intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở tỉnh Thái Bình

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

149
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở tỉnh thái bình', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở tỉnh Thái Bình

  1. Luận văn Phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở tỉnh Thái Bình
  2. -2- phần mở đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đậi hoá đất nước. Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước là công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với phát triển nông nghiệp và các làng nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền thống kinh tế, văn hoá của xã hội của nông thôn Việt Nam. Sự phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với ngành nghề truyền thống, với trung tâm cụm, xã có các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiêp. Theo đường lối chiến lược đó các làng nghề là một thực thể kinh tế ở nông thôn, là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại, là một bộ phận, là một nấc thang phát triển quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn. Việc đẩy mạnh các phát triển các làng nghề nói riêng và ngành nghề nông thôn nói chung có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và tiến tới xoá bỏ đói nghèo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ... Tuy nhiên sự phát triển của các làng nghề, ngành nghề nông thôn đã trải qua những bước thăng trầm, có nhiều làng nghề đã tồn tại và phát triển khá mạnh, đồng thời còn lan toả sang các khu vực lân cận, tạo nên các cụm làng nghề, dần dần xuất hiện sự phân công chuyên môn hoá. Ngược lại có những làng nghề phát triển cầm chừng, không ổn định, gặp nhiều khó khăn, thậm chí đã và đang bị mai một. Chính vì thế việc thúc đẩy và khôi phục phát triển kinh tế làng nghề trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Đ ây là việc làm phù hợp với đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đ ảng và Nhà nước ta. Thái Bình là m ột tỉnh nông nghiệp, diện tích chật hẹp, dân số đông, tỷ lệ lao đ ộng nông thôn lớn. Để tiến h ành công nghi ệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, một trong số những trọng tâm cần tập trung đầu t ư đ ể tạo r a b ư ớc đột phá về tăng trư ởng kinh tế là phát triển mạnh mẽ nghề v à làng n gh ề. Đây cũng l à một thế mạnh của tỉnh cần phải d uy trì và phát tri ển, đúng
  3. -3- theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái B ình l ần thứ XVI đ ã đ ề ra. Thời gian vừa qua đã có một số đề tài nghiên cứu về kinh tế làng nghề ở các phạm vi khác nhau, từng vùng hay từng tỉnh và nghiên cứu trên những khía cạnh, giác độ khác nhau. Song việc vận dụng các vấn đề lý luận về xây dựng chiến lược kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, việc áp dụng các mô hình phân tích chiến lược vào việc định hướng và phát triển kinh tế làng nghề thì chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống. Mặt khác trong bối cảnh hiện nay chúng ta đang tăng tốc để thu hẹp khoảng cách về phát triển kinh tế so với các nước, chủ động hội nhập khu vực và toàn cầu. Việc nghiên cứu các giải pháp để phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng cần được tiếp tục. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã chọn đề tài nghiên cứu : “Phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở tỉnh Thái Bình”. 2- Mục đích nghiên cứu của đề tài. - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về làng nghề, một số vấn đề về xây dựng chiến lược kinh doanh. - áp dụng một số mô hình phân tích chiến lược vào việc định hướng phát triển và tìm giải pháp cho khu vực kinh tế làng nghề. - Tổng quan kinh nghiệm về xây dựng chiến lược của một số đơn vị, tổ chức nhằm rút ra những kết luận đối với việc phát triển làng nghề ở tỉnh Thái Bình. - Qua việc khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng làng nghề ở tỉnh Thái Bình và các nhân tố tác động đến nó để qua đó thấy được những vấn đề cần giải quyết. - Nghiên cứu, đề xuất một số quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển và khôi phục kinh tế làng nghề ở Thái Bình trong thời gian tới. 3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế làng nghề của tỉnh Thái Bình. Làng nghề ở đây bao gồm cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới. - Phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu phương hướng và các biện pháp chiến lược từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể về kinh tế, tổ chức, cơ chế chính sách nhằm phát triển làng nghề của tỉnh Thái Bình. Phạm vi số liệu khảo sát điều tra chủ yếu là trên địa bàn tỉnh Thái Bình, thời
  4. -4- gian từ 1995 đến nay. 4- Phương pháp nghiên cứu. Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp, tư duy lôgic... Việc điều tra khảo sát thực tế được tiến hành bằng phương pháp chuyên gia (Delfi),kết hợp với việc kế thừa các kết quả nghiên cứu khảo sát của các cơ quan, ban ngành, các cấp quản lý trực tiếp… 5- Những đóng góp của luận án. - Đưa ra quan điểm về kinh tế làng nghề và vai trò của nó đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. - Phân tích đánh giá thực trạng làng nghề ở tỉnh Thái Bình bằng việc áp dụng một số mô hình lý thuyết phân tích và hoạch định chiến lược vào công tác quản lý và định hướng, đồng thời đánh giá công tác kế hoạch hoá, định hướng chiến lược đã hình thành trong quá trình quản lý khu vực kinh tế làng nghề ở Thái Bình. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển, khôi phục làng nghề góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thái Bình. 6- Kết cấu của luận án. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận án gồm 4 chương chính : Chương I : Một số vấn đề chung về làng nghề ở Việt Nam. Chương này khái quát một số quan niệm về kinh tế làng nghề nói chung, đặc điểm, vai trò của khu vực kinh tế này đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Chương II : Cơ sở lý luận về việc xây dựng chiến lược kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Chương này giới thiệu một số nội dung lý thuết về xây dựng và hoạch định chiến lược kinh doanh có thể áp dụng đối với khu vực kinh tế làng nghề. Chương III : Phân tích thực trạng khu vực kinh tế làng nghề tỉnh Thái Bình. Đây là phần đánh giá những đặc điểm, điều kiện kinh tế nói chung, kinh tế làng nghề nói riêng ở tỉnh Thái Bình, phân tích nguyên nhân, đưa ra những thuận lợi và khó khăn trong một vài năm gần đây. Chương này cũng đánh giá thực trạng công tác quản lý, xây dựng kế hoạch, định hướng chiến lược đối với khu vực kinh
