LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá
lượt xem 77
download
Tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt, trong đó Nhà nước thực hiện tín dụng không vì mục đích lợi nhuận mà hướng tới hiệu quả và công bằng của nền kinh tế quốc gia. ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng từng bước được cải cách. Một trong các hướng cải cách đó là thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển (Quỹ HTPT) và sau đó là...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá
- LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt, trong đó Nhà nước thực hiện tín dụng không vì mục đích lợi nhuận mà hướng tới hiệu quả và công bằng của nền kinh tế quốc gia. ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng từng bước được cải cách. Một trong các hướng cải cách đó là thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển (Quỹ HTPT) và sau đó là Ngân hàng phát triển (NHPT) Việt Nam. Trong hơn 8 năm hoạt động, tổ chức này đã đóng góp tích cực vào triển khai các dự án phát triển kinh tế thuộc các lĩnh vực, các ngành, các vùng mà Nhà nước ưu tiên. Thực tiễn hoạt động của NHPT Việt Nam đã khẳng định tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quan trọng của Chính phủ không chỉ trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các dự án lớn, các chương trình trọng điểm, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước vừa thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đổi mới chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước càng đặt ra cấp thiết hơn. Đồng thời, yêu cầu CNH, HĐH, phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác các tiềm năng của các vùng, miền khó khăn, đặc biệt khó khăn của đất nước cũng đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo hướng hiệu quả hơn. Hơn nữa, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống NHPT nói chung, Chi nhánh NHPT Thanh Hoá nói riêng, bên cạnh những kết quả đạt được, đã bộc lộ những hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi phải có những giải pháp để đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong hệ thống NHPT nói chung và Chi nhánh NHPT Thanh Hoá nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá” được chọn làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- NHPT là một loại hình ngân hàng đặc thù, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0%, được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, mới được thành lập hơn hai năm (trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ HTPT), do đó chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về tín dụng của loại hình ngân hàng này. Cho đến nay mới có một số công trình nghiên cứu tín dụng ĐTPT và NHPT dưới một số góc độ khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn: - Trần Công Hoà, “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc", Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2007. - Đặng Tố Loan,“Mở rộng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Quỹ Hỗ trợ phát triển - Chi nhánh Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2003. - Nguyễn Gia Thế“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Tr−ờng Đại học Th−ơng mại, năm 2004. - Lê Thị Định Hương,“Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT tại Quỹ Hỗ trợ phát triển TP.HCM”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, năm 2004. - Trần Thị Mỹ Hạnh (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng nhà nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng. Các công trình nghiên cứu trên có đề cập đến quản lý, nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng trong hoạt động của hệ thống Quỹ HTPT/NHPT; đã tiếp cận và giải quyết nhiều nội dung về hiệu quả tín dụng, chất lượng tín dụng của NHPT. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá và ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước, tìm và đề xuất giải pháp đổi mới hoạt động này ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- - Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước. - Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá qua hơn 2 năm từ khi thành lập và 6 năm hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Thanh Hoá (tiền thân của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá), qua đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước. - Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước thuộc thẩm quyền triển khai của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá, giới hạn trong khuôn khổ sử dụng nguồn vốn trong nước với các hình thức: cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ sau đầu tư. Thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay. Các giải pháp định hướng cho giai đoạn đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội truyền thống như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm hệ thống... Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn giải, khảo sát... được sử dụng kết hợp để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn. Luận văn coi quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, các Quy chế, Quy trình, Quy định của NHPT Việt Nam là tiền đề để nghiên cứu thực tiễn tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá. 6. Đóng góp mới của luận văn - Khắc hoạ rõ nét bức tranh về hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá. - Đề xuất các giải pháp tổng thể nhằm đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá. - Đưa ra những kiến nghị đối với NHPT Việt Nam, các cấp Chính quyền, các ngành có liên quan tại địa phương về chính sách, quy định và thực hiện các giải pháp bổ trợ cho việc đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá.
- 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết và 15 bảng biểu, sơ đồ.
