Luận văn đề tài: Việc làm trong ngành thuỷ sản ở tỉnh Cà Mau
lượt xem 9
download
Chúng ta biết rằng việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nói chung, của mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Cho nên có thể nói hiệu quả của việc giải quyết việc làm cho người lao động gắn liền với sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, đã được...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn đề tài: Việc làm trong ngành thuỷ sản ở tỉnh Cà Mau
- 1 Luận văn Việc làm trong ngành thuỷ sản ở tỉnh Cà Mau
- 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta biết rằng việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nói chung, của mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Cho nên có thể nói hiệu quả của việc giải quyết việc làm cho người lao động gắn liền với sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, đ ã được Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Đến Đ ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã làm rõ thêm một bước đó là: “Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động chú trọng đ ào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do công nghiệp hoá và đô thị hoá”. Tỉnh Cà Mau nằm ở cực Nam Tổ quốc, nằm ở điểm cuối Quốc lộ 1A, gần các nước Đông Nam Á, Cà Mau có điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, tiếp thu tiến bộ khoa học - công nghệ, chuyển giao công nghệ không chỉ với các tỉnh đ ồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, mà còn rất thuận lợi trong việc giao lưu với các nước khu vực Đông Nam Á và thế giới. V ới tài nguyên khoáng sản của Cà Mau, b a m ặt giáp biển, lại tiếp giáp với thềm lục địa rộng lớn, Cà Mau có tiềm năng về dầu hoả và khí đốt, nguồn thuỷ sản dồi dào… nó có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - x ã hội của tỉnh. Từ đó, tỉnh đ ã đ ịnh hướng phát triển ngành thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, như N ghị quyết 04/NQ -TU ngày
- 3 26/04/1999 của Tỉnh uỷ C à Mau đ ã xác định “Là tỉnh có điều kiện tự nhiên thu ận lợi và tiềm năng thuỷ sản to lớn, đa dạng để phát triển th ành ngành kinh tế mũi nhọn góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đ ưa kinh tế C à Mau từng b ước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới”. Trong q uá trình tổ chức thực hiện ngành thuỷ sản đ ã góp phần có hiệu quả vào c ông cuộc xoá đói giảm nghèo, nếu năm 2000 thu nhập b ình quân đ ạt 350 U SD/người thì đ ến năm 2005 là 582 USD/người. Trong 9 đơn vị hành c hính c ủa tỉnh (trừ thành phố C à Mau) thì kinh tế của các huyện như N gọc H iển, Năm Căn, Đầm D ơi, Phú Tân, Trần Văn Thời p hát triển mạnh hơn c ác huyện khác nhờ có thế mạnh thuỷ sản. Trong quá trình phát triển kinh tế - x ã hội của tỉnh có nhiều thuận lợi. Song cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: về việc làm cho ng ười lao động, kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục... Trong đó, vấn đề giải q uyết việc làm cho người lao động để họ có cuộc sống ổn định là vấn đ ề nổi cộm bởi bộ phận lao động này khi tách khỏi môi trường sống quen thu ộc trước đây như một hiện tượng vừa mang tính khách quan phổ biến c ủa quá trình chuyển dịch c ơ cấu sản xuất, do mang tính đặt thù c ủa tỉnh Cà Mau. Hiện nay số lượng lao động chuyển đổ i ngành nghề khá lớn như từ nông nghiệp là phổ biến sang lĩnh vực khai thác nuôi trồng, chế biến. N hiều hộ không đủ vốn để sản xuất kinh doanh mở rộng dịch vụ; tr ình độ học vấn v à trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, không có tiền đi học nghề đ ể ho à nhập v ào môi trường mới. V ì v ậy tình trạng ng ười lao động sau khi c huyển dịch cơ cấu kinh tế th ì đời sống của họ cũng gặp không ít khó khăn. Xuất phát từ những vấn đề trên khi mà quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng qui mô sản xuất thực hiện ngành kinh tế mũi nhọn thì cần phải có chiến lược đồng bộ và cụ thể, trong đó vấn đề tạo việc làm trong ngành thuỷ sản cần đ ược chú trọng.
