intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ từ năm 2010 đến năm 2020

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:154

10
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ từ năm 2010 đến năm 2020" được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm hiểu những biểu hiện và các phương thức thể hiện ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ từ năm 2010 đến năm 2020 trên nhiều bình diện. Để từ đó thấy được đóng góp của các cây bút nữ đối với thi đàn Đông Nam Bộ, phác họa diện mạo chung của thơ nữ Đông Nam Bộ trong khoảng thời gian mười năm gần đây nhất. Với luận văn này, tôi mong muốn đem lại cho người đọc một số giá trị mới và giá trị bổ sung, làm đầy nghĩa cho thơ nữ Đông Nam Bộ nhìn từ khía cạnh ý thức phái tính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ từ năm 2010 đến năm 2020

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƢƠNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT DƢƠNG NGỌC MINH KHÁNH Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ ĐÔNG NAM BỘ TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020 CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 U N VĂN THẠC S BÌNH DƢƠNG – 2023
  2. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƢƠNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT DƢƠNG NGỌC MINH KHÁNH Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ ĐÔNG NAM BỘ TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020 CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 U N VĂN THẠC S NGƢỜI HƢỚNG D N KHOA HỌC: TIẾN S TẠ ANH THƢ BÌNH DƢƠNG – 2023 i
  3. ỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tƣ liệu sử dụng trong luận văn là trung thực và có trích dẫn nguồn gốc cụ thể. Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất cứ công trình nghiên cứu nào từng công bố. Tác giả Dƣơng Ngọc Minh Khánh ii
  4. ỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn, bản thân tôi đã nhận đƣợc sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình từ quý thầy cô, cơ quan, gia đình và bạn bè thân thiết. Qua đây, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành đến: - Lãnh đạo trƣờng Đại học Thủ Dầu Một, Phòng Đào tạo Sau đại học, Chƣơng trình Thạc sĩ Văn học Việt Nam vì đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn. - Các thầy, cô giáo trong và ngoài trƣờng đã giảng dạy, bổ trợ cho tôi những tri thức quý giá trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại Trƣờng Đại học Thủ Dầu Một. - Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Tạ Anh Thƣ - ngƣời cô đáng kính đã tận tụy, yêu thƣơng và dành toàn tâm sức để hƣớng dẫn, chỉ bảo, trang bị cho tôi những tri thức, kinh nghiệm quý báu để tôi hoàn thành luận văn tốt nhất. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp - những ngƣời luôn quan tâm và động viên tôi vƣợt qua mọi trở ngại để hoàn thành luận văn này. Tác giả Dƣơng Ngọc Minh Khánh ii
  5. MỤC ỤC ỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. ii ỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. ý do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. ịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2 2.1 Các công trình nghiên cứu về phái tính ........................................................ 2 2.2 Các công trình nghiên cứu, phê bình, đánh giá về thơ nữ Đông Nam Bộ .............................................................................................................................. 11 2.2.1 Các công trình nghiên cứu, phê bình, đánh giá về thơ nữ Đông Nam Bộ nói chung ............................................................................................................. 11 2.2.2 Các công trình nghiên cứu, phê bình, đánh giá về từng nhà thơ nữ Đông Nam Bộ ................................................................................................................ 15 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 20 3.1 Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 20 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu, ................................................................................... 20 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 21 4.1 Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 21 4.2 Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 21 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 22 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 24 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 24 Chƣơng 1 ............................................................................................................. 25 iii
  6. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ ĐÔNG NAM BỘ TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020 ........................ 25 1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền ........................................................ 25 1.1.1. Ý thức phái tính ......................................................................................... 25 1.1.2. Ý thức nữ quyền ........................................................................................ 28 1.2 Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam từ trung đại đến hiện đại ........ 32 1.2.1. Ý thức phái tính trong thơ nữ trung đại .................................................. 32 1.2.2. Ý thức phái tính trong thơ nữ hiện đại .................................................... 36 1.3 Quá trình phát triển ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ đƣơng đại......................................................................................................................... 42 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000 ..................................................... 42 1.3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến 2020.............................................................. 47 Chƣơng 2 ............................................................................................................. 55 BIỂU HIỆN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ ĐÔNG NAM BỘ TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020 .................................................................................. 55 2.1 Ý thức về cái tôi bản thể .............................................................................. 55 2.1.1 Ý thức về vẻ đẹp nữ tính ............................................................................. 55 2.1.2 Ý thức về vẻ đẹp cá tính.............................................................................. 60 2.1.3 Ý thức thân thể ........................................................................................... 65 2.1.4. Ý thức về thiên chức làm mẹ .................................................................... 68 2.2 Ý thức về tình yêu......................................................................................... 74 2.2.1 Khát khao yêu thương mãnh liệt, cháy bỏng ............................................ 75 2.2.2 Mạnh mẽ đối diện với cô đơn, đau khổ, bất hạnh .................................... 80 iv
  7. 2.2.3 Khát vọng giải phóng tính dục khỏi những ràng buộc ............................ 88 Chƣơng 3 ............................................................................................................. 97 MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC NGHỆ THU T THỂ HIỆN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ ĐÔNG NAM BỘ TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020 .............................................................................................................................. 97 3.1 Hệ thống biểu tƣợng mang tính nữ ............................................................ 97 3.1.1 Biểu tượng Đất và các biến thể của Đất ................................................... 97 3.1.2 Biểu tượng Nước và các biến thể của Nước ........................................... 100 3.1.3 Biểu tượng bóng Đêm và các biến thể của Đêm ..................................... 101 3.2 Ý thức phái tính và giọng điệu .................................................................. 102 3.2.1 Giọng tha thiết, tâm tình .......................................................................... 103 3.2.2. Giọng hoài nghi, cô đơn ......................................................................... 106 3.2.3 Giọng nồng nhiệt, mạnh mẽ .................................................................... 111 3.2.4 Giọng giễu nhại ........................................................................................ 114 3.2.5 Giọng vô âm sắc ....................................................................................... 117 3.3 Ý thức phái tính và ngôn ngữ .................................................................... 120 3.3.1 Ngôn ngữ thơ giàu nữ tính ...................................................................... 120 3.3.2 Ngôn ngữ mang tính "phồn thực".......................................................... 123 KẾT U N ....................................................................................................... 126 PHỤ ỤC .......................................................................................................... 137 v
  8. MỞ ĐẦU 1. ý do chọn đề tài Nếu nhƣ ngày trƣớc, Clarlotte Bronte phải đổi bút danh thành Currer Bell để giống nam giới mới có thể đặt chân vào thế giới văn học, ký đƣợc hợp đồng với nhà xuất bản thì ngày nay, ta bắt gặp khá nhiều tác phẩm của các tác giả nữ đƣợc bày bán trên những kệ sách mà họ không cần phải thay đổi tên họ của mình. Không biết từ bao giờ, quan niệm “Văn chƣơng không phải là nơi cho một ngƣời phụ nữ luận bàn” đã bị xem là một quan niệm cổ hủ, phiến diện. Những ngƣời đàn bà mặc váy, múa bút đã kiêu hãnh thể hiện tài năng của mình trên hầu hết các trận địa văn học, nghệ thuật, với đầy đủ những phong cách đa dạng, từ cao khiết sáng trong đến trần tục, nhục dục. Họ không ngại ngần gửi gắm tất cả tâm sự thầm kín của bản thân vào thơ và dùng thơ để mƣu cầu khát khao hạnh phúc, bày tỏ cảm xúc, biểu hiện cách nhìn với cuộc sống. Tiếng nói phái tính trỗi dậy mãnh liệt nhƣ một nhu cầu tất yếu phải xảy ra. Tìm hiểu về ý thức phái tính trong thơ nữ có thể xem là một dấu hiệu trong quá trình dân chủ hóa, bình đẳng giới. Nhắc đến vùng đất Đông Nam Bộ, mọi ngƣời vẫn thƣờng hay nhớ đến đó là một “miền Đông gian lao mà anh dũng”. Các nghiên cứu về địa lý, lịch sử, văn hóa, kinh tế,… khá dồi dào. Riêng ở mảng văn xuôi, đã có không ít những bài chuyên luận nghiên cứu về tác giả, tác phẩm. Nhƣng đặc biệt ở khía cạnh nghiên cứu thơ ca thì tôi cho rằng còn nhiều bỏ ngõ. Trong khi đó, khoảng 10 năm gần đây, thơ nữ Đông Nam Bộ lại có sự bùng nổ nhiều hiện tƣợng, gƣơng mặt liên tiếp phá vỡ hệ thẩm mỹ truyền thống, buộc ngƣời đọc phải tiếp nhận với thái độ và tƣ duy khác. Cùng với văn chƣơng mạng, tôi cho rằng thơ ca đang dần nhận đƣợc nhiều hƣởng ứng từ phía công chúng. Hiện nay, Đông Nam Bộ lại là đầu mối giao lƣu của các tỉnh thành phía Nam với cả nƣớc và quốc tế, là vùng đƣợc định hƣớng trở thành trung tâm dịch vụ của khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, sự phát triển ấy sẽ kéo theo nhiều đổi khác về tƣ duy, thị hiếu, xu thế đón nhận. Tôi cho rằng nghiên cứu về thơ ca Đông Nam Bộ là một cơn lốc mới rất hấp dẫn những ngƣời nghiên cứu phê bình trẻ. Đặc biệt ở thời điểm từ năm 2010 đến năm 2020 - một giai đoạn mang tính cập nhật, gần đây nhất với chúng ta. 1
  9. Trên ý nghĩa nhƣ vậy, việc nghiên cứu “Ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ từ năm 2010 đến năm 2020” là điều cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Với đề tài này, tôi hy vọng sẽ bổ sung thêm vài điểm nhìn mới về thơ nữ đƣơng đại Việt Nam nói chung và thơ nữ vùng Đông Nam Bộ nói riêng. Đồng thời chỉ ra những đóng góp riêng biệt của các nhà thơ nữ trong việc diễn đạt tinh thần thời đại, khẳng định chỗ đứng cá nhân trong thi đàn văn chƣơng. Thơ nữ cần nhiều hơn sự quan tâm, tri ân, đồng cảm và sự công nhận mang tính khoa học với các sáng tạo của nhà thơ. 2. ịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1 Các công trình nghiên cứu về phái tính Vấn đề giới tính hay lý thuyết nữ quyền vốn đã thâm nhập vào văn học Việt Nam từ lâu, thế nhƣng chúng chƣa nhận đƣợc sự quan tâm sâu sắc, đúng mực ở góc độ học thuật. Mãi đến đầu thế kỷ XX, mới thấy xuất hiện khá nhiều các bài viết mang tính chuyên luận bàn về vấn đề này. Dựa trên đó, lịch sử nghiên cứu về vấn đề phái tính của giới lý luận phê bình văn học Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1998; giai đoạn thứ hai từ năm 1999 đến năm 2005; giai đoạn thứ ba từ năm 2006 đến nay. Giai đoạn thứ nhất thuộc về sự ý thức của các “nữ sĩ tiên phong cổ súy phong trào nữ quyền qua hoạt động báo chí và văn học” nhƣ Sƣơng Nguyệt Anh, Phan Thị Bạch Vân, Đạm Phƣơng nữ sử, Hằng Phƣơng,… Đặc biệt phải kể đến sự đóng góp của Phan Khôi. Khi trên tờ Phụ nữ tân văn, Phan Khôi mở chuyên mục Văn học với nữ tánh thì ngƣời phụ nữ mới trở thành trung tâm của cuộc bàn luận văn chƣơng. Tuy nhiên khẳng định của ông mới dừng lại ở cấp độ định đoán: “Theo trình độ tiến hóa của loài ngƣời ngày nay, thì về phe phụ nữ ta cũng phải có một nền văn học. Bởi vì phải xem cái tình thế trong các nƣớc hiện thời, loài ngƣời đã gần đến ngày bình đẳng rồi, bên nam bên nữ cũng đều gánh vác công việc với xã hội nhƣ nhau, thì sự học vấn tri thức, có lẽ đâu chỉ để riêng cho đờn ông mà thôi hay sao?” (Phan Khôi, 1929a). Và cũng theo Phan Khôi, phụ nữ Việt Nam có những tính cách phù hợp với văn học “Chúng ta có những cái tánh trầm tĩnh, nhẫn nại, dùng những cái tánh ấy mà nghiên cứu văn 2
  10. học, thì không gì hạp cho bằng, có lẽ chúng ta theo nghề văn học còn dễ dàng hơn đờn ông nữa. Còn có một điều thích hiệp nữa, là văn học chuyên trọng về đƣờng tình cảm, mà chúng ta là giống có tình cảm nhiều hơn đờn ông, thì thật là tiện lợi cho chúng ta biết mấy” (Phan Khôi, 1929b). Ông đã nhận ra giữa phụ nữ và văn học có mối liên đới đặc biệt. Ngƣời phụ nữ biểu trƣng cho cái đẹp mà văn học cũng nhƣ các loại hình nghệ thuật khác luôn có khuynh hƣớng mỹ cảm, lấy cái đẹp làm đối tƣợng khai thác, là ngọn nguồn khơi gợi cảm hứng sáng tác. Hơn thế, thiên tính đặc trƣng của phụ nữ là sự nhạy cảm, mềm yếu, nghiêng về thể hiện tình cảm bên trong, mà đây cũng chính là thuộc tính và khuynh hƣớng của văn học, vì vậy ngƣời phụ nữ sẽ dễ dàng thâm nhập vào địa hạt văn chƣơng một cách sâu sắc khi họ cầm bút sáng tác. Manh Manh nữ sĩ (Nguyễn Thị Kiêm) cũng bày tỏ quan điểm của mình thông qua bài viết Nữ lưu và văn học, đăng trên Phụ nữ tân văn, số 131, ngày 26/5/1932. Trong bài viết, bà cho rằng: “…cái địa vị của đàn bà ở trong văn học cũng không phải là thấp thỏi gì, theo nhƣ nhiều ngƣời đã tƣởng. Và cái ảnh hƣởng của đàn bà đối với những bậc văn nhân tao sĩ cũng rất là nặng nề thâm thiết, nhờ đó mà văn học phát đạt vô cùng” (Nguyễn Thị Kiêm, 1932). Có thể thấy quan điểm của nữ sĩ có phần giống với tƣ tƣởng của Phan Khôi. Nhƣng điều đáng nói ở đây là quan điểm này lại xuất phát từ ý thức của một ngƣời phụ nữ, đại diện cho phát ngôn của phụ nữ trong việc khẳng định vị thế nữ giới ở lĩnh vực văn chƣơng. Sau đó, có khá nhiều trào lƣu văn học nổi dậy, diễn ra cực kỳ sôi động, chủ yếu xoay quanh các nhóm Thơ mới, Tự lực văn đoàn, cuộc tranh luận Thơ mới- thơ cũ,… trong khi đối tƣợng nghiên cứu văn học là nữ giới lại khá hiếm hoi và đơn độc nên nhanh chóng bị lu mờ. Từ năm 1945 đến năm 1975, ở miền Bắc, do yêu cầu cổ vũ phong trào cách mạng của dân tộc, ý thức về giới đƣợc đồng nhất với ý thức công dân, vì thế vấn đề nữ quyền nghiễm nhiên đƣợc thừa nhận. Ở miền Nam, sự cởi mở du nhập các ấn phẩm lý thuyết phê bình văn học phƣơng Tây đã phần nào thu hút các nghiên cứu về phái tính hay nữ quyền. Đến năm 1986, vấn đề này lại đƣợc khơi dậy bởi các ý kiến của Võ Phiến, 3
  11. Trƣơng Chính, Phƣơng Lựu,… Năm 1988, trong Tổng quan văn học miền Nam, Võ Phiến đã đề cập đến lối viết nữ trong văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Ông viết: “Đứng về phƣơng diện phái tính, văn học miền Nam thời kì 54-75 càng ngày càng nghiêng về nữ phái… Thoạt đầu trên văn đàn nghe tiếng ồm ồm, cuối cùng nghe ra eo éo” (Võ Phiến, 1988). Theo Võ Phiến, các nhà văn nữ giai đoạn này đều hơi ồn. Đó là giọng “ồn trong cái yêu” trong tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng, giọng “bù lu bù loa” trong tiểu thuyết của Nhã Ca. Những nhận định này đã mơ hồ chỉ ra đặc trƣng về thi pháp giọng điệu trong sáng tác của các nhà văn nữ nhƣng chƣa đủ toàn diện và sâu sắc để làm rõ âm hƣởng phái tính nhƣ một phƣơng diện mang tính đặc thù. Điều này chỉ thực sự đƣợc bàn đến nhƣ một vấn đề trung tâm để nghiên cứu trong bài viết của Phƣơng Lựu với tựa đề Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ (Phƣơng Lựu, 1998) đăng trên tạp chí Tác phẩm mới, số 6/1996. Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra thể loại tự truyện chiếm ƣu thế trong văn học lúc này, đề tài của họ chủ yếu là tình yêu. Quan điểm đó đã khái quát đƣợc đặc điểm của văn học nữ đƣơng thời nhƣng chƣa có tính khu biệt rõ ràng. Cũng trong năm ấy, quyển sách “Giới thứ hai” của nhà văn nữ quyền luận ngƣời Pháp Simone de Beauvoir đƣợc dịch và giới thiệu ở Việt Nam đã giúp cho giới phê bình nghiên cứu nƣớc nhà tiếp cận với tƣ tƣởng nữ quyền phƣơng Tây. Điều này có ý nghĩa lớn, phần nào tác động đến tầm nhìn hạn hẹp của đại bộ phận lúc bấy giờ, khi quan niệm tòng phụ, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” ăn sâu vào gốc rễ ngƣời Việt. Tổng quan, phong trào nghiên cứu về ý thức phái tính giai đoạn đầu còn mờ nhạt và nhiều hạn chế cả về đối tƣợng nghiên cứu cũng nhƣ ngƣời nghiên cứu. Lí do là các nhà thơ nữ thuộc thế hệ 7x, 8x lúc này chƣa có điều kiện tiếp xúc nhiều với ý thức nữ quyền. Các học giả Việt chƣa đủ kiến thức để hiểu đƣợc ý nghĩa của văn học nữ giới. Thế nên chƣa đủ tầm sức để khuấy động không khí nghiên cứu về ý thức phái tính trong thơ nữ đƣơng thời. Giai đoạn thứ hai đƣợc xem là “giai đoạn bùng nổ” (Nguyễn Thị Thanh Xuân, 2013) của phê bình nữ quyền ở Việt Nam. Nguyên nhân là do có sự tiếp xúc với chủ thuyết nữ quyền, dòng văn học hải ngoại có bƣớc đột phá lớn trong việc nghiên cứu về phái tính. Tiêu biểu là chuyên đề “Tình yêu, tình dục và phái tính trong văn học”, chuyên đề “Văn học nữ quyền”, chuyên đề “Giới tính”,… 4
  12. trên trang báo điện tử damau.org, tienve.org,… Trong luận án Thơ nữ Việt Nam 1986-2015 nhìn từ lý thuyết giới, Hồ Tiểu Ngọc (2019) đã đề cập đến các bài viết nhƣ “Nữ quyền luận”, “Nữ quyền và đồng tính luận”, “Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hƣng Quốc. Nguyễn Hƣng Quốc đã chỉ ra muốn giải phóng đƣợc nữ giới, phải giải phóng cho họ về ngôn ngữ, chống lại sự nam hóa trong ngôn ngữ và rất nhiều khía cạnh khác. Hoặc trong bài viết “Phụ nữ và văn chương” của Châm Khanh đăng trên trang tienve.org, tác giả đã thống kê trong hơn 750 hội viên chính thức của Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1997, có hơn 70 tác giả nữ, chiếm tỉ lệ chƣa tới 10% nhƣng đã cao hơn trƣớc. Tác giả Châm Khanh đề cập đến sự cần thiết trong vấn đề nghiên cứu, cũng nhƣ chỉ ra điểm khác giữa văn học nữ giới và nam giới. Sự cá biệt lớn nhất thực chất là vấn đề nữ quyền. Trong luận văn Về một đặc điểm tư duy thơ nữ gần đây: Ý thức phái tính (Qua Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh) của Nguyễn Thị Hồng Giang (2009), tác giả có đề cập: “Hoàng Ngọc Tuấn viết Dục tính trong văn chương và vấn đề đạo đức, Nguyễn Hoàng Đức viết Dục tính: Chân móng hay đỉnh tháp của văn chương?, Nguyễn Hữu Lê với Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách nhìn của đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết, Đỗ Minh Tuấn với Thúy Kiều và khát vọng giải sex... đều đề cập đến cuộc giải phóng phụ nữ, giải phóng tình dục”. Hoàng Ngọc Tuấn cho rằng lúc này, đàn bà đã biết nói về khát vọng dục tính của mình trong các sáng tác. Ở một số tiểu thuyết, họ còn xây dựng hình ảnh đàn ông nhƣ công cụ phục vụ dục tính. Phải chăng thái độ ấy là hệ quả của một quá trình dài ngƣời phụ nữ bị kiềm hãm về phát ngôn, tƣ tƣởng, bị áp chế từ định kiến cổ hũ của xã hội phong kiến? Những phản kháng mang tính nhất thời ấy không kéo dài lâu, về sau, các nhà văn, nhà thơ nữ đã trở nên bình tĩnh và sáng suốt hơn trƣớc những vấn đề giải phóng ý thức phụ nữ khỏi ràng buộc về phái tính, dục tính, để có thể hƣớng về những giá trị khác nhƣ hạnh phúc, trách nhiệm, tự do, tình yêu, gia đình, xã hội,… Đó mới là thời điểm họ bộc lộ ý thức phái tính một cách nhuần nhị và ý nghĩa. Ngoài ra, còn phải kể đến các bài bình luận “Văn tự và phái tính” của Tú Ân, “Phái tính trong ngôn ngữ học và văn học” của Phan Việt Thủy. Những 5
  13. bài nghiên cứu dẫn nhập chi tiết lý thuyết văn học nữ quyền và thuyết phụ nữ nhƣ: “Lí luận phụ nữ: Từ Simone de Beauvoir đến Judith Butler” của Đặng Phùng Quân, “Dày dày đúc sẵn một tòa… văn chương” của Đinh Từ Bích Thúy, “Tiếng cười của nàng Medusa” của Mary Klages,… Nhìn chung, các bài lý luận trên mang tính chất khơi mở, góp phần gợi hƣớng tìm hiểu ý thức phái tính nhƣng chƣa đủ nghiên cứu cụ thể vấn đề phái tính trong thơ nữ Việt Nam. Giai đoạn thứ ba, từ năm 2006, vấn đề nghiên cứu về văn học nữ giới khởi sắc khi các nghiên cứu về phái tính trong văn học nữ xuất hiện ngày càng nhiều, đa dạng, phong phú cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Tôi đồng tình với ý kiến của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân trong công trình “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại” khi phân loại các bài viết về văn học nữ quyền giai đoạn này thành ba khuynh hƣớng chính: nghiên cứu văn học nữ thiên về dục tính/ sex; nghiên cứu văn học nữ thiên về nữ tính/ thiên tính nữ; nghiên cứu văn học nữ trên bình diện nữ quyền. Khuynh hƣớng nghiên cứu văn học nữ thiên về dục tính/sex chính là những bài viết lấy đối tƣợng là yếu tố sex trong sáng tác của những cây bút nữ. Văn học trƣớc đây rất ít hoặc luôn né tránh khai thác vấn đề này. Nếu đƣợc đề cập, thì các tác giả của chúng ta phải dùng những uyển ngữ, nhã ngữ để phủ một “màn sƣơng duy mĩ” lên đối tƣợng. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp gọi đề tài sex trong văn học Việt Nam là “hiểm địa”, là vùng cấm. Do đó, Nguyễn Huy Thiệp đánh giá cao việc các tác giả nữ khai thác đề tài tính dục mà hiện tƣợng Bóng đè trong tác phẩm cùng tên của Đỗ Hoàng Diệu là một ví dụ điển hình cho văn chƣơng viết về sex ở Việt Nam. Theo bài viết Tản mạn về dục tính và nữ quyền của Nguyễn Vy Khanh (2012), tác giả đã lấy các sáng tác ở đô thị miền Nam nhằm đƣa ra khái quát: …“ từ cuối thập niên 1960, ngƣời viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn với những vấn đề phụ nữ đƣợc chính thức trƣơng lên chữ nghĩa”. Không những thế, Nguyễn Vy Khanh còn cho rằng: “Văn chƣơng dục tính hay có dâm tính lại do ngƣời nữ viết hình nhƣ hấp dẫn hơn vì cũng hình nhƣ có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, ngƣời nữ làm chủ con ngƣời, tƣ duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chƣơng”. Ngoài việc nhận thấy nét đổi mới trong văn học của ngƣời phụ nữ, Nguyễn Vy Khanh còn phát hiện ra sự chân thực trong văn chƣơng của nữ giới trong sự phản ánh những rung động 6
  14. bên trong của con ngƣời, nhất là từ trái tim ngƣời nữ. “Xƣa kia nhà văn nam viết, phân tích tâm lí mọi ngƣời thì nay các nhà văn nữ muốn phân tâm đàn ông và tự phân tâm! Một loại “văn hóa” mới, năng động và cách tân phái tính” và tác giả cũng nhận định “Văn chƣơng dục tính có khuynh hƣớng đi với nữ quyền”. Trang Vietnamnet mở cả một chuyên đề về Sex trong văn học. Đối tƣợng hƣớng tới là sex trong văn học nữ. Chẳng hạn các bài: Tính dục trong văn học hôm nay, Dục tính và những ranh giới mong manh (Nguyễn Huy Thiệp), Văn học sex : chấp nhận để tìm cách đổi khác? (Vƣơng Trí Nhàn), Lịch sử - văn hóa và sex trong văn chương (Nguyễn Hòa), Tính dục đơn thuần chi ở cấp thấp (Lê Đạt), Các cây bút nữ giữa trào lưu sex (Tâm Huyền), Tình dục trong văn chương đương đại: Chuyện không có gì mà ầm ĩ thế (Võ Thị Hảo), Sex trong văn học trẻ thoái trào (Phƣơng Quyên)… Những bài viết thiên về dục tính/sex nở rộ vào giai đoạn này đã bƣớc đầu làm rõ đƣợc vấn đề sex trong sáng tác của các nhà văn nữ đƣơng đại. Tuy nhiên, ngƣời viết với góc nhìn chủ quan, còn lấy quan điểm đạo đức truyền thống văn hóa Á Đông làm điểm tựa phân tích, chƣa nâng đƣợc vấn đề sex trong văn học nữ thành vấn đề phái tính. Và nếu vận dụng không tỉnh táo sẽ dẫn đến tình trạng chỉ nhìn thấy một phƣơng diện của vấn đề, làm nghèo nàn giá trị ý nghĩa của bộ phận văn học nữ. Mặt khác, khi chỉ nhìn các cây bút nữ đƣơng đại với góc độ sex, ta sẽ dễ sa vào đánh đồng phái tính là dục tính- một sự đánh tráo khái niệm rất nhầm lẫn. Về sau, với sự xuất hiện của các bài viết “Yếu tố tính dục trong thơ nữ cách tân Việt Nam đương đại” của Nguyễn Đức Hạnh và Dƣơng Hoài Thƣơng (2020), “Sex trong văn học đương đại” của Lệ Trinh (2020), “Tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương” của Trần Hồ Ngọc Trƣờng (2019), “Diễn ngôn thân thể trong thơ nữ đương đại Việt Nam” của Hồ Tiểu Ngọc (2020), “Ý thức về thân thể nữ giới trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại” của Nguyễn Hữu Minh đƣợc in trong Kỷ yếu Hội thảo khao học Quốc gia Văn học và Giới năm 2019;… dần dần, ngƣời nghiên cứu đã có cái nhìn bao quát, chuẩn xác hơn đối với văn học nữ thiên về dục tính/sex. Quả thực, thơ mang yếu tố này chỉ thực sự có đƣợc chỗ đứng khi nó hƣớng con ngƣời tới những giá trị tốt đẹp, cái đẹp thể xác và tâm hồn, khát khao về sự hạnh phúc và sinh sôi nảy nở. 7
  15. Khuynh hƣớng nghiên cứu văn học nữ thiên về nữ tính/ thiên tính nữ tập hợp những ý kiến bàn luận đến nữ tính/ thiên tính nữ trong văn học nữ, xem đó nhƣ là đặc trƣng của giới quy định nội dung sáng tác của văn học nữ ở Việt Nam. Vấn đề đó đƣợc tìm thấy trong các bài viết: “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại” của Nguyễn Thị Bình (2011); “Những quan niệm đương đại về giới nữ Việt Nam” của John C. Schafer (2013); “Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại” của Nguyễn Thị Năm Hoàng (2018); “Một vài lí giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ 1990 đến nay” của Hồ Khánh Vân (2012) hay “Thiên tính nữ trong thơ Xuân Quỳnh” của tác giả Nguyễn Phƣơng Hà- Lê Thị Quỳnh An đƣợc in trong quyển Văn học và giới nữ năm 2016;… Những chuyên luận của các nhà nghiên cứu nhƣ Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Phạm Xuân Nguyên, Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Việt Phƣơng, Tuấn Anh… Nhìn phái tính nhƣ là tính nữ và sự tự ý thức về tính nữ, Lê Thị Tuân trong bài viết “ Phái tính hóa hệ thống biểu tượng tự nhiên nước - lửa - đất trong các phim Trăng nơi đáy giếng, Cánh đồng bất tận và Bi, đừng sợ” (2017) đã cho rằng: “Nhìn ở nghĩa rộng: phái tính có thể coi là phạm trù giới tính để chỉ sự khác biệt sinh lí, tự nhiên giữa nam và nữ, giữa giống đực và giống cái. Nó khu biệt con ngƣời thành hai giống, đặc điểm thiên về tự nhiên, do khách quan quy định nhƣ: sinh lí, tâm lí, tính cách… Theo nghĩa hẹp hơn, có thể hiểu, phái tính là sự tự ý thức của chính chủ thể. Nó không bị chi phối bởi tính khách quan, trở thành yếu tố chủ đạo khu biệt đặc tính nữ và đặc tính nam”. Hoặc ở bài viết “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại” của Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Mỹ học tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật” của Tuấn Anh (2008). Tác giả Tuấn Anh đi sâu vào luận điểm dựa trên thiên tính nữ. Còn Nguyễn Đăng Điệp đặt vấn đề phái tính, vấn đề văn học nữ nhƣng lại giải quyết bằng văn học viết về ngƣời nữ. Tác giả dùng khái niệm “văn học nữ tính” để chỉ ra những nguyên nhân, dấu hiệu cơ bản của âm hƣởng nữ quyền trong tác phẩm. Nhìn chung, bài viết khơi sâu nghiên cứu âm hƣởng nữ quyền trong văn học chứ chƣa chú trọng nhiều đến khái niệm phái tính. Tác giả kết luận: “Vấn đề phái tính và âm hƣởng nữ quyền chủ yếu nằm trong hệ tƣ tƣởng chung của 8
  16. thời đại chứ chƣa trở thành mối quan tâm thực sự của nhà văn với tƣ cách là ngƣời thiết tạo nên những tƣ tƣởng nghệ thuật riêng của mình” (Nguyễn Đăng Điệp, 2006). Trong Văn học và giới nữ (2016, tr.406) của Phùng Gia Thế và Trần Thiện Khanh (biên soạn), Dƣơng Thị Thúy Hằng với bài viết “Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam sau 1975” đã cho rằng: “Ý thức về phái tính đồng nghĩa với việc ý thức về nhân vị cá nhân, bản thể, bản ngã của ngƣời phụ nữ đƣợc phát triển. Đó là khi họ từ giã những không gian rộng lớn, mang vóc dáng thời đại, trở về với ngôi nhà, với căn bếp, với hạnh phúc, mong mỏi nhỏ bé của phái nữ, với hạnh phúc và hi sinh, thiên chức và những ẩn ức thẳm sâu”. Đi sâu vào xem xét thể loại tự truyện, một thể loại vốn là thế mạnh của các nhà văn nữ cũng đã thu hút một số nhà nghiên cứu. Hồ Khánh Vân trong bài viết “Một vài lí giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt nam từ 1990 đến nay” đã biện giải nhƣ sau: “Trong quá trình tự thuật, ngƣời phụ nữ viết văn vừa bộc lộ và thể hiện bản thân, vừa sáng tạo ra chính mình thông qua thế giới hình tƣợng. Tự thuật vừa là khởi nguồn, là chất liệu của sáng tạo, đồng thời cũng vừa là đích đến, là sản phẩm sinh ra từ hành trình sáng tạo ấy. Đây chính là phƣơng thức tự sự đặc trƣng, là mô thức tự sự gắn liền với hoạt động sáng tác của nữ giới” (Hồ Khánh Vân, 2012). Từ nhận định này tác giả đã chỉ ra đƣợc một vài nét đặc thù trong thể loại văn xuôi của nhà văn nữ. Khuynh hƣớng nghiên cứu văn học nữ trên bình diện nữ quyền thƣờng đƣợc tiến hành song song với nghiên cứu những biểu hiện phái tính trong văn học nữ. Bởi vì cái gọi là nữ quyền luận trong văn học Việt Nam mới dừng lại ở những biểu hiện rải rác trong các sáng tác của những nhà văn, nhà thơ và đôi khi ngay cả trong bản thân họ, những biểu hiện của nữ quyền cũng không mấy thuần nhất. Tiếp nối phần bình luận về bài viết “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại” (2006) của Nguyễn Đăng Điệp ở phần trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã dùng cụm từ “âm hƣởng nữ quyền” mà không dùng “Chủ nghĩa nữ quyền” nhƣ một cách khẳng định ở Việt Nam, chƣa hẳn đã có một chủ nghĩa nữ quyền đầy đủ theo đúng ý nghĩa của nó. Tác giả khẳng định “âm hƣởng nữ quyền đã ngấm sâu vào văn học, tạo thành một tiếng nói, một bản sắc độc đáo trong văn học Việt Nam hiện đại và hậu hiện 9
  17. đại”. Điều này đã đƣợc tiếp tục kế thừa và phát triển trong luận án “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại” (2013) của Nguyễn Thị Thanh Xuân. Đây là công trình có đối tƣợng nghiên cứu là sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại từ cái nhìn của phái tính và âm hƣởng nữ quyền. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã cung cấp một cái nhìn khái quát về lý thuyết phê bình nữ quyền trên thế giới cũng nhƣ sự xuất hiện của nó trong văn học Việt Nam. Tiểu luận “Ý thức nữ quyền trong thơ đương đại” của Lƣu Khánh Thơ viết về thơ nữ đƣơng đại từ góc nhìn nữ quyền/giới tính. Tác giả nhận định “Việc tiếp nhận và ảnh hƣởng ý thức nữ quyền đã đem đến cho thơ nữ đƣơng đại những phẩm chất mới, một lối viết mới. Họ không chỉ làm đẹp cho đời bằng chính thiên chức, bổn phận của mình mà còn bằng cả tiếng nói thơ ca riêng” (Nguyễn Thành và Hồ Thế Hà chủ biên, 2017, tr.539) Ngoài ra, ta còn bắt gặp“Dấu hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam” của Bùi Thị Thủy có hơi hƣớng tiếp bƣớc ý kiến của Nguyễn Đăng Điệp, “Phê bình văn học nữ quyền” của Lý Lan thể hiện góc nhìn lịch sử về các trào lƣu phê bình văn học nữ quyền thế giới, “Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại” của Trần Huyền Sâm dẫn luận các khái niệm của các nhà nữ quyền Pháp: S. de Beauvoir, J. Kristeva, A. Fouque, H. Cixous, L. Irigaray nhằm nghiên cứu tinh thần nữ quyền của tiểu thuyết nữ Việt Nam đƣơng đại… Đứng trƣớc sự phong phú của nguồn tƣ liệu khảo sát, tôi nhận thấy càng ngày có khá nhiều công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn chọn đề tài phái tính trong thơ làm đối tƣợng khai phá. Tiêu biểu nhƣ: Các luận văn: “Tư duy thơ nữ sau 1975” (2005) của Hoàng Thùy Linh phác họa lại dòng thơ nữ sau 1975 đậm đà chất nữ tính phong phú, mạnh mẽ; “Phái tính trong thơ nữ sau 1975” (2007) của Nguyễn Ngọc Thùy Anh khảo sát những sáng tác của các nhà thơ nữ sau 1975, phác họa diện mạo chung của thơ nữ hiện đại; “Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại” (2018) của Nguyễn Thị Thuận làm rõ những biểu hiện của ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đƣơng đại ở hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật; “Về một đặc 10
  18. điểm tư duy thơ nữ gần đây: Ý thức phái tính (Qua Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh)” (2009) của Nguyễn Thị Hồng Giang chỉ ra đặc điểm trong thơ nữ qua các tác phẩm của ba nhà thơ mà tác giả khảo sát, tiếp nhận thơ nữ từ góc nhìn về một đặc điểm tƣ duy của họ sẽ cho thấy những khát vọng hạnh phúc, khát khao giải phóng của phái nữ; “Ý thức phái tính trong thơ nữ đương đại (Khảo sát qua hai tác giả Tuyết Nga và Phạm Thị Ngọc Liên)” (2016) của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng đã đi sâu vào tìm hiểu sáng tác của hai nhà thơ Tuyết Nga và Phạm Thị Ngọc Liên, bƣớc đầu nhìn nhận một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ nữ Việt Nam sau 1975: viết với ý thức của một ngƣời nữ. Các luận án: “Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay những đổi mới căn bản” (2015) của Đặng Thu Thủy đã chỉ ra một số đặc điểm đổi mới cơ bản trong thơ ca Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay dựa trên các phƣơng diện đổi mới quan niệm, cảm hứng và một số hình thức nghệ thuật; “Thơ nữ Việt Nam 1986-2015 nhìn từ lý thuyết giới” (2019) của Hồ Tiểu Ngọc đã lý giải những cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa của ý thức giới/phái tính/ và âm hƣởng nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam 1986-2015, từ đó chỉ ra ý nghĩa chúng trong tiến trình dân chủ hóa xã hội và văn học, thấy đƣợc đóng góp của các nhà thơ nữ vào nền thơ ca hiện đại Việt Nam từ góc nhìn giới và lối viết nữ; “Ý thức nữ quyền và thơ nữ Việt Nam đương đại từ 1986 đến nay” (2019) của Nguyễn Thị Hƣởng đi sâu nghiên cứu các cấp độ thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay và một số phƣơng thức nghệ thuật thể hiện ý thức nữ quyền trong thơ nữ vào giai đoạn đó. Tựu trung lại, các kiến giải trên là những gợi mở cần thiết và hữu ích để tôi có thể tìm hiểu thêm về ý thức phái tính trong thơ nữ. Theo dòng chảy của thời gian, vấn đề ý thức phái tính trong văn học đã dần đƣợc quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng khoảng trống của vấn đề còn rất lớn. Và văn học cần thêm nhiều hạt giống mới, thanh âm mới để đóng góp vào những khoảng vùng còn đang bị bỏ hoang ấy. 2.2 Các công trình nghiên cứu, phê bình, đánh giá về thơ nữ Đông Nam Bộ 2.2.1 Các công trình nghiên cứu, phê bình, đánh giá về thơ nữ Đông 11
  19. Nam Bộ nói chung Tính đến thời điểm hiện nay, số lƣợng các bài viết nghiên cứu riêng về mảng thơ nữ ở Đông Nam Bộ vẫn còn ít, đặc biệt nghiên cứu về ý thức phái tính trong thơ nữ Đông Nam Bộ dƣới góc nhìn tổng quát lại hiếm hoi hơn, nếu có nhắc đến, đa phần chỉ mang tính chất điểm qua tên tuổi một số tác giả nữ, trào lƣu sáng tác, hiện tƣợng nổi cộm, xuất hiện rải rác trong các chuyên luận lớn nghiên cứu chung về thơ ca Nam Bộ hoặc thơ ca đƣơng đại. Vì vậy, để thấy xuất phát điểm của thơ nữ Đông Nam Bộ, ta cần khái quát đôi dòng về văn học Nam Bộ. Và để đánh giá thơ nữ Đông Nam Bộ, ta cần có sự góp nhặt từ các nghiên cứu của những công trình khác có phạm vi rộng lớn hơn. Nhƣ ta biết, văn học quốc ngữ Nam Bộ hình thành từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX với sự phát triển của thể loại tiểu thuyết. Từ năm 1932 trở đi, văn học có nhiều dấu hiệu khởi sắc với hai đòn bẩy lớn. Thứ nhất là phong trào Thơ mới đƣợc mở ra từ tờ Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn do Phan Khôi và nữ sĩ Manh Manh chủ trì. Thứ hai là nhóm Tự lực văn đoàn đƣợc thành lập ở Hà Nội do Nhất Linh, Khái Hƣng đứng đầu. Trong giai đoạn 1932-1945, thơ nữ Nam Bộ ghi dấu bởi sự góp mặt của nhóm Phụ nữ tân văn (Nguyễn Thị Kiêm, Vân Đài,…); nhóm Hà Tiên (nữ sĩ Mộng Tuyết,…). Đây cũng là giai đoạn xuất hiện các cây bút nghiên cứu phê bình văn học chuyên nghiệp nhƣ: Thiếu Sơn, Kiều Thanh Quế, Trúc Hà, Phan Văn Hùm, Ca Văn Thỉnh,… Kiều Thanh Quế trong quyển Đàn bà và nhà văn (2011) đã khẳng định sự tồn tại của những bóng hồng trong văn chƣơng: “Địa vị ngƣời đàn bà trong văn chƣơng kể cũng to tát thay. Những bài thơ ít đƣợc ngâm ngợi, có lẽ là những bài thơ thiếu hẳn cái hơi hƣớm của một ngƣời đàn bà. Những cuốn tiểu thuyết kém độc giả nhất dễ thƣờng là những cuốn không đả động đến ngƣời đàn bà. Cho nên trong văn chƣơng Đông - Tây, đâu đâu cũng có ít nhiều bƣớc kinh qua của ngƣời đàn bà”. Tuy nhiên đó vẫn là nói chung đến vị trí ngƣời đàn bà trong văn học Việt Nam, còn lại là các bài phê bình xoay quanh việc đánh giá các quan điểm nghệ thuật, nghiên cứu văn học cổ Nam Bộ, phê bình các sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn hoặc phong trào Thơ mới,… Trong bài viết Văn học Nam Bộ 1932-1945 một cái nhìn toàn cảnh của Đoàn Lê Giang (2011), tác giả có viết “Văn học Nam Bộ 1932 – 1945 là một bộ phận máu 12
  20. thịt của văn học Việt Nam, là một phần của đời sống tinh thần và tâm hồn của ngƣời Việt ở Nam Bộ. Tuy nhiên từ trƣớc đến nay, việc nghiên cứu về mảng văn học này chƣa đƣợc chú ý vì nhiều lý do, trong đó chủ yếu là do khó khăn về tƣ liệu và thói quen thƣởng thức”. Nếu nhƣ văn học Nam Bộ là máu thịt của văn học Việt Nam thì văn học Đông Nam Bộ lại chính là một phần xƣơng cốt của vùng đất Nam Bộ. Một giai đoạn dài, hầu nhƣ chúng ta bỏ quên mất sự tồn tại của văn học Nam Bộ, thơ ca Đông Nam Bộ cũng vì vậy trở thành hạt ngọc hiếm trong thi đàn. Sau 1945, sự ra đời của Hội phụ nữ Việt Nam là tiền đề văn hóa và xã hội thuận lợi để các nữ sĩ khẳng định tiếng nói của mình. Tuy nhiên, đời sống tinh thần của nữ giới mới đƣợc khai thác ở khía cạnh xã hội, chƣa có sự nhìn nhận, đánh giá về phƣơng diện giới, hay chƣa có sự nhìn nhận cụ thể về đặc điểm tâm lý giới tính ảnh hƣởng thế nào trong các sáng tác của họ, các đặc điểm nghệ thuật riêng biệt,… đến nay vẫn còn nhiều khoảng trống. Giai đoạn 1954-1975, văn học chính thống ở miền Nam là văn học đô thị. Vấn đề “Giới” nhận đƣợc khá nhiều sự quan tâm. Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Văn học và Giới (2019, tr.268), tác giả Võ Chân Cửu với bài viết Thơ nữ miền Nam trước 1975: Những “Hóa thân” để vinh danh nữ giới đã cho rằng: “Đặc điểm chung của phần lớn các nhà thơ nữ Miền Nam trƣớc 1975 là họ không cần phải so đo về vị trí “chiếu trên, chiếu dƣới” nhƣ đa phần ngƣời cầm bút thuộc phái mạnh. Các chị cũng rất ít tham gia tranh luận về bút pháp, nghệ thuật thơ. Thơ nữ cứ lẳng lặng đi sâu vào lòng ngƣời đọc”. Điều thú vị của bài viết là tác giả đề cập đến văn học từ sau 1963 - khi cuộc chiến tranh mở rộng, là sự xuất hiện của nhiều cây bút giả danh là nữ. Lý do là họ đang trốn lính, đào ngũ nên phải lấy bút danh là nữ để khỏi bị phát giác. Điều này trái ngƣợc với tƣ tƣởng của văn học trung đại trƣớc đây - vốn đề cao vị thế nam giới, họ không bao giờ chịu ẩn thân hay khuất bóng sau nữ giới trên mọi trận địa. Giai đoạn thơ 1975-2000, bên cạnh các nhà thơ hƣớng ngòi bút đến nền thơ cách mạng với những đổi mới theo hƣớng phi sử thi hóa và thế sự hóa thì một bộ phận khác, đã có những nhà thơ trở về tiếng nói trữ tình cá nhân; tiếp tục trăn trở hiện đại hóa trên hành trình đã đƣợc mở ra từ đầu thế kỉ XX. Những điều đó đã dẫn đến sự biến đổi quan niệm nghệ thuật, phƣơng thức thể 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0