- Chương 1 Những vấn đề cơ bản về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước 1.1. khái niệm, đặc điểm, vai trò Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản a. Khái niệm đầu tư Đầu tư là việc đưa một lượng vốn nhất định vào quá trình hoạt động kinh tế nhằm thu lại một lượng giá trị lớn hơn sau một khoảng thời gian xác định. Đầu tư có hai đặc trưng cơ bản là tính sinh lợi và thời gian kéo dài. Tính sinh lợi là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không thể coi là đầu tư nếu việc sử dụng tiền vốn không nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu. Đặc trưng thứ hai của đầu tư là chỉ có thể thu hồi giá trị ứng ra sau thời gian khá dài nên thường gánh chịu nhiều rủi ro. Có nhiều hình thức đầu tư như đầu tư phát triển, đầu tư chuyển dịch; đầu tư ngắn hạn, đầu tư trung và dài hạn; đầu tư vào lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá…Chủ đầu tư có thể đầu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu hoặc bằng nguồn vốn đi vay. b. Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là loại đầu t− nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực hoạt động của xã hội. ĐTPT là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, cải thiện chất lượng sống của ng−ời dân trong xã hội. ĐTPT thường thể hiện dưới các hình thức bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm lắp đặt trang thiết bị, bồi d−ỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí th−ờng xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì năng lực hoạt động và tạo năng lực mới cho nền kinh tế. ĐTPT khác biệt với các loại hình đầu t− khác ở chỗ: - Đòi hỏi một số vốn lớn, khó thu hồi do mục tiêu chủ yếu là đầu t− vào tài sản cố định (TSCĐ). - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu t− từ khi bắt đầu đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng th−ờng kéo dài nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Do đó, hoạt động ĐTPT không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu
- tố không ổn định về tự nhiên (địa lý, địa chất, môi tr−ờng khí hậu...), về xã hội, chính trị, kinh tế... - Các thành quả của hoạt động ĐTPT có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm, gắn liền với địa danh xây dựng. - Để đảm bảo cho công cuộc đầu t− đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao phải làm tốt công tác chuẩn bị. Cũng chính vì những đặc điểm nêu trên nên hoạt động ĐTPT đòi hỏi phải đ−ợc tổ chức thực hiện một cách chu đáo, bài bản d−ới hình thức các dự án đầu t−, còn gọi là dự án ĐTPT hay dự án phát triển. c. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước Tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc là sự hỗ trợ của Nhà n−ớc thông qua các hình thức tín dụng cho các dự án phát triển thuộc lĩnh vực đ−ợc Nhà n−ớc khuyến khích. Về mặt hình thức, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng dựa trên các quan hệ vay mượn có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Nhưng về nội dung, tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc không phải là hoạt động kinh doanh về tiền tệ của Nhà nước mà là kênh hỗ trợ các nhà đầu tư huy động được vốn cho ĐTPT. Ngày nay, ngoài đầu tư trực tiếp, Chính phủ các n−ớc th−ờng sử dụng tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc nh− một công cụ khuyến khích đầu tư. Trên thực tế, tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời đã đáp ứng được mục đích của Nhà nước chuyển từ bao cấp vốn sang hỗ trợ dưới dạng cho vay có hoàn trả. Ưu điểm của hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước là các hoạt động đầu tư được sử dụng nguồn vốn Nhà nước để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Nhờ đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập trung được các nguồn vốn cần thiết cho ĐTPT mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Thông qua tín dụng ĐTPT, Nhà nước có thể mở rộng và chủ động trong việc giải quyết các mục tiêu dài hạn. Do tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở đó thước đo hiệu quả không phải là lợi nhuận cá biệt, mà là hiệu quả xã hội, chính trị, quân sự. Thông thường khi xem xét hiệu quả kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước người ta phải trả lời các câu hỏi sau:
- - Tính vĩ mô: tín dụng ĐTPT của Nhà nước ảnh hưởng như thế nào đến các lĩnh vực then chốt, đến ngành, vùng, hay khu vực… của nền kinh tế quốc gia? - Tính vi mô: tín dụng ĐTPT của Nhà nước giúp các chủ thể kinh tế, các nhóm dân cư cải thiện chất lượng hoạt động như thế nào? Tính vi mô còn thể hiện ở hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý và thực thi tín dụng ĐTPT của Nhà nước. - Tính xã hội: tín dụng ĐTPT của Nhà nước hỗ trợ như thế nào các lĩnh vực mà tín dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được (do hiệu quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô nguồn vốn quá lớn, hay thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) nhưng có vai trò quan trọng đối với xã hội và đất nước như giải quyết việc làm cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vùng,... - Tính chính trị: tín dụng ĐTPT của Nhà nước hỗ trợ thực thi các chương trình của Nhà nước như thế nào và đặc biệt là góp phần ra sao trong củng cố sức mạnh xã hội, củng cố lòng tin của dân chúng vào Đảng và Nhà nước... Ngoài ra, ở các n−ớc đang phát triển, khi thị tr−ờng vốn còn ch−a hoàn thiện, việc huy động đ−ợc đủ vốn dài hạn để tài trợ cho các dự án phát triển là điều không hề đơn giản. Do vậy, tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc còn phải hỗ trợ thị trường thông qua bảo lãnh cho các chủ thể vay vốn. Quy mô tín dụng ĐTPT của Nhà nước phụ thuộc vào sức mạnh tài chính nhà nước. Đối với các Nhà nước đang chịu gánh nặng thâm hụt ngân sách thì quy mô tín dụng ĐTPT của Nhà nước khá hạn hẹp. 1.1.2. Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc bao gồm các hình thức: cho vay đầu t−, bảo lãnh tín dụng đầu t− và hỗ trợ sau đầu t− [19]. a. Cho vay đầu t− Cho vay đầu tư là việc tổ chức được giao nhiệm vụ cung ứng tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc cho các chủ đầu t− vay vốn theo chính sách của Nhà nước để họ thực hiện các dự án đầu t− phát triển. Cho vay đầu tư với tư cách tín dụng ĐTPT của Nhà nước có các tính chất sau:
- - Việc cho vay đầu t− đ−ợc thực hiện theo trình tự các b−ớc gồm: tiếp nhận và thẩm định (bao gồm thẩm định năng lực chủ đầu t− và thẩm định dự án) -> Quyết định cho vay - > Giải ngân và giám sát tín dụng -> Thu hồi nợ/xử lý rủi ro. - Nguồn vốn để cho vay đầu t− bao gồm: + Nguồn vốn do NSNN cấp cho tổ chức thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc. + Nguồn vốn huy động: phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi, vốn vay các tổ chức... + Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật: nguồn góp vốn ban đầu của các tổ chức, nguồn tài trợ từ thiện. - Lãi suất cho vay đ−ợc xác định trên cơ sở mức rủi ro của dự án và mức độ −u tiên của Chính phủ đối với ngành nghề/lĩnh vực mà dự án đầu t−. Lãi suất cho vay th−ờng thấp hơn lãi suất thị tr−ờng. Lãi suất cho vay có thể đ−ợc cố định hoặc thả nổi tuỳ theo đặc điểm của dự án và khả năng quản lý rủi ro của tổ chức cho vay. - Phù hợp với đặc điểm của ĐTPT, thời hạn cho vay th−ờng dài và số vốn cho vay lớn. Việc trả nợ của dự án thực hiện trong nhiều kỳ và kéo dài trong nhiều năm. Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc th−ờng chiếm tỷ lệ cao trong tổng các nguồn vốn tham gia đầu t− nh−ng không đáp ứng 100% nhu cầu vốn đầu t−. Các chủ đầu t− phải huy động thêm vốn từ các nguồn khác để đầu t− dự án. - Điều kiện về đảm bảo tiền vay th−ờng đơn giản và “dễ chịu” hơn so với tín dụng th−ơng mại. Tuỳ thuộc nhu cầu vốn đầu t−, đồng tiền cho vay có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ (th−ờng để nhập máy móc, thiết bị... từ n−ớc ngoài). b. Bảo lãnh tín dụng đầu t− Bảo lãnh tín dụng đầu tư là việc tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc (tổ chức bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Trong tr−ờng hợp bên đi vay không trả đ−ợc nợ hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn, tổ chức bảo lãnh sẽ trả nợ thay cho bên đi vay. Bảo lãnh tín dụng đầu tư phải đáp ứng các yêu cầu:
- - Thời hạn bảo lãnh, số vốn bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh đ−ợc xác định t−ơng tự nh− đối với cho vay đầu t− trên cơ sở thoả thuận của các bên. Tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của dự án, bên đi vay (chủ đầu t−) có thể phải có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh. - Chủ đầu t− phải trả phí bảo lãnh cho tổ chức bảo lãnh. - Tr−ờng hợp tổ chức bảo lãnh phải trả nợ thay cho bên đi vay thì sau khi trả nợ thay, tổ chức bảo lãnh đ−ợc quyền tiếp nhận khoản tín dụng đó và bên đi vay phải nhận nợ với tổ chức bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh khi đó đ−ợc quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi vốn theo thoả thuận ban đầu đã ký và quy định của pháp luật. c. Hỗ trợ sau đầu tư Hỗ trợ sau đầu tư là việc tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu t− vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu t− dự án, sau khi dự án đã hoàn thành đ−a vào sử dụng và trả đ−ợc nợ vay. Đây là hình thức trợ cấp bằng tiền cho các doanh nghiệp, không có ràng buộc về trách nhiệm giữa doanh nghiệp và tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc. Nguồn vốn thực hiện cấp hỗ trợ sau đầu tư đ−ợc NSNN cấp. Tổ chức thực thi chịu trách nhiệm thẩm tra hồ sơ dự án đảm bảo đúng quy định, đã hoàn thành đ−a vào khai thác sử dụng và đã trả đ−ợc nợ vay cho các tổ chức đã cho vay. 1.1.3. Đặc điểm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Là một loại hình tín dụng trong hệ thống tín dụng của nền kinh tế quốc dân, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng mang những đặc điểm vốn có của tín dụng nói chung (quan hệ ba bên trong đó tổ chức tín dụng đóng vai trò trung gian giữa người có tiền tạm thời nhàn dỗi và người có nhu cầu sử dụng tiền; quan hệ tài chính dựa trên sự tín nhiệm; quan hệ nhượng quyền sử dụng tiền trong một thời gian nhất định; lãi suất là giá của quyền sử dụng tiền theo thời gian…). Tuy nhiên, do được tổ chức thực hiện bởi các cơ quan được Nhà nước uỷ quyền nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu của Nhà nước, đồng thời lại hướng đến đối tượng phục vụ là hoạt động ĐTPT, nên tín dụng ĐTPT nhà nước mang những đặc trưng riêng, phản ánh sự đan xen giữa đặc điểm của tín dụng và đặc điểm của sử dụng NSNN. Những đặc trưng này là: - Nhà nước can thiệp vào các quyết định tín dụng
- Nếu trong tín dụng thương mại, tổ chức tín dụng có toàn quyền quyết định huy độn g vốn ở đâu, cho ai vay, lãi suất như thế nào, thì trong tín dụng ĐTPT của Nhà nước, Nhà nước can thiệp sâu vào các quyết định tín dụng trên nhiều phương diện như cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh hoặc tổ chức phát hành trái phiếu chính phủ huy động vốn để cho vay đầu tư, quy định ai được vay, vay với lãi suất như thế nào…. Ngoài ra, tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường được thực hiện với sự tham gia của một cơ quan nhà nước đặc thù (tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện). Cơ quan nhà nước có thể đóng vai trò là người đi vay hoặc là người cho vay, nhưng trong mọi trường hợp, cơ quan nhà nước đều là người chủ động tổ chức quan hệ tín dụng. Cơ quan nhà nước thực hiện tín dụng ĐTPT theo chính sách của Nhà nước, nhằm hướng tới các mục tiêu mà Nhà nước theo đuổi. Nói cách khác, tổ chức thực thi tín dụng ĐTPT của Nhà nước có rất ít quyền tự chủ. - Tính hiệu quả kinh tế đan xen hiệu quả chính trị, xã hội Khác với mục đích của các loại hình tín dụng khác trong nền kinh tế thị trường là tìm kiếm lợi nhuận, mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hỗ trợ các dự án ĐTPT thuộc đối tượng mà Nhà nước muốn khuyến khích phát triển. Do đó hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước không vì mục đích lợi nhuận, không đặt mục đích lợi nhuận do khoản tín dụng đó đem lại lên hàng đầu, mà nhấn mạnh hiệu quả kinh tế - chính trị - xã hội. Chính vì yêu cầu về hiệu quả tổng hợp như vậy nên lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường thấp hơn lãi suất thị trường và được NSNN cấp bù đắp khoản thâm hụt (nếu có) do phải huy động vốn với lãi suất cao hơn. - Tính kế hoạch - chỉ định Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước mang tính kế hoạch - chỉ định rõ ràng. Kế hoạch tín dụng ĐTPT hàng năm là một bộ phận của kế hoạch ĐTPT của Nhà nước nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược về phát triển KT-XH trong từng thời kỳ và được Nhà nước thông báo hàng năm. Việc cho vay ĐTPT đối với các dự án được thực hiện theo kế hoạch hàng năm do Nhà nước giao. Việc huy động vốn được thực hiện căn cứ trên nhu cầu giải ngân cho các dự án đã đăng ký theo kế hoạch. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay ĐTPT cũng được Nhà nước quyết định và thông báo trong từng thời kỳ.
- Do thực hiện chính sách phát triển kinh tế theo mục tiêu của Chính phủ nên hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ về nguồn vốn thông qua việc cấp vốn trực tiếp hoặc hỗ trợ trong huy động vốn. Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng và khác biệt so với tín dụng của các NHTM. Sự hậu thuẫn này có tác dụng nâng cao vị thế của tổ chức thực thi tín dụng ĐTPT của Nhà nước và tạo điều kiện tiếp cận thuận lợi các nguồn vốn với lãi suất thấp. - Ưu đãi về khối lượng, thời hạn và lãi suất Tín dụng ĐTPT của Nhà nước hàm chứa sự ưu đãi của Nhà nước đối với các đối tượng thụ hưởng. Sự ưu đãi của Nhà nước có thể được thể hiện trên phương diện khối lượng, thời hạn và lãi suất cho vay. Cụ thể: + Về khối lượng: Các dự án ĐTPT thuộc đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT có thể được Nhà nước cho vay một số lượng vốn rất lớn theo ý chí của Nhà nước, không bị ràng buộc bởi các giới hạn về tỷ lệ an toàn như trong tín dụng của ngân hàng thương mại. + Về thời hạn: Các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường được hưởng thời hạn rất dài, có thể lên đến 10 - 15 năm hoặc dài hơn; thời kỳ ân hạn đối với các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT nhà nước cũng thường dài hơn so với tín dụng của ngân hàng thương mại. Đặc điểm này của tín dụng ĐTPT nhà nước xuất phát từ đặc trưng của các dự án ĐTPT là có thời gian thực hiện và thu hồi vốn kéo dài và cũng chính do đặc điểm này nên hoạt động cho vay ĐTPT của Nhà nước có mức độ rủi ro cao. - Về lãi suất vay vốn: Về cơ bản, lãi suất cho vay trong tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường thấp hơn so với tín dụng của ngân hàng thương mại. Đặc điểm này xuất phát từ mục đích phi lợi nhuận của tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Hơn nữa, do Nhà nước có thể huy động vốn của các chủ thể khác trong xã hội với lãi suất thấp nên có thể cho vay với lãi suất ưu đãi. - Tính giới hạn về đối tượng và hình thức thực hiện Đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT nhà nước thường bị giới hạn trong phạm vi hẹp và có thể thay đổi qua các thời kỳ khác nhau tuỳ theo điều kiện thực tế của nền kinh tế, khả năng của Nhà nước và mục tiêu phát triển KT-XH trong từng thời kỳ. Thông thường, đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT nhà nước chỉ là những ngành, những vùng, những thành phần kinh tế, hoặc thậm chí là loại hình doanh nghiệp… mà nhà nước khuyến khích phát
- triển. Như vậy hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ tập trung vào các dự án phát triển được Nhà nước khuyến khích, trong khi các hoạt động tín dụng của các tổ chức khác có thể đáp ứng mọi hoạt động của khách hàng, mọi dự án thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực. - Đối tượng Nhà nước huy động vốn ĐTPT cũng giới hạn trong phạm vi hẹp, chỉ có một số loại hình chủ thể nhất định được Nhà nước huy động vốn để thực hiện tín dụng ĐTPT. - Tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ tài trợ cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, có hiệu quả về KT-XH, phù hợp với quy hoạch và các mục tiêu ưu tiên trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước trong từng thời kỳ. - Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không cạnh tranh với hoạt động của các NHTM, đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, phù hợp với nguyên tắc thị trường và các thông lệ quốc tế. 1.1.4. Vai trò tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước a. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là phương thức sử dụng tài chính Nhà nước hiệu quả Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư của tư nhân không phải bao giờ cùng phủ lấp đầy các nhu cầu của các ngành và lĩnh vực nên Nhà nước phải bổ sung bằng đầu tư của mình. Tuy nhiên, nguồn vốn của Nhà nước có hạn nên không thể cấp không cho tất cả các dự án Nhà nước muốn đầu tư. Hơn nữa, nhiều dự án đầu tư có khả năng thu hồi nên cấp vốn dưới hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ hiệu quả hơn. Nói cách khác, sự ra đời của tín dụng ĐTPT của nhà nước đã thu hẹp phạm vi các dự án được cấp phát không hoàn trả từ NSNN. Thay vào đó, chủ đầu tư phải sử dụng các nguồn thu từ dự án để hoàn trả toàn bộ số vốn đã vay Nhà nước, và số vốn này lại được sử dụng để cho vay đối với những dự án khác. Như vậy, nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã góp phần tích cực giải quyết khó khăn của tài chính nhà nước thông qua việc hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chi ĐTPT của NSNN. Mặt khác, do phải hoàn trả số vốn vay (cả gốc và lãi) nên chủ đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn phương án đầu tư có khả năng sinh lời cao, đồng thời tìm cách giảm thiểu chi phí đầu tư bằng cách cắt giảm những khoản chi không cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là việc tài trợ cho các dự án thông qua tín dụng ĐTPT góp phần hạn chế
- tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng phí trong đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hơn nữa, do nhu cầu chi của NSNN để duy trì hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh và phát triển KT-XH không ngừng tăng trong khi nguồn thu NSNN lại bị hạn chế và tăng chậm, nên ở hầu hết các quốc gia đều xảy ra tình trạng thâm hụt NSNN, cho dù quốc gia đó là một nước giàu, có nền kinh tế phát triển hay là một nước nghèo, chậm phát triển. Đối với các nước đang phát triển, thâm hụt NSNN càng trầm trọng và phổ biến hơn bởi ngân sách của các nước này luôn ở trong tình trạng thu không đủ chi do nền kinh tế kém phát triển, trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế lại nhỏ bé, lạc hậu nên Nhà nước cần phải tài trợ một lượng vốn ĐTPT rất lớn. Để giải quyết nhu cầu về số vốn ĐTPT còn thiếu hụt, hầu hết các quốc gia đều lựa con đường đi vay như là một cứu cánh cho NSNN. Điều này đã giúp giải thích khía cạnh thứ hai trong sự cần thiết của tín dụng ĐTPT của Nhà nước - đó là Nhà nước phải đi vay để ĐTPT. b. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ thực hiện chức năng của Nhà nước trong việc khắc phục các khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Mặc dù kinh tế thị trường là bước phát triển cao của nền kinh tế sản xuất hàng hoá với rất nhiều điểm ưu việt nhưng bên cạnh đó nó cũng có khá nhiều khiếm khuyết mà bất cứ quốc gia nào trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường cũng đều phải đối mặt như ô nhiễm môi trường, tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội, phát triển không cân đối giữa các vùng miền… Để khắc phục những khiếm khuyết này, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ (thuế, chi NSNN, tín dụng ĐTPT nhà nước…) trong việc điều tiết, phân bổ các nguồn lực, đảm bảo cho các vùng, các ngành, hoặc thành phần kinh tế phát triển một cách đồng đều, trong đó tín dụng ĐTPT được sử dụng như là công cụ chủ yếu để tài trợ cho các dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Do đó, có thể coi tín dụng ĐTPT như “bàn tay hữu hình” mà Nhà nước sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô của mình đối với nền kinh tế. c. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội Có rất nhiều mục tiêu và quan hệ cân đối kinh tế vĩ mô mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải hướng tới như mục tiêu về sản lượng, việc làm, lạm phát, lãi suất..., cân đối tiết kiệm - tiêu dùng - đầu tư, cân đối xuất khẩu - nhập khẩu... Để đạt được những mục tiêu và
- quan hệ cân đối này, Nhà nước phải sử dụng kết hợp nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác nhau mà trong đó chủ yếu là chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Là một bộ phận cấu thành trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác động rất lớn trên các mặt: + Thông qua việc hỗ trợ đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất, tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. + Thông qua việc huy động vốn và cho vay đối với các dự án, tín dụng ĐTPT của Nhà nước tác động đến cung - cầu trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát và mặt bằng lãi suất của nền kinh tế. + Thông qua việc đầu tư cho các dự án phục vụ xuất khẩu, hoặc đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức ODA, tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần điều chỉnh quan hệ cân đối xuất khẩu - nhập khẩu, đồng thời tác động đến trạng thái cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. + Thông qua lãi suất huy động vốn, tín dụng ĐTPT nhà nước góp phần điều tiết tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng của dân cư. Đồng thời, thông qua việc quy định đối tượng và điều kiện được hưởng ưu đãi, tín dụng ĐTPT góp phần định hướng đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế vào các ngành, các vùng và lĩnh vực mà Nhà n ước khuyến khích phát triển. d. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. CNH, HĐH là một quá trình tất yếu mà các nước chậm phát triển phải trải qua để trở thành một nước công nghiệp phát triển. Nội dung trọng tâm của quá trình này là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế mà trong đó chủ yếu là xây dựng các công trình kết cấu KT-XH và phát triển các ngành công nghiệp quan trọng, đưa công nghiệp trở thành ngành giữ vai trò chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quan trọng để Nhà nước tài trợ cho các dự án ĐTPT nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH (giao thông, điện lực, thông tin, thuỷ lợi, cấp - thoát nước…) và phát triển các ngành công nghiệp then chốt (cơ khí, điện tử - viễn thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới…), do đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Mặt khác, việc tập trung nguồn vốn tín dụng ĐTPT của
- Nhà nước cho xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và phát triển các ngành công nghiệp then chốt, có khả năng đi tắt đón đầu cũng là nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. e. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao động, giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các dự án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế trực tiếp. Do đó, khi thực hiện ĐTPT sản xuất tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa hoặc các ngành nghề thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế…còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội. Ví dụ như thông qua cho vay chương trình mía đường của Chính phủ, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần giảm nhập khẩu đường mà còn tạo việc làm cho trên 470.000 nông dân ở các vùng nông thôn, miền núi; cho vay chương trình đánh cá xa bờ của Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế tạo ra hàng hoá xuất khẩu góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước, còn có ý nghĩa về chính trị, đó là bảo vệ an ninh bờ biển của nước ta, tạo ra công ăn việc làm cho trên 200.000 người dân tại các tỉnh ven biển… g. Tín dụng ĐTPT nhà nước góp phần nâng cao vị thế của quốc gia, tạo điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc cung cấp ODA cho các n ước kém phát triển dưới hình thức cho vay ưu đãi để xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH cũng là một nội dung trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Thông qua các khoản ODA này, nước cho vay có thể tăng cường ảnh hưởng của mình đối với nước đi vay, đồng thời nâng cao vị thế trong các tổ chức và diễn đàn quốc tế. Điều đó có nghĩa là tín dụng ĐTPT đã góp phần nâng cao vị thế của quốc gia trong cộng đồng thế giới.
- Mặt khác, các công trình cơ sở hạ tầng KT-XH được đầu tư bằng nguồn vốn ODA cho vay ưu đãi đã tạo điều kiện để nước cho vay mở rộng đầu tư trực tiếp và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ vào thị trường của nước được vay ODA ưu đãi, và như vậy, tín dụng ĐTPT đã tạo điều kiện để mở rộng và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của quốc gia. 1.2. nguyên tắc, quy trình và nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại ngân hàng phát triển 1.2.1. Vai trò của Ngân hàng phát triển trong triển khai thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có thể được thực hiện qua nhiều tổ chức khác nhau như ngân hàng thương mại quốc doanh, các quỹ của Nhà nước… ở nước ta, tín dụng ĐTPT được thực hiện qua NHPT. NHPT Việt Nam, với tư cách là trung tâm tiếp nhận, huy động, quản lý và thực hiện hoạt động đặc biệt này, có vai trò quan trọng thể hiện trên các mặt sau: - Thứ nhất, NHPT Việt Nam giúp Nhà nước quản lý tập trung và chuẩn hoá hoạt động tín dụng đầu tư nói riêng, tín dụng nhà nước nói chung. Bởi lẽ, do chuyên trách thực hiện tín dụng theo chỉ định của Nhà nước cho ĐTPT, NHPT Việt Nam giúp Nhà nước không chỉ chuyên môn hoá các quy trình hoạt động tín dụng của Nhà nước, giảm bớt các thủ tục, thao tác thừa, chuẩn hoá công việc, nhờ đó giảm chi phí, nâng cao chất lượng hoạt động này, mà còn giúp Nhà nước dễ dàng kiểm soát vốn và hiệu quả sử dụng vốn nhà nước. Bởi vì NHPT Việt Nam không cung cấp tín dụng thương mại nên sẽ dễ dàng trong việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn giao cho ngân hàng. Mặt khác, các quy trình, chế độ, định mức hoạt động ở NHPT Việt Nam có thể được chuẩn hoá dưới sự phê chuẩn của Nhà nước nên không gặp rủi ro do khó tách biệt các hoạt động như ở ngân hàng thương mại. Thứ hai, NHPT Việt Nam giúp Nhà nước thực thi các chính sách hỗ trợ các chủ đầu tư một cách chuyên nghiệp. Một số trong những hoạt động chính của NHPT Việt Nam được Nhà nước uỷ quyền là cung cấp các hình thức hỗ trợ sau đầu tư cho các tổ chức kinh tế thông qua hỗ trợ lãi suất và bảo lãnh tín dụng. Nếu giao các nhiệm vụ này cho các ngân hàng thương mại quốc doanh thì dễ dẫn đến sự lẫn lộn giữa kết quả kinh doanh và kết quả thực thi nhiệm vụ Nhà nước giao. Nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh có thể kêu ca về sự can thiệp của Nhà nước hoặc biện hộ cho kết quả thua lỗ trong kinh doanh. Tách các hoạt động hỗ trợ ra
- khỏi hoạt động kinh doanh ngân hàng của Nhà nước và giao nó cho một tổ chức chuyên môn hoá là NHPT Việt Nam sẽ có lợi trên các mặt: - Nhà nước có thể hạch toán riêng hoạt động hỗ trợ để dễ dàng đánh giá hiệu quả của nó, từ đó có phương hướng, quyết định chính xác. - Nhờ chuyên môn hoá, NHPT Việt Nam có thể hoàn thiện quy trình hỗ trợ theo hướng giảm chi phí, nâng cao chất lượng, gắn bó với mục tiêu của Nhà nước hơn. - Nhà nước dễ kiểm soát nguồn lực dùng để hỗ trợ, để cấp tín dụng, từ đó có thể so sánh lựa chọn hình thức tác động hiệu quả hơn. Thứ ba, NHPT Việt Nam giúp Nhà nước quản lý và huy động tốt hơn nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH. Nhà nước thường có các nguồn huy động vốn lãi suất thấp hoặc được tài trợ cho không. Nếu giao cho các ngân hàng th ương mại quốc doanh đảm nhiệm thì dễ rất đến sự phản đối từ phương diện bao cấp và phân biệt đối xử. Trong khi đó Nhà nước rất cần cung cấp nguồn vốn đó cho ĐTPT đất nước. Bằng cách giao cho NHPT Việt Nam quản lý và sử dụng cho vay theo chính sách không nhằm mục đích thương mại, Nhà nước vừa có thể sử dụng nguồn vốn một cách chuyên nghiệp, vừa có thể thực thi chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của mình, vừa đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Thứ tư, NHPT Việt Nam giúp Nhà nước thực hiện các nghiệp vụ viện trợ nước ngoài một cách thống nhất và chuyên nghiệp. Ngày nay viện trợ cho nước ngoài không đơn thuần vì mục tiêu chính trị, văn hoá, nhân đạo, mà còn vì mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư ở nước ngoài cho các nhà đầu tư dân tộc. Trước đây, hoạt động viện trợ được thực hiện và quản lý theo các quỹ phân tán nên khó kiểm soát và chi phí quản lý cao. Nếu được tập trung vào NHPT Việt Nam thì quy trình thực thi viện trợ sẽ được tiêu chuẩn hoá và giảm chi phí. 1.2.2. Nguyên tắc thực thi tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Ngân hàng Phát triển a. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại NHPT Việt Nam phải hướng tới hiệu quả kinh tế - xã hội Đặc trưng của hoạt động kinh tế của Nhà nước là theo đuổi các mục tiêu KT-XH. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT Việt Nam phải là công cụ để thực hiện các mục tiêu KT-XH đó.
- Mục tiêu trước hết mà tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT Việt Nam phải theo đuổi là thúc đẩy phát triển KT-XH trên hai giác độ: mở rộng vốn đầu tư xã hội và tăng hiệu quả chung cho nền kinh tế. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT Việt Nam thực hiện mở rộng vốn đầu tư xã hội theo hai cách: bổ sung thêm vốn nhà nước để thực hiện dự án; bảo lãnh để chủ dự án vay được vốn của ngân hàng thương mại. Nh−ng tăng tr−ởng và phát triển KT-XH không chỉ phụ thuộc vào quy mô vốn dành cho ĐTPT nhiều hay ít mà quan trọng hơn phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng l−ợng vốn đầu t− này. Nếu dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc có chất l−ợng kém, sản phẩm làm ra không tiêu thụ đ−ợc, hoạt động thua lỗ... sẽ dẫn đến không có khả năng hoàn trả vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc, tức là hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc không có hiệu quả và ng−ợc lại. Vì vậy hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được xem là có hiệu quả chỉ khi nó cho vay các dự án hiệu quả. Hơn nữa, hiệu quả mà tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT Việt Nam hướng đến hiệu quả KT-XH không chỉ được xem xét ở hiệu quả cá biệt từng dự án mà phải được xem xét trên bình diện nền kinh tế quốc dân. Đối với nền kinh tế quốc dân, hiệu quả của tín dụng ĐTPT là khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển KT-XH của đất nước. Đối với NHPT Việt Nam, hiệu quả của tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ có thể thực hiện được thông qua hoạt động hiệu quả của bản thân ngân hàng, tức NHPT Việt Nam thu được nợ gốc và lãi đúng hạn. Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHPT Việt Nam là việc NHPT Việt Nam cùng các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức năng chủ động tìm ra giải pháp để bên cho vay hạn chế tới mức thấp nhất nợ quá hạn phát sinh, hạn chế rủi ro và bảo toàn được nguồn vốn, đồng thời hỗ trợ bên đi vay vốn sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay có hiệu quả, có lợi nhuận càng cao càng tốt và hoạt động của các dự án đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất nước. Nh− vậy, áp dụng nguyên tắc hiệu quả trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc tại NHPT Việt Nam là hoạt động tín dụng phải hướng tới một tập hợp các lợi ích mang lại cho nền kinh tế và các chủ thể tham gia, bao hàm cả khía cạnh kinh tế và xã hội xét trên ph−ơng diện vĩ mô và vi mô; cả hiệu quả đối với nền kinh tế, đối với tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc và đối với các doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc.
- b. Huy động và sử dụng vốn theo quy định của Nhà nước Vốn cho vay theo chính sách của nhà nước thường có lãi suất ưu đãi nên nguồn vốn huy động cũng phải có lãi suất thấp hoặc phải được Nhà nước bù đắp chênh lệch lãi suất. Vì NSNN không dư dả nên Chính phủ phải kiểm soát chặt tổng khối lượng vốn có thể đem cho vay cũng như tổng lượng bù chênh lệch lãi suất. Do đó, ngoài vốn Nhà nước cấp, vốn viện trợ, ủy thác, khối lượng vốn huy động, hình thức huy động của NHPT Việt Nam phải được Nhà nước phê chuẩn. NHPT Việt Nam chỉ được cho vay các đối tượng được Nhà nước quy định. Cụ thể, theo Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước thì hiện tại NHPT Việt Nam chỉ được cho vay ĐTPT đối với các dự án thuộc ngành nghề, lĩnh vực sau [19]: - Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực giao thông, cấp nước, xử lý chất thải, nhà ở khu công nghiệp, xây dựng bệnh viện, trường học, cơ sở làng nghề; - Các dự án chăn nuôi, chế biến sản phẩm chăn nuôi, giống, cơ sở phát triển thuỷ, hải sản; - Các dự án chế biến sâu từ quặng (phôi thép, nhôm, một số kim loại khác), sản xuất động cơ, thuốc, phương tiện vận tải, thuốc, phân bón, thuỷ điện… - Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn... - Các dự án cho vay theo hiệp định của Chính phủ và dự án đầu tư của Chính phủ ở nước ngoài. c. Hoạt động tín dụng ĐTPT tại NHPT Việt Nam phải đảm bảo hiệu quả, đúng mục đích, tiết kiệm Như mọi tổ chức kinh tế khác, NHPT Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn có chất lượng cao và chi phí thấp. Chính vì thế, trong tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPT Việt Nam, ngoài việc phải đảm bảo thực hiện thủ tục đầu tư theo pháp luật, còn phải được tổ chức theo hướng cải cách thủ tục, tinh gọn biên chế, nâng cao chất lượng kiểm soát việc sử dụng vốn cho vay, thu hồi đủ vốn và chi phí thực hiện tín dụng thấp... sao cho nguồn vốn tín dụng của Nhà nước được sử dụng hiệu quả nhất. Muốn vậy, bản thân NHPT Việt Nam phải có cơ cấu hợp lý vừa mang tính chuyên
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước
112 p | 459 | 167
-
Luận văn: Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
111 p | 300 | 83
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đổi mới hoạt động giảng dạy tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông tại Bình Dương
116 p | 153 | 48
-
Luận văn: Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
94 p | 148 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 70 | 23
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
99 p | 106 | 21
-
LUẬN VĂN: Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chớnh sách xã hội tỉnh Quảng Nam
80 p | 92 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
120 p | 62 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động của phóng viên nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
12 p | 109 | 14
-
LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam
94 p | 67 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp
127 p | 18 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản lý đổi mới hoạt động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường trung học phổ thông tỉnh Kon Tum
26 p | 87 | 8
-
Luận văn: Đổi mới tổ chức và hoạt động Công ty TNHH NN MTV Cơ Khí Trần Hưng Đạo
76 p | 95 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Đổi mới hoạt động tuyển dụng giáo viên tiểu học ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên
112 p | 42 | 6
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Đổi mới hoạt động thông tin - thư viện tại thư viện tỉnh Nghệ An
12 p | 105 | 4
-
Đề án tốt nghiệp Quản lý công: Đổi mới hoạt động của Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk
73 p | 2 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Báo Đắk Lắk
65 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Đổi mới tổ chức và hoạt động Bệnh viện tâm thần tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2024-2030
76 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn