intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Chính sách chất lượng của Công ty may Thăng Long là cung cấp các sản phẩm tốt nhất thông qua việc liên tục đổi mới hệ thống quản lý chất lượng nhằm không ngừng nâng cao sự thoả mãn của các bên có liên quan

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

182
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công ty may Thăng Long được thành lập ngày 08/05/1958. Đây là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam. Trải qua những khó khăn gian khổ nhưng công ty đã đạt được nhiều thành công qua từng chặng đường cùng Thủ đô Hà Nội và cả nước, Công ty may Thăng Long ngày càng phát triển và trưởng thành. Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, công ty là đầu tàu của ngành may mặc Việt Nam luôn hoàn thành những chỉ tiêu kế hoạch mà nhà nước giao cho. Sau khi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Chính sách chất lượng của Công ty may Thăng Long là cung cấp các sản phẩm tốt nhất thông qua việc liên tục đổi mới hệ thống quản lý chất lượng nhằm không ngừng nâng cao sự thoả mãn của các bên có liên quan

  1. Luận văn Chính sách chất lượng của Công ty may Thăng Long là cung cấp các sản phẩm tốt nhất thông qua việc liên tục đổi mới hệ thống quản lý chất lượng nhằm không ngừng nâng cao sự thoả mãn của các bên có liên quan 1
  2. Lời nói đầu Công ty may Thăng Long được thành lập ngày 08/05/1958. Đây là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam. Trải qua những khó khăn gian khổ nhưng công ty đã đạt được nhiều thành công qua từng chặng đường cùng Thủ đô Hà Nội và cả nước, Công ty may Thăng Long ngày càng phát triển và trưởng thành. Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, công ty là đầu tàu của ngành may mặc Việt Nam luôn hoàn thành những chỉ tiêu kế hoạch mà nhà nước giao cho. Sau khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, xoá bỏ cơ chế cũ chuyển sang cơ chế thị trường thì các doanh nghiệp nói chung và Công ty may Thăng Long nói riêng vừa có thêm nhiều cơ hội vừa phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt. Do vậy để tồn tại và phát triển Công ty may Thăng Long phải năng động sáng tạo tìm ra những giải pháp riêng phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Hiện nay ngành may mặc ở nước ta là một trong những ngành mũi nhọn. Số lượng các doanh nghiệp may tham gia vào thị trường ngày càng nhiều, tốc độ tăng ngày càng lớn, do đó quy mô hoạt động của thị trường đã tăng lên và có sự cạnh tranh gay gắt. Số lượng mặt hàng phong phú và đa dạng hơn, chất lượng mẫu mã đã phần nào đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Cho nên, để tạo uy tín với khách hàng xác lập vị thế của mình trên thị trường, Ban lãnh đạo Công ty may Thăng Long đã đề ra chính sách chất lượng: “Chính sách chất lượng của Công ty may Thăng Long là cung cấp các sản phẩm tốt nhất thông qua việc liên tục đổi mới hệ thống quản lý chất lượng nhằm không ngừng nâng cao sự thoả mãn của các bên có liên quan”. Qua 6 tuần học tập và tìm hiểu tại Công ty may Thăng Long, em đã nghiên cứu được một số vấn đề sau: + Quá trình hình thành và phát triển của Công ty may Thăng Long. + Hệ thống tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban của công ty. + Thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty may Thăng Long trong những năm vừa qua. + Thành tựu, hạn chế và phương hướng phát triển của Công ty may Thăng Long. 2
  3. Nội dung I- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty may Thăng Long: 1. Hoàn cảnh ra đời: Ngày 08/05/1958 Bộ Ngoại thương đã chính thức ra quyết định thành lập Công ty May mặc xuất khẩu trực thuộc Tổng công ty XNK tạp phẩm. Trụ sở văn phòng công ty đóng tại số nhà 15 - Cao Bá Qoát - Hà nội. Ngay sau khi thành lập, công ty đã nhận 20 công nhân có tay nghề cao được chọn lọc từ các cơ sở may và 8 cán bộ chuyển ngành. Tổng số cán bộ, công nhân ngày đầu của công ty là 28 người. Việc thành lập công ty có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh tế lẫn chính trị, là bước ngoặt có tính chất lịch sử bởi vì đây là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam. Hàng của công ty chủ yếu xuất sang các nước Đông Âu trong phe XHCN lúc bấy giờ, đó là bức “thông điệp” cụ thể giới thiệu sự năng động, tài hoa, cần cù chịu khó của công nhân Việt Nam, báo hiệu một triển vọng và tương lai tươi sáng của ngành may mặc Việt Nam trong tương lai. Ngoài ra, công ty cũng còn thu hút được nhiều lao động thủ công làm ăn cá thể, bước đầu làm quen với quan hệ sản xuất mới XHCN, đề cao vai trò tập thể, mọi người gắn bó trách nhiệm với công ty. 2. Khó khăn và thuận lợi ban đầu: Sau ngày thành lập Ban chủ nhiệm công ty xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm: - Liên hệ các khu nội, ngoại thành Hà Nội tổ chức các cơ sở gia công may mặc cho công ty. - Chuẩn bị điều kiện vật chất như: Vốn, nguyên vật liệu, dụng cụ sản xuất và nhân lực có tay nghề bổ sung vào công ty. - Mang mẫu sản phẩm gửi sang Liên Xô chào hàng để sớm kí kết hợp đồng xuất khẩu. Lúc bấy giờ, công ty đã tập hợp được từ các cơ sở gai công khoảng 2.000 thợ may và khoảng 1.700 máy may. Và thành lập các tổ may, mỗi tổ có từ 12 đến 15 máy. Chọn thợ có trình độ khá và có tinh thần trách nhiệm bố trí vào những bộ phận yêu cầu kĩ thuật cao phụ trách tổ. 3
  4. Ngay từ ban đầu Ban lãnh đạo công ty đều thống nhất biện pháp lấy chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của một cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy chính sách của công ty là phải chú trọng yếu tố chất lượng sản phẩm, lấy uy tín với bạn hàng, tổ chức sản xuất sao cho đúng tiến độ. Ngày đầu bước vào sản xuất công ty gặp không ít khó khăn, nhất là không đủ chỗ cho các bộ phận sản xuất. Do vậy công ty đã dời chuyển địa điểm về 40 - Phùng Hưng. Có chỗ làm việc rộng rãi hơn trước nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, nên bộ phận đóng gói, đóng hòm phải phân tán về 17 - phố Chả Cá và phố Cửa Đông. Tuy vậy ở những địa điểm mới này nhiều khi công nhân vẫn phải căng bạt ra hè làm ca đêm cho kịp kế hoạch. Bên cạnh đó, để sản xuất hàng xuất khẩu yêu cầu dây chuyền sản xuất số lượng sản phẩm ra phải nhiều, kỹ thuật quy cách phải đồng nhất 100%. Mặt hàng xuất khẩu ở Việt Nam chưa có tiền lệ cho nên bản thân phải tự mày mò, nghiên cứu để phục vụ sản xuất. Mặt khác, tiêu chuẩn quốc tế, kĩ thuật, chất lượng sản phẩm lại thuộc về lĩnh vực văn hoá và khoa học. Đây là vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với công ty. Để khắc phục những khó khăn đó Ban lãnh đạo công ty căn cứ vào sản phẩm may mặc nội địa, tìm hiểu trên sản phẩm nhập ở nước ngoài vào, kết hợp qua mấy mẫu giới thiệu được bạn duyệt. Từ đó mà hướng dẫn tiến hành sản xuất và rút ra những kinh nghiệm cho mình. Cuối năm 1958 đầu 1959 Thành phố Hà Nội phát động phong trào cải tiến chế độ quản lý ở các xí nghệp quốc doanh. Các phong trào thi đua sản xuất như: “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm được triển khai ở tất cả các nhà máy, xí nghiệp. Dưới sự lãnh đạo của các cán bộ Đảng, công ty đã tổ chức phong trào thi đua, nhờ vậy ngày 15/12/1958 đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch năm với tổng sản lượng 392.129 sản phẩm, so với chỉ tiêu đạt 112,8%. Đó là những thắng lợi đầu tiên cổ vũ mạnh mẽ cho những năm tiếp theo. Năm1959 kế hoạch công ty được giao tăng 3 lần năm 1958. Sản phẩm có thêm 4 mặt hàng mới: Pizama, áo mưa, áo măng tô san, măng tô nữ. Và công ty cũng hoàn thànhmột cách xuất sắc, so với kế hoạch đạt 102%. Kết quả tốt đẹp 2 năm đầu tạo đà cho năm 1960, năm bản lề cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 4
  5. trên miền Bắc. Kế hoạch Bộ giao tăng 45% so với 1959, nhưng công ty vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt tỉ lệ 116,16% chỉ tiêu kế hoạch. Thắng lợi ban đầu này có ý nghĩa vô cùng quan trọng nó cổ vũ động viên mạnh mẽ toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty ra sức hăng say lao động, nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo trong sản xuất. 3. Các giai đoạn phát triển của công ty may Thăng Long: Từ 1969 đến 1975: Được bộ chủ quản cho phép, tháng 07/1961 công ty chuyển địa điểm làm việc về số 250 - Minh Khai - Hà Nội, là trụ sở chính của công ty ngày nay. Địa điểm mới có nhiều thuận lợi, mặt bằng rộng rãi, tổ chức sản xuất ổn định. Các bộ phận phân tán trước nay thống nhất thành một mỗi tạo thành dây chuyền sản xuất khép kín hoàn chỉnh, từ khâu nguyên liệu, cắt may, là, đóng gói. Ngày 31/08/1965, Công ty may mặc xuất khẩu đổi tên thành Xí nghiệp may mặc xuất khẩu. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do chiến tranh và hậu quả chiến tranh, xí nghiệp (XN) vẫn liên tục đầu tư thêm nhiều máy móc thiết bị mới để luôn nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty. XN đã thay thế máy đạp chân bằng máy may công nghiệp, trang bị thêm máy móc chuyên dùng như máy thùa, máy đính cúc, máy cắt gọt, máy dùi dấu…Mặt bằng sản xuất được mở rộng, dây chuyền sản xuất đã lên tới 27 người, năng suất áo sơ mi đạt 9 áo/người/ca. Vì thế tình hình sản xuất những năm 1973 - 1975 đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn không thể khắc phục dược năm 1972 XN chỉ đạt 67,7% chỉ tiêu kế hoạch với 2.084.643 sản phẩm. Năm 1973: giá trị tổng sản lượng đạt 5.696.900 đồng, với tỷ lệ 100,77%, vượt hơn năm 1972 là 166,7%. Năm 1974: tổng sản lượng đạt 5.005.608 sản phẩm, giá trị tổng sản lượng 6.596.036 đồng, đạt 102,28%. Năm 1975: tổng sản lượng lên tới 6.476.926 sản phẩm, đạt 104,36%. Giá trị tổng sản lượng 7.725.958 đồng, đạt 102,27% so với kế hoạch. Từ năm 1975 đến 1980: Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước đã mở ra cho dân tộc ta một thời kì mới, thời kì cả nước thống nhất, đi lên CNXH. Trong thời kì này XN đã tập trung vào một số hoạt động chính sau: Xây dựng nội quy XN và triển khai thực hiện là một đơn vị thí điểm của toàn ngành may. Trang bị 5
  6. thêm 84 máy may bằng và 36 máy 2 kim 5 chỉ thay cho 60 máy cũ, 1 máy ép có công suất lớn. Nghiên cứu chế tạo 500 chi tiết gá lắp làm cữ, gá cho hàng sơ mi, đại tu máy phát điện 100kw bảo đảm đủ điều kiện sản xuất và chiếu sáng các phân xưởng làm việc. Nghiên cứu cải tiến dây chuyền áo sơ mi, có sự cộng tác giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, nghiên cứu 17 mặt hàng mới, được đưa vào sản xuất 10 loại. Ngoài ra XN còn thành lập Hội đống sáng kiến khuyến khích công nhân phát huy sáng tạo cải tiến kĩ thuật và đã có 209 sáng kiến. Những thành tựu trên đã góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 2. Năm 1979, XN được Bộ quyết định đổi tên mới là Xí nghiệp may Thăng Long với ý nghĩa cao đẹp nghìn năm văn hiến cảu Thủ đô, cũng như khát vọng bay cao bay xa của XN trong tương lai. Sản phẩm của XN, đặc biệt là áo sơ mi xuất khẩu đã được xuất đi nhiều nước, chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Gai đoạn từ 1980 – 1990: Trong thời kì này XN có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ sản xuất hàng mậu dịch xuất khẩu sang sản xuất hàng gia công xuất khẩu. Xác định rõ những khó khăn ban đầu, phái đối tác đòi hỏi kĩ thuật may gia công khắt khe, giao hàng đúng, đủ sản phẩm theo hợp đồng. Đề cao phong cách lao động công nghiệp…Sản phẩm của XN xuất khẩu sang các nước như Liên Xô, Đức, Pháp, Thuỵ Điển. Đại hội Đảng lần thứ 6 (12/1986) đề ra 3mục tiêu kinh tế chủ yếu: Lương thực - Thực phẩm - Hàng tiêu dùng và Hàng xuất khẩu. Phấn đấu thực hiện mục tiêu của Đại hội, Xí nghiệp may Thăng Long cũng như những XN trong ngành may gặp rất nhiều khó khăn về biến động giá cả, thiếu thốn nguyên liệu… Khắc phục khó khăn trên, XN đã chủ động tạo nguồn nguyên liệu qua con đường liên kết với UNIMEX, nhà máy dệt 8-3 và nhiều đơn vị khác. Khi thiếu nguyên liệu làm hàng xuất khẩu XN nhanh chóng chuyển sang làm hàng nội địa. Năm 1986 sản lượng giao nộp của XN đạt 109,12%, sản phẩm xuất khẩu đạt 102,73%. Năm 1987 tổng sản phẩm giao nộp đạt 108,87%, hàng xuất khẩu đạt 101,77%. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay: Những năm đầu thập kỉ 90, cơ chế bao cấp không còn, doanh nghiệp bước vào cơ chế thị trường. Bên cạnh đó tình hình thế giới có những biến động lớn tác động mạnh mẽ đến nước ta. Liên Xô tan rã, các 6
  7. nước XHCN như Đông Âu, Đông Đức sụp đổ đã làm cho thị trường của XN có nhiều biến động lớn. Đứng trước khó khăn đó Đảng uỷ và Ban giám đốc đã đi đến quyết định: Phải chuyển hướng sản xuất và tìm thị trường mới phải đáp ứng bằng chính chất lượng của mình. XN đã quyết định đầu tư hơn 20 tỷ đồng thay thế thiết bị cũ trang bị thêm một số máy móc hiện đại, nâng cao trình độ công nghệ đủ khả năng sản xuất mặt hàng mới cao cấp, đồng thời phải tổ chức sắp xếp lại sản xuất, cải tiến các mặt quản lý cho phù hợp với yêu cầu mới, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên, XN không ngừng đẩy mạnh tiếp thị, chủ động tìm kiếm khách hàng, tháo gỡ những khó khăn về tiêu thụ cũng như mở rộng chủng loại mặt hàng. Ngày 08/02/1991, XN là đơn vị đầu tiên trong ngành may được nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, tạo thế chủ động, giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí. Tiếp đến, ngày 04/03/1992 Bộ công nghiệp nhẹ đã kí quyết định chuyển Xí nghiệp may Thăng Long thành Công ty may Thăng Lông, tên giao dịch là Thang Long Garment Company (Thaloga), với nhiều nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: Gia công hàng may mặc xuất khẩu, hàng nội địa, gia công hàng thêu mài. Hàng năm, công ty sản xuất từ 8 triệu đến 9 triệu sản phẩm, trong đó hàng xuất khẩu chiếm khoảng 95%, sản phẩm gia công chiếm từ 80% đến 90%. Năm 1993 công ty thành lập Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm tại 39 - Ngô Quyền - Hà Nội. Năm 1995, công ty thực hiện phương thức kinh doanh “mua đứt bán đoạn” đạt 21,200 tỷ đồng, chiếm 43,26% doanh thu. Trong đó giá trị xuất khẩu FOB đạt 13,702 tỷ đồng chiếm 28% doanh thu. Năm 1996 doanh thu đạt 101% so với kế hoạch. Năm 1997 công ty vượt kế hoạch 108% với tổng doanh thu 218.306 triệu USD và đảm bảo thu nhập bình quân 735.745 đồng/người/tháng. Cho đến nay sau 45 năm phát triển, Công ty may Thăng Long đã có thị trường ổn định, rộng lớn cả trong nước và trên thế giới. Trong quá trình sản xuất, tiêu thụ đẩm bảo có lãi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. Thành tích đó đã được ghi nhận qua những tấm huân, huy chương cao quý: 1 Huân chương Độc lập hạng nhì (2002). 1 Huân chương Độc lập hạng ba (1997). 1 Huân chương Lao động hạng nhất (1988). 7
  8. 1 Huân chương Lao động hạng nhì (1993). 4 Huân chương Lao động hạng ba (1978, 1986, 2000, 2002). 1 Huân chương Chiến công hạng nhất (2000). 1 Huân chương Chiến công hạng nhì (1992). 1 Huân chương Chiến công hạng ba (1996). Ngoài ra, công ty còn nhận được nhiều bằng khen và giấy khen của Bộ công nghiệp, UBND Thành phố Hà Nội, Tổng công ty Dệt - May Việt Nam… Năm 2003, công ty tổ chức trọng thể 45 năm thành lập. Nhìn lại chặng đường đã đi qua tập thể cán bộ công nhân viên của công ty tự hào với truyền thống vẻ vang của mình. Hiện nay công ty đang mạnh dạn vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để mua sắm thiết bị thêm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống cán bọ công nhân viên. II- Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc: Công ty may Thăng Long là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, trực thuộc Tổng công ty Dệt - May Việt Nam nên đã xây dựng một cơ cấu quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng, được tổ chức quản lý theo 2 cấp: 1. Cấp công ty: Cấp công ty bao gồm: Tổng giám đốc công ty, chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo trực tiếp dưới sự hỗ trợ của các Phó tổng giám đốc; Các phòng ban chức năng và các XN thành viên của công ty (đứng đầu là các trưởng phòng và giám đốc XN) chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ban giám đốc. Mỗi phòng có một chức năng, nhiệm vụ vai trò riêng: Tổng giám đốc: Tổng giám đốc của Công ty may Thăng Long là ông Lê Văn Hồng (từ tháng 7/1988 đén nay). Tổng giám đốc có nhiệm vụ chịu trách nhiệm chung trước Tổng công ty về tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Phó tổng giám đốc điều hành kĩ thuật: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc thiết lập mỗi quan hệ với các bạn hàng, với các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tổ chức nghiên cứu mẫu hàng và các loại máy móc kĩ thuật, triển khai giấy phép xuất nhập 8
  9. khẩu như: tham mưu kí kết hợp đồng gia công, xin giấy phép xuất nhập khẩu, tiếp nhận nguyên phụ liệu, mở tờ khai hải quan, giao cho khách hàng… 9
  10. Tổng giám đốc P.Tổng giám đốc P.Tổng giám đốc P.Tổng giám đốc ĐHKT ĐHSX ĐH Nội chính Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Văn Phòng Phòng Phòng TTTM kỹ KCS thiết chuẩn kế kho cung phòng kế thị kinh CHTT thuật kế và bị sản hoạch ứng toán trường doanh & phát xuất sản tài vụ nội địa GTSP triển xuất GĐ các xí nghiệp thành viên XN 1 XN 2 XN 3 XN may XN may XN may XN Phụ Hoà Lạc Hà Nam Nam Hải trợ PX PX thêu mài 10
  11. Sơ đồ 1: Mô hình bộ máy quản lý của Công ty may Thăng Long 11
  12. Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất: có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc lập và báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Phó tổng giám đốc điều hành nội chính: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc sắp xếp các công việc của công ty, có nhiệm vụ trực tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, bảo hiểm, y tế, tuyển dụng, đạo tạo cán bộ, chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Phòng kĩ thuật: Có nhiệm vụ thiết kế mẫu mã, lập định mức, tiêu chuẩn kĩ thuật, chịu trách nhiệm về kĩ thuật của quy trình công nghệ. Phòng KCS: kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm tra các loại nguyên vật liệu nhập kho, các bán thành phẩm và thành phẩm. Phòng thiết kế và phát triển: có nhiệm vụ thiết kế mẫu mã của sản phẩm để từ đó đưa vào kế hoạch sản xuất. Phòng chuẩn bị sản xuất: Chức năng của phòng là tổ chức tiếp nhận và vận chuyể nguyên phụ liệu từ phương tiện vận chuyển xuống kho, đảm bảo số lượng chất lượng của hàng hoá nhập về. Phòng có trách nhiệm bảo quản hàng hoá có trong kho, quản lý và tổ chức sắp xếp khoa học hợp lý. Phòng kế hoạch sản xuất: có chức năng thiết lập các kế hoạch sản xuất dựa trên nhu cầu các hợp đồng đã ký kết và chịu trách nhiệm trong các lĩnh vực cung ứng vật tư kĩ thuật, quản lý vật tư, tiến độ kế hoạch sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ. Phòng kho: có nhiệm vụ quản lý và cấp phát nguyên vật liệu nhập về công ty. Phòng kho quản lý và bảo quản các thành phẩm do các XN sản xuất ra và chờ thời gian giao hàng cho khách hàng. Phòng cung ứng: chịu trách nhiệm cung ứng nguyên vật liệu đảm bảo phục vụ đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất của công ty. Phòng có trách nhiệm xây dựng phương án mua sắm nguyên vật liệu và chịu trách nhiệm đôn đốc, theo dõi đến nguyên vật liệu về đến kho theo đúng tiến độ, số lượng và chất lượng, giải quyết các vấn đề khiếu nại có liên quan khi có phát sinh. 12
  13. Văn phòng: có chức năng, nhiệm vụ giúp đỡ cho Giám đốc nội chính về tổ chức nhân sự, có nhiệm vụ tuyển dụng, quản lý, bố trí lao động, thực hiện công tác tiền lương, quản lý và thực hiện công tác hành chính văn thư… Phòng kế hoạch tài vụ: phòng có chức năng chuẩn bị và quản lý nguồn tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh và các khoản lương cho các cán bộ công nhân viên trong công ty. Phòng này quản lý và cung cấp các thông tin về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, về tài sản của doanh nghiệp trong từng kì, trong năm kế hoạch. Phòng thị trường: phòng có chức năng, nhiệm vụ giao dịch đàm phán soạn thảo các hợp đồng, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, năng lực công ty với các quy trình sản xuất, đề xuất các biện pháp quản lý và giải quyết các phát sinh trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Phòng kinh doanh nội địa: có chức năng, nhiệm vụ kinh doanh sản phẩm của công ty trên thị trường nội địa như quảng cáo thương hiệu sản phẩm của công ty, mở rộng mạng lưới đại lý, cửa hàng. Phòng còn có nhiệm vụ tìm đối tác trong nước, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu mẫu mã phù hợp với thi hiếu trong từng giai đoạn… Trung tâm thương mại, cửa hàng thời trang và giới thiệu sản phẩm: có chức năng và nhiệm vụ giới thiệu, bán những sản phẩm may mặc của công ty cho người tiêu dùng, đồng thời kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau. Đặc biệt là cửa hàng thời trang của công ty giới thiệu sản phẩm và bán những mẫu thời trang do công ty thiết kế và sản xuất ra đáp ứng nhu cầu may mặc thời trang đang tăng nhanh của người tiêu dùng. Ngoài ra, các cửa hàng còn có nhiệm vụ tìm hiểu và cung cấp các thông tin về nhu cầu, thị hiếu, mẫu mã hợp thời trang, hợp giá cả thị trường trong nước để sản xuất và tiêu thụ cho phòng kinh doanh nội địa, xây dựng các chiến lượcp, mở rộng khả năng tiếp cận với thị trường trong nước để tìm khách hàng. 2. Cấp xí nghiệp: Đứng đầu là các Giám đốc XN. Ngoài ra còn có các tổ trưởng sản xuất, nhân viên tiền lương thống kê, cấp phát nguyên vật liệu… 13
  14. - Các XN có nhiệm vụ tổ chức triển khai sản xuất theo đúng kế hoạch của công ty, chịu trách nhiệmvề tổ chức, quản lý cán bộ công nhân viên, nhà xưởng máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất …chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. - XN phụ trợ: gồm 1 phân xưởng thêu, 1 phân xưởng mài có nhiệm vụ thêu mài ép đối với những sản phẩm cần gia công và trùng tu, đại tu máy móc thiết bị. Ngoài ra, XN này còn có nhiệm vụ quản lý và cung cấp điện năng, điện nước cho các đơn vị sản xuất kinh doanh của công ty,xây dựng các kế hoạch dự phòng, thay thế thiết bị… III- Thực trạng kinh doanh của Công ty may Thăng Long: 1. Nguồn lực sản xuất: Là doanh nghiệp của nhà nước nên vốn của công ty chủ yếu là do nhà nước cấp. Ngoài ra nguồn vốn của công ty chủ yếu còn được hình thành từ nguồn vốn vay ngân hàng, vốn góp của các thành viên. Chính vì vậy, vốn của công ty trong những năm qua tăng đáng kể, trong đó phần lớn là vốn đi vay sở hữu và vốn rót từ Tổng công ty xuống. Cơ cấu vốn của công ty thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình vốn của công ty: (đơn vị: 1000đ) Năm 1999 2000 2001 2002 Tổng nguồn vốn 69.187.623 70.188.969 92.235.812 97.289.341 Vốn cố định 49.123.212 50.536.057 67.332.142 71.994.112 Vốn lưu động 20.064.411 19.652.292 24.903.670 25.295.229 Nguồn vôn chủ sở hữu 17.571.702 19.598.096 29.831.963 30.252.693 Nợ phải trả 51.615.921 50.596.873 62.403.849 67.036.648 (Nguồn: Phòng Kế toán Công ty may Thăng Long) Qua bảng ta thấy Vốn cố định càng ngày càng tăng từ 49.123.212.000 đồng (năm 1999) lên 71.994.112.000 đồng (năm 2002). Chứng tỏ công ty chú trọng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị. Nhìn vào bảng ta cũng thấy được nguồn vốn đi vay tăng theo từng năm và chiếm tỷ trọng rất lớn so 14
  15. với vốn chủ sở hữu, năm 1999 vốn vay chiếm 74,60% tổng nguồn vốn, năm 2002 chiếm 68,90%. Về cơ sở vật chất kĩ thuật: Khi mới thành lập máy móc kĩ thuật của công ty cũ kĩ, lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém chật chội. Nhưng qua 45 năm phát triển, công ty đã có một hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật khang trang hiện đại. Giá trị máy móc thiết bị chiếm hơn 50% tổng số vốn cố định. Đây là điều kiện tốt để cho công ty phát huy hết công suất. Về nguồn nhân lực: từ khi thành lập đến nay công ty đã góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Hiện nay, đội ngũ công nhân viên của công ty gần 4000 người vì đặc trưng của ngành may mặc nên phần lớn là lực lượng lao động nữ (chiếm 90%). Lực lượng lao động của công ty khá trẻ, nhóm lao động có độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi chiếm hơn 70% trong tổng số lao động. Trên 90% lao động quản lý ở các phòng ban có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên, gần 80% công nhân trực tiếp sản xuất học hết lớp 12, không có công nhân có trình độ cấp 1. Trình độ tay nghề bình quân của công nhân là bậc 3/6. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên toàn công ty hiện nay là 1.100.000 đồng. Bảng 2: Tình hình lao động của công ty: (đơn vị: 1000 đồng/người/tháng) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Số lao động 2.000 1.996 2.000 2.165 2.350 2.956 Thu nhập 735 835 920 1.000 1.100 1.100 BQ (Nguồn: Ban tổ chức hành chính Công ty may Thăng Long) Biểu đồ mô tả số lượng lao động và thu nhập bình quân của lao động: 3500 3000 2500 2000 1500 Sè lao ®éng (ng­êi) 1000 500 TNBQ 0 (1000®ång/ng­êi/th¸ng) N¨m N¨m N¨m N¨m N¨m N¨m 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Ngày nay Công ty may Thăng Long là đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty Dệt-May Việt Nam, gồm 7 XN thành viên nằm tại các khu vực: Hà Nội, Hà 15
  16. Nam, Nam Định, Hoà Lạc với 98 dây chuyền sản xuất hiện đại và gần 4000 cán bộ công nhân viên. Năng lực sản xuất đạ trên 12 triệu sản phẩm các loại/năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 120%. 2. Về thị trường: Từ khi thành lập công ty đã cố gắng tìm kiếm thị trường. Thi trường xuất khẩu là một điểm mạnh của công ty. Nhờ chính sách mở cửa của nhà nước mà công ty đề ra chiến lược mở rộng thị trường, đa dạng hoá mặt hàng, sản phẩm phù hợp với thị hiếu của từng khu vực, từng quốc gia trên thế giới làm tăng sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay công ty đã có quan hệ với trên 40 nước trên thế giới, trong đó có những thị trường mạnh đầy tiềm năng như: EU, Đông Âu, Nhật Bản, Mỹ…Song song với việc sản xuất các mặt hàng “mũi nhọn” phục vụ cho xuất khẩu, trong quá trình sản xuất công ty nhận thấy rằng nhu cầu tiềm năng sản xuất hàng nội địa là rất lớn, nên đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất, đưa chỉ tiêu sản xuất hàng nội địa thành chỉ tiêu phấn đấu thực hiện lớn trong các năm và trên thực tế giá trị tăng trưởng của công ty có phần đóng góp to lớn từ hàng hoá nội địa. Thị phần của công ty ở thị trường nội địa ngày một lớn, công ty đã tạo được uy tín tốt trên thị trường nội địa. Sản phẩm của công ty luôn được người tiêu dùng ưa chuộng. Thị trường nội địa là thị trường đầy tiềm năng của công ty. Hầu hết các đại lý, cửa hàng của công ty chủ yếu tập trung ở miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội. Còn khu vực Tây nguyên, miền Tây Nam bộ hầu như chưa có đại lý, cửa hàng nào của công ty. Vì vậy trong những năm tới công ty cần phải có các chiến lược thâm nhập các thị trường này. Tổng doanh thu bán hàng của công ty năm 2003 là 20.024.060.834 đồng, trong đó doanh thu tập trung chủ yếu ở các trung tâm thương mại, các cửa hàng lớn, đại lý ở Hà Nội. Bảng 3: Doanh thu bán hàng nội địa năm 2003 của công ty: (Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa - đơn vị: đồng) Cửa Cửa hàng 39 Ngô Ngoài 39 Các đại lý hàng, Tràng tiền 25 Bà triệu thời trang Quyền Ngô Quyền khác đại lý Doanh 258397400 2686744800 914800100 1097002900 8498122300 93499200 thu Thị trường xuất khẩu của công ty chia thành 2 loại: có hạn ngạch và phi hạn ngạch. Thị trường có hạn ngạch bao gồm thị trường EU, Canada, Mỹ… công ty chỉ 16
  17. đáp ứng được 40% năng lực sản xuất. Chính vì vậy nhiều khi công ty phải xin thêm quota xuất khẩu thậm chí còn mua quota của doanh nghiệp khác để tăng lượng xuất khẩu. Thị trường phi hạn ngạch như Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông…sản lượng xuất khẩu vào thị trường này phụ thuộc vào sự kí kết được các hợp đồng và năng lực sản xuất. Hai loại thị trường này đều đòi hỏi khắt khe về kĩ thuật, chất lượng sản phẩm… Sản phẩm chính của công ty bao gồm: áo sơ mi cộc tay, áo sơ mi dày tay, sơ mi bò, quần soóc kaki, quần dài tuytsi, áo jăckét, áo măngtô, quần jeans, áo bò…sản phẩm của công ty đáp ứng hầu hết mọi nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng từ già đến trẻ, từ model này đến model khác. Và sản phẩm của công ty được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. Trong những năm tiếp theo công ty có kế hoạch đầu tư trang thiết bị để cho ra đời những sản phẩm không những chỉ duy trì thị trường hiện nay mà còn mở rộng chiếm lĩnh thị trường mới. 3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: Từ một cơ sở sản xuất nhỏ ban đầu, với số lượng vài chục công nhân, dăm ba bàn may cổ lỗ, cũ kĩ, sản xuất nhỏ lẻ phân tán, nơi làm việc chật chội thiếu thốn. Ngày nay Công ty may Thăng Long có một cơ sở vật chất kĩ thuật khang trang hiện đại. Đó là do tập thể Công ty may Thăng Long không ngừng đổi mới toàn diện mình như đổi mới trang thiết bị, đào tạo công nhân lao động kĩ thuật, đổi mới bộ máy quản lý, sắp xếp lại tổ chức, tinh giảm biên chế…Thêm vào đó lại được quyền xuất khẩu trực tiếp. Mặc dù, hiện nay trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, tình hình chính trị trên thế giới bất ổn dẫn đến biến động về thị trường của công ty. Nhưng dựa vào đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, chính quyền và các tổ chức đoàn thể mà Công ty may Thăng Long có những kết qủa khả quan. Luôn là đơn vị đi đầu ngành về tỉ lệ sản xuất hàng FOB, có nhiều sản phẩm chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế như áo sơ mi, jăckét, quần âu…Lại được tổ chức chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng BVQI (Vương quốc Anh) chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của công ty đạt ISO 9002 nên tình hình sản xuất kinh doanh luôn vượt kế hoạch. Hiện nay, công ty đã có quan hệ với 80 hãng thuộc 40 quốc gia trên thế giới. Sức sản xuất hàng năm là 5 triệu sản phẩm quy chuẩn, tốc độ đầu tư tăng bình quân 17
  18. là 59%/năm, tốc độ bình quân nộp ngân sách là 25%, doanh thu là 20%, kim ngạch XNK là 23%. Bình quân thu nhập đầu người là 1.100.000 đồng/người/tháng. Sau đây là báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong vài năm qua: Bảng 4: Kết quả kinh doanh TT Chi tiết Đơn vị 2000 2001 2002 2003 1 Giá trị SX công nghiệp Tr.đ 47.560 55.683 65.050 74.306 2 Tổng doanh thu Tr.đ 112.170 130.378 156.388 172.310 Doanh thu xuất khẩu Tr.đ 90.845 108.854 132.508 152.286 FOB Tr.đ 63.131 71.636 97.250 114.932 Hình thức khác Tr.đ 27.714 37.218 35.258 37.354 Doanh thu nội địa Tr.đ 21.325 21.524 23.880 20.024 3 Giá vốn + chi phí Tr.đ 106.866 123.482 147.840 158.236 4 Lợi nhuận trươc thuế Tr.đ 5.304 6.896 8.548 14.074 5 Nộp ngân sách Tr.đ 3.370 3.470 3.820 5.175 VAT Tr.đ 2.085 2.152 2.388 1.910 Thuế TNDN Tr.đ 619 577 848 2.814 Thuế khác Tr.đ 666 741 584 451 6 Lợi nhuận sau thuế Tr.đ 1.934 3.426 4.728 8.899 7 Lao động Người 2.165 2.495 2.966 3.800 8 Thu nhập BQ/tháng 1000đ 1.000 1.100 1.100 1.300 Nhìn vào bảng ta thấy kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty may Thăng Long ngày càng có hiệu quả, đóng góp ngày càng lớn vào ngân sách của nhà nước. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 47.560 tr.đ (năm 2000) lên 74.306 tr.đ (năm 2003). Doanh thu của công ty năm 2000 là 112.170 tr.đ đến năm2003 là 172.310 tr.đ, tuy nhiên doanh thu hàng nội địa chiếm tỷ trọng không lớn chiếm 19,01% (năm 2000) và 11,07% (năm 2003) do đó có sự chênh lệch lớn giữa 2 chỉ tiêu này. Nộp 18
  19. ngân sách cũng tăng theo từng năm làm lợi cho nhà nước hàng tỷ đồng (3.370 tr.đ năm 2000 và 5.175 tr.đ năm 2003). Bên cạnh đó cung góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và thu nhập của người lao động được cải thiện rõ rệt. III- Những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân và phương hướng phát triển của công ty may Thăng Long: 1. Ưu điểm: Phát huy tính sáng tạo của tập thể cán bộ CNV của công ty khắc phục mọi khó khăn gian khổ, tìm tòi những giải pháp tốt nhất để không ngừng củng cố và phát triển công ty trong từng thời kì. Từ một cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, với những máy móc cũ kĩ. Nhưng bây giờ sau 45 năm phát triển công ty có được những thành tựu đáng khích lệ, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, với quy mô lớn. Có các sản phẩm với chất lượng cao được người tiêu dùng ưa chuộng, tạo được uy tín tốt không chỉ khách hàng trong nước mà còn chinh phục được các khách hàng khó tính ở nước ngoài. Công ty không ngừng phát huy cải tiến tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm mở rộng thị trường, lấy sự thoả mãn của khách hàng làm một trong những mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp trong suốt quá trình phát triển. Con người luôn có nhu cầu ăn mặc đẹp hơn, nhưng nhìn chung đều hướng tới sự hài hoà giữa giản dị với trang trọng, tao nhã mà lịch sự, sản phẩm đẹp nhưng giá trị sử dụng phải cao…Để làm được điều này, trong công tác lãnh đạo và điều hành sản xuất Ban lãnh đạo luôn chú trọng giáo dục công nhân vấn đề mang tính sống còn của công ty đó là chất lượng sản phẩm. Công ty đã không ngần ngại khi sử dụng vốn tự có và vốn vay để đầu tư mua máy móc trang thiết bị dây chuyền hiện đại tiên tiến của các nước tư bản. Do vậy mà hàng của công ty xét về chất lượng mẫu mã không thua kém bất cứ một hãng nào. Nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước, công ty đã tập trung đầu tư chiều sâu và chiều rộng theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản phẩm. Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001, công ty luôn dành được các huy chương vàng và danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao tại các cuộc hội chợ, triển lãm. 19
  20. Công ty làm ăn có hiệu quả như vậy cho nên đã giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Hiện nay đội ngũ cán bộ CNV của công ty gần 4000 người. Ngoài ra công ty có hệ thống mạng lưới đại lý rộng khắp cả nước đã tạo việc làm cho hàng nghìn lao động tại địa phương. Doanh thu hàng năm của công ty là rất lớn, cho nên đóng góp vào việc tăng ngân sách cho nhà nước. Bên cạnh đó công ty còn bảo đảm quyền lợi cho người lao động, xây dựng những ngôi nhà tình thương, chăm sóc gia đình chính sách… 2. Những tồn tại: Tuy công ty có những ưu điểm trên nhưng công ty vẫn còn những mặt tồn tại như sau: Tỷ trọng hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa có sự chênh lệch rất lớn. Từ 80% đến 90% doanh thu là hàng xuất khẩu, còn lại là hàng nội địa. Điều đó chứng tỏ trong những năm qua công ty chưa coi trọng thị trường nội địa. Trong mấy năm gần đây thị trường tiêu thụ nội địa có tăng lên, nhưng số lượng cửa hàng và đại lý của công ty phân bố không đều, tập trung khá lớn ở miền Bắc, nhất là Hà Nội. Tạo nên sự mất cân đối và đôi khi còn tạo ra sự cạnh tranh về bán hàng của các đại lý trên cùng một địa bàn. Công tác quản lý thị trường chưa được chặt chẽ. Trên thị trường còn có nhiều sản phẩm nhái nhãn hiệu của công ty, chất lượng không đảm bảo, gây mất uy tín của công ty. Mặt khác, việc quản lý các đại lý chưa có những ràng buộc cụ thể đối với họ, cho nên có nhiều cửa hàng, đại lý mượn uy tín của công ty để tiêu thụ sản phẩm của hãng khác hoặc tự động bán với giá cao hơn làm thiệt hại cho khách hàng, giảm uy tín của công ty. Giá cả của sản phẩm công ty là tương đối cao. Sản phẩm của công ty đa số phục vụ cho những đối tượng có thu nhập từ trung bình trở lên, chiến lược giá của công ty chưa nhằm vào đối tượng là khách hàng có thu nhập thấp. Bởi vì, nguồn nguyên vật liệu đầu vào của công ty có giá thành cao vì phải đi nhập ngoại cho nên công ty không thể hạ giá thành bán với giá thấp hơn được nữa. Bên cạnh đó, công ty cũng chưa coi trọng việc quảng cáo, khuyếch trương là công cụ cạnh tranh hữu hiệu để xây dựng cho mình một hình ảnh riêng trên thị trường. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0