intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

219
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó đổi mới đường lối đối ngoại là một nội dung quan trọng. Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau” [39, tr.105]. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005

  1. LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó đổi mới đường lối đối ngoại là một nội dung quan trọng. Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau” [39, tr.105]. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” [43, tr.147]. Với đường lối đối ngoại rộng mở đó, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với 165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế khu vực. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên các châu lục của thế giới. Các đoàn thể tổ chức nhân dân Việt Nam có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia quốc tế. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã có quan hệ với tất cả các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới, các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Nền kinh tế Việt nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Trong lịch sử, quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng đang phát triển mạnh sau những bước thăng trầm. Những năm Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quan hệ Việt Nam - ASEAN là quan hệ đối đầu. Khi Mỹ không thể thắng tại chiến trường Việt Nam, buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì các nước ASEAN đã điều chỉnh chính sách đối ngoại và triển khai một số bước đi thân thiện hơn trong quan hệ với Việt Nam. Về phía Việt Nam, tháng 7/1976 Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm đối với khu vực chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN. Tháng 8/1976 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước ASEAN. Tuy nhiên, đến năm 1979 do bất đồng quan điểm trong giải quyết vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN từ đối thoại thân thiện
  3. đã chuyển sang đối đầu. Đến năm 1989 khi Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, quan hệ Việt Nam - ASEAN ấm dần lên. Sau những bước đi, thủ tục cần thiết, ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự kiện này là mốc quan trọng thể hiện quyết tâm của Đảng Nhà nước ta trong việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, đặc biệt là chính sách đối với khu vực theo hướng chủ động hội nhập. Sự kiện này đã chấm dứt thời kỳ đối đầu, thù nghịch để hai bên bước vào thời kỳ hữu nghị hợp tác. Việc gia nhập ASEAN tạo thuận lợi cho Việt Nam tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư và các thể chế tài chính quốc tế, tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất nước. ASEAN còn tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội đi vào những thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đồng thời việc gia nhập ASEAN giúp Việt Nam nâng cao vị trí, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế… Những thuận lợi đó đã được chứng minh rõ nét bằng những thành tựu đạt được của Việt Nam trong 10 năm qua. Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn, nhưng cũng gặp phải những khó khăn, thách thức không nhỏ. Để có chính sách đối với khu vực hoàn chỉnh hơn, cần nhìn lại chặng đường 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN, để rút ra kinh nghiệm, nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và chất l ượng hợp tác Việt Nam - ASEAN. Từ những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với lịch sử phát triển lâu dài và vị trí chiến lược quan trọng, Đông Nam á đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa học khác nhau ở trong và ngoài nước. Đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN thì quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân và tổ chức, các cơ quan chuyên môn như Viện nghiên cứu Đông Nam á thuộc Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Vụ ASEAN - Bộ Ngoại giao, Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Quan hệ quốc tế v.v… trên các vấn đề như:
  4. Về lịch sử quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm như: Việt Nam - Đông Nam á: Quan hệ lịch sử văn hoá của Viện Nghiên cứu Đông Nam á, Nxb Chính trị Quốc gia, 1993; Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN của Đinh Xuân Lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000; Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương song phương của Vũ Dương Ninh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004; Ngoài ra còn có các bài tạp chí như: Vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN của Nguyễn Vũ Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1994; Hà Văn Thầm, Việt Nam gia nhập ASEAN tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Tạp chí Cộng sản, số 8, năm 1997; Nguyễn Huy Hồng, Về quan hệ Việt Nam ASEAN, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1995… V ề những vấn đ ề cụ thể trong quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm: Q uan h ệ Việt Nam - A SEAN chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam c ủa Vũ Đ ình H ương, V ũ Đ ình Bách, Nxb Chính tr ị Quốc gia, Hà N ội 1997; Nguyễn Xuân Thắng c ó cu ốn sách K hu v ực mậu dịch tự do ASEAN tiến trình hội nhập của Việt Nam, N xb Th ống kê, Hà Nội 1999; Ngô Hữu Mạnh, N h ững nhân tố thúc đ ẩy hạn chế hợp t ác an ninh chính trị Việt Nam - A SEAN trong 5 năm qua, Tạp chí Ngh iên c ứu quốc t ế, số 3, n ăm 2000… Về những cơ hội, thách thức cũng như đánh giá lại thời gian Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN có các bài viết như: Vấn đề hoà bình hợp tác giữa Việt Nam các nước ASEAN hiện nay - những thuận lợi khó khăn của Nguyễn Hữu Cát, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 3, năm 1994; Nhìn lại một năm gia nhập ASEAN của Nguyễn Mạnh Hùng, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 13, năm 1996; Nguyễn Cảnh Huệ, Những thuận lợi thách thức khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1996; Việt Nam sau 5 năm gia nhập ASEAN của Nguyễn Hữu Cát - Ngô Kim Anh, Tạp chí Tư tưởng Văn hoá 7-2000… Về những vấn đề chung liên quan đến ASEAN có các tác phẩm: ASEAN hôm nay triển vọng trong thế kỷ XXI của Nguyễn Thu Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998; Nguyễn Duy Quý, Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Nguyễn Duy Quý, Xây dựng một ASEAN phát triển đồng đều trong thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 5, năm 2001…
  5. Đặc biệt, vào dịp kỷ niệm 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN có các bài viết: Lê Công Phụng, Việt Nam - ASEAN 10 năm nhìn lại, đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 8, năm 2005; Vũ Dương Ninh, Việt Nam - ASEAN 10 năm đồng hành trên chặng đ- ường hội nhập quốc tế 1995 - 2005, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4, năm 2005; Trần Khánh, Việt Nam sau 10 năm gia nhập ASEAN thành tựu, cơ hội thách thức, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4, năm 2005… Các tác phẩm, bài viết về quan hệ Việt Nam - ASEAN rất phong phú, tiếp cận trên nhiều vấn đề khác nhau. Song chưa có bài viết hoặc công trình nào mang tính chất tổng hợp, có hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005. Do đó, kế thừa những công trình đã nghiên cứu trước đây, tác giả luận văn cố gắng nêu phân tích quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN trong thời gian 10 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Thông qua quan hệ Việt Nam - ASEAN trong 10 năm, tác giả luận văn khẳng định tính chủ động, đúng đắn, sáng tạo, nhạy cảm chính trị của Đảng trong việc đưa nước ta hội nhập sâu hơn vào ASEAN qua việc trở thành thành viên đầy đủ và tích cực, các sáng kiến thúc đẩy ASEAN phát triển toàn diện. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - N êu lên ch ủ tr ư ơng, đư ờng lối đ ối ngoại của Đ ảng đ ối với các n ư ớc A SEAN. - T hành t ựu đ ạt đ ư ợc hạn chế của Việt Nam trong quan hệ Việt Nam - A SEAN. - Bư ớc đầu nêu một số kinh nghiệm c ủa Đảng trong lãnh đạo xây dựng phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN rút ra sau 10 năm Vi ệt Nam gia nhập ASEAN. 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu - Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu chủ trương của Đảng liên quan đến xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN, quá trình tổ chức thực hiện chủ trương này.
  6. - Về thời gian: Tập trung đi sâu vào mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN từ 1995 đến 2005. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn đư ợc nghiên cứu và trình bày trên c ơ sở những quan điểm phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tư ởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại. 5.2. Nguồn tư liệu Luận văn sử dụng các tài liệu của Đảng về đối ngoại bao gồm: Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đường lối đối ngoại và công tác đối ngoại. Các tác phẩm, bài nói, bài viết hoặc phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ngoài ra luận văn sử dụng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về Đông Nam á nói chung và ASEAN nói riêng đã được in thành sách, công bố trên báo chí, hoặc các hội thảo có liên quan. Tác giả luận văn còn trực tiếp tham khảo ý kiến của nhiều cán bộ chuyên sâu về ASEAN của Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương để phục vụ cho việc viết luận văn. 5.3. Các phương pháp sử dụng khi nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và hệ thống các phương pháp như phân tích, tổng hợp, thống kê… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong luận văn. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Hệ thống một cách tương đối đầy đủ tư liệu về chủ trương, đường lối của Đảng về quan hệ Việt Nam - ASEAN. - Bước đầu rút ra những kinh nghiệm để góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN, góp phần triển khai chính sách đối với khu vực, một bộ phận quan trọng của chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và Nhà nước ta.
  7. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
  8. Chương 1 Đảng lãnh đạo đưa việt nam gia nhập asean và từng bước tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN (1995 - 2000) 1.1. Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN 1.1.1. Khái quát tình hình thế giới và trong nước tác động đến chính sách của Việt Nam đối với ASEAN (1986-1995) - Tình hình thế giới: Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp làm thay đổi căn bản cục diện thế giới. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng, dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Sự tan rã của một trong hai siêu cường của trật tự thế giới hai cực đã tạo ra một khoảng trống lớn trong không gian chính trị quốc tế, làm tan vỡ sự cân bằng toàn cầu đã tồn tại gần 50 năm qua từ sau Hội nghị Yanta năm 1945. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất và mạnh nhất về quân sự. So sánh lực lượng trên thế giới từ chỗ tương đối cân bằng giữa hai hệ thống chính trị xã hội đối lập chuyển sang có lợi cho Mỹ và các nước tư bản phát triển. Khi trật tự thế giới hai cực không còn nữa, thế giới chuyển sang cục diện mới với sự tham gia của nhiều nước, nhiều trung tâm. Nhật Bản và Tây Âu xem việc Liên Xô tan rã là thời cơ thuận lợi để vươn lên tăng cường vai trò chính trị và quân sự cho tương xứng với thực lực kinh tế của mình. Trung Quốc tiến hành cuộc cải cách, mở cửa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Sự lớn mạnh của Trung Quốc đã tác động không nhỏ đến cán cân so sánh lực lượng của thế giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Trung Quốc tham vọng trở thành siêu c ường của thế giới vào giữa thế kỷ XXI. ở khu vực Đông Nam á, Hiệp định Paris về hoà bình ở Campuchia được ký kết vào tháng 10 năm 1991. Do đó, những bất đồng quan điểm trong việc giải quyết vấn đề Campuchia không còn nữa. Mặt khác, khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt, Đông Nam á không còn được các cường quốc kinh tế thế giới đặt ở vị trí ưu tiên như trước. Nga và Mỹ
  9. đều giảm sự hiện diện của mình ở khu vực này. Nga tuyên bố rút quân khỏi Cam Ranh (Việt Nam), Mỹ rút lực lượng quân sự ở căn cứ Xubích và Clark (Philippin). Tình hình đó tạo ra một “khoảng trống” quyền lực ở vùng Đông Nam á. Những cố gắng nhằm đẩy mạnh vai trò cả về chính trị, kinh tế quân sự của Trung Quốc, Nhật Bản ở châu á đã làm tăng mối lo ngại truyền thống trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam á khác về một nguy cơ can thiệp của các nước lớn đối với khu vực. Bên cạnh đó lại nảy sinh những nguy cơ xung đột tiềm tàng ở Biển Đông. Đó là thách thức lớn đối với ASEAN, buộc họ phải tính toán nhằm tìm ra một cơ chế bảo đảm an ninh, hoà bình ở khu vực. Vì vậy, ASEAN chủ trương tăng cường vị thế của mình, bằng cách phấn đấu tiến tới ASEAN 10, lấy việc kết nạp Việt Nam vào ASEAN là hướng ưu tiên, ra sức tạo ra thế cân bằng chiến lược mới ở khu vực bằng cách giữ cho Đông Nam á hoà bình, trung lập và thịnh vượng, đứng ngoài những quan hệ phức tạp giữa các nước lớn. Trước những xu thế mới của tình hình thế giới, hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN ngày càng được ưu tiên. Đầu những năm 90, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tính theo đầu người của các nước ASEAN đã đạt mức: Singapore và Brunei khoảng 15.000 USD, Malaysia là 2.300 USD, Thái Lan trên 1.400 USD, Philippin trên 700 USD, Indonesia trên 600 USD. Các nước ASEAN đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Với chính sách “hướng ngoại”, ngoại thương của ASEAN phát triển nhanh chóng, đạt 160 tỷ vào đầu những năm 90, đến cuối những năm 80 bình quân hàng năm các nước ASEAN thu hút 13,5 tỷ USD vốn đầu tư của thế giới so với 4,6 tỷ USD vào đầu những năm 80. Từ đầu những năm 90, sức mạnh kinh tế của các nước ASEAN đã tăng lên đáng kể, dự trữ ngoại tệ tăng khá (Singapore là trên 30 tỷ USD, Brunei khoảng 25 tỷ USD, Thái Lan trên 20 tỷ USD, Indonesia trên 10 tỷ, Philippin khoảng 4,5 tỷ) [66, tr 29 - 30]. Toàn cầu hoá trở thành một xu thế diễn ra mạnh mẽ từ sau khi cục diện thế giới chuyển từ 2 cực sang đa cực. Xu thế toàn cầu hoá tăng cường sự giao lưu hợp tác giữa các nước và các khối nước, giúp các nước phát triển nhanh và tận dụng thành quả khoa học công nghệ của loài người. Quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi các nước phải mở rộng làm ăn, hợp tác với nhau không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, lớn hay nhỏ… toàn cầu hoá còn tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả cho sử dụng và lưu thông vốn, kỹ thuật và công
  10. nghệ, hàng hoá, lao động… góp phần làm tăng thêm sản phẩm xã hội và sự phát triển chung của loài người. Tuy nhiên, với các nước nhỏ, kém phát triển trong quá trình hội nhập chịu sự thua thiệt là điều khó tránh khỏi. Nhưng không vì thế mà các nước nhỏ, kém phát triển, lạc hậu lại đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá, vì thực tiễn đã cho thấy không một quốc gia nào, không một nhóm nước nào dù lớn và có tiềm năng có thể phát triển trong hình thái “tự sản tự tiêu”. Trước những đòi hỏi mới của tình hình, dưới tác động của sự đảo lộn về tập hợp lực lượng thế giới, các nước đều điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình theo hướng dành ưu tiên cho yêu cầu phát triển kinh tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, cải thiện quan hệ hợp tác, liên kết với các nước ở khu vực. Do đó, trong quan hệ quốc tế ngày nay đang nổi lên những xu hướng mới ảnh hướng nhiều đến chính sách đối ngoại của các nước: Thứ nhất, xu hướng ưu tiên cho phát triển kinh tế đang lôi cuốn cả cộng đồng quốc tế, những nước công nghiệp phát triển cũng như những nước đang phát triển. Với việc kết thúc chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua về kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang thay thế cho cuộc chạy đua vũ trang. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia. Thứ hai, xu hướng đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của tất cả các nước, nhất là những nước trước kia có quan hệ đối ngoại hạn chế. Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, không câu nệ đối tượng, với tất cả những ai có khả năng hợp tác hiệu quả, việc lựa chọn bạn, thù, biện pháp và hình thức quan hệ trở nên hết sức linh hoạt. Thứ ba, hợp tác khu vực tăng cường. Các nước đều coi trọng chính sách khu vực, ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế với những nước láng giềng, đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực nhất là về kinh tế. Xu hướng này đang là một trào lưu ngày càng lan rộng khắp các châu lục, xuất phát từ cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế mang tính toàn cầu và sự tập hợp lực lượng giữa các trung tâm, khu vực, nhằm hình thành trật tự thế giới mới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Vì vậy, các quốc gia đều coi trọng, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước có chung đường biên giới, để đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực. Xu thế khu vực hoá và
  11. nhất thể hoá nền kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ và sôi động. Nhiều tổ chức và Diễn đàn kinh tế đa phương ở từng khu vực đã được hình thành: ở châu Âu: Liên minh châu Âu với 12 nước thành viên đến năm 1995 kết nạp thêm 3 nước thành viên mới (áo, Thụy Điển, Phần Lan); nâng tổng số thành viên lên 15 n ước so với 6 nước thành viên khi được thành lập năm 1957. ở châu Mỹ: Thành lập khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) vào cuối năm 1992; các nước Nam Mỹ thành lập khu vực mậu dịch tự do Nam Mỹ (MERCOSUR). ở châu á: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập tháng 11/1992; Các nước ASEAN thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1993. Những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới, trong đó sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tác động sâu sắc đến đất nước ta: Sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, sự hợp tác kinh tế của Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khó giữ được ở mức độ và những điều kiện như trước. Trong khi đó, một thời gian dài Đảng ta luôn xác định “tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” [39, tr. 99-100]. Khi Liên Xô sụp đổ, “hòn đá tảng” không còn nữa. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới và tiếp tục phát triển, Đảng ta cần có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn và các quan hệ quốc tế mới, với xu thế phát triển của thế giới. - Khái quát tình hình trong nước: Từ những năm 70 nhất là giữa những năm 80 của thế kỷ trước, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới. Thực hiện đường lối đổi mới đó, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, sau 2 năm thực hiện “tình hình kinh tế, xã hội có sự cải thiện nhất định; nhịp độ lạm phát và tăng giá giảm một ít, tình hình cung ứng lương thực, hoạt động giao dịch, chuẩn bị hợp tác với bên ngoài được mở ra”. [41, tr. 3]. Trong các năm 1986 – 1989 tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều tăng so với năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng từ 4,8% năm 1986
  12. lên 19,6% năm 1989, thu nhập quốc dân tương ứng cũng tăng từ 3,3% lên 14,7%; “Tình hình lương thực – thực phẩm có chuyển biến tốt, từ chố thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu” [43, tr.18]. Về kinh tế đối ngoại: Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu rúp và 384 triệu đôla năm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla năm 1990 [43, tr.19]. Lạm phát được kiềm chế, nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, 1987 là 10%, 1988 là 14%, 1989 là 2,5%, đến năm 1990 là 4,4 % [43, tr. 27]; trong 5 năm 1986-1990 có thêm 4,2 triệu lao động đã tìm được việc làm. Trong 5 năm (1991- 1995) nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2%, công nghiệp tăng bình quân 13,3%, nông nghiệp tăng bình quân 4,5%, kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Lạm phát được kiềm chế năm 1986 là 774,7% xuống còn 67,4% năm 1991, còn 12,7% năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Trong 5 năm tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 17 tỷ đôla, tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỷ đôla, quan hệ mậu dịch đã mở rộng trên 100 nước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh trong 5 năm, bình quân hàng năm là 50%. Đến cuối 1995, tổng số vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỷ đôla [46, tr.58 - 59]. Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hoá và xã hội có chuyển biến tích cực. Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm, chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Trải qua 10 năm đổi mới, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, có trình độ thấp, cơ sở hạ tầng ở dưới mức trung bình của các nước phát triển; trong các doanh nghiệp, trình độ thiết bị công nghệ phần lớn lạc hậu, năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt và giá thành còn cao. Hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Khoảng cách về trình độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực chậm được thu hẹp, Báo cáo
  13. chính trị tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ rõ “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” [45, tr. 25]. Điều này đã gây không ít khó khăn cho việc Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế. Từ điều kiện thực tế của Việt Nam lúc này, phát triển nhanh và mạnh mẽ quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực nhất là các nước ASEAN, là chìa khoá để Việt Nam mở cánh cửa vào khu vực và là cầu nối để bước vào hợp tác sâu rộng với các nước trên thế giới, qua đó, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.1.2. Quá trình Đảng lãnh đạo đưa Việt Nam gia nhập ASEAN Trước những khó khăn, thách thức to lớn mà tình hình thế giới và trong nước đặt ra, Đảng ta đã nắm bắt được quy luật, thực trạng và xu thế vận động của tình hình thế giới, có chiến lược và sách lược đúng về đối ngoại, đặc biệt là mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước ASEAN. Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là: “ ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới„ [39, tr. 99]. Đại hội nêu rõ: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam không ngừng phấn đấu nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với Inđônêxia và các nước Đông Nam á khác” [39, tr. 108]. Vào thời điểm diễn ra Đại hội, vấn đề Campuchia là trở ngại chính cho việc phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN. Vì vậy, Đại hội nhấn mạnh: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác" [39, tr. 108]. Thực hiện và cụ thể hoá đường lối đối ngoại với các nước ASEAN mà Đại hội VI đã đề ra, tháng 5/1988, Bộ Chính trị khoá VI đã họp Hội nghị lần thứ 13 bàn về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Bộ Chính trị chủ trương rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, coi đây là giải pháp phá bỏ những rào cản và sự bao vây cô lập về chính trị của thế giới đối với ta. Bộ Chính trị nhấn mạnh ngoài việc
  14. tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Lào và Campuchia, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước phương Tây và các nước ASEAN là một yêu cầu khách quan. Để mở rộng quan hệ đối ngoại Việt Nam - ASEAN, Bộ Chính trị cho rằng: Cần có chính sách toàn diện đối với Đông Nam á, trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Indonesia, phá vỡ thế bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá với các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa nước ta với các nước này bằng thương lượng, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác [40, tr.12]. Chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm tăng cường quan hệ với các nước láng giềng khu vực tiếp tục được thể hiện ở Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI), Hội nghị chỉ rõ: Góp phần tích cực giải quyết vấn đề Campuchia bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về Campuchia. Xây dựng mối quan hệ mới với các nước ASEAN, tham gia tích cực vào việc biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác [41, tr. 40]. Về vấn đề Campuchia, một lần nữa Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá VI) nhấn mạnh: Kiên trì phấn đấu cho một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia phù hợp với lợi ích cơ bản của cách mạng Campuchia và hoà bình, ổn định trong khu vực. Nhờ sự nhạy bén chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt thi hành đường lối đổi mới toàn diện cả về đối nội lẫn đối ngoại trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đã quyết tâm tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn đề Campuchia trước khi xảy ra sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Việc Việt Nam chủ động rút hết quân khỏi Campuchia và tích cực đóng góp vào việc ký Hiệp định về Campuchia, đã tạo tiền đề quan trọng cho việc cải thiện quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong và ngoài khu vực. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [43, tr. 147]. Đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng và các nước trong khu vực
  15. tiếp tục được Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á và châu á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam á hoà bình, hữu nghị và hợp tác” [43, tr. 90]. Thực hiện đường lối mà Đại hội VII đề ra, tháng 6/1992, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã thông qua bản báo cáo: Thời cuộc hiện nay và nhiệm vụ của chúng ta do Tổng Bí thư Đỗ Mười trình bày. Bản báo cáo chỉ rõ: “Trong thời đại ngày nay, bất cứ nước nào, dù phát triển đến đâu cũng không thể khép kín được” [44, tr. 5]. Vì vậy, phải mở rộng quan hệ quốc tế, trước hết là: Xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực, tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài chung quanh nước ta, đáp ứng lợi ích của dân tộc ta và phù hợp với xu thế các nước, tăng cường liên kết khu vực vì hoà bình và phát triển. Đồng thời mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển, với các nước khác và tổ chức quốc tế [44, tr. 6-7]. Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) đã ra nghị quyết về đối ngoại, Hội nghị xác định rõ: Nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trước tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Hội nghị đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là: Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ. Hội nghị cũng đề ra 4 phương châm để vận dụng xử lý các mối quan hệ quốc tế: Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các n ước.
  16. Với ASEAN, Hội nghị đã đánh giá: Đông Nam á liên quan mật thiết tới yêu cầu tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho an ninh và phát triển của Việt Nam. Các nước ASEAN phát triển kinh tế khá nhanh, đang đi tới quá trình nhất thế hoá về kinh tế với việc lập khối mậu dịch tự do AFTA. Vì lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam, Hội nghị đề ra: Tiếp tục cải thiện và mở rộng quan hệ với từng nước và với cả nhóm nước ASEAN trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình. Chú ý mở rộng hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ trên các lĩnh vực mà ASEAN có trình độ cao, từng bước tham gia hợp tác khu vực với khẩu hiệu biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình, hợp tác và phát triển. Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, tham gia các diễn đàn đối thoại với ASEAN, tích cực nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong tương lai. Giải quyết thoả đáng bằng thương lượng các vấn đề tồn tại, vướng mắc giữa Việt Nam với các nước ASEAN. Tiếp đó, năm 1993 Chính phủ Việt Nam công bố chính sách bốn điểm mới của Việt Nam với khu vực. Chủ trương đối ngoại của Đảng được đề ra qua các Đại hội VI, VII và các Hội nghị Trung ương khoá VI, VII đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, chủ trương đó được các nước Đông Nam á và quốc tế đánh giá cao, đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN. Tuy nhiên, trong một thời gian dài từ năm 1979 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN chuyển sang giai đoạn đối đầu do xuất hiện vấn đề Campuchia. Về phía Việt Nam đã chủ động đưa ra nhiều đề nghị giải quyết vấn đề Campuchia và về hoà bình hợp tác ở Đông Nam á nhưng đều không được ASEAN chấp nhận. ASEAN cho rằng sự có mặt của Việt Nam ở Campuchia là nguyên nhân chủ yếu gây mất ổn định khu vực, phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hoà bình và hợp tác ở khu vực. Song, trước tinh thần đường lối đối ngoại đổi mới mà Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra, trước dấu hiệu các nước lớn (Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc) đối thoại với nhau nhằm giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã sớm đi vào giải quyết vấn đề Campuchia. Tại Hội nghị AMM, tháng 2/1987, các nước ASEAN đã đồng ý cử Inđônêxia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương. Tháng 7/1987 diễn ra cuộc
  17. đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và Inđônêxia tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên đã ra thông cáo chung Việt Nam - Inđônêxia đánh dấu quá trình thương lượng giữa hai nhóm nước nhằm giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia, mở đường cho các Hội nghị không chính thức chung (Joint informal meeting) về vấn đề Campuchia, JIM 1 (7/1988), JIM 2 (2/1989). Tại Hội nghị JIM 2, Việt Nam và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Bali 1976) của ASEAN. Hội nghị quốc tế về Campuchia - IMC (2/1990) tại Giacácta thảo luận một cách cởi mở về một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ ba họp tại Manila (Philippin). Tổng thống Philippin tuyên bố Philippin không coi Việt Nam là mối đe doạ đối với Philippin. Tiếp đó, tháng 2/1989, Bộ trưởng ngoại giao Philippin tuyên bố không chống việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Còn Thủ tướng Thái lan Chatichai, đã đưa ra chủ trương “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” từ năm 1988. Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước ASEAN, tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo Châu á - Thái Bình Dương ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á. Việt Nam đã chủ động rút quân khỏi Campuchia trước khi giải pháp cho vấn đề Campuchia được đưa ra, quyết định tham gia Hiệp ước Bali, tỏ thái độ sẵn sàng trở thành quan sát viên của ASEAN. Ngày 22/7/1992, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 25 ở Manila (Philippin). Từ đây, Việt Nam tham gia từng bước vào một số cơ chế và chương trình hợp tác của ASEAN với tư cách quan sát viên. Tiếp đó, trong chuyến đi thăm chính thức Singapore, Tổng Bí thư Đỗ Mười trong bài phát biểu tại buổi chiêu đãi tiếp tục khẳng định: “Chúng tôi coi trọng việc mở rộng quan hệ với các nước láng giềng… rất coi trọng sự hợp tác nhiều mặt với từng n ước
  18. ASEAN và tổ chức ASEAN nói chung, sẵn sàng gia nhập tổ chức ASEAN vào thời gian thích hợp” [125, tr.132]. Trong chuyến đi thăm chính thức Vương quốc Thái Lan tháng 10/1993 (Thái Lan đang giữ trọng trách là Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN), Tổng Bí thư Đỗ Mười tiếp tục khẳng định: “Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông Nam á với tư cách là một tổ chức khu vực; sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời gian thích hợp” [133, tr.147]. Có thể nói, thời gian từ 1992 đến 1994, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước ASEAN được đẩy mạnh và tăng cường bằng các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo nước ta tới các nước ASEAN và ngược lại. Tháng 9/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký quyết định thành lập Vụ ASEAN (Bộ Ngoại giao) để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam với ASEAN. Như vậy, với những phát triển nhanh chóng và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực chuẩn bị để gia nhập ASEAN. Ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư cho Ngoại trưởng Bruney, Chủ tịch đương nhiệm Uỷ ban Thường trực ASEAN (ASC) chính thức đặt vấn đề Việt Nam xin gia nhập ASEAN. Tháng 2/1995 các nước ASEAN nhất trí sẽ tổ chức kết nạp Việt Nam vào ASEAN trước phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 28 tại Bruney. Ngày 28/7/1995 tại Bruney, lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN được tổ chức. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN, trở thành thành viên chính thức của tổ chức này có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, sự kiện này chấm dứt một thời gian dài khu vực này bị chia thành hai trận tuyến đối địch nhau. Mặt khác, việc gia nhập ASEAN góp phần quan trọng vào việc củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác khu vực, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nước, cải thiện một cách cơ bản và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN. Là thành viên ASEAN, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc đấu tranh với các nước lớn về nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến lợi ích của ta như vấn đề Biển Đông, vấn đề nhân quyền. Gia nhập ASEAN góp phần chuẩn bị và tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, tích luỹ thêm kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc tham
  19. gia có hiệu quả các cơ chế hợp tác rộng lớn hơn. Với tư cách là thành viên của ASEAN, chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức như APEC, WTO. Đồng thời Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để học tập, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại với các nước trong khu vực, cán bộ của Việt Nam có nhiều cơ hội để gặp gỡ, giao lưu với các đồng nghiệp của mình trong khu vực, từng bước làm quen với cơ chế hợp tác đa phương. Tham gia ASEAN giúp Việt Nam điều chỉnh dần các thủ tục hành chính, phong cách làm việc theo hướng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tại lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN đã nêu rõ: Đây là sự kiện quan trọng có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN, một mốc mới đánh dấu sự thay đổi cục diện ở Đông Nam á sau 50 năm kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc. Đây cũng là một nhân tố mới góp phần đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế - thương mại trong khu vực vì sự phồn vinh của mỗi nước và của cả Đông Nam á. Sự kiện này đồng thời là bằng chứng hùng hồn nói về xu hướng khu vực hoá đang phát triển mạnh mẽ cùng với xu thế quốc tế hoá ngày càng gia tăng trong một thế giới tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét [21, tr. 415 - 416]. 1.2. Chủ trương của Đảng từng bước đưa Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN (1995-2000) 1.2.1. Đườ ng l ối đ ối ngoại của Đ ảng nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam - ASEAN Trong những năm 1995-2000, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến nhanh chóng và phức tạp. Mỹ vẫn tiếp tục đóng vai trò siêu cường duy nhất, chiếm ưu thế vượt trội. Do vậy, Mỹ đẩy mạnh chính sách “can dự linh hoạt” đồng thời “kiềm chế” đối với Nga và Trung Quốc. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Mỹ đẩy mạnh thực hiện chính sách “dính líu tích cực” thông qua quan hệ kinh tế, chính trị, v ăn hoá, các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tác động gây phân hoá nội bộ thực hiện chuyển hoá từ bên trong. Quan hệ giữa các n ước lớn thay đổi theo hướng Nga, Trung Quốc, ấn Độ xích lại gần nhau. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những vấn đề an ninh phi
  20. truyền thống cũng tác động đến an ninh các nước vừa và nhỏ. Đó là “chủ nghĩa can thiệp nhân đạo”, do Mỹ và phương Tây thúc đẩy. Những xung đột về sắc tộc và tôn giáo vẫn diễn ra ở các khu vực. Xu hướng chạy đua vũ trang gia tăng. Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên… liên tiếp tiến hành các vụ thử tên lửa; Mỹ gấp rút triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chiến lược (NMD) và kế hoạch phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD), không phê chuẩn Hiệp định Cấm thử hạt nhân (CTBT). Tình hình trên đã tạo nguy cơ đe doạ an ninh nhiều khu vực. ở Đông Nam á, năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu ở Thái Lan. Ngày 02/7/1997 khi các nhà quản lý tiền tệ của Thái Lan tuyên bố bãi bỏ việc gắn giá trị của đồng Bạt vào đồng Đôla Mỹ. Chỉ sau 1 ngày, đồng Bạt đã mất giá 20%. Vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tiền tệ đã nhanh chóng bao trùm toàn bộ nền kinh tế Thái Lan và lan sang các nước trong và ngoài khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippin và Hàn Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã để lại cho một số nước ASEAN những hậu quả nghiêm trọng như: nợ nước ngoài của các nước ASEAN 6 tăng quá lớn do đồng tiền bị phá giá, không có khả năng thanh toán các món nợ đến kỳ thanh toán. Inđônêxia nợ nước ngoài 140 tỷ USD tương đương với 88,7% GDP, số tiền nợ của Thái Lan là 90 tỷ USD bằng 97,1% GDP của cả nước; tiêu dùng và đầu tư tư nhân giảm mạnh; xuất khẩu vẫn chưa phục hồi do các nước không đủ sức tài trợ cho nhập khẩu; tốc độ tăng trưởng của các nước giảm nghiêm trọng, đặc biệt là ở Thái Lan (- 5%), Inđônêxia(- 1,5%); tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, đặc biệt là Inđônêxia (21%), Thái Lan (6%) [128, tr.19 - 22]. Không chỉ chịu tác động mạnh mẽ trên phương diện kinh tế, xã hội, một số nước ASEAN còn chịu tác động mạnh mẽ trên phương diện chính trị: ở Inđônêxia, phong trào đấu tranh đòi độc lập của Đông Timo, phong trào Aceh trỗi dậy. Năm 1999, Tổng thống Habibi phải tiến hành cuộc trưng cầu dân ý về nền độc lập của Đông Timo. Kết quả là 78,5% phiếu ủng hộ Đông Timo tách khỏi Inđônêxia. ở Philippin, các lực lượng hồi giáo ly khai do mặt trận giải phóng dân tộc Môrô lãnh đạo đã tích cực hoạt động trở lại. Do bị khủng hoảng, ASEAN bị suy yếu, các nước không hỗ trợ được cho nhau khắc phục khủng hoảng, nội bộ xuất hiện những mâu thuẫn mới. Một số nước đòi thay đổi các nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thành viên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2