LUẬN VĂN: Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam
lượt xem 53
download
sự cần thiết phải hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước việt nam hiện nay. Quyền hành pháp là một nhánh quyền trong cơ cấu quyền lực nhà nước Việt Nam, có chức năng rất quan trọng đối với đời sống xã hội nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy việc hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực có nghĩa là hoàn thiện về tổ chức và thực hiện quyền này trong sự phân công phối hợp giữa các thiết chế quyền lực lập pháp , hành pháp và...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam
- LUẬN VĂN: Quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực thống nhất ở Việt Nam
- Phương hướng và giải pháp Hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước Việt Nam 3.1. sự cần thiết phải hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước việt nam hiện nay. Quyền hành pháp là một nhánh quyền trong cơ cấu quyền lực nhà nước Việt Nam, có chức năng rất quan trọng đối với đời sống xã hội nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy việc hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực có nghĩa là hoàn thiện về tổ chức và thực hiện quyền này trong sự phân công phối hợp giữa các thiết chế quyền lực lập pháp , hành pháp và tư pháp. Điều đó theo chúng tôi được xuất phát từ những yêu cầu sau: 3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện Bộ máy Nhà nước. Hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm từ hơn nửa thế kỷ qua, nhất là từ sau công cuộc đổi mới ( sau năm 1996 ) đến nay. Điều này về phương diện pháp lý đã được minh chứng qua lịch sử lập hiến của nhà nước ta. Nhất là với sự ra đời của Hiến pháp 1992 , một mô hình tổ chức quyền lực nhà nước được hình thành đáp ứng với các mục tiêu của quá trình dổi mới , nhất là đổi mới về kinh tế. cũng như đổi mới về hệ thống chính trị. Đặc biệt là hiến pháp 1992 sửa đổi, một lần nũa đã củng cố một bước mới mô hình tổ chức quyền lực này với các thiết chế quyền lực như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, cũng như Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở của hiến pháp1992 chúng ta đã từng bước có những cải cách để hoàn thiện dần bộ máy nhà nước và cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên vẫn chưa khắc phục được những hạn chế nhất định trong tổ chức quyền lực hiện nay làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý nhà nước cũng như các hoạt động khác… Theo chúng tôi tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói riêng vần còn bộc lộ những hạn chế sau: - Mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực ( lập pháp, hành pháp, tư pháp) còn mang tính hình thức, chưa phản ánh được bản chất của các mối quan hệ quyền lực này.
- - Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết, thích hợp, nhất là pháp luật hành chính. - Bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, hoạt động kém hiệu quả, quan liêu, tham nhũng còn khá phổ biến. - Đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung không được đào tạo chính quy; trình độ, năng lực và phẩm chất chưa ngang tầm với nhiệm vụ, kỹ năng hành chính kém, chế độ công vụ còn lạc hậu... Vậy để khắc phục những thiếu sót, sửa chữa những khuyết tật, xây dựng một nhà nước vững mạnh, trong sạch, hiện đại, bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng các yêu cầu quản lý đất nước. Do vậy cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước, mà trọng tâm là tiến hành cải cách nền hành chính. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước thương xuyên phải đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước, đặc biệt là đổi mới tổ hcức hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Điều đó đã được thể hiện rõ qua cac schủ chương của Đảng: Từ năm 1991 chủ trương cải cách hành chính được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đến năm 1994 chủ trương cải cách hành chính bắt đầu được triển khai thực hiện, trong điều kiện công cuộc đổi mới đất nước đã giành được những thành quả bước đầu trên các mặt kinh tế, xã hội, chính trị... Cải cách hành chính cho thấy đây là công việc phức tạp, có nhiều khó khăn, vì nó trực tiếp đụng chạm đến lợi ích cục bộ của các ngành, các địa phương, cũng như của bản thân đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì vậy vấn đề đặt ra là phải đề ra được quan điểm chỉ đạo nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm, có chương trình giải pháp thực hiện thiết thực phù hợp cho từng giai đoạn, trên tinh thần vừa phải bám sát thực tiễn, phù hợp đặc điểm, truyền thống, tính cách và bản sắc của Việt Nam, vừa tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới về cải cách. Năm 1996 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một thời kỳ phát triển mới có tính bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, lấy đổi kinh tế làm trọng tâm, với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