  5. -5- tế này ở Thái Bình. Chương IV : Phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển khu vực kinh tế làng nghề Thái Bình. Nội dung chương này là vận dụng lý thuyết về phân tích chiến lược vào khu vực kinh tế làng nghề tỉnh Thái Bình từ đó xác định đ ược các cơ hội, nguy cơ và những điểm mạnh, điểm yếu hiện tại và trong tương lai để xây dựng các kết hợp chiến lược, nhằm đưa ra các giải pháp đối với khu vực kinh tế này. Chương I : Một số vấn đề chung về làng nghề ở Việt nam 1- Quan niệm về làng nghề. Lịch sử kinh tế nước ta từ xưa đến nay cơ bản là kinh tế nông nghiệp với nghề trồng lúa, trồng màu (ngô, khoai, sắn...), trồng rau quả và chăn nuôi. Sự hình thành và phát triển kinh tế nông nghiệp gắn liền với xã hội nông thôn và làng quê ở Việt Nam. Làng ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, qua nghiên cứu của các nhà sử học thì nó
  6. -6- đã xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước. Do đặc điểm kinh tế - x ã hội lúc đó nên sự hình thành làng ở nước ta không phải là do sự phân hoá của các thị tộc, bộ lạc như ở Đức, nó cũng không phải là sự tập hợp của dân cư dưới sự bảo hộ của những thủ lĩnh quân sự như ở Pháp thời trung cổ mà dựa trên cơ sở những công xã nông thôn[9]. Mỗi công xã nông thôn gồm một số gia đình, có một tinh thần cộng đồng, cộng cảm, sống quây quần trong một khu vực nhất định. Các làng ở nước ta có thể bao gồm 4 nhóm chính bao gồm : Thứ nhất là làng thuần nông nghiệp, thứ 2 làng nông có thêm nghề buôn với một lớp thương nhân chuyên hoặc bán chuyên nghiệp - đây là làng buôn, thứ 3 là làng nông có thêm một hay nhiều nghề thủ công truyền thống - đây là làng nghề, thứ 4 là làng chài, hay vạn chài, kẻ chài... ở nông thôn nước ta trong các hộ tiểu nông ngoài việc xản xuất nông nghiệp là chính, trong những lúc nông nhàn người nông dân còn tham gia những công việc mang tính phụ trợ như đan lát, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và đi chợ... đây có thể coi là sự kết hợp hữu cơ giữa nông nghiệp - thủ công nghiệp - thương nghiệp và nó nằm trong cơ cấu mà Các Mác gọi là “Phương thức xản xuất Châu á”. Một điều đáng lưu ý là những người thợ thủ công, những thương nhân vẫn là những nông dân. Một đặc điểm của nghề thủ công rất đúng với nhận xét mà Lênin đã nêu ra : “Công nghiệp gia đ ình là cái phụ thuộc tất nhiên của kinh tế tự nhiên mà nh ững tàn dư hầu như luôn luôn vẫn rớt lại ở những nơi nào có tiểu nông” và “Đứng về mặt là một nghề nghiệp thì công nghiệp vẫn chưa tồn tại dưới các hình thức đó : ở đây nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi”[8]. Do sự phát triển của kinh tế, nghề thủ công dần dần tách khỏi nông nghiệp nhưng lại phục vụ cho nông nghiệp và khi đó một số thợ thủ công không còn làm nông nghiệp (nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê). Càng về sau trong làng càng có nhiều người tách khỏi ruộng đồng để chuyển hẳn sang làm nghề thủ công, sống bằng chính nghề đó (như làng gốm Bát Tràng, làng dệt lụa Vạn Phúc). Số lượng người làm nghề thủ công tăng dần lên và làng đó được gọi là làng nghề. Như vậy làng nghề có thể được quan niệm là làng ở nông thôn có một hay một số nghề thủ công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập. ở nông thôn những ngành nghề thủ công được truyền từ đời này sang đời khác, được gọi là nghề thủ công truyền thống. Các nghề này tồn tại và phát triển trong các làng nghề, gắn chặt với làng nghề được gọi là làng nghề truyền thống. Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần, tồn tại cố định của một hoặc một số nghề thủ công truyền thống. Mỗi nghề truyền thống được bảo tồn, hoạt động, phát triển ở một làng nghề, cụm làng nghề hay ở nhiều làng nghề, vùng nghề trong cả nước do tính lan toả và sức sống mãnh liệt của nghề thủ công lâu
  7. -7- đời của chúng ta. Trong làng nghề không nhất thiết tất cả dân làng đều làm nghề thủ công, qua khảo sát thực tế của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội năm 1995 về các làng nghề cho thấy các làng nghề này thường có tỷ lệ lao động hay hộ làm nghề thấp nhất là từ 30 đến 35% so với toàn làng. Khi nói đến một làng nghề ta không chỉ chú ý đến các mặt đơn lẻ, mà phải chú ý đến nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là phải quan tâm tới tính hệ thống, to àn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật... Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn có những ước chế xã hội và gia tộc. Sự liên kết hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo... giữa các gia đình, các tổ nghề đã tạo nên làng nghề ngay trên đơn vị cư trú của họ. Sản phẩm của làng nghề làm ra chẳng những thiết dụng mà hơn nữa còn là hàng cao cấp, tinh xảo, độc đáo mang tính nghệ thuật. Do tính chất kinh tế, hàng hoá, thị trường của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề thực sự được coi là đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp. Vai trò, tác dụng của làng nghề đối với đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội là rất tích cực, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Làng nghề thường xuất hiện theo những con đường chủ yếu sau : - Có nghệ nhân từ nơi khác đến truyền nghề, nghệ nhân này được suy tôn là tổ nghề. - Từ một số cá nhân hay gia đình dòng họ có những kỹ năng và có sự sáng tạo nhất định. - Do những người đi nơi khác học sau đó dạy lại, truyền lại. - Một số làng nghề gần đây mới hình thành do chủ trương của địa phương phát triển nghề phụ. - Một số làng nghề hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số làng nghề truyền thống, tạo ra một cụm làng nghề, xã nghề ở vùng lân cận. 2- Đặc điểm của làng nghề. - Sự ra đời và phát triển của các làng nghề gắn liền với xã hội nông thôn, các nghề thủ công dần tách khỏi nông nghiệp nhưng không rời khỏi nông thôn. Các nghề trong các làng nghề đều có sự ra đời từ ít nhất mấy chục năm (vài ba thế hệ). ở đó có các nghệ nhân kỹ thuật cao được mang tính gia truyền.
  8. -8- - Về hình thức tổ chức sản xuất lao động : Nói chung ở các làng nghề hình thức tổ chức kinh tế hộ gia đ ình vẫn là chủ yếu, một số đ ã có sự phát triển thành hợp tác xã và bắt đầu có sự xuất hiện xí nghiệp tư nhân. Trong hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình, người chủ gia đình thường là thợ cả, trong đó không ít người là những nghệ nhân, còn các thành viên khác được huy động vào làm những công việc khác nhau trong quá trình sản xuất - kinh doanh phụ thuộc vào kỹ thuật và khả năng của từng người, vào giới tính hay lứa tuổi. Các hộ kinh tế gia đình cũng như các cơ sở sản xuất có thể thuê mướn lao động theo kiểu thường xuyên hay thời vụ. Hình thức này b ảo đảm gắn bó quyền lợi và trách nhiệm, tận dụng được lao động và thời gian, nhu cầu đầu tư không lớn. Nó thích hợp với quy mô nhỏ. Lực lượng lao động nông thôn ở nước ta hiện nay rất lớn. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hiện nay có khoảng 10 triệu lao động ho ạt động ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong đó 89,8% hoạt động trong các hình thức hộ kinh tế gia đình và 10,2% là thuộc các cơ sở. C ác hộ v à các cơ c ở trong các l àng nghề có quy mô lao động nhỏ : ở các h ộ b ình quân có 3 -4 lao đ ộng th ư ờng xuy ên, 2 -3 lao đ ộng thời vụ. ở các c ơ s ở có 27 lao động thư ờng xuyên và 8 -10 lao đ ộng thời vụ. Ngư ời lao động ở t rong các làng nghề có văn hoá khá, nhưng ít đư ợc đ ào tạo về chuy ên môn một cách c ơ b ản. Qua phân tích và điều tra khảo sát cho thấy quy mô lao đ ộng có ảnh hưởng khá lớn đến thu nhập v à doanh thu c ủa các c ơ s ở v à các h ộ kinh tế gia đ ình tại các làng ngh ề, th ư ờng l à cơ s ở và hộ có quy mô lớn t h ì thu nh ập cao hơn. - Về nhà xưởng và thiết bị công nghệ : Tình trạng phổ biến hiện nay trong các làng nghề là sử dụng ngay nhà ở, diện tích ở, làm nơi sản xuất. Khi quy mô sản xuất tăng lên hoặc việc sử dụng thiết bị hoá chất làm cho môi trường sống bị ảnh hưởng. Hầu hết các làng nghề về kỹ thuật, công nghệ sản xuất sản phẩm thường là rất thô sơ, chủ yếu là sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc có cải tiến một phần. Hiện nay đã có một số cơ sở đã có khả năng cơ giới hoá đ ược một số công đoạn trong quá trình sản xuất. ở các hộ kinh tế gia đình là biểu hiện rõ nét : Công nghệ lạc hậu, trình độ cơ khí hoá còn thấp (khoảng 37-40%), thiết bị phần lớn là cũ, thải loại từ công nghiệp thành thị. - Về vốn và quan hệ tín dụng : Trong các làng nghề do kinh tế nông nghiệp nước ta phần lớn mang tính tự cấp tự túc nên nhìn chung vốn đầu tư vào sản xuất của các hộ và các cơ sở còn nhỏ bé, làm hạn chế khả năng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng sản xuất.
  9. -9- Bên cạnh đó cũng xuất phát từ trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp kém nên các quan hệ tín dụng còn phát triển chậm nhìn chung các cơ sở có quan hệ tín dụng mở rộng hơn các hộ gia đình. Các nguồn vốn vay tại các làng nghề hiện nay bao gồm từ ngân hàng, từ các chương trình hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức, vay tư nhân, nhưng tỉ lệ số cơ sở và hộ được vay còn rất thấp. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tháng 8 năm 2000 vốn sản xuất bình quân trong một cơ sở tại làng nghề là 700,31 triệu trong đó vốn cố định là 61,8%. Vốn sản xuất b ình quân trong một hộ ở làng nghề là 25,73 triệu trong đó vốn cố định chiếm 57,2%. Quy mô vốn cũng rất khác nhau, chủ yếu là quy mô vốn nhỏ bé, bình quân vốn đầu tư cho một lao động thường xuyên của hộ là 7,75 triệu trong khi đó ở hộ thuần nông là 3,17 triệu. Cũng theo báo cáo trên nguồn vốn đi vay chỉ có 32,45% số cơ sở và 15,6% số hộ được vay từ ngân hàng; 4,76% số cơ sở và 1,83% số hộ được vay từ các chương trình hỗ trợ; 12,15% số cơ sở và 5,43% số hộ đi vay tư nhân. - Về sản phẩm, nguyên liệu và thị trường: Sản phẩm của khu vực kinh tế làng nghề thường là các loại sản phẩm tiêu biểu, độc đáo, vừa là hàng hoá vừa mang tính văn hoá nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản mang bản sắc của vùng, của dân tộc... Sản phẩm tại các làng nghề chủ yếu không phải là sản xuất hàng lo ạt mà là sản xuất mang tính đơn chiếc; nhỏ lẻ, sản phẩm mang tính khác biệt khá cao. Tuy nhiên sản phẩm ở một số làng nghề còn mang tính đơn điệu chất lượng chưa cao, chưa theo kịp được sự phát triển của đời sống xã hội trong nước và thị hiếu của người nước ngoài. Nguyên liệu d ùng cho sản xuất ở khu vực kinh tế làng nghề chủ yếu là khai thác tại địa phương và trong nước, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, các nguồn nông lâm hải sản ở địa phương. Việc cung ứng nguyên liệu cho sản xuất ở đây được thông qua nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu là nguồn cung ứng gián tiếp, thậm chí có nơi từ nguồn bất hợp pháp, làm cho chi phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm cao. Việc sơ chế nguyên liệu thông thường do các hộ, các cơ sở tự làm với kỹ thuật thủ công hoặc máy móc thiết bị tự chế, lạc hậu. Do đó không thực hiện được việc tiêu chuẩn hoá chất lượng nguyên liệu, không chủ động được chất lượng sản phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của khu vực làng nghề là ở cả trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là ở các làng nghề thủ công
  10. - 10 - mỹ nghệ. Một số làng nghề, vùng nghề đã khai thác được thị trường du lịch tại chỗ. Như vậy làng nghề không chỉ là một trong những đơn vị kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng trong nước thay thế hàng nhập khẩu, đồng thời hướng mạnh ra xuất khẩu, nó còn là nét đặc sắc, là sự kết tinh và bảo lưu các giá trị văn hoá, văn minh của cộng đồng làng xã, của dân tộc Việt Nam. 3- Vai trò của khu vực kinh tế làng nghề đối với qúa trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là con đường tất yếu khách quan trong chiến lược phát triển kinh tế - x ã hội. ở nước ta công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là một nội dung rất quan trọng, là vấn đề luôn được Đảng và N hà nước quan tâm. Thông qua các văn kiện của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội Đảng VIII ta có thể hiểu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thực chất là quá trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà nội dung cụ thể là : - Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có năng suất cao trên cơ sở trang bị thiết bị, công nghệ và vật tư tiên tiến để thay thế nền nông nghiệp thủ công lạc hậu. - Phát triển các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp với tỷ trọng ngày càng lớn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công - nông nghiệp - dịch vụ. - Tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn để thực hiện yêu cầu từng bước đô thị hoá nông thôn. Như vậy khu vực kinh tế làng nghề có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ ở các làng nghề đ ã giải quyết thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn, thực hiện có hiệu quả công cuộc xoá đói giảm nghèo, tạo ra tích luỹ nội bộ cho phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn, tăng cường và nâng cao sức cạnh tranh, giảm sức ép bất lợi về đô thị hoá “ly nông bất ly hương”, tăng cường phúc lợi xã hội cho người dân ở thôn, xã có nghề. Làng nghề chính là hạt nhân của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Cụ thể là : Thứ nhất, phát triển làng nghề góp phần giải quyết việc làm, phân công lao động, thu hút lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn : Nông thôn Việt Nam chiếm 80% dân số và 73% lực lượng lao động của cả nước. Tuy nhiên một trong những thách thức, khó khăn hiên nay ở nông thôn là
  11. - 11 - bình quân diện tích canh tác trên đ ầu người thấp, việc làm thiếu, lao động dư thừa. Theo số liệu điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tỉ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn chiếm 25,47% có nơi 30% trong khi hàng năm có tới khoảng một triệu người bổ sung vào lực lượng lao động xã hội. Việc phát triển kinh tế làng nghề sẽ tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp mạnh mẽ hơn, phân công lao động hợp lý hơn. Lao động tham gia vào làng nghề không chỉ là những lao động hoàn toàn không có việc làm mà còn cả những lao động thời vụ, không thường xuyên. Bình quân một cơ sở trong làng nghề tạo điều kiện cho 27 lao động, mỗi hộ giải quyêt 3-5 lao động. Ngoài lao động thường xuyên còn thu hút lao động nhàn rỗi trong nông thôn. Nhiều làng nghề thu hút trên 60% số lao động vào các hoạt động ngành nghề. Hiện nay cả nước có hơn 1000 làng nghề thu hút 10-11 triệu lao động nông thôn. Các ngành nghề, làng nghề phát triển kéo theo và mở ra nhiều nghề khác nhau, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan, tạo thêm việc làm mới, thu hút thêm lao động. Do đó ngành nghề, làng nghề ở nông thôn đ ược coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Thứ hai, phát triển làng nghề tạo điều kiện tăng thu nhập cho người lao động đóng góp cho sự phát triển của địa phương, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hẹp khoảng cách đời sống giữa nông thôn và thành thị, góp phần xây dựng nông thôn mới. Hiện nay năng xuất lao động trong nông nghiệp thấp, thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp không cao. Phát triển kinh tế làng nghề sẽ tạo điều kiện làm tăng thu nhập của cư dân ở nông thôn bằng hai cách : thu nhập do chính ngành nghề đó mang lại và thu nhập do việc phát triển các nghề dịch vụ khác liên quan đến nó như : d ịch vụ cung ứng nguyên liệu, sản xuất và sửa chữa công cụ, dịch vụ cơ khí, dịch vụ lao động, dịch vụ... thu nhập bình quân của một lao động làm nghề ở cơ sở là 430.000đ/tháng, ở hộ làm nghề là 236.000đ/tháng cao gấp 1,7 -3,9 lần so với lao động làm nông nghiệp thuần. Thu nhập từ các hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp ngày càng đóng vai trò chủ yếu trong thu nhập của các hộ ở các làng nghề. ở các làng nghề hiện nay tỉ lệ những hộ đói nghèo là rất nhỏ. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã sản suất ra một khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu trong nước và cả xuất khẩu. Năm 1996 giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn khoảng 27.500 tỷ đồng. Tại các làng nghề giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp chiếm 60% - 80%, có những điển hình gần như 100% số hộ trong xã đều làm nghề. Các làng nghề tạo ra thu nhập lớn trong dân cư và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. Tỷ trọng GDP trong tiểu thủ công nghiệp dịch vụ tăng lên trong tổng GDP
  12. - 12 - được tạo ra ở nông thôn. Theo tài liệu điều tra năm 1997, GDP của tiểu thủ công nghiệp và d ịch vụ tăng từ 26,8% năm 1990 lên 35,5% năm 1996. Trên cơ sở tạo ra việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, giá trị sản lượng từ hoạt động phi nông nghiệp tăng lên, nông thôn có tích luỹ và có điều kiện để nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng. Ngành nghề ở nông thôn đóng vai trò là động lực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, tăng phúc lợi xã hội cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới. Trong tương lai nhiều làng nghề, ngành nghề còn là vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, hiện đại ở nông thôn. Thứ ba, phát triển kinh tế làng nghề tạo điều kiện thu hút vốn và tay nghề cao từ nhân dân tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Đầu tư cho một chỗ làm việc của doanh nghiệp tư doanh khoảng 5-10 triệu đồng. Quy mô đầu tư bình quân cho mỗi doanh nghiệp từ 100-500 triệu đồng có xí nghiệp từ vài tỷ đến chục tỷ đồng. Đối với kinh tế làng nghề suất đầu tư cho một chỗ làm việc từ 1- 5 triệu đồng, quy mô đầu tư mỗi hộ chỉ vài chục triệu. Kinh tế làng nghề ở đó kinh tế cá thể, hộ gia đình là chủ yếu cho nên thế mạnh của nó là số đông, do vậy tổng lượng vốn đầu tư không phải là nhỏ. Ngoài ra kinh tế làng nghề có điều kiện để tiết kiệm được những chi phí đầu tư cho xây dựng nhà cửa và kho tàng vì họ lợi dụng diện tích nhà ở làm nơi sản xuất, quản lý và cả kho. Như vậy do đã tiết kiệm được khoảng 30-40% vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Về giác độ huy động và sử dụng vốn đầu tư khu vực kinh tế làng nghề có lợi thế hơn. Mặt khác làng nghề phát triển còn tập trung thu hút được nhiều những thợ thủ công có tay nghề cao, kinh nghiệm lâu năm. Bởi vì phương pháp truyền nghề được sử dụng rộng rãi thay vì dạy nghề, việc vừa học đi đôi với vừa làm, học đến đâu làm đ ến đó, thời hạn học nghề không có giới hạn như các khoá học khác, hơn nữa ở khu vực làng nghề nhiều khi việc Nhà nước đ ào tạo nghề còn chưa phát triển và điều kiện để tham gia đào tạo do Nhà nước tổ chức chưa đ ầy đủ. Thứ tư, phát triển làng nghề góp phần hạn chế di dân tự do, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Trên cơ sở việc tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho cư dân ở nông thôn mặt khác các làng nghề, ngành nghề ở nông thôn phân bố rộng khắp do đó sẽ hạn chế được việc di dân tự do trong vùng. Tâm lý những người sống ở nông thôn khi đã có việc làm ổn định tại chỗ họ không thích xa quê hương, làng xóm nơi có những người thân, tinh thần cộng đồng và cộng cảm. Việc phát triển kinh tế làng nghề còn góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho dân cư bởi vì khi nghề nghiệp ở đây đã phát triển tới một mức độ cao, người thợ lấy nghề làm nguồn sống thì nghề nghiệp chính là gốc của đời sống, cũng là cội nguồn của những giá trị văn hoá tinh thần - văn hoá nghề nghiệp. ở các làng nghề, các
  13. - 13 - nghề có ảnh hưởng trực tiếp đến văn hoá tinh thần, tác động đến tâm lý tình cảm, phong tục tập quán lề lối làm việc, làm cho đặc trưng văn hoá nghề nghiệp cũng mang đậm nét ở những nơi đó. Các sản phẩm ở làng nghề do các nghệ nhân làm ra cũng mang tính nghệ thuật nhất định. Họ làm ra nhiều sản phẩm khác nhau mang đậm nét văn hoá làm phong phú thêm đời sống văn hoá xã hội cho người sử dụng. Trong các làng nghề đều có tục lệ thờ ông tổ nghề và có ngày hội làng - đây là một nét văn hoá “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Qua làng nghề chúng ta hiểu thêm văn hoá của nghề, sắc thái văn hoá của con người và quê hương, đất nước. Các sản phẩm từ làng nghề đều mang tính nghệ thuật độc đáo, vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần trở thành di sản hay biểu tượng truyền thống văn hoá của làng, xã hay vùng. Nghề truyền thống được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác đây là di sản quý giá mà cha ông chúng ta đã để lại đó chính là giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc ta. Việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là rất cần thiết. Tuy nhiên cần phải gắn với việc hiện đại hoá một số khâu, công đoạn để tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm tức là hiện đại hoá truyền thống nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Tóm lại, việc phát triển và khôi phục làng nghề có những tác động tích cực đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, tạo thêm điều kiện cho công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn như phát triển cơ sở hạ tầng, văn hoá, y tế, giáo dục, nâng cao đời sống cư dân nông thôn. Ngược lại công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện để làng nghề có cơ hội phát triển nhanh hơn, có khả năng để cơ giới hoá và hiện đại hoá. 4- Quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nghề và làng nghề ở nông thôn. Có thể nói các chủ trương phát triển làng nghề và các ngành nghề có liên quan với làng nghề đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ những năm còn kháng chiến và ngay sau khi hoà bình lập lại ở Miền Bắc. Vấn đề này cũng đã có những quá trình nhận thức ngày càng sâu sắc hơn gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Ngay sau khi hoà bình lập lại ở Miền bắc, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có những chính sách phát triển khuyến khích sản xuất, trong đó có việc khuyến khích khôi phục phát triển nghề phụ gia đình, nghề thủ công theo đó người làm thủ công nông thôn được tính nhân khẩu nông nghiệp, Nhà nước giúp hướng dẫn kỹ thuật, cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm (Chỉ thị 110/TTg của Chính phủ ngày 6-9-1957). Qua các kỳ Đại hội đại b iểu toàn quốc của Đảng vấn đề phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn ngày càng được nhấn mạnh và quan tâm hơn. Vai trò của tiểu thủ công nghiệp được khẳng định là quan trọng lâu dài trong nền
  14. - 14 - kinh tế quốc dân, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế hộ gia đình có những bước biến chuyển. Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI và sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị kinh tế nông thôn phát triển mạnh, mở ra khả năng giải phóng mọi năng lực sản xuất. Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta chú trọng tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hoá nông nghiệp trong đó coi trọng sự phát triển ngành nghề truyền thống, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, hàng loạt các luật được ra đời như : Luật đất đai, luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, luật doanh nghiệp nhà nước, luật doanh nghiệp tư nhân, luật đầu tư,... Đặc biệt tại Đại hội Đảng lần VIII vai trò và hướng phát triển của làng nghề nông thôn với tư cách là một đơn vị kinh doanh độc lập được nêu ra trực tiếp và cụ thể. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội VIII có đoạn : “Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và phục vụ nhân dân...”. Nghị quyết IV Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) cũng chỉ rõ “Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn” Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2020, công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn được đặc biệt quan tâm, trong đó phát triển nghề và làng nghề bao gồm tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ là một bộ phận quan trọng. Xã Luận báo Nhân dân ngày 13-11-2000 có tiêu đề “Phát triển ngành nghề nông thôn”. Sau đó đến ngày 12-1-2001 báo Nhân dân lại có xã luận “Phát triển ngành nghề đúng hướng”. Tại Hội nghị phát triển ngành nghề nông thôn các tỉnh phía Nam đến 2010 (tháng 9 năm 2000) Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn đã nói “Bất cứ ai có kiến nghị phát triển làng nghề, hãy gửi cho Chính phủ chúng tôi sẽ hết sức lắng nghe”. Như vậy những chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về khôi phục và phát triển ngành nghề, làng nghề ở nông thôn đã được cụ thể hoá, được tuyên truyền và phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Các bộ ngành, các cơ quan Trung ương và địa phương đều có những đóng góp to lớn. Ngày 24-11-2000 Chính phủ đã có Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn với 12 điều đã thể hiện cụ thể hoá các chính sách của Nhà nước với các nghệ nhân, các cơ sở sản xuất và các tổ chức liên quan.
  15. - 15 - Tiếp theo đó ngày 30-12-2000 Trung tâm Hỗ trợ và Phát triển làng nghề truyền thống Việt nam đã ra đời với một chương trình hành động cụ thể và phong phú. Gần đây nhất Đại hội Đảng lần thứ IX đ ã thành công tốt đẹp, khẳng định đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm đầu thế kỷ. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm vai trò, vị trí cũng như định hướng phát triển khu vực kinh tế làng nghề một lần nữa được đề cập và nhấn mạnh : “Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực cộng nghiệp và dịch vụ...”. Trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng Đảng ta khẳng định : “Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu”,“Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ...”. Một dấu hiệu đáng quan tâm đối với khu vực kinh tế làng nghề là ngay trong quá trình diễn ra Đại hội Đảng IX một trong những hoạt động chào mừng Đại hội đó là Hội chợ triển lãm “Ngành nghề thủ công và đặc trưng văn hoá nông thôn Việt Nam” được tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội từ 17-4 đến 26-4-2001. Qua việc nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế làng nghề, ta có thể thấy rằng vai trò vị trí và những định hướng phát triển của khu vực này cùng những vấn đề liên quan đến sự tồn tại và phát triển làng nghề đã được đề cập không phải trong những mấy năm gần đây. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung vấn đề ngày nay ngày càng được nhấn mạnh và khẳng định như một khu vực kinh tế độc lập, là động lực góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thu hẹp khoảng cách so với khu vực và thế giới. Để phát huy vai trò của khu vực kinh tế làng nghề hiện tại cũng như trong tương lai cần phải có những hướng đi và giải pháp phù hợp. Đó chính là những yêu cầu, đòi hỏi của công tác định hướng chiến lược giành cho các nhà lãnh đạo và quản lý. Sau đây xin giới thiệu những vấn đề cơ bản về lý thuyết xây dựng và ho ạch định chiến lược kinh doanh có thể áp dụng trong việc định hướng phát triển đối với khu vực kinh tế này.
  16. - 16 - Chương II : Cơ sở lý luận về xây dựng chiến lược kinh Doanh trong nền kinh tế thị trường 1- Những vấn đề chung về chiến lược kinh doanh. 1.1 - Khái niệm về chiến lược kinh doanh. a) Sự ra đời và phát triển lý thuyết về chiến lược kinh doanh. Thuật ngữ chiến lược có nguồn gốc từ nghệ thuật quân sự thời xa x ưa, với ý nghĩa là phương pháp, cách thức điều khiển và chỉ huy các trận đánh. Trong quân sự cũng có nhiều quan niệm về chiến lược. Một xuất bản cũ của từ điển Larouse coi : “Chiến lược là nghệ thuật chỉ huy các phương tiện để chiến thắng”. Theo thời gian tính ưu việt của chiến lược đã được phát triển sang các lĩnh vực khoa học khác như : Chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội, công nghệ môi trường... Trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp chiến lược phát triển muộn hơn vào thế kỷ XX. Đến những năm 1950 xuất hiện một số các chủ trương, ý tưởng hoạch định chiến lược trong các doanh nghiệp chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích các tiềm lực tài nguyên. Sang các năm 1960 đến năm 1970 là giai đoạn hình và phát triển
  17. - 17 - của lý thuyết về phân tích chiến lược, hoạch định chiến lược. Lúc này môi trường của các doanh nghiệp có sự biến động lớn do: xu thế quốc tế hoá các giao dịch kinh tế, cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển; sự thay đổi trong x ã hội tiêu dùng và nguồn tài nguyên khan hiếm. Việc thực hiện thành công các chức năng quản lý nội bộ trong doanh nghiệp không còn quyết định đến việc thành công của doanh nghiệp như trước nữa, đó mới chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ bảo đảm cho sự thành công. Chìa khoá cho sự thành công lúc này chính là việc thích ứng với sự thay đổi của môi trường. Lý thuyết về quản lý chiến lược ra đời theo sát với yêu cầu cạnh tranh ngày càng ngay ngắt của các công ty, các hãng lớn trên thế giới. Quản lý chiến lược chính là quá trình quản lý hành vi ứng xử của tổ chức với môi trường. Một cách tiếp cận khác : quản lý chiến lược là tập hợp các quyết định và hành động quản lý quyết định sự thành công lâu dài của tổ chức. Quản lý chiến lược là tập hợp các quyết định và biện pháp hành động dẫn đến việc hoạch định và thực hiện các chiến lược nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Nói tóm lại, quản lý chiến lược là quá trình nghiên cứu các môi trường hiện tại cũng như tương lai, hoạch định các mục tiêu của tổ chức, đề ra, thực hiện các kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm đạt được các mục tiêu đó trong môi trường hiện tại cũng như tương lai. Các tổ chức hay đơn vị được đề cập trong luận án này có thể là : 1 ngành, 1 khu vực kinh tế, 1 doanh nghiệp hay hợp tác xã… ở nước ta khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường các doanh nghiệp và các cơ quan đã bắt đầu có hoạt động quản lý chiến lược và đến nay quản lý chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà quản lý nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng. b) Các khái niệm về chiến lược kinh doanh. Tuỳ theo từng cách tiếp cận mà xuất hiện các quan điểm khác nhau về chiến lược kinh doanh. - Theo Micheal Porter : “Chiến lược kinh doanh là nghệ thuật xây dựng lợi thế cạnh tranh”. - Theo Alfred Chandker : “Chiến lược kinh doanh đó là việc xác định các mục tiêu cơ b ản và dài hạn của doanh nghiệp lựa chọn các chính sách, chương trình hành động nhằm phân bổ các nguồn lực để đạt được các mục tiêu cơ bản”. Hai định nghĩa trên là hai định nghĩa truyền thống được phổ biến nhất hiện nay, ngoài ra còn có nhiều quan điểm khác.
  18. - 18 - - Theo James B.Quinn : Chiến lược kinh doanh đó là một dạng thức hay là một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau. - Theo William J.Glueck : Chiến lược kinh doanh là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện. - Theo quan điểm hiện đại, n ội dung khái niệm chiến lược có thể bao gồm “5P” : K ế hoạch : Plan Mưu lược : Ploy Mô thức, dạng thức : Pattern V ị thế : Position Triển vọng : Perspective c) Phân biệt khái niệm chiến lược kinh doanh và một số khái niệm khác. - Quyết định chiến lược và quyết định tác nghiệp. Quyết định chiến lược Quyết định tác nghiệp Thời gian : Thời gian d ài Thời gian ngắn Mục đích : Xác định vị trí của doanh Thực hiện và khai thức các nghiệp trên thị trường, xác năng lực sản xuất hiện có định năng lực sản xuất của doanh nghiệp Thông tin mờ, đa dạng Cụ thể, chính xác Thông tin : Dựa vào các mô hình Dựa vào các mô hình mang Mô hình : mang tính sáng tạo, dò tính thuật toán, dựa trên dẫm, không mang tính những quy tắc thuật toán, quy tắc Tác dụng : Tác dụng đối với toàn bộ Tác dụng cục bộ từng bộ hoạt động của doanh phận, từng khía cạnh, chức nghiệp và dài hạn năng... Khả năng thay đổi : Khó thay đổi Dễ thay đổi - Chiến lược và chính sách : Chính sách là phương tiện để đạt được mục tiêu chiến lược, đó là những cách thức, hướng dẫn hành vi, phương thức đường lối hướng dẫn trong quá trình phân bổ nguồn lực. Chính sách tồn tại dưới các văn bản hướng dẫn, quy tắc, thủ tục,...
  19. - 19 - Như vậy, về phạm vi trong cùng một cấp thì chiến lược rộng hơn chính sách vì chiến lược xác định một hướng đi và mục tiêu mang tính dài hạn. Tuy nhiên đây là sự khác biệt có tính chất tương đối bởi vì thường là các doanh nghiệp khi hoạch định chiến lược phải phụ thuộc vào các chính sách của Nhà nước. - Chiến lược và kế hoạch, chương trình, dự án : Phần lớn các nhà kinh tế cho rằng chiến lược, kế hoạch, chương trình dự án cùng phụ thuộc vào phạm trù kế hoạch hoá tuy nhiên giữa chúng khác nhau về mức độ, thể hiện trong sơ đồ sau : Kế hoạch dài hạn Kế hoạch theo thời gian Kế hoạch ngắn hạn Chuẩn đoán Chiến lược chiến lược kinh doanh Kế hoạch theo Dự án mục tiêu Chương trình Như vậy giữa chúng khác nhau về : + Khác nhau về cấp độ. + Khác nhau về mục tiêu: thể hiện ở chỗ : chiến lược nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của tổ chức hoặc doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh, kế ho ạch nhằm vào việc thực hiện quá trình quản lý tác nghiệp để thực hiện các mục tiêu của chiến lược theo từng cấp độ, thời gian thích hợp. + Khác nhau về cách thể hiện : chiến lược thể hiện bằng kế hoạch, kế ho ạch thể hiện bằng các chỉ tiêu cụ thể. Có thể khẳng định rằng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chúng ta sản xuất theo chỉ tiêu, kế hoạch giao từ trên xuống. Theo đó việc tiêu thụ sản phẩm đã có địa chỉ cố định. Các tổ chức, các ngành và khu vực kinh tế không quan tâm tới chiến lược theo đúng nghĩa của nó. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường vấn đề chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ tiêu kế hoạch không còn tồn tại, lúc này vấn đề định hướng chiến lược, phân tích chiến lược được quan tâm và ứng dụng. Các tổ chức, các ngành hay khu vực kinh tế muốn tồn tại lâu dài và phát triển trên thị trường đầy biến động và cạnh tranh gay gắt phải xác định cho mình những mục tiêu dài hạn. Đồng thời cũng phải phân tích và cân đối những tiềm năng, những nguồn lực trong hiện tại, tương lai để xác định những điểm mạnh, điểm yếu theo từng lĩnh vực hoạt động. Hơn nữa họ phải phân
  20. - 20 - tích và dự báo môi trường kinh doanh để xác định thời cơ và lường trước những rủi ro đe doạ. Đó chính là những nội dung cơ b ản của quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh. 1.2 - Đặc trưng và ý nghĩa của chiến lược kinh doanh a) Đặc trưng của chiến lược kinh doanh. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm chiến lược kinh doanh song những đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh doanh các quan điểm gần như đồng nhất với nhau. Đó là : - Chiến lược kinh doanh phải xác định rõ những mục tiêu cơ bản cần phải đạt được trong từng thời kỳ và cần phải quán triệt ở mọi cấp, mọi lĩnh vực hoạt động trong ngành, tổ chức hay 1 khu vực kinh tế. - Chiến lược kinh doanh phải bảo đảm huy động tối đa và kết hợp một cách tối ưu việc khai thác và sử dụng các nguồn lực trong kinh doanh, nhằm phát huy được những lợi thế, nắm bắt những cơ hội để dành ưu thế trong cạnh tranh. - Chiến lược kinh doanh của đơn vị đ ược phản ánh trong một quá trình liên tục từ xây dựng đến thực hiện, đánh giá, kiểm tra, điều chỉnh chiến lược. - Chiến lược kinh doanh đ ược lập ra cho một khoảng thời gian tương đối dài thường là 3 năm, 5 năm hay 10 năm. b) ý nghĩa của chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của tổ chức (ngành, doanh nghiệp, hợp tác xã…). Thể hiện: - Giúp cho ta nhận thấy rõ mục đích hướng đi của mình làm cơ sở cho mọi kế ho ạch hành động cụ thể. - Giúp cho ta nhận biết được các cơ hội và nguy cơ trong tương lai qua đó có thể thích nghi bằng cách giảm thiểu sự tác động xấu từ môi trường, tận dụng những cơ hội của môi trường khi nó xuất hiện. - Giúp cho tổ chức tạo ra thế chủ động tác động tới các môi trường, thậm chí thay đổi luật chơi trên thương trường, tạo ra môi trường tránh tình trạng thụ động. - Cho phép phân phối một cách có hiệu quả về thời gian, nguồn lực cho các lĩnh vực hoạt động khác nhau. - Quản lý chiến lược khuyến khích tổ chức hướng về tương lai, phát huy sự năng động sáng tạo, ngăn chặn những tư tưởng chống đối sự thay đổi, làm rõ trách nhiệm cá nhân, tăng cường tính tập thể. - Giúp cho đơn vị tăng được vị trí cạnh tranh, cải thiện các chỉ tiêu về doanh số,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0