intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Day học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh lớp 10

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

104
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

1.1. Thế kỉ XX đã trôi qua, cả nhân loại đang bước vào thế kỉ mới. Một trong những đặc điểm cơ bản của thế kỉ này là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang phát triển như vũ bão, thời đại của nền “kinh tế tri thức” đã và đang dẫn đến sự bùng nổ thông tin. Trước tình hình đó, để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới, của thời đại, một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra với nền giáo dục nước ta là: phải liên tục...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Day học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh lớp 10

  1. Luận văn Day học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh lớp 10
  2. MỤC LỤC Phần mở đầu............................................................. .......................................3 1. Lí do chọn đề tài............................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề...............................................................................................5 2.1. Tự học trong nhà trường nói chung................. ...........................................5 2.2. Tự học trong môn Ngữ văn........................................................................7 2.3. Tự học đối với bài học văn học sử..................................... .......................8 3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................9 4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................. ................................10 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................10 6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................10 7. Bố cục luận văn............................................................ ...............................11 Phần nội dung.................................................................................. ..............12 Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học cho HS trong giảng dạy văn học sử ở THPT...............................................1 2 1.1. Cơ sở lí luận.......................................................... ....................................12 1.1.1. Khái niệm tự học......................................................................... ..........12 1.1.2. Khái niệm năng lực tự học............................................................ .......14 1.1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học .......................................18 1.1.2.2. Điều kiện để tự học có hiệu quả.........................................................22 1.1.3. Tự học đối với các bài học về văn học sử trong SGK......... ..................26 1.1.3.1. Mục tiêu của bài học văn học sử........................................................26 1.1.3.2. Nội dung của bài học văn học sử........................................................26 1.1.3.3. Hình thức của bài học văn học sử............................................. ..........26 1.1.3.4. Hình thành năng lực tự học cho HS theo các kiểu bài văn học sử.....26 1.2. Cơ sở thực tiễn..........................................................................................2 8 1.2.1. Tình hình tự học các bài học về văn học sử của HS THPT...................28 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. 1.2.1.1. Về tinh thần tự học các bài học văn học sử của HS THPT................28 1.2.1.2. Về hoạt động tự học bà i học văn học sử của HS THPT............. ........29 1.2.2. Thực trạng về dạy học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học cho HS................................................................................. .....................30 1.2.2.1. Đối với GV............................................................. ............................30 1.2.2.2. Đối với HS................................................................................ ..........31 Chương II: Những biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học qua các bài học văn học sử............................................................................3 2 2.1. Biện pháp 1: Hình thành năng lực nhận diện các loại văn bản trong SGK Ngữ văn 10....................................................................... ...............................33 2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng phát hiện ghi nhớ các nhận định của SGK về lịch sử văn học...................................................................................3 7 2.3. Biện pháp 3: Hình thành kĩ năng làm các bài tập nâng cao về văn học sử trong SGK Ngữ văn 10..................................................... ...............................43 2.4. Biện pháp 4: Đổi mới giờ học văn học sử theo hướng tổ chức HS trì nh bày kết quả tự học............................................................. ...............................51 Chương III: Một số thiết kế bài học văn học sử theo hướng dạy cách tự học...................................................................................................................5 8 3.1.Thiết kế bài học “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”........................58 3.2. Thiết kế bài học “Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX”................................................................................................................6 2 3.3. Thiết kế bài học “Nguyễn Du”.................................................................7 3 Phần Kết luận........................................................................................ ........78 Tài liệu tham khảo............................................................................. ............81 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1 - Lý do chọn đề tài 1.1. Thế kỉ XX đã trôi qua, cả nhân loại đang bước vào thế kỉ mới. Một trong những đặc điểm cơ bản của thế kỉ này là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang phát triển như vũ bão, thời đại của nền “kinh tế tri thức” đã và đang dẫn đến sự bùng nổ thông tin. Trước tình hình đó, để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới, của thời đại, một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra với nền giáo dục nước ta là: phải liên tục đổi mới, hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy học. Mục đích cuối cùng là để từng cá nhân, mỗi cá thể, mỗi công dân tự mình có ý thức tạo được một cuộc cách mạng học tập trong bản thân mỗi con người. Nhà trường phải giúp cho từng HS thay đổi triệt để quan niệm và phương pháp học tập phù hợp với yêu cầu của thời đại - thời đại mà mỗi người phải học tập suốt đời. Để học tập không ngừng, học tập cả đời, mỗi người phải biết cách tự học, biết phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy, tự học là một vấn đề cốt lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại. Tiến hành một cuộc cách mạng học tập trong nhà trường và trong bản thân mỗi người phải là một chiến lược cấp bách của thế kỉ XXI. Trong cuộc cách mạng ấy, chiến lược cốt lõi là cuộc cách mạng về phương pháp. Hiện nay, sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường phổ thông, phương pháp đào tạo ở trường sư phạm chưa có sự rõ rệt, phổ biến vẫn là cách dạy thông báo các kiến thức có sẵn, cách học thụ động. Mặc dù trong những năm gần đây đã có nhiều sự chuyển biến về phương pháp, nhiều GV đã tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động tự chiếm lĩnh tri thức mới. Nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế. 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. Trước sự thay đổi, sự tiến bộ của xã hội như vậy thì việc dạy và học một cách thụ động sẽ không đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sự thách thức đòi hỏi phải thay đổi về phương pháp dạy và học. Đây không phải là vấn đề riêng của nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm trên mọi quốc gia trong việc phát triển n guồn lực con người phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội. 1.2. Cuộc cách mạng về phương pháp đã và đang diễn ra liên tục và mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam, đổi mới phương pháp trong những năm gần đây đang trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt trong nhà t rường. Phương pháp dạy – học văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Làm sao tạo được bước chuyển mang lại hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện trong dạy – học văn đang là nỗi lo, nỗi trăn trở của các nhà phương pháp. Thực tế việc dạy văn nói chung, việc dạy văn học s ử (VHS) nói riêng vẫn còn nằm trong cách dạy, cách học cũ không phát huy được năng lực của học sinh. Cách dạy văn hiện nay vẫn là lối dạy thuyết trình, kết quả đánh giá tùy thuộc vào khả năng tái hiện lượng kiến thức nhiều hay ít theo lời thầy giảng hoặc t heo sách giáo khoa. Do đó, khả năng độc lập, tìm tòi sáng tạo của HS không có cơ hội phát triển. Đối với các bài học VHS, do đặc thù của bài nên nhiều GV chưa có sự đầu tư đúng mức để HS thực sự quan tâm. Phương pháp tái hiện kiến thức, thuyết trình vẫn chiếm đa số trong các bài dạy. Vì vậy, dẫn tới tình trạng HS thờ ơ với bài giảng, thụ động, ngại tư duy. Từ đó, vô hình chung đã làm mất đi khả năng tự học, tự nghiên cứu của HS. Quá trình dạy – học văn trong nhà trường nói chung và dạy các bài VHS nói riêng đang đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp dạy học, để từng bước khắc phục tình trạng HS thụ động trong lĩnh hội tri thức, khẳng định vai trò HS là trung tâm, của quá trình dạy – học, HS là bạn đọc sáng tạo. Vậy làm như thế nào để tiếp cận được mục đ ích 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. giáo dục? Làm thế nào để phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của người học? Đó là những vấn đề cụ thể đang cần tìm được lời giải đáp của các nhà sư phạm chúng ta. Đối với các bài VHS, làm thế nào để HS không thờ ơ với bài giảng, hứng thú say mê tì m hiểu? Làm thế nào để HS rèn luyện được những thói q uen tốt trong học tập? Làm thế nào để HS hiểu rõ hơn về nền văn học Việt Nam? Vì vậy, đặt vấn đề hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua các bài VHS là một việc làm cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương pháp, phù hợp với chiến lược “phát huy nội lực của người học”, đáp ứng mục tiêu của giáo dục, như nghị quyết II của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã ghi: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện hình thành nếp tư duy sáng tạo của người học, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân...” Một trong những hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử văn học trong nhà trường là hình thành năng lực tự học cho HS qua từng bài học. Đó là lí do khiến chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tự học trong nhà trường nói chung. Vấn đề tự học của HS – SV đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau. Ở nước ngoài, trong sách “Học tập hợp lí” (Cộng hòa dân chủ Đức trước đây) do R.Retzke chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề bồi dưỡng năng lực tự nghiên cứu cho HS mới vào trường. Năm 1984, NXB Thanh niên giới thiệu cuốn “Nghiên cứu học tập như thế nào” của Hebơc Smitman (Cộng hoà dân chủ Đức). Với cuốn sách này, tác giả đã đề cập tới nhiều vấn đề về phương 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. pháp nghiên cứu và tự học như thế nào cho khoa học và đạt kết quả cao. Cuốn “Tự học như thế nào” của Rubakin, dịch giả là Nguyễn Đình Côi, xuất bả n 1982 đã giúp bạn đọc biết tự học tập, nâng cao kiến thức toàn diện của mình. Cuốn “Phương pháp dạy và học hiệu quả” – Cark Rogers – một nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mĩ do Cao Đình Quát dịch đã giải đáp cho HS câu hỏi học cái gì và học như thế nào? Câu hỏi dạy cái gì và dạy như thế nào cũng được giải đáp. Ngoài ra, còn khá nhiều cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề tự học. Ở nước ta, trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện một số bài viết về tự học. Tác giả Vũ Quốc Anh có bài viết: “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của HS THPT”. GS. Phan Trọng Luận với bài: “Dạy văn để HS tự học văn”. Tại Hà Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên cứu tự học – tự đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều GS đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội dung các bài viết, các bài phát biểu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành phải chăm lo xây dựng phong trào tự học toàn dân. Bộ trưởng Bộ giáo dục - đào tạo Nguyễn Thị Bình nói: “Năng lực tự học – tự đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với quan tâm tự học – tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra “nội lực” cần thiết cho sự phát triển một con người và cho đất nước”. Tạp chí nghiên cứu G iáo dục số 2 năm 1998 đã đặc biệt quan tâm đăng tải một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo: “Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, “Vì năng lực tự học sáng tạo của HS” của Nguyễn Nghĩa Dân. Tiếp theo đó, tạp chí Nghiên cứu giáo dục đã có rất nhiều các bài viết khác như bài của Thạc sĩ Thái Văn Long (Cà Mau) “Khơi dậy và phát huy năng lực tự học sáng tạo của người học trong Giáo dục - đào tạo”, hay “Vị trí của tự học, tự đào tạo trong quá trình dạy học, giáo dục và đào tạo” của GS. Trần Bá Hoành, “Hồ Chí Minh với vấn đề tự học” của GS. Đặng Quốc Bảo. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự học” – Nguyễn Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” – Nguyễn Hiến Lê, “Luận bàn và kinh nghiệm tự học” – GS. Nguyễn Cảnh Toàn... Những cuốn sách này chủ yếu đúc kết những kinh nghiệm quý báu trong quá trình tự học của một số tác giả. Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho ra mắt bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tập chí này đã thu hút sự quan tâm chú ý và sự tham gia luận bàn về vấn đề tự học của nhiều nhà khoa học, giáo sư, nhà giáo... Các tác giả đã cung cấp lý thuyết dạy tự học như thế nào, bên cạnh đó có thể hiện thiết kế bài học một số môn. Tuy vậy, các cuốn sách hầu như mới chỉ dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các biện pháp cụ thể đối với từng môn học. Cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, NXB ĐHSP, xuất bản 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam viết một cách có hệ thống về việc “học” và “dạy cách học”. Cuốn sách này đã thực sự là tài liệu bổ ích giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở Việt Nam, đặc biệt là quá trình dạy tự học. 2.2. Tự học trong môn Ngữ văn. Ngữ văn là một môn học có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi người đọc phải có sự liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Nên trong việc thay đổi phương pháp giảng dạy thì giảng dạy môn Ngữ văn cũng là một vấn đề được quan tâm. Cuốn “Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học” do nhóm tác giả GS Trần Bá Hoành, TS Nguyễn Trí, PGS TSKH Cao Đức Tiến, TS Nguyễn Trọng Hoàn biên soạn do NXBĐHSP Hà Nội xuất bản đã nói đến một trong những đặc trưng của phương pháp tích cực đó là tự học. Các tác giả cũng nhấn mạnh đến nội dung dạy và học tập trung vào HS. ở đó, các tác giả không c hỉ quan tâm đến kiến thức, năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Cuốn “Văn học giáo dục thế kỉ XXI” của GS Phan Trọng Luận, NXBĐHQG Hà Nội, 2002 có một số bài đề cập đến vấn đề đổi mới phương 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. pháp và vấn đề tự học. Với bài “Tự học – chuyện cũ mà mới”, tác giả đã đề cập đến bí mật và bí quyết của tự học. Hay bài “Dạy cho sinh viên tự học và học sáng tạo”, tác giả nhấn mạnh đến vấn đề: muốn cho sinh viên tự học và học sáng tạo thì phải cải tiến lại nội dung bài giảng ở Đại học, nâng cao hơn n ữa chất lượng bài giảng. Như vậy, đã có rất nhiều những bài viết, những công trình đề cập đến vấn đề tự học nói chung và tự học môn Ngữ văn nói riêng. Các bài viết đã chỉ ra được mục tiêu, cách thức, biện pháp để dạy tự học. Tuy nhiên, các bài viết còn thiên về mặt lí thuyết mà chưa cụ thể hoá đối với từng môn học, phân môn của nhà trường PT. Ví dụ: đổi mới môn văn học mới chỉ tiếp cận về quá trình dạy tự học ở góc độ giáo dục còn cụ thể với từng loại bài học như giảng văn, văn học sử, tiếng Việt, tập làm văn... thì chưa có bài viết nào đề cập đến một cách sát thực, vẫn còn thiếu vắng những chuyên luận vừa mang tính lí luận vừa mang tính thực tiễn, sát thực với từng phân môn cụ thể của nhà trường THPT. 2.3. Tự học đối với bài học văn học sử. Trong chương trình Ngữ văn ở THPT, các bài học về văn học sử chiếm giữ một vị trí quan trọng vì nó cung cấp những tri thức khái quát về văn học cho HS, nhưng lại chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít ỏi và khiêm tốn. “M ấy vấn đề giảng dạy văn học sử ở trường PT cấp 3” và “Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học” của GS Phan Trọng Luận, hay trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học văn” do GS Phan Trọng Luận chủ biên cũng chỉ dành một chương để nói về văn học sử, hay một phần không nhiều trong cuốn “Dạy văn dạy cái hay cái đẹp” của Nguyễn Duy Bình. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một số 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. luận văn Thạc sĩ cũng đã khai thác đề tài tự học, tự nghiên cứu như “Những hình thức tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong g iờ học văn học sử ở trường THTP” của Đào Văn Phán, “Hình thành năng lực nghiên cứu cho HS THPT qua giờ văn học sử” của Lê Khánh Tùng, “Rèn luyện năng lực tự học cho HS qua những giờ văn học sử (bài khái quát giai đoạn văn học)” của Nguyễn Thị Bích Hường, “ Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài học văn học sử (tác gia)” của Vũ Thị Sáu. Mặc dù dã có một số luận văn nghiên cứu về việc rèn luyện tự học c ho HS, nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài “ Day học văn học sử theo hướng hình thành và phát tr iển năng năng lực tự học ở học sinh lớp 10”. Chương trình và SGK Ngữ văn 10 đã có sự thay đổi về nhiều mặt. C húng tôi hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc t háo gỡ những khó khăn, lúng túng cho GV trong khi thực thi chương trình và SGK N gữ văn mới. 3. Mục đích nghiên cứu. Luận văn của chúng tôi gồm có hai mục đích: - Tìm hiểu thực tế giảng dạy các bài văn học sử ở THPT theo chương trình SGK Ngữ văn 10 được thực thi đại trà trong nhà trường THPT từ năm học 2006 - 2007. Cụ thể là tìm hiểu tiến trình, các phương thức hoạt động của thầy – trò và hiệu quả trong giờ học văn học sử. - Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất những biện pháp cụ thể để nhằm hình thành tự học cho HS khi dạy các bài học về văn học sử. 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để hoàn thành được mục tiêu đề ra, chúng tôi phải hoàn thành những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lý thuyết (vị trí, mục đích, yêu cầu của việc giảng dạy văn học sử, nguyên tắc giảng dạy văn học sử, các phương pháp giảng dạy văn học sử, chương trình SGK Ngữ văn...) - Nghiên cứu những tiền đề lí luận cần thiết về tự học, về đổi mới phương pháp. - Đánh giá có căn cứ thực trạng dạy –học văn học sử ở trường PT theo hướng rèn luyện năng lực tự học. - Đề xuất một số biện pháp để hình thành năng lực tự học cho HS qua bài học văn học sử. - Thiết kế bài học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 5.1. Đối tượng nghiên cứu: phương pháp dạy học các bài học về văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học cho HS. 5.2. Phạm vi nghiên cứu : các bài học về văn học sử có trong SGK Ngữ văn 10. 6. Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu đề tài “Dạy học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng lực tự học ở học sinh lớp 10”, chúng tôi sử dụng cả hai nhóm phương pháp nghiên cứu sau: 6.1. Nhóm nghiên cứu lý thuyết sử dụng các phương pháp: - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp thống kê phân loại. 6.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn sử dụng các phương pháp: - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn. 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương I : Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học cho học sinh trong giảng dạy văn học sử ở THPT. Chương II: Những biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học qua các bài học văn học sử Chương III: Một số thiết kế bài học văn học sử theo hướng dạy cách tự học 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. PHẦN NỘI DUNG Chương I Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học cho học sinh trong giảng dạy văn học sử ở trung học phổ thông 1.1. Cơ sở lí luận. 1.1.1. Khái niệm tự học. Trong dân gian ta từ xưa vẫn có câu “Không thầy đố mày làm nên”, vậy mà, phương pháp dạy học ngày nay lại hướng HS tới việc tự học, tức là học mà không có thầy. Phải chăng điều đó là mâu thuẫn? Vậy tự học là gì? Có tác giả xem hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức dạy học. Có tác giả lại chú ý tới hoạt động tự học như là một phương thức tự đào tạo, tự nâng cao trình độ học vấn của người học. Hoạt động tự học có thể diễn ra dưới sự tổ chức điều khi ển trực tiếp của GV như trong các phương pháp dạy học tích cực; hoặc có thể diễn ra dưới sự tổ chức điều khiển gián tiếp của GV như một hình thức tổ chức dạy học trong mối quan hệ với các hình thức tổ chức dạy học khác. Hoạt động tự học là phương thức đào tạo của con người. Vì vậy có rất nhiều định nghĩa về tự học khác nhau. Có ý kiến cho rằng “Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học” (PGS Lê Khánh Bằng); lại có ý kiến “Tự học là hình thức hoạt động cá nhân, do bản thân người 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. học nỗ lực thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập ở trên lớp hay ngoài lớp; có thể diễn ra khi còn đang học, khi đã ra trường và trong suốt cả cuộc đời” (TS Hà Thị Đức). GS Nguyễn Cảnh Toàn trước hết đã chính xác hoá các khái niệm: “Học giáp mặt” là học giáp mặt với thầy, thầy trò nhìn mặt nhau và có thể trao đổi thông tin bằng lời nói trực tiếp (không qua máy móc) bằng chữ viết, nhìn trực tiếp ngay trên bảng, trên giấy bằng cả ánh mắt, nụ cười, nét mặt, cử chỉ. “Học từ xa” là học không giáp mặt với thầy, mọi thông tin giữa thầy v à trò đều không trực tiếp mà là gián tiếp qua sách vở, tài liệu và các phương tiện kĩ thuật của tin học và viễn thông. “Xa” chỉ có nghĩa là không giáp mặt nhau còn khoảng cách địa lí giữa thầy và trò có thể là nửa vòng trái đất cũng có thể chỉ là vài chục mét. Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Như vậy, cốt lõi của học là tự học. Hễ có học là có tự học và không ai có thể học hộ người khác được. Khi nói học là hàm ý xét đến mối quan hệ với ngoại lực, tức là dạy. Còn khi nói là tự học, là chỉ riêng nội lực ở người học. Hai người cùng học một thầ y nhưng kết quả tuỳ theo chất lượng tự học ở từng người. Ngoại lực tác động đến nội lực như thế nào thì đó chính là thước đo chất lượng dạy học. Tác động đó có thể kìm hãm nếu thầy áp đặt; là kích thích nội lực phát triển nếu thầy gợi 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. mở, khuyến khích sáng tạo, mà đỉnh cao là tạo nên được sự cộng hưởng của nội lực. Khả năng tự học tiềm ẩn trong mọi người, trừ những người bị khuyết tật tâm thần. Ai cũng có thể tự học và tự học có kết quả. Khả năng tự học tiềm ẩn đó là một tài nguyên quý giá của loài người. Học là kế thừa vốn văn hóa, khoa học của nhân loại. Vốn đó rất bao la, nếu không tổ chức thì chẳng ai kế thừa nổi. Trước hết phải biết lựa chọn, sắp xếp thành một trình tự hợp lôgíc và hợp tâm lí người học để xây dựng lên các loại chương trình, viết các SG K. Vậy ai làm việc đó? Phải nhiều thầy, thậm chí nhiều thế hệ thầy mới làm nổi. Thử tưởng tượng trong tất cả mọi chương trình và SGK trên hành tinh cháy hết và cũng biến khỏi trí nhớ của mọi người, rồi loài người văn minh như ngày nay phải làm lại từ đầu c hương trình và SGK cho các bậc học, lớp học từ dưới lên trên thì mới thầy câu “không thầy đố mày làm nên” đúng trong mọi trường hợp, cho dù người học là thần đồng. 1.1.2. Khái niệm năng lực tự học Hoạt động tự học muốn diễn ra thực sự thì có một yêu cầu đặ t ra là: cần phải hình thành được ở người học năng lực tự học. Chỉ khi đã có được năng lực tự học trong bản thân mình, người học mới tự mình tiến hành việc học tập một cách tự chủ, độc lập, sáng tạo như đòi hỏi của giáo dục đào tạo ngày nay. Vậy thế nào là năng lực? “Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao” (Từ điển tiếng Việt – Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, Việt Nam, Hà Nội. 1992). Giáo trình “Tâm lí học đại cương” (NXBĐHQGHN, 1998) chia khả năng thành ba mức độ khác nhau: năng lực, tài năng, thiên tài. Nếu năng lực là một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó; tài năng là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị s ự 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó; thì thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của các vĩ nhân trong lịch sử nhân loại. Khi phân loại, người ta chia năng lực ra làm hai loại: năng lực chung và năng lực riêng biệt. Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ (quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ...) là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động có hiệu quả. Còn năng lực riêng biệt (chuyên biệt, chuyên môn) là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao, chẳng hạn: năng lực toán học, năng lực thơ văn, năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc, thể dục thể thao... Hai năng lực này luôn có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Giữa năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo luôn có sự thống nhất biện chứng (không thể không đồng nhất chúng với nhau). Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đấy có nghĩa là có tri thức, kĩ năng kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Vấn đề phát hiện, bồi dưỡng năng lực, năng khiếu của mỗi người là một trong những vấn đề cơ bản của chiến lược giáo dục nhằm nâng cao dân lực, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Vậy người có năng lực tự học là người có khả năng tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình qua sách vở, qua bạn bè, qua thầy giáo. 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. Nếu xem nội lực là nhân tố quyết định sự phát triển của bản thân người học thì năng lực tự học được xem là có ý nghĩa quyết định. Việc học nhất là tự học được lấy làm trung tâm. Trò là chủ thể – trung tâm tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí bằng hành động của chính mình, tự phát triển từ bên trong. Thầy là tác nhân, người hướng dẫn, người tổ chức, đạo diễn cho trò tự học. Người thầy giỏi là người biết dạy cho trò tự học. Người học giỏi là người biết tự học, biết sáng tạo suốt đời. Tự học không có nghĩa là học một mình, đơn thân mà học trong sự tương tác với các bạn, trong môi trường xã hội, dưới sự hướng dẫn của thầy và sự hợp tác của các bạn – ngoại lực. Ngược lại, tác động của thầy và môi trường xã hộ i sẽ kém hiệu lực nếu không phát huy được năng lực tự học của người học. Nói cách khác, quá trình tự học, tự nghiên cứu, cá nhân hóa việc học phải kết hợp với quá trình hợp tác với các bạn trong cộng đồng lớp học và quá trình dạy học của nhà giáo. Kết hợp quá trình dạy với quá trình tự học là nhằm làm cho “dạy” và “tự học” cộng hưởng được với nhau tạo ra chất lượng và hiệu quả cao để đạt mục tiêu đào tạo con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lự tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học. Hệ phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm gọi tắt theo đúng thực chất của nó là hệ phương pháp dạy tự học đã chỉ rõ: người học, chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình. Người học không phải được đặt trước những kiến thức có sẵn trong SGK hay bài giảng được chuẩn bị sẵn của thầy mà tự đặt mình trước các tình huống, vấn đề thực tế, cụ thể và sinh động của cuộc sống, từ đó thấy có nhu cầu hay hứng thú phát hiệ n và giải quyết những vật cản, mâu thuẫn trong nhận thức của mình để tự mình tiến xa “cái chưa biết”, “ cái cần khám phá”, “cái mới”. Tự đặt mình vài tình huống học, người học quan sát, suy nghĩ, tự nghiên cứu tra cứu, tự làm thí nghiệm, đặt giả thiết, 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. đặt vấn đề... để tự mình tìm ra kiến thức, chân lí cùng với cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề. Tri thức và phương pháp, người học đã tự lực khám phá ra không rập theo một khuôn mẫu có sẵn, đều là tri thức và phương pháp mới. Do đó, hoạt động tự lực, tự tìm ra cái chưa biết mang tính sáng tạo đối với người học. Muốn phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học thì cần phải rèn luyện phương pháp học tập cho HS, coi đây không chỉ là một phương tiện nâng cao hiệu quả dạy học mà là một mục tiêu quan trọng của dạy học. Tự học là con đường thử thách rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của mỗi con người trên con đường lập nghiệp. Con người luôn luôn phải tự học để nâng cao học vấn. Vì tự học chính là một biểu hiện rõ nét của chí lớn, lập nghiệp để hoà nhập với cộng đồng của mỗi con người. Tự học là con đường tạo ra tri thức vững chắc, lâu bền cho mỗi con người trên hành trình đi tìm kiến thức. Kiến thức do tự học đem lại bao giờ cũng vững chắc, lâu bền, thiết thực và đầy sáng tạo. Tự học đã và đ ang trở thành chiếc chìa khoá mở cánh cửa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Bất cứ một nền giáo dục hiện đại tiên tiến nào cũng đề cao năng lực cá nhân, coi trọng vấn đề tự học, tự mình giáo dục, tự mình phát triển, tự mình điều khiển. Tự học là con đườ ng tự khẳng định, là con đường sống, con đường thành đạt của mỗi con người muốn bước vào lĩnh vực trí tuệ của thời đại mới. Tự học, tự vươn lên, tự phát triển trí tuệ và nhân cách trong cuộc sống và hoạt động xã hội của mỗi công dân chính là tích luỹ kho b áu chất xám trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước ta trong vận hội mới ngày nay. Hình thành năng lực tự học cho HS THPT có nghĩa là hình thành năng lực nhận thức tích cực, sáng tạo, chủ động cho HS. Là hình thành cho họ khả năng phát huy tới mức cao nhấ t tính tự lực trong học tập và thể hiện được cá tính sáng tạo riêng của mình, thực hiện tốt nhất những mục đích, nhiệm vụ mà 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. môn học đề ra. Nói cách khác, hình thành năng lực tự học cho HS cũng chính là hình thành tri thức và kĩ năng cho họ. Cho nên, vai trò của các biện pháp nhằm hình thành năng lực tự học là vô cùng quan trọng. Để hoạt động tự học đạt kết quả như mong muốn, người học cần phải nắm được đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học. Vậy đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học là gì? 1.1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học. Dưới các góc độ khác nhau, thì có nhiều các quan niệm khác nhau về tự học. Có quan niệm cho rằng: học tập là một biến đổi vững chắc trong hành vi hoặc trong năng lực ứng xử theo một cách nào đó. Sự biến đổi đó là kết quả của thực hành hoặc của hình thức thể nghiệm khác; Lại có quan niệm cho rằng: học tập là quá trình lĩnh hội kiến thức mới hoặc kĩ năng mới. Sự học tập được xác định dưới những hành động mà HS cần phải thực hiện được, cách học là một chuỗi hành động thử và sai. Song thực tế, học tập là hoạt động có mục đích và luôn được thúc đẩy bởi một hệ thống những động cơ nhất định; Còn tác giả Nguyễn Ngọc Quang đứng trên quan điểm nghiên cứu cấu trúc hệ thống của quá trình dạy học và mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc đó, đặc biệt là mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy và học, giữa thày và trò, lại quan niệm: Học tập là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, bằng cách đó mà hình thành cấu trúc tâm lí mới, phát triển nhân cách toàn diện [37]. Theo tác giả này, học tập là quá trình bao gồm cả hoạt động tự học và hướng dẫn tự học; Tác giả Lê Khánh Bằng cho rằng: “Học – về bản chất là quá trình tiếp thu và xử lí thông tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay... từ đó mà có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới” [3]. Như vậy, theo các tác giả thì học tập là quá trình bao gồm quá trình tiếp thu và xử lí thông tin, mục đích của việc học tập là nhằm biến đổi nhân cách của người học. 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể đi tới khái niệm về học tập: Đó là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu và xử lí thông tin từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc tâm lí mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện và dù trong tình huống nào thì bản thân sự học cũng đã chứa đựng sự tự học. Trong cuộc sống, mỗi cá nhân có thể học theo cách khác nhau. Người ta có thể kể đến cách học ngẫu nhiên trong cuộc sống sinh hoạt và lao động. Cha ông ta đã có câu: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Cách học này, giúp người học nắm được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm... thông qua nhiều hoạt động, và ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống. Tuy vậy, cách học này cũng có những nhược điểm: nó chỉ cho phép người học lĩnh hội mộ t cách vụn vặt, tự do, không hệ thống các tri thức có liên quan trực tiếp đến nhu cầu hứng thú, nhiệm vụ trước mắt. Khác với cách học ngẫu nhiên là cách học có chủ định. Đây là cách học có mục đích và đối tượng. Nó được điều khiển một cách có ý thức nhằm t iếp nhận tri thức, kĩ năng kĩ xảo và hình thành cả các cách thứ chiếm lĩnh chúng. Mục đích của hoạt động học là chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội lịch sử thông qua sự tái tạo của cá nhân người học và vận dụng tri thức đó để cải tạo thực tiễn và cải tạo chính bản thân mình. Như trên đã nói, trong bất kì tình huống nào thì trong bản thân sự học cũng chứa đựng sự tự học. Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Đã có rất nhiều quan niệm xoay quanh vấn đề này. Tác giả Trịnh Quang Từ cho rằng: “Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định” [35]. Còn GS. Nguyễn Cảnh Toàn quan niệm: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sá nh, phân tích, tổng hợp...) 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0