- 4 Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Việc làm trong ngành thuỷ sản ở tỉnh Cà Mau” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những nội dung liên quan đến đề tài giải quyết việc làm cho người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có một số công trình nghiên cứu đó là: - Nolwen.HenaffJean-Yves (Biên tập khoa học): Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới (Nxb Thế giới Hà N ội năm 2001). Trong các bài viết này, các tác giả đã trình bày tổng quát về các giải pháp để giải quyết việc làm như: chính sách giáo dục - đ ào tạo, tổ chức lại nền kinh tế chiến lược của cá nhân, gia đình và của các doanh nghiệp. - GS.TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam (Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 64). Phạm vi của bài viết này, tác giả đã đ ánh giá hiện trạng việc làm và thất nghiệp, trên cơ sở đó đề ra hướng giải quyết việc làm cho người lao động. - TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn (Tạp chí Lao động - xã hội số 246, từ ngày 1-15/9/2004). Nội dung bài viết, tác giả nêu lên thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong quá trình đô thị hoá và đưa ra các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề lao động và việc làm. - Đào Mai Phước: Việc làm cho ng ười lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2006, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu tiếp cận vấn đề việc làm ở góc độ chung khác nhau. Song chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề việc làm trong ngành thủy sản tỉnh Cà Mau. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- 5 3.1. Mục đích Phân tích việc làm trong ngành thuỷ sản ở tỉnh Cà Mau trong giai đoạn 2000 - 2007. Từ đó thấy được những thành công, hạn chế và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau, cho những bước tiếp theo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đ ể đạt đ ược mục đích nêu trên, luận văn sẽ hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau: + Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về việc làm và tạo việc làm trong ngành thủy sản tỉnh Cà Mau. + Phân tích và đánh giá thực trạng tạo việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau thời gian qua. + Đ ề xuất giải pháp tạo việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau thời gian tới. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Đ ề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau sau khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mở rộng qui mô sản xuất của ngành thuỷ sản, chủ yếu ở lĩnh vực chế biến, nuôi trồng và khai thác (đánh bắt) thủy sản từ năm 2000 - 2007. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý thuyết lao động và việc làm hiện đại. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Đ ể phục vụ cho việc nghiên cứu và thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra, luận văn sẽ sử dụng những phương pháp sau:
- 6 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh. 5. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Luận văn làm rõ m ột số vấn đề lý luận chung về việc làm, tạo việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau. - Đánh giá thực trạng tạo việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau khi mở rộng qui mô sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đề xuất những giải pháp khả thi để tạo thêm việc làm trong ngành thuỷ sản những năm tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn nhằm cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm trong ngành thuỷ sản của tỉnh Cà Mau. Để nâng cao khả năng nhận thức, nghiên cứu và tham mưu cho tỉnh nâng cao nguồn nhân lực phục vụ cho việc phát triển kinh tế-xã hội, mà mũi nhọn là ngành thuỷ sản. - Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh đặc biệt là ngành thuỷ sản có thể tham khảo để thực hiện tốt chính sách giải quyết việc làm trong ngành thủy sản những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
- 7
- 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC LÀM TRONG NGÀNH THUỶ SẢN 1.1. VIỆC LÀM VÀ NH ỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC LÀM TRONG NGÀNH THỦY SẢN 1.1.1. Quan niệm về việc làm Chúng ta biết rằng lao động là hoạt động có m ục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu đời sống của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động theo bản năng của con vật. Trong lao động không chỉ tạo ra của cải mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người về mặt thể lực và trí lực. V ấn đề này C.Mác khẳng định đó là: Lao động trước hết đó là quá trình diễn ra sự tác động giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng sự hoạt động của chính mình, con người làn trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở b ên ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời cũng làm thay đổi bản tính của chính nó [29, tr.230]. Như vậy lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào thế giới tự nhiên, nhằm biến tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của đời sống con người. Do đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, nó ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự xuất hiện tồn tại và phát triển của con người. Trong quá trình lao động con người không chỉ tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra những giá trị tinh thần cho xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao
- 9 động đối với sự phát triển kinh tế - x ã hội, ngày nay khi khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trình độ khoa học - công nghệ phát triển cao chi phối mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhưng cũng không thể thay thế nguồn lực lao động. Bởi nguồn lực lao động là nhân tố, phát minh ra những thành tựu khoa học - công nghệ, sáng tạo ra thiết bị và sử dụng chúng vào trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Hơn nữa, trong các yếu tố “đầu vào” của quá trình sản xuất, lao động được coi là yếu tố cơ bản nhất. Do tiền công lao động là một trong những chi phí hình thành nên giá thành sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, cho nên tiết kiệm lao động để hạ giá thành sản phẩm và hàng hoá, tăng lợi nhuận là mục tiêu của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Cho đến ngày nay, khoa học và thực tiễn kinh tế đều khẳng định các nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế đó là: lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học - công nghệ. Trong đó, nguồn lực lao động là nhân tố quyết định nhất. Các nguồn lực khác có thể khai thác cạn kiệt nhưng nguồn lực con người là vô cùng, vô tận nếu các quốc gia có chính sách đào tạo và sử dụng một cách hợp lý. Lênin nói: “Lực lượng sản xuất hàng đầu nhân loại là người công nhân, là người lao động” [26, tr.430]. Nguồn lao động là một trong những yếu tố hình thành tiềm năng của mỗi quốc gia, nói đến nguồn lao động là nói đến một bộ phận dân số trong đó có tuổi quy định tham gia vào quá trình lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm. Khi nói đ ến nguồn lao động không chỉ nói đến người lao động mà còn đề cập đến cả chất lượng lao động. Chất lượng nguồn lao động là khả năng lao động có hiệu quả của người lao động. Trong điều kiện đang hướng tới phát triển kinh tế tri thức có đông đảo lực lượng lao động tham gia vào phát
- 10 triển kinh tế là rất cần thiết, nhưng chưa đủ, chỉ khi lực lượng lao động bao gồm những con người có thể lực, có trí tuệ, giỏi về tay nghề, ham học hỏi, tích luỹ được kinh nghiệm mới có khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn lao động được hình thành trên cơ sở dân số. V ì vậy giữa dân số và lao động có mối quan hệ mật thiết với nhau, tốc độ tăng dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng tự nhiên của nguồn lao động, chất lượng dân số tốt thì chất lượng lao động sẽ tốt và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động bao gồm: tình trạng sức khoẻ của người lao động; chính sách giáo dục - đ ào tạo, chính sách tiền lương, tiền thưởng và các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Ở nước ta còn có nhiều trình độ phát triển khác nhau, thì tình trạng thiếu việc làm, thất nhiệp cũng có nhiều nguyên nhân khác nhau. Đối với các nước nghèo, các nước đang phát triển, dân số tăng nhanh và trình đ ộ phát triển kinh tế thấp dẫn đến tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp ngày càng cao. Vì thế, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp là mục tiêu quan trọng của các quốc gia trên thế giới. Như phân tích trên cho ta thấy rằng, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi con người trong mỗi quốc gia. Thực hiện quyền và nghĩa vụ đó thì người lao động có việc làm hợp pháp, nên việc làm là điều kiện để quá trình lao động được diễn ra và cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm bảo ổn định đời sống của bản thân con người và của to àn xã hội. V iệc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, x ã hội v à nhân khẩu, là một trong những vấn đ ề chủ yếu nhất của to àn bộ đời sống xã hội. Trong khái niệm việc làm và khái niệm lao động nó không giống nhau nhưng lại liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối q uan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn x ã
- 11 hội cần thiết trong đó có lao động diễn ra, đồng thời nó l à điều kiện cần thiết thoả m ãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động c on người. Về gốc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và y ếu tố vật chất trong q uá trình sản xuất. Việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu đối với mỗi cá nhân, gia đình và Chính phủ trong mỗi quốc gia. Cho nên quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với trình đ ộ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặt biệt là định hướng chính trị của mỗi quốc gia thay đổi. Vấn đề này được nhà kinh tế học nổi tiếng John Mayad Keyner (1883 - 1946) viết “Một nền kinh tế tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy thực chất là nền kinh tế trong đó những quan điểm luôn thay đổi về tương lai, có khả năng ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm mà thôi”. Nhà kinh tế thuộc Viện Hải quân Luân-đôn ông Shi-han-tơ cho rằng: việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của con người, kể cả quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế. Theo quan điểm này của ông Shi-han-tơ, thì tất cả các hoạt động, hành vi mang lại nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều gọi là việc làm. Như vậy đã đồng nhất việc làm hợp pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay thì không thể chấp nhận quan niệm trên, bởi các quan hệ nền kinh tế hiện nay càng phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, đó là xuất hiện nhiều nguồn thu nhập không chính đáng, nó đã làm gia tăng các tệ nạn xã hội, kiềm hãm sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước.
- 12 Ông tiến sĩ Sơn-hin và phó tiến sĩ Crin-xốp người Nga cho rằng: việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong công việc nội trợ hay trong kinh tế phụ của các nông trang viên. V ới quan niệm này của hai ông cho rằng tất cả những người có công việc ổn định trong guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội, kể cả những người làm công việc nội trợ, làm kinh tế phụ của nông trang viên, người đi học đều gọi là có việc làm. Theo quan điểm này thì có ưu điểm đó là xác định lao động của người nội trợ và người làm kinh tế phụ đều là việc làm, bởi vì nó đã góp phần tạo ra thu nhập để trực tiếp hay gián tiếp nuôi sống bản thân. Nhưng quan niệm này chưa xác định mà lại cho rằng những người đi học là có việc làm. Bởi vì những người đi học như học sinh, sinh viên, người học nghề, các trường chuyên nghiệp đều chưa có khả năng tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân, các khoản chi tiêu của họ đều phụ thuộc vào thu nhập của người khác, của xã hội. Đa số những người đi học trong độ tuổi lao động nhưng không thuộc người lao động. Ông Giăng-mu-li là phó cố vấn kinh tế của văn phòng lao động quốc tế cho rằng: việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nổ lực sản xuất. Theo quan niệm này thì có phát triển hơn, tuy nhiên nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật thì mới được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động mà chỉ nhận sự phân phối lại trực tiếp từ các thành viên trong gia đình. Họ không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu nhập và gián tiếp tạo ra thu nhập từ các thành viên trong gia đình có việc làm hưởng tiền lương từ xã hội.
- 13 Như vậy, họ là những người có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng máy chỉ đạo xã hội - đó là nghề nội trợ. Như vậy quan niệm về việc làm như thế nào là hợp pháp, hợp lý ? X uất phát từ thực tiễn trong đời sống kinh tế - x ã hội, có việc làm được coi là hợp pháp chính đáng song lại có việc làm tạo ra thu nhập nhưng được coi là bất chính. Chính sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm về việc làm hợp pháp là phải việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con người, nghề nghiệp hợp pháp p hải tương ứng với p háp lu ật của mỗi nước cho phép. Tại Hội nghị c ủa Tổ chức lao động q uốc tế (ILO) đ ã đ ưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: “người có việc làm là nh ững ng ười làm một việc gì đó, có đư ợc trả tiền công, lợi nhuận hoặc đ ược thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào ho ạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập gia đ ình, không nhận đ ược tiền công hay hiện vật” [3, tr.47 ]. Nói như vậy có nghĩa là, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân gia đình và xã hội. Nói như thế đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Cho nên khái niệm này được áp d ụng ở nhiều nước trên thế giới. Qua nghiên cứu theo chúng tôi, nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, quá trình đó chỉ có diễn ra khi đã đ ược dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó là đã đầy đủ. Trên bình diện một nước cụ thể thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của m ột bộ phận dân cư có sức lao động lại đ ược giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Bởi vậy, cho nên việc làm không chỉ diễn ra trên mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mà cả
- 14 quan hệ giữa con người với con người, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp khi đ ã tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất cho quá trình đ ó có thể diễn ra. Như vậy, việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, x ã hội và nhân khẩu thuộc loại vấn đề chủ yếu của to àn bộ đời sống xã hội. Nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân ai cũng đ ược ăn no mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, đ ược học tập. Đồng thời Người cũng chỉ rõ đó là trách nhiệm của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định; "Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn b ần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc" [31, tr.17]. Đ ất nước ta trong một thời kỳ dài, chúng ta đã quan niệm chưa đúng trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp, người lao động đ ược coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, còn làm nội trợ, kinh tế gia đình, kinh doanh, hành nghề cá thể thì chưa được xem là có việc làm chính đáng. Chính quan niệm này đ ã dẫn đến tình trạng mọi người chen chân nhau tìm việc làm trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho số người làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng lên quá mức cao so với khối lượng sản xuất, công tác đảm nhận; kinh tế tập thể phát triển nhanh về số lượng nhưng lại thiếu đi tính vững chắc; còn kinh tế gia đình teo đi; kinh tế tư nhân, cá thể không phát triển được. Từ đó đã gây tác hại không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đ ất nước, làm mai một khá nhiều nguồn công việc làm trong xã hội, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến chỗ khó khăn. Vấn đề này có rất nhiều công trình nghiên cứu trước đây thường bó hẹp trong các chức danh
- 15 như viên chức, công chức, công nhân các lao động được hưởng lương và hưởng chế độ bao cấp của nhà nước. Từ đó m à tạo ra việc làm, thu hút lao động là trách nhiệm chủ yếu của nhà nước. Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm đã được thay đổi một cách căn bản. Trên cơ sở học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng khái niệm việc làm của ILO và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngày nay các quan niệm về việc làm cũng được hiểu rộng hơn, đó là hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập, mà không b ị pháp luật ngăn cấm. Chúng ta đã có khái niệm thống nhất về việc làm được khẳng định trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà X ã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở Đ iều 13, Chương II (việc làm) Bộ luật Lao động nước ta qui định “mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [33, tr.42 ]. Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn các điều kiện sau: Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và các thành viên trong gia đình, chỉ có hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập. Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật cấm, điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi và ngành nghề và hoàn toàn phù h ợp với sự phát triển của thị trường lao động ở nước ta trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chính vì vậy, ngày nay người lao động hợp pháp đ ược đặt vào vị trí chủ thể có quyền tự do tìm kiếm việc làm, ho ặc tạo ra việc làm cho người khác trong khuôn khổ pháp luật, không bị phân biệt đối xử cả trong hay ngo ài khu vực k inh tế nhà nước, mức cụ thể ở đây là công dân có thể làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
- 16 V ới những điều kiện trên cho ta thấy nó có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu như một hoạt động chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi phạm pháp luật như buôn lậu, buôn bán những mặt hàng mà pháp luật nghiêm cấm thì không công nhận là việc làm. Bên cạnh đó, một hoạt động dù là hợp pháp và có ích nhưng không tạo ra thu nhập thì cũng không đ ược thừa nhận là việc làm. Như công việc nội trợ hàng ngày cho chính gia đình mình thì không được coi là việc làm, nhưng nếu người đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác và được trả tiền công thì hoạt động đó được thừa nhận là việc làm. Như vậy với quan niệm mới về việc làm như trên đ ã khuyến khích việc mở rộng thị trường lao động, đa dạng hoá các hình thức lao động và x ác định chuẩn mực mới về giá trị xã hội. V ấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với mỗi quốc gia. Trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quy định rõ ràng và đầy đủ về trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm của từng thành viên trong xã hội đối với vấn đề việc làm: “giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm, là trách nhiệm của N hà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội” [33 , tr.142]. Cụ thể qui định trách nhiệm của nhà nước đó là: - Nhà nước định ra các chỉ tiêu kế hoạch giải quyết việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. - Có chính sách ưu đãi, khuyến khích giải quyết việc làm như: hỗ trợ về tài chính vay vốn, miễn giảm thuế. - Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, phát triển hệ thống dịch vụ việc làm, hệ thống các cơ sở dạy nghề. Các qui định trách nhiệm của doanh nghiệp:
- 17 - Phải đảm bảo việc làm cho người lao động mà doanh nghiệp đã tuyển dụng. - Phải mở rộng quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm. - Phải ưu tiên lao động nữ, người tàn tật với một tỷ lệ thích hợp và có công việc phù hợp cho bộ phận lao động này khi thay đổi cơ cấu công nghệ, nếu cho người lao động thôi việc thì phải trợ cấp mất việc làm. - Các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia các chương trình giải quyết việc làm của chính phủ. Như vậy các qui định trên cho ta thấy sự thay đổi căn bản trong nhận thức về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm của nước ta; tức là từ chỗ cho rằng giải quyết việc làm là trách nhiệm của nhà nước và chỉ làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp của nhà nước mới đ ược coi là có việc làm đến nay đã nhận thức rằng mọi hoạt động tạo ra thu nhập không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm. Từ phân tích các quan niệm về việc làm như trên có thể rút ra đó là khái niệm việc làm bao hàm các nội dung sau: + Là hoạt động lao động của con người. + Là hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập. + Là hoạt động lao động không bị pháp luật cấm. Qua khái niệm việc làm như trên đã xoá bỏ được quan niệm cứng nhắc trước đây là chỉ những người trong biên chế nhà nước mới là người có việc làm. Còn khái niệm này, việc không chỉ là biên chế, mà còn là ngoài biên chế không chỉ ngoài xã hội mà còn tại gia đ ình. Như vậy với khái niệm trên thì tất cả những ai đang làm việc trong các thành phần kinh tế, trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại gia đình đ ều được coi là có việc làm.