- Nghị quyết Đại hội đã đề ra chủ trương "thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước, theo phương hướng: Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội. - Về các giải pháp cụ thể để cải cách bộ máy nhà nước, Nghị quyết xác định phải: "Thực hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội". - Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (tháng 3/1989) đã đề cập việc đổi mới hệ thống chính trị với mục tiêu: Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở đó, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Về mặt Nhà nước đòi hỏi đặt ra là phải thực hiện đúng đắn quyền lực của mình; quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội bằng pháp luật theo đường lối, chính sách của Đảng. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tổ chức và hoạt động của hệ thống bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương đã có những chuyển biến rõ rệt, từng bước chuyển mạnh sang thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo pháp luật. Từng bước nâng cao hiệu quả. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) đã tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện đổi mới, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Nghị quyết đã đề ra chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước; sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương các cấp. Đặc biệt là gắn nhiệm vụ cải cách bộ máy Nhà nước với đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng và các đoàn thể quần chúng. Nói cách khác, cải cách bộ máy nhà nước lần đầu tiên được đặt trong một chỉnh thể thống nhất là đổi mới hệ thống chính trị, trên tinh thần lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, tăng cường vai trò lãnh đạo của
- Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Nghị quyết Đại hội VII đã xác định mục tiêu có tính chất chiến lược cho tất cả chặng đường 10 năm (1991 đến 2000) là "đặt trọng tâm cải cách nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chính Nhà nước thông suốt từ Trung ương xuống cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực". Như vậy, chủ trương cải cách hành chính do Nghị quyết VII đề ra tuy chủ yếu mới dừng ở phạm vi cải cách bộ máy hành chính, nhưng về mặt nội dung cải cách được xác định tương đối cụ thể và toàn diện, đã đặt nhiệm vụ cải cách bộ máy Nhà nước trên một tầm cao mới, có tính hệ thống và toàn diện hơn, mà trọng tâm là cải cách bộ máy hành chính... Theo quy định của Hiến pháp mới 1992 "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 109). Nó xác định lại vị trí của Chính phủ đồng thời nhận thức đầy đủ hơn về phân công phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và t ư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của nhà nước. Với vị trí này, hành pháp trở thành một nhánh quyền lực độc lập tương đối trong sự phân công phối hợp với các nhánh quyền lực khác. Đặc biệt Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tháng 01/1994 đã xác định những chủ trương và giải pháp lớn đưa Việt Nam chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết đã đề ra phương hướng chung là tiếp tục đổi mới và tăng cường hệ thống hành pháp cả về tổ chức, cán bộ, cơ chế hoạt động, phát huy vai trò điều hành của bộ máy hành pháp. Ngày 4/5/1994 Chính phủ có nghị quyết số 38/CP về cải cách thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Theo Nghị quyết là phải đạt được một bước chuyển biến căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa các cơ quan nhà nước với nhau; giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội; giữa cơ quan nhà nước với công dân. Tiếp đến Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) tháng 01/1995 đã đánh dấu một bước phát triển mới về cải cách hành chính ở Việt Nam. Đây là Nghị quyết
- chuyên đề về cải cách hành chính, Nghị quyết đã coi cải cách nền hành chính Nhà nước là yêu cầu bức xúc, là trọng tâm của việc xây dựng hoàn thiện Nhà nước, và mục tiêu của cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước. Các yếu tố cấu thành nền hành chính được khẳng định là: Thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính, và đội ngũ cán bộ công chức hành chính. Mỗi một bộ phận này đều có những nổi dung cải cách cụ thể và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) thì cải cách hành chính thể hiện ở hai yếu tố: Một là, cải cách hành chính trở thành một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hai là, xác định đúng đắn về mục tiêu, quan điểm, nội dung, phương hướng tạo ra những nhân tố động lực cơ bản cho việc đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính trong những năm tiếp theo. - Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước. Nghị quyết 8 tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước của các bộ, ngành. - Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) (6 năm 1997) đã ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính là một trong những chủ trương và giải pháp lớn. Nghị quyết đã cụ thể hóa các chủ trương quan trọng của Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, là: - Mở rộng dân chủ và tính công khai trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Mở rộng mạnh mẽ quyền dân chủ của dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
- - Thực hiện phân cấp mạnh mẽ trách nhiệm và thẩm quyền hành chính cho các cấp chính quyền địa phương, trước nhất là giữa cấp Trung ương với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Trên cơ sở xác định rõ chức năng quản lý của Nhà nước trong cơ chế thị trường và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều chỉnh hợp lý tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy chính quyền địa phương. Nghị quyết Trung ương lần thứ 3 (khóa VIII) đã đánh dấu một bước chuyển mới trong sự nhận thức về cải cách hành chính. Đó là cải cách hành chính còn là yêu cầu bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Tháng 10/1998, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu. Ban chỉ đạo cải cách hành chính có chức năng tư vấn cho Thủ tướng trong việc quyết định chương trình, kế hoạch chỉ đạo công tác cải cách hành chính hàng năm và trong từng thời kỳ, và những vấn đề khác về cải cách hành chính, đồng thời giúp Thủ tướng Chính phủ phối hợp các nguồn lực quản lý của Chính phủ để thực hiện cải cách hành chính. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định việc tiếp tục tiến hành cải cách hành chính và đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới về hệ thống chính trị đã đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức, bộ máy Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương... Các quan điểm về cải cách hành chính của Đảng được triển khai thực hiện một cách tích cực, có hiệu quả như tại các bản báo cáo của Chính phủ trước các thời kỳ họp của Quốc hội khóa IX và khóa X. - Gần đây nhất tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng có nêu trong báo cáo đó là việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Mục tiêu đề ra là: - Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- - Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước trong đó có hoạt động lập pháp, tư pháp và hành pháp: "Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ... phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện toàn các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn..." - Tóm lại, xuất phát từ đường lối đổi mới toàn diện, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Đồng thời, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.Các quan điểm về cải cách bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nói riêng của Đảng và Nhà nước đã được hình thành và từng bước được thực hiện. Vì vậy theo chúng tôi hoàn thiện Bộ máy nhà nước là nhu cầu đầu tiên cho việc cần phải hoàn thiện quyền hành pháp cả về phương diện lý luận và thực tiễn. 3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng luôn đựơc đặt ra cùng với việc hoàn thiện Bộ máy nhà nước, những năm gần đây những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được thể hiện rõ các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung) đã quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. ở Nhà nước Việt Nam việc xây dựng Nhà nước pháp quyền điều đó còn có nghĩa là nói đến một phương thức tổ chức nền chính trị XHCN cùng với cơ cấu tổ chức Nhà nước duy trì bản chất giai cấp của Nhà nước vốn của dân do dân vì dân. Điều này cũng đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội Đảng IX, đó là việc Đảng ta đã chủ chương thực hiện một cách nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân. Trên cơ sở các giá trị của Nhà nước pháp quyền như :
- - Tính tối cao của pháp luật- Một nhà nước pháp quyền là một nhà nước mà ở đó pháp luật và các giá trị của nó luôn được đề cao. Lịch sử xây dựng nhà nước pháp quyền hàng trăm năm của nhân loại đã chứng minh cho điều đó. ở Việt Nam việc đề cao pháp luật cũng như các giá trị của nó cũng dã và đang dược củng cố hoàn thiện từ hàng chục năm nay, nhất là từ sau công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng ( 1986) thì vai trò của pháp luật đã được thể hiện rõ trong đời sống xã hội, mà truớc tiên đó là việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật.Sự hiện diện một hệ thống khách quan khoa học tự nó đã xác định rõ bản chất của pháp luật, cũng như các giá trị xã hội của nó. ở nước ta từ khi ra đời nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà( 1945) cho đến nay hệ thống pháp luật luôn được củng cố và hoàn thiện nhằm đáp ứng với từng giai đoạn phát triển của xã hội. Theo các nhà nghiên cứu luật pháp Việt Nam thì hệ thống pháp luật của nuớc ta đã được hình thành và phát triển qua các thời kỳ sau: 1- Thời kỳ từ 1945 đến 1959; 2- Thời kỳ 1959 đến 1980; 3- Thời kỳ 1980 dến 1992; 4- Thời kỳ 1992 đến nay. Qua việc đánh giá sự phát triển của hệ thống pháp luật nuớc ta qua sự phân kỳ trên đã có nhiều quan điểm chung cho thấy sự nhất quán về nhận thức giá trị của pháp luật trong đời sống xã hội trong quá trình xây dựng pháp luật. - Đề cao chủ nghĩa lập Hiến: Như chúng ta đã biết nói đến chủ nghĩa lập hiến là nói đến sự hiện diện của Hiến pháp với tư cách là nền móng của hệ thống pháp luật với những mặt tích cực của nó trong đời sống chính trị xã hội của đất nước. Nói đến chủ nghĩa lập hiến là nói đến là sự tác động của Hiến pháp đối với các quan hệ cơ bản, quan trọng trong đời sống xã hội chính trị, xã hội như quan hệ chính trị, kinh tế, tổ chức nhà nước, các quyền cơ bản của con người... Chính vì vậy Hiến pháp luôn đuợc coi là đạo luật cơ bản của nhà nuớc, với hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của quốc gia và là văn bản chính trị- pháp lý với những tính chất đặc biệt của nó như tính cơ bản, tính ổn định, tính phổ biến, tính hoàn chỉnh...
- ở Việt Nam việc xây dựng Hiến pháp cũng như việc xây dựng pháp luật luôn đuợc Đảng và nhà nước xác định đó là phướng hướng rất quan trọng để thể hiện rõ bản chất của nhà nuớc : của dân, do dân, vì dân. Nhìn lại lịch sử lập hiến ở nước ta cho thấy với 4 bản hiến pháp thì mỗi bản đều ở những điểm nhấn quan trọng của lịch sử, kể cả hiến pháp 1992 sửa đổi hiện nay. - Đảm bảo tính pháp lý của quyền lực nhà nước: Quyền lực nhà nước ở Việt Nam là quyền lực thống nhất, sự thống nhất ở đây được hiểu đó là sự thống nhất về mục đích là đem lại lợi ích cho nhân dân, cho đất nước và cho dân tộc. Theo cơ chế tổ chức quyền lực thì quyền lực tối cao thuộc về cơ quan đại diện của dân, nhân dân đã giao phó quyền lực dó cho những nguời đại diện của mình thông qua các cơ quan dân cử đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Theo quy định của Hiến pháp thì Quốc hội có quyền lập hiến, lập pháp và quyền giám sát tối cao. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phuơng, dại diẹn cho ý chí , nguỵên vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Với vị trí quan trọng đó trong cơ cấu quyền lực nhà nước hiện nay, với sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để cho sự phân công phối hợp một cách khoa học và có hiệu quả trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, vấn dề ở đay phải có một cơ chế phối hợp chặt chẽ và đúng với bản chất của nó. ở nướ ta nhánh quyền hành pháp chưa thực sự là một nhánh quyền dộc lập vì thế tính pháp lý của quyền lực hành chính chưa cao, nó kéo theo hàng loại những hạn chế nhất định trong tổ chức hành pháp hiện nay. Sự phân công và phối hợp để thực hiện quyền lực nhà nuớc hiện nay còn cần phải được thể hiện quau sự phân cấp hành chính hiện nay giữa trung ương với địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới. - Một giá trị quan trọng khác của nhà nước pháp quyền đó là quyền con người và các lợi ích hợp pháp của công dân được bảo đảm: Để có được một Nhà nước pháp quyền thì cần phải có một sự phân công quyền lực một cách hợp lý giữa các quyền lập pháp , hành pháp và tư pháp, điều đó đòi hỏi cần xác định rõ bản chất của hành pháp trong khối quyền lực Nhà nước Việt Nam hiện nay. Với tư cách là một nhánh của quyền lực nhà nước, quyền hành pháp cũng được xuất phát từ bản chất của nhà nuớc Việt Nam, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu của nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con
- người, không ngừng phát huy mọi năng lực của con người. Vì vậy cần phải có một nền hành chính trong sạch, không vụ lợi, một nền hành chính phục vụ đắc lực vì lợi ích công. 3.1.3. Yêu cầu củng cố và mở rộng dân chủ. Củng cố và mở rộng dân chủ luôn được Đảng và nhà nuớc ta chú trọng, điều này đã được thể hiện ngay trong các bản hiến pháp từ hiến pháp 1946 đến hiến pháp hiện hành ( hiến pháp 1992 sửa đổi) và nó đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Hơn nữa đây còn được coi là mục tiêu quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính hiện nay. Bác Hồ đã từng nói: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Dân chủ và mở rông dân chủ cũng đã trở thành nội dung quan trọng trong các Nghị quyết Đảng, đặc biệt tại Đại hội IX của Đảng nó đã được đề cập ở cấp đố cao hơn và hoàn thiện hơn, nhất là dân chủ trong vịêc thực hiện quyền hành pháp. Nghị quyết IX đẫ nêu: " Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ,trong sạch vững mạnh, từng buớc hiện đại hoá..." [ tr135]. Xây dựng một nền hành chính dân chủ dièu đó trước hết là hoàn thiện mối quan hệ giữa cơ quan công quyền với công dân, mối quan hệ này vừa thể hiện được quyền làm chủ của nhân dân, thông qua cơ chế quản lý của nhà nuớc và dưới sự lãnh đạo của đảng. Để mở rộng dân chủ Đảng và nhà nuớc đã và đang từng bước cải cách nền hành chính nhà nước mà trước hết dó là cải cách thủ thục hành chính để cho người dân thật sự có cơ hội thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Để mở rộng dân chủ Đảng và nhà nước ta cũng đã tiến hành xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Có thể nói dân chủ ở cơ sở vừa là động cơ vừa là mục đích để hoàn thiện và phát huy nền dân chủ XHCN. Để mở rộng dân chủ điều đó còn được gắn liền với việc tăng cuờng sự kiểm soát của người dân đối với chính quyền. Một trong những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền đó là việc cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép ( thuộc phạm vi thẩm quyền ). Để cho nguyên tắc này được thực hiện một cách có hiệu quả thì ngoài việc đòi hỏi tính tự giác chấp hành pháp luật từ phía cán bộ công chức nhà nước, còn có sự kiểm soát tích cực từ phía người dân. Từ nhiều năm nay phương thức này cũng đã được thực hiện song chưa đem lại hiệu quả do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự cản trở không nhỏ từ một nền hành chính quan liêu, của quyền, một nền hành chính làm mất đi bản chất của dân, do dân và vì dân. Vì vậy để mở rộng dân chủ thì việc xác định đúng bản chất của quyền hành pháp là mọt đòi hỏi rất quan trọng. 3.1.4. Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị truờng định huớng XHCN...
- Phát triển nền kinh tế thị truờng định hướng XHCN ở nước ta đã được hình thành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Từ đó đến nay đường lối này luôn được ghi nhận qua các kỳ Đại hội và đặc biệt là tại Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ IX đã khẳng định: " Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường , có sự quản lý của nhà nuớc theo định hướng xa hội chủ nghĩa;đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [ tr 86 ]. Về đuờng lối kinh tế Nghị quyết cũng nêu rõ cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ , đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp; phát triển lực lựợng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối ; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực ben ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững ; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội... Trên cơ sở đó Đảng cũng đã đề ra được chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, Nghị quyết nêu rõ : " Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [tr 148]. Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 đó là: " Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển ; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người , năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng ,tiềm lực kinh tế, quốc phòng , an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản ; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao"[ tr 159]. Với định huớng và những mục tiêu cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải có một nền hành pháp mạnh, trước hết đó là vai trò của các chủ thể quyền hành pháp mà đướng đầu là Chính phủ. Việc xác định rõ vị trí của hành pháp cũng như mối quan hệ qua lại giữa các thiết chế quyền lực qua sự phân công phối hợp để thực hiện các quyền lập pháp , hành pháp và tư pháp có một ý nghĩa rât lớn đối với sự phát triển nền kinh tế : - Xây dựng được một hệ thống pháp luật kinh tế về cơ bản sẽ là cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp, nó đảm bảo cho các thành phần kinh tế chủ động và bình đẳng trong sản xuất kinh doanh;
- - Nâng cao được hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nuớc, thông qua việc điều tiết vi mô, phân cấp quản lý rõ ràng, tạo ra nhưng "sân chơi" thông thoáng cho các doanh nghiệp. 3.1.5. Yêu cầu hợp tác quốc tế và hội nhập. Sự cần thiết phải hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực hiện nay ở nước ta còn được bắt nguồn từ những yêu cầu mang tính thời đại, tính xu huớng, đó là xu thế toàn cầu hoá. Nghị quyết IX của Đảng có nêu:" Thực hiện nhất quán đuờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định huớng xã hội chủ nghĩa..." [ tr119 - 120]. Về thực tế hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập cũng đã và đang được nhà nước ta tiến hành trong nhiều năm nay gần đây. Việt nam đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế cả song phương và đa phương ( là thành viên của gần 200 điều ước quốc tế). Việt nam cũng đã ký rát nhiều Hiệp dịnh thương mại song phuơng, đặc biệt là Hiệp dịnh thương mại Việt - Mỹ và tương lai không xa Việt nam sẽ là thành viên của WTO. Để thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại mà Việt nam tham gia, nhất là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ gần đây, điều đó đòi hỏi phải có một quyền hành pháp mạnh theo đúng nghĩ của nó, một hành pháp "độc lập"" có "thực quỳên". Muốn là được như vậy thì việc thừơng xuyên phải tiến hành đo là cải cách nền hành chính sao cho thích ứng với nền hành chính trong khu vực và trên thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá. Từ các yêu cầu nêu trên cho thấy việc hoàn thiện quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực ở nước ta hiện nay là một việc làm rất có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nó sẽ giải quyết được nhiều bức xúc đang đặt ra trong quá trình thực thi quyền lực này không những ở trong nước mà nó còn đặt ra trong quá trình hợp tác quốc tế và hội nhập hiện nay. Vì vậy theo chúng tôi cần phải có quan điểm chỉ đạo nhất quán, đúng đắn và khoa học cũng như những giải pháp đồng bộ, khả thi thì mới có thể đạt được mục đích.
- 3.2. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay 3.2.1. Tiếp tục công cuộc cải cách Bộ máy hành chính nhà nước Một nhà nước có năng lực hơn có thể là một nhà nước có hiệu quả hơn, nhưng hiệu quả và năng lực không phải là cùng một sự việc. Năng lực trong trường hợp áp dụng cho các nhà nước là khả năng theo đuổi và thúc đẩy các hành động chung một cách có hiệu quả - Như luật pháp và trật tư, y tế công cộng và cơ sở hạ tầng cơ bản; hiệu quả là kết quả của việc sử dụng năng lực đó để đáp ứng nhu cầu xã hội đối với những hàng hóa này. Một Nhà nước có thể có năng lực nhưng không có hiệu quả lắm nếu như năng lực đó không được sử dụng vì lợi ích của xã hội [ 72 , tr.16 ]. 3.2.1.1. Cải cách bộ máy hành chính Trong những năm qua việc cải cách Bộ máy hành chính đã được đặt ra một cách thường xuyên, nhất là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay. Việc cải cách đó đã đem lại những kết quả nhất định. Giới hạn trong việc tìm hiểu về quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực ở Nhà nước Việt Nam, vì vậy, trước hết chúng tôi muốn đưa ra vài nét về sự hình thành và phát triển của Bộ máy hành chính từ hơn 50 năm trở lại đây. Để từ đó mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quyền hành pháp hiện nay. Với hơn 50 năm hình thành và phát triển Bộ máy hành chính nhà nước theo chúng tôi có thể phân kỳ theo các giai đoạn sau: - Bộ máy hành chính giai đoạn 1945 - 1954: Đây là giai đoạn đầu tiên của nền hành chính Nhà nước Việt Nam hơn 50 năm qua (nền hành chính Nhà nước Việt Nam mới), một nền hành chính mà ngay từ đầu đã thể hiện bản chất nhà nước "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Chúng ta đều biết từ sau ngày tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 02/9/1945. Một cuộc tổng tuyển cử quốc dân đồng bào đầu tiên được
- tiến hành trên cả nước để thành lập ra Chính phủ (Chủ thể quan trọng nhất của quyền hành pháp - một yếu tố quyết định cho sự hình thành lên Bộ máy hành chính Nhà nước). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc Hội. Quốc Hội sẽ cử ra Chính phủ của toàn dân. Đặc biệt với sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946, cơ sở pháp lý cho sự hình thành nên bộ máy hành chính nhà nước đầu tiên với một chính thể "Dân chủ cộng hòa". Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Điều 2 còn khẳng định: "Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung, Nam, Bắc không thể phân chia". Với những quy định trên đây được coi là những điều kiện quan trọng, một sự đảm bảo pháp lý cho tính thống nhất của bộ máy hành chính. Điều 57 Hiến pháp còn quy định: "Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có 3 bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã". "Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa" (Điều 43). Hiến pháp còn quy định: Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, Các Bộ trưởng, Thứ trưởng có thể có Phó Thủ tướng. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chọn trong nghị viện nhân dân... Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chọn trong nhân dân... Như vậy về cơ bản ngay từ những ngày đầu sau khi cách mạng tháng tám thành công, một hệ thống Bộ máy hành chính đã được hình thành một cách thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, mà người đứng đầu Bộ máy hành chính ở giai đoạn này là Chủ tịch nước (Nguyên Thủ quốc gia) có thể nói đây là một chế định thể hiện rất cơ bản về vị trí cũng như giá trị quyền lực của hành pháp (chế định nguyên thủ quốc gia đồng thời là người đứng đầu hành pháp đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng). Để tìm hiểu về Bộ máy hành chính ở giai đoạn này trước hết chúng ta tìm hiểu về Bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương. - Trung ương có Chính phủ (cơ quan hành chính cao nh ất của toàn quốc).
- Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các. Nội các gồm có Thủ tướng, các Bộ trưởng và có thể có Phó thủ tướng. ở giai đoạn này Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có nhiều sự thay đổi về tên gọi, cũng như về số lượng các bộ như sau: - Ngày 2/9/1945 thành lập Chính phủ lâm thời; - Ngày 1/1/1946 Chính phủ lại được đổi là Chính phủ Liên Hiệp Lâm thời; - Ngày 2/3/1946 Chính phủ lại đổi thành Chính phủ Liên Hiệp kháng chiến; - Và từ sau ngày 3/11/1946 đến đầu năm 1955 Chính phủ mới được thành lập. (Cụ Hồ Chí Minh Chủ tịch nước và kiêm thủ tướng; Ông Phạm Văn Đồng giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ; và nội các gồm có 12 Bộ). Về cơ cấu các Bộ, với tư cách là cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn về hành pháp nên cũng có sự thay đổi thường xuyên để đáp ứng với nhiệm vụ của hành pháp lúc bấy giờ. Ví dụ: Trong thời gian đầu số lượng các Bộ là 13 bộ với 15 vị Bổ trưởng (trong đó có Bộ trưởng ngoại giao do Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm nhiệm với hai Bộ trưởng không bộ). Về sau thì thành lập thêm Bộ canh Nông, Bộ nội vụ đổi thành Bộ Công An. Tháng 5/1952 thì Ngân hàng Quốc gia được thành lập. Các thành viên của Chính phủ lâm thời (2/9/1945) gồm có: - Chủ tịch CPLT, kiêm Bộ trưởng ngoại giao: Cụ Hồ Chí Minh. - Bộ trưởng Bộ nội vụ: Ông Võ Nguyên Giáp. - Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền: Ông Trần Huy Liệu. - Bộ trưởng Bộ quốc phòng: Ông Chu Văn Tấn. - Bộ trưởng Bộ Thanh niên: Ông Dương Đức Hiền. - Bộ trưởng Bộ Bộ kinh tế quốc gia: Ông Nguyễn Mạnh Hà. - Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội: Ông Nguyễn Văn Tố. - Bộ trưởng Bộ tư pháp: Ông Vũ Trọng Khánh. - Bộ trưởng Bộ Y tế: Ông Phạm Ngọc Thạch. - Bộ trưởng Bộ giao thông công chính: Ông Đào Trọng Kim. - Bộ trưởng Bộ lao động: Ông Lê Văn Hiến.
- - Bộ trưởng Bộ tài chính: Ông Phạm Văn Đồng. - Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục: Ông Vũ Đình Hòe. - Bộ trưởng không Bộ: Ông Cù Huy Cận và Ông Nguyễn Văn Xuân [ 90 , tr 23 ]. Trong giai đoạn này số lượng cán Bộ cũng như số thành viên nội các có sự thay đổi cho đến đầu năm 1955 chúng ta có Chính phủ mới với số thành viên mới. - Đối với cơ quan hành chính địa phương, trong thời kỳ này nền hành chính được hình thành theo địa giới hành chính mà Hiến Pháp - 1946 đã quy định: "Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có 3 bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã" (điều 57). "ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra ủy ban hành chính, Bộ và huyện chỉ có UBHC, UBHC Bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. UBHC huyện do Hội đồng các xã bầu ra. Tuy nhiên khi nghiên cứu về Bộ máy hành chính ở địa phương trong thời kỳ này chúng ta phải dựa trên hai văn bản pháp lý quan trọng, đây được coi là cơ sở pháp lý đầu tiên về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Đó là sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về "tổ chức Hội đồng nhân dân và UBHC xã, huyện, tỉnh, kỳ" và sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về "tổ chức Hội đồng nhân dân và UBHC thành phố, khu phố". Nếu như theo quy định của 2 văn bản này thì Bộ máy hành chính địa phương ở giai đoạn đầu này được tổ chức theo các cấp sau: Cấp kỳ, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. ở cấp kỳ có UBHC (do HĐND của tỉnh, thành phố thuộc kỳ bầu ra, ở cấp không có HĐND). Cấp tỉnh có HĐND và UBHC (UBHC do HĐND tỉnh bầu ra). Cấp huyện có UBHC (do HĐND các xã trong huyện bầu ra, cấp huyện không có HĐND). Cấp cơ sở là chính quyền xã có HĐND và UBHC. Đối với cấp thành phố và khu phố, do xuất phát từ đặc điểm của thành phố và khu phố nên việc quy định về cơ cấu Bộ máy hành chính có khác với tỉnh, huyện và xã (tìm hiểu thêm sắc lệch 77 ngày 21/12/1945).
- Như vậy ở vào giai đoạn này, bộ máy hành chính ở địa phương cũng đã được thiết lập, để từng bước thực hiện quyền lực nhà nước. Trong giai đoạn này do hoàn cảnh lịch sử nên mặc dù Bộ máy hành chính (nhất là ở Trung ương có những thay đổi nhất định, song nhìn chung một hệ thống Bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam đã được thiết lập đầu tiên ở khu vực Đông Nam á. Nó là thành quả của công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên người dân được thực hiện quyền lực của mình thông qua Bộ máy hành chính, chủ thể của quyền hành pháp. - Bộ máy hành chính giai đoạn 1955 - 1975 Đây là giai đoạn xét về mặt lịch sử thì đó là thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, (chúng tôi chỉ tìm hiểu bộ máy hành chính ở miền Bắc XHCN). Khi tìm hiểu về bộ máy hành chính ở thời kỳ này chúng ta phải thấy được nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam, bởi lẽ hành chính "phụ thuộc" vào chính trị vì vậy bộ máy hành chính ở đây phải phục vụ cho sự nghiệp xây dựng CNXH bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng phát triển về kinh tế để miền Bắc XHCN trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Để hoàn thành tốt những nhiệm vụ mới được đặt ra ở giai đoạn này Hiến pháp 1959 đã ra đời, cơ sở pháp lý mới cho sự hình thành về tổ chức cũng như những nguyên tắc hoạt động của bộ máy hành chính. Tuy nhiên trước đó (trước khi có Hiến pháp 1959) thì Bộ máy hành chính cũng đã có những thay đổi nhất định để đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ mới đó. Ví dụ ở Trung ương, Chính phủ cũng đã có sự thay đổi về cơ cấu, thành phần như từ kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I ngày 20/9/1955 đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I ngày 27/5/1959 cơ cấu thành phần Chính phủ được mở rộng như sau: - Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: Cụ Hồ Chí Minh. - Thủ Tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Ông Phạm Văn Đồng. - Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Ông Phan Kế Toại. - Phó Th ủ t ướng kiêm Bộ tr ưởng Bộ Quốc phòng: Ông Võ Nguyên Giáp. - Phó Thủ tướng: Ông Trường Trinh.
- - Phó Thủ tướng: Ông Phạm Hùng. Và hàng loạt các Bộ như: Bộ Công An; Giáo dục; Tài chính; Giao thông và Bưu điện; Thủy lợi và Kiến trúc; Công nghiệp; Thương nghiệp; Nội thương; Ngoại thương; Y tế; Lao động; Tư pháp; Văn hóa; Bộ thương binh; Cứu tế; Nông lâm và một số ủy ban như ủy ban Kế hoạch Nhà nước; ủy ban Khoa học Nhà nước. Sau đó trên cơ sở của Hiến pháp 1959 thì Chính phủ cũng nh ư về cơ cấu thành phần của Chính phủ có sự thay đổi nhất định qua mỗi khóa của Quốc hội từ khóa II (1960 - 1964) đến khóa V (1975 - 1976).[ 90 tr 219-220] Theo Hiến pháp 1959 Chính phủ được đổi tên là Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hội đồng chính phủ gồm có: Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm các ủy ban nhà nước, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước. Về cấp hành chính ở giai đoạn này bộ máy hành chính ở địa phương bao gồm các cấp như: Cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương. huyện, thành phố, thị xã, xã và thị trấn, không có cấp bộ nhưng lại có khu tự trị (khu Việt Bắc và Tây Bắc). Điều 78 Hiến pháp quy định: Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính trên đều thành lập HĐND và UBHC (đây là điểm khác biệt so với các đơn vị hành chính ở giai đoạn trước). Nhìn chung bộ máy hành chính ở vào giai đoạn này được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của Hiến pháp 1959 cũng như các văn bản luật quy định về tổ chức hoạt động của Hội đồng Chính phủ và UBHC. -Bộ máy hành chính giai đoạn 1976 - 1992:
- Sau giải phóng miền Nam năm 1975, năm 1976 chúng ta thống nhất về mặt Nhà nước. Cả nước ta bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội vì vậy mà nhiệm vụ của bộ máy hành chính trong giai đoạn này là nhằm khắc phục lại những hậu quả do chiến tranh để lại, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng trên phạm vi cả nước. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với Bộ máy hành chính mà ở đó cần phải có sự thống nhất về mọi mặt giữa hai miền Nam, Bắc và với mục tiêu là xây dựng CNXH. Vì thế để có cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo thực hiện có hiệu quả của quyền hành pháp trong giai đoạn mới Hiến pháp 1980 đã có những thay đổi nhất định cả về quy mô lẫn cơ cấu, về tổ chức và hoạt động của cả hệ thống cơ quan hành chính. Ví dụ như nếu ở giai đoạn trước khi nói về bộ máy hành chính thì đó là Bộ máy hành chính ở miền Bắc XHCN, còn sang giai đoạn này là chúng ta đề cập đến cả một hệ thống các cơ quan hành chính thống nhất từ Bắc vào Nam. Điều 1 Hiến pháp 80 đã quy định: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất của các dân tộc, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo". Tại Điều 5 quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà n ước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam...". Theo chúng tôi thì sự thống nhất này cũng là một trong những đảm bảo quan trọng cho việc thực thi quyền hành pháp. Trong thời kỳ này trên cơ sở của Hiến pháp 80 thì bộ máy hành chính ở Trung ương có một số thay đổi sau: Điều 104 quy định: Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước... Hiến pháp cũng còn quy định 26 nhiệm vụ cụ thể của HĐBT. Để thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra như vậy thì cơ cấu và thành phần của HĐBT cũng có sự thay đổi. Theo Hiến pháp thì HĐBT gồm có: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; các Phó chủ tịch HĐTB; các Bộ trưởng và Chủ nhiệm ủy ban Nhà nước. Cụ thể là số thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII (1981 - 1987) gồm có: - Chủ tịch HĐBT: Ông Phạm Văn Đồng. - Phó chủ tịch HĐBT: Gồm 18 Phó chủ tịch, và 1 Bộ trưởng Tổng thư ký HĐBT.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
119 p | 413 | 108
-
Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
172 p | 105 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
0 p | 107 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai của UBND tỉnh Phú Thọ
87 p | 54 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
164 p | 58 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền hành pháp và tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
123 p | 42 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền khiếu nại hành chính – từ thực tiễn thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
91 p | 26 | 7
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam
0 p | 95 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố đối với án ma túy nghiên cứu ở Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk
94 p | 15 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Thực hiện pháp luật về thực hành quyền công tố đối với án ma túy – nghiên cứu ở Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk
32 p | 4 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
27 p | 49 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trên địa bàn Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh
71 p | 3 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Địa vị pháp lý của Phòng Tư pháp – Từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
26 p | 2 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Địa vị pháp lý của Phòng Tư pháp – Từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
103 p | 2 | 1
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính trên địa bàn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh
26 p | 3 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Kiểm soát quyền hành pháp trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay
69 p | 4 | 1
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Kiểm soát quyền hành pháp trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay
24 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn