm rèn luyện, tu

dưỡng để trở thành những con người có ý nghĩa, có ích cho xã hội, biết đem

những kiến thức của mình vào cuộc sống. Đối tượng giáo dục mà Nguyễn Đức

Đạt chỉ ra hết sức tiến bộ, hợp lý và mang đậm tính nhân văn khi ông cho rằng

tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, giàu hay nghèo đều được giáo dục. Nội

dung giáo dục đa dạng phong phú với những kiến thức trong hệ thống sách vở

của Nho gia và kiến thức lịch sử dân tộc, đặc biệt là tập trung giáo dục đạo đức

con người với những chuẩn mực của kẻ sĩ, người quân tử... không chỉ có ý nghĩa

trong xã hội đương thời mà cả ở hiện nay với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy

những giá trị đạo đức truyền thống góp phần giữ gìn giá trị của dân tộc. Phương

pháp giáo dục được Nguyễn Đức Đạt nêu ra rất đa dạng, bao gồm cả phương pháp

của người dạy và phương pháp của người học, trong đó có nhiều phương pháp tiến

bộ có ý nghĩa trong nền giáo dục hiện nay của Việt Nam. Đó là phương pháp

chuyên cần, phương pháp gợi mở, phương pháp đối thoại hai chiều, phương pháp

nêu gương,... Những phương pháp này giúp phát huy tính chủ động, tích cực của

cả người dạy và người học để đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất.

Thứ năm, mặc dù Nguyễn Đức Đạt đã đưa ra nhiều luận điểm, mệnh đề có

giá trị, cách lý giải độc đáo theo cách riêng của ông, nhưng chúng ta vẫn phải

thừa nhận những hạn chế trong tư tưởng của ông với những đề xuất chưa vượt ra

164

ngoài phạm vi tri thức Nho giáo, tư tưởng của ông về cơ bản vẫn chịu sự chi

phối của tư tưởng Nho học truyền thống. Những hạn chế này đã dẫn đến mâu

thuẫn và bế tắc trong tư tưởng và hành động của ông. Nguyên nhân của những

hạn chế này trước hết phải nói đến đó là lối học tập thi cử lỗi thời, lạc hậu của

Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Đức Đạt làm cho tư tưởng của ông

không thể bứt phá để có những thay đổi vượt bậc. Nguyên nhân khác nữa dẫn

đến những hạn chế của tư tưởng Nguyễn Đức Đạt nói chung và trong tác phẩm

Nam Sơn tùng thoại, đó là Nguyễn Đức Đạt chưa bao giờ đi ra nước ngoài,

không có điều kiện giao lưu và tiếp xúc với văn hóa xã hội phương Tây và văn

minh thế giới như một số nhà tư tưởng cùng thời; thời gian làm quan của ông

không dài và ông cũng chỉ giữ chức quan ở tỉnh cho nên ông cũng không được

tham gia bàn bạc các chính sách lớn của triều đình, hơn nữa lại bị gián đoạn

thường xuyên do ốm đau bệnh tật và cự tang cha mẹ, cuộc đời ông chủ yếu sống

ở thôn quê, ít giao lưu tiếp xúc với kinh đô và các vùng lân cận... Những điều

này đã làm hạn chế tầm nhìn của Nguyễn Đức Đạt, khiến ông không nắm bắt

được nhu cầu của thời cuộc, cũng không có cái gì thúc ép buộc ông phải thay

đổi, vì thế, ông chỉ biết đến Nho giáo, đi theo Nho giáo và thực hiện theo đạo

Nho mà không hề biết đến một sự mới mẻ đang dần hiện hữu trong đời sống xã

hội đương thời, đòi hỏi phải có những canh tân, cải cách cho phù hợp mới đủ sức

chống lại họa xâm lăng của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, với sự lựa chọn đề tài và những kết quả nghiên cứu đề tài mà

luận án đưa ra, chúng tôi hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên

cứu tư tưởng Nguyễn Đức Đạt nói riêng, tư tưởng triều Nguyễn thế kỷ XIX nói

chung, đồng thời khẳng định rằng, đề tài này cần được tiếp tục nghiên cứu sâu

rộng hơn để phác họa một cách chính xác chân dung nhà tư tưởng đã để lại cho

165

hậu thế một tác phẩm Nam Sơn tùng thoại với hình thức tùng đàm rất ý nghĩa.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Nhẹn (2016),“Tư tưởng Thứ - Phú - Giáo trong Nho giáo Khổng

Mạnh và ý nghĩa hiện thời của nó” - Tạp chí Giáo dục Lý luận số 241.

2. Trần Thị Nhẹn (2018), Tư tưởng giáo dục của nhà nho Nguyễn Đức Đạt với

việc giáo dục đạo đức cho thanh niên” - Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, kỳ 2

tháng 5.

3. Trần Thị Nhẹn (2018),“Nam Sơn tùng thoại và những cuộc tùng đàm về các

166

vấn đề Nho học Việt Nam thế kỷ XIX” - Tạp chí Triết học số 8.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

2. Dương Tuấn Anh “Tư tưởng giáo dục truyền thống qua tác phẩm Nam Sơn

tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt” (2002), Luận văn thạc sĩ Khoa học Ngữ văn,

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Nguyễn Thế Anh (1971), “Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều

Nguyễn”, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn.

4. Phạm Văn Ánh (2014), “Sơ khảo về sự nghiệp trước tác của Nguyễn Đức

Đạt”, Tạp chí Hán Nôm, (số 01), tr.14-29.

5. Ban chấp hành trung ương, Nghị quyết…, Tư liệu văn kiện Đảng Cộng sản

Việt Nam, Hệ thống văn bản của Đảng, Nghị quyết số 26, Báo điện tử Đảng

Cộng sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu - văn kiện Đảng.

6. Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tổ chức bộ máy Nhà nước triều Nguyễn giai

đoạn 1802 - 1884, NXB Thuận Hóa, Huế.

7. Đỗ Bang (1997), Thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận

Hóa, Huế.

8. Đỗ Bang (2007), “Triều Nguyễn: thiết lập tập quyền và các chế tài điều tiết

cực quyền”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (1), tr. 45 - 53.

9. Đỗ Bang, Nguyễn Minh Tường (2011), Chân dung các Vua Nguyễn, NXB

Thuận hóa, Huế.

10. Phạm Thái Bình (2011), “Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức

truyền thống trong xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay”, Tạp chí

Giáo dục lý luận, (số 2 ~3), tr.13-140.

11. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và nội dung

167

giáo dục, giáo hóa của Nho giáo”, Tạp chí Giáo dục lí luận, (số10), tr.50-54.

12. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và

ảnh hưởng của nó ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Thanh Bình (2013), “Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng

chính trị - xã hội của Nho giáo”, Tạp chí Khoa học xã hội, (số 6), tr. 3-9.

14. Phan Văn Các (1993), “Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu

vực và thời đại”, Tạp chí Triết học (3), tr.41-45.

15. Nguyễn Sĩ Cẩn chủ biên (1996), Nhà giáo danh tiếng đất Lam Hồng, Nxb

Nghệ An.

16. Phan Bội Châu (1990), Khổng học đăng, tập 9 - 10, NXB Thuận hóa, Huế.

17. Trịnh Doãn Chính, chủ nhiệm đề tài (2013), Lịch sử tư tưởng triết học Việt

Nam, NxbThành phố Hồ Chí Minh.

18. Choi Byung Wook (2011), Vùng đấtNam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nhóm

dịch Lê Thùy Linh, Trần Thiện Thanh…, Nxb Thế giới, Hà Nội.

19. Nguyễn Đình Chú (2005), “Hôm nay với Nho giáo”, Tạp chí Hán Nôm

(1), tr.3-10.

20. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), “Khai thác các giá trị truyền thống Nho học

phục vụ sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa”, Tạp chí

Triết học (4), tr.28-31.

21. Phạm Văn Chung (2013), “Tư tưởng Nho giáo về bản chất con người”, Tạp

chí Khoa học xã hội Việt Nam, (số 03), tr.44-45.

22. Lý Quốc Chương (2003), Nho gia và Nho học, Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

23. Đoàn Trung Còn (dịch) (2013), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa, Huế.

24. Võ Kim Cương chủ biên (2013), Lịch sử Việt Nam, Tập 6, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

25. Phan Đại Doãn, chủ biên (2003), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb

168

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Phan Đại Doãn (2005), “Nho giáo Việt Nam”, Tạp chí xưa và nay (229 –

230), tr. 8 - 11.

27. Cao Xuân Dục (1961), Quốc triều Đăng Khoa Lục, Trung tâm học liệu Bộ

Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn.

28. Cao Xuân Dục (1993), Quốc triều Hương Khoa Lục, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

29. Mai Vũ Dũng (2007), Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Đức Đạt trong tác

phẩm Nam Sơn tùng thoại. Luận văn thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Viện

Khoa học xã hội Việt Nam.

30. Mai Vũ Dũng (2008), Quan niệm của Nguyễn Đức Đạt về mối quan hệ

giữa đạo đức và pháp luật trong “Nam Sơn tùng thoại”, Tạp chí Triết học,

số 6, tr.59 - 64.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Nguyễn Đức Đạt, Nam Sơn tùng thoại, Quyển 1, (Bản dịch), Thư viện Viện

Triết học, TL 1084.

33. Nguyễn Đức Đạt, Nam Sơn tùng thoại, Quyển 2, (Bản dịch), Thư viện Viện

Triết học. TL 1085.

34. Phạm Văn Đức (2013), “Trách nhiệm xã hội của tri thức Nho giáo Việt

Nam xưa”, Tạp chí lý luận chính trị (6), tr. 35 - 39.

35. Thu Giang - Nguyễn Duy Cần (2013), Lão Tử - Đạo Đức Kinh, Nxb Trẻ,

Tp.Hồ Chí Minh.

36. Ninh Viết Giao - Trần Thanh Tâm (2005), Nam Đàn - Quê hương Chủ tịch

Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.

37. Trần Văn Giàu (1969), “Các nguyên lý của đạo đức Nho giáo ở Việt Nam

thế kỷ XIX”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử (128), tr. 4 - 17.

38. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến

169

Cách mạng tháng Tám, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Trần Văn Giàu (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh,

Quyển 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Đỗ Việt Hà (2017), Tư tưởng Nho giáo Nguyễn Công Trứ. Luận án Tiến sĩ

Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Phạm Minh Hạc Chủ biên (2013), Bàn về triết lý giáo dục Việt Nam, Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

42. Nguyễn Sĩ Hải (1962), Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ:

1802 - 1847.Luận án tiến sĩ Luật khoa, Sài Gòn.

43. Lý Tường Hải (2003), Khổng Tử, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

44. Nguyễn Hùng Hậu (1998), “Một số suy nghĩ về đặc điểm Nho giáo ở Việt

Nam”, Tạp chí Triết học, (số 5), tr.39-42.

45. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Phan Văn Hoàng (1994), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với những yếu tố tích cực

của Nho giáo”,Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (4), tr.1-7.

47. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và

Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

48. Dương Hồng - Vương Thành Trung - Nhiệm Đại Viện - Lưu Phong chú

dịch (2003) (Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch), Tứ thư,

Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.

49. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham

chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.

50. Nguyễn Thị Hương (2010), Quan niệm về “Đạo” của Nguyễn Đức Đạt, Tạp

chí Văn hóa Nghệ An, số 4, tr.18-22.

51. Nguyễn Thị Hương (2010), Tư tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Đức

Đạt và ý nghĩa của chúng. Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện Triết học, Viện

170

Khoa học xã hội Việt Nam.

52. Trần Đình Hượu (2002), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

53. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb.

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

54. Jonh Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, Người dịch Phạm Anh Tuấn,

Nxb Tri thức, Hà Nội.

55. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lê, Đinh Xuân Lâm đồng chủ biên

(2007), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 2 (1858 - 1945), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

56. Vũ Khiêu (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

57. Vũ Khiêu, Đào Duy Anh, Lê Sỹ Thắng chủ biên (1994), Nho giáo tại Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Vũ Khiêu (1995), Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Nxb. Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

59. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

60. Vũ Khiêu (2009), “Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt Nam”, Tạp chí

Triết học (8), tr.37-40.

61. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

62. Lê Thị Lan (2002), Tư tưởng cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Vũ Ngọc Lanh (2008), Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ và ý

nghĩa của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến

sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

64. Tạ Văn Lâm (2009), Sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn: Nguyên nhân

và ảnh hưởng đương thời của nó. Luận văn Thạc sĩ Triết học, Viện Triết

học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

171

65. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.

66. Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.

67. Nguyễn Hiến Lê (2007), Kinh Dịch - đạo của người quân tử, Nxb Văn học,

Hà Nội.

68. Phan Huy Lê (2008), “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã

hội, (số 11), tr. 3-7.

69. Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Cơ (2005), Lịch sử nhà

Nguyễn - một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

70. Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam, giáo dục và thi cử, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

71. Diệp Quốc Lương (2011), “Phân tích tư tưởng “thành Đức”của nhà Nho

Việt Nam Nguyễn Đức Đạt”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Nho giáo Việt Nam

truyền thống và đổi mới, Viện Triết học, tr.113 - 120.

72. Nguyễn Thị Thanh Mai (2007), Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với

đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến

sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

73. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), Quan niệm của Nho giáo về con người, về

giáo dục và đào tạo con người. Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

74. Hồ Chí Minh (1990), Vấn đề về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75. Hà Thúc Minh (2001), Đạo Nho và văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

76. Cung Thị Ngọc (2005), “Góp phần tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng

Tử trong Luận ngữ”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.51-54.

77. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2005), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

78. Phan Ngọc (1995) “Đạo nho Việt Nam, một sự khúc xạ”, Tạp chí nghiên

172

cứu Trung Quốc (4) tr.36-39.

79. Cao Thị Nguyệt (2012), Tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh và vai

trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức con người trong nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học, Trường Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

80. Võ Thị Thu Nguyệt (2004), “Xã hội Việt Nam hôm nay và Nho giáo”, Tạp

chí Đông Nam Á (4), tr. 23 - 25.

81. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2002), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

82. Nguyễn Văn Phúc (2002), Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Nguyễn Đức Đạt,

Tạp chí Triết học, số 10, tr.53-57.

83. Nguyễn Văn Phúc (2005), Tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Đức Đạt, Tạp

chí Triết học, số 9, tr.28-32.

84. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

85. Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục chính biên, tập IV,

Nxb Sử học, Hà Nội.

86. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương

mục, NXB Giáo dục, Hà Nội.

87. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục, tập 8, NXB Giáo

dục, Hà Nội

88. Trương Hữu Quýnh chủ biên (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

89. Sử thần triều Lê (1968), Đại Việt sử ký toàn thư, tập III, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

90. Nguyễn Đức Sự (2009), “Vị trí và vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt

Nam”, Tạp chí Triết học (10), tr. 16 - 20.

91. Nguyễn Văn Tặng (2011), “Một số vấn đề tư tưởng giáo dục con người

173

trong Nho giáo”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 11), tr.70-74.

92. Trần Thanh Tâm (1996), Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, NXB Thuận

Hóa, Huế.

93. Trần Đình Thảo (2009), “Mấy suy nghĩ về vấn đề con người của Nho

giáo”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 11), tr.25-29.

94. Lê Sỹ Thắng, chủ biên (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

95. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

96. Chương Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo, nho sỹ, trí thức Việt

Nam trước 1945, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

97. Ngô Đức Thọ chủ biên (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nan, Nhà xuất bản

Văn học, Hà Nội.

98. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Đại cương lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

99. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam, Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

100. Nguyễn Tài Thư (1998), “Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam: góc nhìn tín

ngưỡng và vai trò lịch sử”, Tạp chí Triết học (5), tr.33-38.

101. Nguyễn Tài Thư (2002), “Nho giáo và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học (5), tr. 29-35.

102. Nguyễn Tài Thư (2009), “Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt

Nam”, Tạp chí triết học (9), tr. 10 - 21.

103. Vũ Văn Thước (2017), Tư tưởng Nguyễn Đức Đạt qua tác phẩm “Nam Sơn

tùng thoại”. Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.

104. Phan Mạnh Toàn (2006), “Những nhân tố chủ yếu làm biến đổi Nho giáo ở

Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận (9), tr. 44 - 48.

174

105. Từ điển Triết học (1986), Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva.

106. Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

107. Nguyễn Minh Tường (2012), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt

Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

108. Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam

từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

109. Nguyễn Hoài Văn (2010), Đại cương lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam từ

thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Nguyễn Khắc Viện (2003), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội

111. Viện Triết học (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

112. Viện Triết học (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Văn tuyển, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

113. Viện Triết học (2011), Hội thảo khoa học,Nho giáo Việt Nam truyền thống

và đổi mới, Thành phố Huế.

114. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (2002), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

115. Nguyễn Xuân (2006), Những nhà giáo tiêu biểu trong lịch sử, Nxb Thanh

Hóa, Thanh Hóa.

116. Trần Thị Hải Yến (2016), Tư tưởng giáo dục của Nguyễn Đức Đạt trong

tác phẩm “Nam Sơn tùng thoại”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Khoa Triết

học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

117. Trương Thị Yến chủ biên (2013), Lịch sử Việt Nam, Tập 5, Nxb Khoa học

175

xã hội, Hà Nội.