- 18 V ới khái niệm trên đây cho thấy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo ra khả năng to lớn trong việc giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người về việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm đã tạo ra cơ sở thống nhất trong lĩnh vực điều tra, nghiên cứu và ho ạch định các chính sách về việc làm. 1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm trong ngành thuỷ sản Tạo việc làm cho người lao động là hết sức quan trọng. Từ đó trong nhiều năm qua ở nhiều tỉnh và thành phố có nhiều hoạt động nhằm tạo việc làm để giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn cũng như thành thị, bằng nhiều hình thức khác nhau như mở rộng qui mô sản xuất, mở rộng ngành nghề… khác nhau như tạo việc làm m ới từ phát triển công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sản xuất… theo hướng dẫn sản xuất hàng hoá lớn cũng như tạo việc làm mới từ các chương trình dự án quốc gia và quốc tế. Qua đó cho cho thấy sự quan tâm đặt biệt của các cấp, các ngành đối với vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, thành thị. Cà Mau thấy được tầm quan trọng của tạo việc làm cho người lao động nói chung bởi nhận thức được giải quyết việc làm là vô cùng quan trọng, nó tác động to lớn đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi con người là mục tiêu, động lực cho sự phát triển kinh tế - x ã hội. Chúng ta luôn khẳng định mục tiêu phát triển con người, làm cho người lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và được chăm sóc một cách đầy đủ về đời sống vật chất tinh thần là mục tiêu cao nhất, có ý nghĩa nhất. Để đạt đ ược điều này một trong những nhiệm vụ ưu tiên quan trọng hàng đầu đó là phải làm cho người lao động có việc làm. Đối với những người lao động ở nông thôn cũng như thành thị thì chỉ có tạo việc làm đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân họ và gia đình từ đó mới đảm bảo được sự ổn định đồng thời giảm bớt được các tình trạng mất trật
- 19 tự xã hội như: trộm cắp, m ại dâm…Trong quá trình tạo việc làm các nhân tố ảnh hưởng tới đó là: - Nhân tố về điều kiện tự nhiên: V ề nhân tố này, nó được thể hiện một số nội dung như: tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… chúng ta biết rằng trong quá trình sản xuất có thể diễn ra được đòi hỏi phải có những yếu tố sơ b ản của quá trình lao động đó là: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động của ngành thuỷ sản là điều kiện tự nhiên bao gồm: đất đai và những tài nguyên thiên nhiên khác. Nếu nơi nào tài nguyên thiên nhiên càng phong phú và đa dạng thì càng dễ cho người lao động có những cơ sở điều kiện tự tạo việc làm cho các cá nhân, gia đình họ. Nếu ngược lại nơi nào có tài nguyên thiên nhiên ít và kém đa dạng thì sẽ khó khăn cho lao động tìm việc làm cũng như tạo việc làm cho họ như: ở những vùng có rừng có biển, những vùng gần sông, rạch thuỷ triều ổn định thì người lao động có thể tự tạo việc làm bằng nghề khai thác (đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản…) cùng với đó, ở những nơi tài nguyên thiên nhiên càng phong phú, đa dạng thì cơ cấu ngành nghề ở nơi đó cũng rất đa dạng thì khi đó càng thuận tiện cho người lao động trong việc tìm kiếm việc làm cũng như tạo việc làm cho chính bản thân mình. Đồng thời tài nguyên thiên nhiên còn là lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những nước có điều kiện thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi sẽ có lợi thế để thu hút các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tham gia bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ. Từ đó thuận lợi cho việc giải quyết việc làm cho người lao động. - Tư liệu lao động và các phương tiện vật chất phục vụ cho quá trình sản xuất: + Tư liệu lao động là các loại công cụ lao động từ thủ công, nửa cơ khí, cơ khí hiện đại mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động,
- 20 biến đối tượng lao động theo mục đích của con người. Tư liệu lao động bao gồm các công cụ lao động trực tiếp tác động vào đối tượng lao động và bộ phận phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản xuất như: nhà xưởng, cầu cảng, phương tiện vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc… đây là những phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy tư liệu lao động và các phương tiện vật chất nói trên là yếu tố cơ bản để kết hợp sức lao động của con người với đối tượng lao động để tạo nên quá trình sản xuất, tức là tạo ra việc làm cho người lao động. Nếu không có phương tiện lao động và các phương tiện vật chất đó thì sức lao động và đối tượng lao động chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên không biến thành của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu con người và cho xã hội. Chính vì vậy muốn tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là tạo việc làm cho người lao động trong ngành thuỷ sản thì trước hết phải có các lo ại tư liệu lao động cần thiết, phù hợp với trình độ của người lao động với tính chất và đ ặc điểm của từng loại hình để thu hút lao động, nhằm giải quyết việc làm cho người lao động. Nói tóm lại, chính tư liệu lao động đã nối dài bàn tay của con người và năng lực lao động sống, do đó đã tạo ra nhiều của cải, vật chất ngày càng phong phú, đa dạng và là nhân tố như C.Mác đã viết: “Để phân biệt những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì ? mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [30, tr.269]. - Nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực trước hết được hiểu là lực lượng lao động, nó bao gồm toàn bộ những người lao động, đang phục vụ cho xã hội, từ những người lao động trực tiếp, đến các nhà quản lý, nhà khoa học, từ những người công tác văn phòng, đến lực lượng lao động dự trữ…đều thuộc nguồn nhân lực.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
luận văn đề tài:" Một số biện pháp hoàn thiện công tác quản trị nhân lực ở Viện luyện kim đen
52 p | 585 | 250
-
Luận văn đề tài nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh quản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
82 p | 427 | 197
-
Luận văn đề tài: Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Thiết bị thương mại
56 p | 1060 | 161
-
LUẬN VĂN Đề tài “Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá ở Công ty TNHH Tân Hồng Hà”
74 p | 774 | 141
-
Luận văn: Đề tài quản trị quan hệ mạng lưới khách hàng
135 p | 317 | 72
-
Luận văn thạc sĩ Kinh tế: Giải quyết việc làm cho người lao động dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk
99 p | 252 | 69
-
Luận văn đề tài:" đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì”.
53 p | 230 | 69
-
Luận văn Đề tài: TÍNH TOÁN THIẾT KẾ NHÀ MÁY SẢN XUẤT BỘT NHẸ (CaCO3) NĂNG SUẤT TẤN/NGÀY
79 p | 261 | 68
-
Luận văn đề tài: Việc làm cho thanh niên nông thôn miền Tây Nam bộ
124 p | 185 | 60
-
LUẬN VĂN đề tài:"Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay"
100 p | 171 | 53
-
LUẬN VĂN đề tài: "Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)"
66 p | 125 | 39
-
LUẬN VĂN-ĐỀ TÀI: “ Bảo vệ trạm biến áp 35/6kV” của Mỏ than Đèo Nai.
0 p | 244 | 38
-
Luận văn đề tài:" Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công Ty Cổ Phần Sản Xuất Và Thương Mại Vũ Gia”
68 p | 129 | 38
-
Luận văn đề tài : “Viết chương trình Quản Lý Kế Toán Doanh Nghiệp”
71 p | 148 | 22
-
Luận văn đề tài: Sự phá vỡ cấu trúc và tỷ giá hối đoái thực hiện hiệu lực của Trung Quốc - Phương pháp tiếp cận Natrex
56 p | 149 | 19
-
Tiểu luận: Vấn đề làm thêm của sinh viên
10 p | 150 | 18
-
Luận văn: Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Công ty vận tải và đại lý vận tải Hà nội – VITACO
52 p | 106 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn