intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

26
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng, thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, tìm ra những bất cập trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới tỉnh An Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ HUỲNH THỊ NGUYỆT HỒNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội - 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ HUỲNH THỊ NGUYỆT HỒNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS NGUYỄN THỊ HOA Hà Nội - 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giảm nghèo luôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là mục tiêu vừa là yêu cầu để phát triển bền vững trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới xây dựng đất nước. Trong giai đoạn 2011-2015, dưới sự chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và toàn xã hội, mục tiêu giảm nghèo của huyện đã đạt được những kết quả quan trọng, cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, xây dựng, đời sống người dân không ngừng được cải thiện cả về sinh kế và tiếp cận các dịch vụ xã hội. An Giang là tỉnh thuần nông, đang nhận sự hỗ trợ ngân sách của Trung ương nên nguồn lực đầu tư của tỉnh vào các chính sách không đủ lớn. Việc huy động hỗ trợ của các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Phần lớn lao động nghèo tại An Giang có trình độ học vấn thấp, không có tư liệu sản xuất, chưa có tay nghề… Thời gian qua, đầu tư của Nhà nước cho các chính sách giảm nghèo tại An Giang ngày càng tăng, huy động được nhiều nguồn lực chăm lo cho các đối tượng khó khăn trong cuộc sống. Hầu hết các chính sách, chương trình đã được thực hiện có hiệu quả, với sự quan tâm của các cấp, ngành và được nhân dân đồng tình ủng hộ; góp phần ổn định đời sống cho người dân, tăng thu nhập, giảm tỷ lệ thiếu việc làm, giảm tỷ lệ hộ nghèo; bước đầu chuyển đổi cơ cấu và chất lượng lao động theo hướng tích cực. Tuy vậy, nhiều vùng, địa phương trong tỉnh cũng còn khó khăn nên công tác xóa đói giảm nghèo luôn được coi trọng cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Chợ Mới là huyện cù lao của tỉnh An Giang, mặc dù đến nay tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện đã đạt được nhiều thành tựu, người nghèo trên địa bàn huyện đã tiếp cận được cơ bản các điều kiện phúc lợi xã hội song mức thu nhập vẫn còn nằm ở mức thấp, hộ nghèo hàng năm có giảm nhưng thiếu bền vững, tái nghèo và phát sinh nghèo còn nhiều, đời sống nhân dân còn 1
  4. gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, công tác giảm nghèo của huyện còn nhiều khó khăn, thách thức, tỷ lệ hộ nghèo giảm chưa đồng đều, vẫn còn nhiều nơi tỷ lệ nghèo ở mức cao. Chính sách giảm nghèo còn chồng chéo, phân tán, thiếu tính hệ thống, nhiều chính sách chưa khuyến khích người nghèo tích cực vươn lên thoát nghèo; cơ chế phối hợp, chỉ đạo, điều hành ở các cấp còn nhiều hạn chế; chưa phát huy được vai trò tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia tổ chức các hoạt động giảm nghèo ở cơ sở; chưa khơi dậy được tiềm năng thế mạnh của địa phương, sự tham gia chủ động, tích cực, sáng tạo của người dân, của cộng đồng cùng nhau vươn lên thoát nghèo. Với các lý do trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp cho chuyên ngành Chính sách công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong quá trình nghiên cứu, đề tài cũng đã kế thừa một số thông tin, kết quả của một số đề tài nghiên cứu khoa học trước đây, có thể kể đến như: “Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về giảm nghèo ở Việt Nam” được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội thông qua Dự án Hỗ trợ giảm nghèo bền vững (PRPP) bởi nhóm chuyên gia của Viện Nghiên cứu và Tư vấn phát triển (RCD) gồm: Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Văn Thục, Nguyễn Việt Nga và Nguyễn Thanh Phương nhằm đánh giá tổng quan kết quả chính của các nghiên cứu trong giai đoạn 2005-2013 về giảm nghèo ở Việt Nam thông qua những thành tựu đạt được, hạn chế, cũng như những bất cập kể từ khi xây dựng chính sách cho đến khi tổ chức thực hiện; trên cơ sở đó đưa ra 12 khuyến nghị mang tầm vĩ mô phục vụ cho hoạt động giám sát của Quốc hội, từ đó có biện pháp điều chỉnh chính sách giảm nghèo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Với tập sách chuyên khảo về “Chính sách xóa đói giảm nghèo - Thực 2
  5. trạng và giải pháp” của PGS.TS. Lê Quốc Lý chủ biên, xuất bản năm 2012: Tác giả đã tổng hợp, phân tích cụ thể những vấn đề lý luận về xóa đói giảm nghèo, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về xóa đói giảm nghèovà thực tiễn về tình hình nghèo đói, về công tác xóa đói giảm nghèo trên thế giới và ở Việt Nam. Thực trạng áp dụng một số chương trình, chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn từ 2001-2010 qua đó đánh giá tổng quát tình hình và kết quả thực hiện các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo ở nước ta trong thời gian qua, định hướng và mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam từ đó đề ra những giải pháp phù hợp có hiệu quả áp dụng thực hiện trong thời gian tới. Cuốn sách đã bổ sung nhiều kinh nghiệm, cách làm hay, các mô hình hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện, những luận cứ quan trọng cho công tác hoạch định chính sách xóa đói, giảm nghèo rất hữu ích cho việc nghiên cứu, học tập và triển khai thực hiện công tác giảm nghèo ở các địa phương. “Chính sách giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn (2012): Đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chính sách giảm nghèo ở Việt Nam; thực trạng áp dụng các chính sách giảm nghèo ở Việt Nam; nghiên cứu kết quả đạt được của từng chính sách, đánh giá những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân; đưa ra định hướng hoàn thiện chính sách giảm nghèo đến năm 2020. Một số đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công như: “Chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” của Mai Tấn Tuân (2015); “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Dương” của Phạm Bình Long (2017). Nhìn chung các đề tài tập trung nghiên cứu một số lý luận chung về chính sách giảm nghèo bền vững; kết quả đạt được của từng chính sách và những hạn chế, tồn tại trong thực hiện công tác giảm nghèo bền vững trên địa bàn của mình, từ đó đề ra các giải pháp thực hiện tốt hơn và hoàn thiện các chính sách 3
  6. giảm nghèo bền vững. Nguyễn Ngọc Ánh, “Tìm hiểu thực trạng xóa đói giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2011 đến nay”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm ngành giáo dục chính trị Trường Đại học An Giang 2008, khóa luận đã góp phần hệ thống hóa chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta chỉ ra những thành công cũng như các bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực thi các chính sách này ở huyện Chợ Mới và trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp góp phần thực hiện tốt các chính sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới. Các công trình nghiên cứu trên từ những gốc độ khác nhau tuy có đề cập đến công tác giảm nghèo nhưng mới chỉ đề cập đến các vấn đề xóa đói, giảm nghèo Việt Nam ở tầm lý luận và thực tiễn áp dụng ở các địa phương, mỗi vùng khác nhau tạo tiền đề nghiên cứu, phát triển, đánh giá cho việc áp dụng thực hiện ở địa phương có tính khả thi hơn. Mặt khác, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện các chính sách giảm nghèo đang triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh An giang nói chung và huyện Chợ Mới nói riêng. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu nêu trên để làm luận văn thạc sỹ là hoàn toàn mới và không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng, thực tiễn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, tìm ra những bất cập trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giảm nghèo bền vững, các tiêu chí đánh 4
  7. giá, xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo và các chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam hiện nay. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, từ đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện ở địa phương. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá việc xây dựng, triển khai và kết quả thực thi các chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang dưới gốc độ chính sách công. 4.2. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững và thực trạng thực hiện chính sách này tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. * Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 . Về không gian: tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cũng như chế độ, chính sách, giải pháp của các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh An Giang về chính sách công nói chung và chính sách giảm nghèo bền vững nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra khảo sát: Đề tài sử dụng phương pháp điều tra 5
  8. khảo sát các hộ nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Phương pháp này giúp cho tác giả nghiên cứu tìm ra những thông tin thực tế, khách quan để qua đó tìm ra những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thi hành các chính sách, và đây là những căn cứ cần thiết cho những kết luận nghiên cứu khoa học. Phương pháp phân tích tổng hợp: Từ việc thu thập số liệu khảo sát trên, tác giả sẽ phân tích chi tiết từng nội dung khảo sát để đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Bên cạnh đó, trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu thu thập được, tác giả nghiên cứu sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên bình diện khoa học chính sách công và từ đó có những đề xuất phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Phương pháp nghiên cứu thu thập tài liệu: Tài liệu nghiên cứu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như: các sở, ban ngành tỉnh An Giang đặc biệt là sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các văn bản pháp luật có liên quan (Văn kiện, Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư của Chính phủ, Đảng, các bộ ngành liên quan...) và các bài báo, bài tham luận trên các trang Web, tạp chí khoa học,…Tài liệu thu thập được lựa chọn, thống kê, đánh giá, phân tích số liệu và so sánh, trên cơ sở đó, tổng hợp khái quát hóa, rút ra các kết luận phục vụ mục đích nghiên cứu. Phương pháp so sánh: tác giả sử dụng phương pháp so sánh việc áp dụng để đánh giá thực trạng trước và sau khi thực thi chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã hệ thống một cách khoa học các vấn đề lý luận về chính sách giảm nghèo bền vững và thực trạng áp dụng các chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Chợ Mới. Đồng thời đã rút ra một số kết luận, đề xuất giải pháp về thực hiện chính sách giảm nghèo ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang theo hướng bền vững, dài hạn, hướng đến chất lượng thực thi của chính sách giảm nghèo. 6
  9. 6.2 . Ý nghĩa thực tiễn Qua kết quả nghiên cứu thực trạng, luận văn làm rõ những mặt đạt được, chưa đạt được và nguyên nhân, cho thấy những vấn đề thực tiễn triển khai chính sách ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Thực tiễn việc thực hiện chính sách giảm nghèo ở cấp huyện góp phần cung cấp cơ sở cho các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong việc xác định vấn đề và chuẩn bị những giải pháp chính sách một cách cụ thể trong việc giảm nghèo bền vững. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 7
  10. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG 1.1. Các khái niệm liên quan đến giảm nghèo, chính sách giảm nghèo bền vững 1.1.1. Khái niệm về nghèo Trên thế giới có rất nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau về nghèo, tuy nó được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm hay định nghĩa nào hoàn chỉnh, thống nhất. Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh”. Với khái niệm “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương hay tiêu chí của một quốc gia”, của Ủy ban Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc về châu Á và Thái Bình Dương SCAP mà khái niệm này của SCAP đã được sử dụng làm cơ sở tiếp cận và xây dựng chuẩn nghèo ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Trên thực tế, do có sự tương quan khá chặt chẽ giữa mức thu nhập với mức độ tiêu dùng hay thỏa mãn những nhu cầu của con người; với xu hướng chung là mức thu nhập càng cao thì mức tiêu dùng càng cao và mức tiêu dùng này được hiểu là mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản càng cao, căn cứ mức 8
  11. thu nhập những năm qua cũng như tình hình kinh tế xã hội, quan niệm về nghèo được xác định như sau: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia. Người nghèo hoặc hộ nghèo là những người hoặc hộ có thu nhập (hoặc chi tiêu) bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo hoặc ngưỡng nghèo theo quy định. Trên thế giới đưa ra hai khái niệm nghèo tuyệt đối (hay nghèo cùng cực) và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối để chỉ những người, những hộ có mức thu nhập thấp hơn một chuẩn nghèo quy định được coi là mức thấp nhất. Ngân hàng Thế giới đưa ra mức chuẩn nghèo tuyệt đối hiện nay là thu nhập bình quân đầu người dưới 2 USD/người/ngày (theo sức mua tương đương). Chuẩn nghèo tuyệt đối còn được gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm và thường được xác định bằng giá trị của một rổ hàng lương thực - thực phẩm thiết yếu để đảm bảo khẩu phần ăn duy trì với nhiệt lượng tiêu dùng khoảng 2.100 kcal/người /ngày. Còn nghèo tương đối là việc cung cấp không được đầy đủ các nhu cầu về vật chất và phi vật chất cho những nhóm người nhất định trong xã hội so với mức độ sung túc của xã hội. Như vậy, nghèo tương đối không chỉ xác định về mức nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm mà còn cả về mức chi tối thiểu cho các nhu cầu khác gồm nhà ở, quần áo, đồ dùng gia đình, học tập, văn hóa, giải trí, y tế, đi lại, thông tin liên lạc,... Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ mức chuẩn nghèo trở xuống. Tỷ lệ hộ nghèo là tỷ lệ (%) số hộ nghèo so với tổng số hộ hiện có. Tỷ lệ hộ nghèo có thể tính cho cả nước, theo khu vực (thành thị và 9
  12. nông thôn), theo các vùng kinh tế và theo tỉnh, thành phố Như vậy, chuẩn nghèo có thể cũng có sự khác nhau giữa các nước, chuẩn nghèo cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể và thay đổi theo thời gian, không gian và trình độ phát triển của mỗi nước. Nghèo có thể được xem xét chia thành các mức khác nhau: Nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại…Khái niệm này nhằm vào phúc lợi kinh tế tuyệt đối của người nghèo, được xếp theo cách tiếp cận “đáp ứng nhu cầu cơ bản tối thiểu” Nghèo tương đối: là sự thiếu hụt của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng tại một thời điểm nhất định. Tiếp cận này cho thấy nghèo khổ là khái niệm thay đổi theo không gian và thời gian, tập trung vào phúc lợi của tỷ lệ số dân nghèo nhất, có tính đến mức phân bổ phúc lợi của toàn xã hội. Ở Việt Nam, qua nhiều thập niên cho thấy cách đo lường và đánh giá nghèo chủ yếu thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu duy trì cuộc sống ở một khu vực tại một thời điểm nhất định. Nếu người có thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì được đánh giá thuộc diện hộ nghèo. Đây là chuẩn nghèo đơn chiều do Chính phủ quy định. Tại kỳ họp lần thứ 7, Quốc hội khóa 13 để thực hiện được mục tiêu giảm nghèo hiệu quả và bền vững, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 76/2014/QH13 về việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, tiếp tục xây dựng kế hoạch, đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách về giảm nghèo theo hướng đa chiều, trong đó nêu rõ: “Xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu (thu nhập) và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản”. 10
  13. Vấn đề nghèo đa chiều có thể đo bằng tiêu chí thu nhập và các tiêu chí phi thu nhập. Sự thiếu hụt cơ hội, đi kèm với tình trạng suy dinh dưỡng, thất học, bệnh tật, bất hạnh và tuyệt vọng là những nội dung được quan tâm trong khái niệm nghèo đa chiều. Thiếu đi sự tham gia và tiếng nói về kinh tế, xã hội hay chính trị sẽ đẩy các cá nhân đến tình trạng bị loại trừ, không được thụ hưởng các lợi ích phát triển kinh tế - xã hội và do vậy bị tước đi các quyền con người cơ bản (UN, 2012: 5). Tuy nhiên, chuẩn nghèo đa chiều có thể là một chỉ số không liên quan đến mức thu nhập mà bao gồm các khía cạnh khác liên quan đến sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (Oxfam và ActionAid, 2010: 11). Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) của quốc tế, với ba chiều cạnh chính là: y-tế, giáo dục và điều kiện sống, hiện là một thước đo quan trọng nhằm bổ sung cho phương pháp đo lường nghèo truyền thống dựa trên thu nhập. Các khái niệm trên cho thấy sự thống nhất cao của các quốc gia, các nhà chính trị và các học giả với quan điểm nghèo là một hiện tượng đa chiều, cần được chú ý nhìn nhận là sự thiếu hụt hoặc không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Nghèo đa chiều là tình trạng con người không được đáp ứng ở mức tối thiểu các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống. Khái niệm nghèo đa chiều được đề cập ở Việt Nam từ năm 2013. Đo lường nghèo đa chiều cần được áp dụng để dựng nên một bức tranh đầy đủ và toàn diện hơn về thực trạng nghèo ở nước ta. Hiện nay Bộ LĐ-TB&XH đang đề xuất xây dựng bộ tiêu chí nghèo đa chiều, đồng thời rà soát cơ chế, chính sách nhằm thực hiện giảm nghèo theo hướng đa chiều ở Việt Nam. Để xác định chuẩn nghèo căn cứ vào:chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ LĐ-TB&XH công bố và chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân Hàng thế giới. Hiện nay, việc áp dụng chuẩn nghèo ở nước ta hiện nay chủ yếu do Bộ LĐ-TB&XH đưa ra. Chuẩn nghèo này được tính toán dựa vào nhu cầu chi 11
  14. tiêu cơ bản của lương thực, thực phẩm (nhu cầu ăn hàng ngày) và nhu cầu chi tiêu phi lương thực, thực phẩm (mặc, nhà ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại, giao tiếp xã hội). Tuy có nhiều quan niệm và định nghĩa về nghèo khác nhau nhưng về bản chất tiêu chí chung để xác định nghèo đó là mức thu nhập để thỏa mãn nhu cầu sống cơ bản của con người: ăn uống, học tập, khám chữa bệnh….gọi chung là dịch vụ xã hội. Và tác giả thống nhất với quan điểm mà Bộ LĐ- TB&XH đã công bố và sử dụng nó trong nội dung luận văn của mình: “Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng hoặc dưới mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện”. 1.1.2. Khái niệm về giảm nghèo Mục tiêu của nước ta luôn hướng đến là:“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, nhưng để đạt được điều đó thì đòi hỏi phải chú trọng đến công tác giảm nghèo, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác giảm nghèo, nâng cao mức sống cho nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhằm tạo bước chuyển biến tăng nhanh thu nhập, cải thiện điều kiện sinh hoạt và chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Giảm nghèo ở đây bao gồm cả xóa đói và giảm nghèo đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp, giảm nghèo bền vững gắn với phát triển, tăng trưởng kinh tế, vì người nghèo, làm cho người nghèo được hưởng lợi càng nhiều từ kết quả tăng trưởng đó. Giảm nghèo được xem là chủ trương, định hướng, mục tiêu cho sự phát triển của đất nước, một đất nước không thể phát triển khi người dân còn nghèo đói. Giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, Chính phủ hay bất cứ một bộ, ngành, cơ quan, tổ chức nào. Đó là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội. 12
  15. Tóm lại, giảm nghèo là tổng thể các giải pháp, chính sách của nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo, nhằm tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo,mức thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Hay nói cách khác là sự gia tăng về mức tiếp cận các dịch vụ xã hội của người dân, từ lựa chọn ít sang lựa chọn nhiều, từ thiếu thốn sang hoàn thiện, đầy đủ. 1.1.3. Khái niệm về giảm nghèo bền vững Giảm nghèo bền vững đã được một số nghiên cứu đề cập sử dụng khá lâu nhưng đến nay vẫn chưa có khái niệm rõ ràng. Cho đến năm 2008 cụm từ “giảm nghèo bền vững” mới được đưa vào sử dụng trong các văn bản hành chính cho đến nay, cụ thể như sau: Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo; Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 8/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015 Nghị quyết số 15 -NQ/TW ngày 10/6/2012, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thức. Tóm lại, giảm nghèo bền vững là thực hiện và duy trì các biện pháp giảm nghèo, trong đó tập trung vào các hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo có tư liệu và phương tiện để sản xuất, nâng cao thu nhập để tự vượt qua nghèo đói; tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, nước sạch; giảm thiểu rủi ro do thiên tai, bão lụt và tác động tiêu cực của quá trình cải cách kinh tế, bảo đảm thoát 13
  16. nghèo bền vững hay không tái nghèo. Mục đích rất rõ ràng của giảm nghèo bền vững chính là đảm bảo hay duy trì thành quả giảm nghèo một cách lâu dài, bền vững. Việc giảm nghèo phải đảm bảo được sự phát triển một cách bền vững và chắc chắn trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. 1.1.4. Khái niệm về chính sách, chính sách công Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...”. Theo định nghĩa này thì mục đích của chính sách công là thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề công. Nói cách khác, chính sách công là công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị của nhà nước. Theo TS. Nguyễn Hữu Hải cho rằng: “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” Theo PGS.TS Lê Chi Mai cho chính sách công “là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế-xã hội theo mục tiêu xác định” Theo TS. Nguyễn Thị Hoa thì cho: “Chính sách công là tập hợp các quyết định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hướng đến các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm phục vụ cho lợi ích công, cho sự phát triển của xã hội” Theo PGS.TS Hồ Việt Hạnh thì: “Chính sách công là những quyết định của chủ thể đựơc trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề về lợi ích chung của cộng đồng”. Từ nghiên cứu những cách tiếp cận trên đây về chính sách công của 14
  17. các tác giả, có thể đưa ra khái niệm về chính sách công như sau: Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định. Ở nước ta, chính sách công liên quan đến nhiều loại văn bản chính sách khác nhau, bao gồm cả Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định, Chiến lược, Quy hoạch và Kế hoạch của các cơ quan trung ương và địa phương, các chương trình, dự án của Nhà nước. 1.1.5. Khái niệm chính sách giảm nghèo bền vững Chính sách giảm nghèo bền vững là hệ thống chính sách được tích hợp trong nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật khác nhau ở Trung ương và địa phương, nhưng tập trung nhất trong 02 Chương trình mục tiêu quốc gia đó là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới. Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững đã được thực hiện bởi hai giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020. Hay nói cách khác, chính sách giảm nghèo bền vững là thái độ, quan điểm, là các quyết sách, quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước về giảm nghèo bền vững với mục tiêu, giải pháp công cụ cụ thể nhằm nâng cao mức sống của người dân. 1.2. Các tiêu chí đánh giá hộ nghèo và giảm nghèo bền vững: 1.2.1. Các tiêu chí đánh giá hộ nghèo Căn cứ theo Quyết định 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Chính phủ các tiêu chí để đánh giá hộ nghèo, hộ cận nghèo được áp dụng như sau: Thứ nhất, tiêu chí về thu nhập: Chuẩn mức sống tối thiểu: từ 1.3 triệu đồng/người/tháng trở xuống ở thành thị và 1 triệu đồng/người/ tháng tại nông thôn. Chuẩn nghèo chính sách: từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống tại thành thị và 800.000 đồng/người/ tháng tại nông thôn. 15
  18. Chuẩn mức sống trung bình: từ 1.95 triệu đồng/người/tháng trở xuống và 1.5 triệu đồng/người/tháng ở nông thôn. Thứ hai, tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: Về tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, quyết định nêu rõ, các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm 5 dịch vụ: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ số) bao gồm: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. Ngưỡng thiếu hụt đa chiều đối với một hộ gia đình là từ 1/3 tổng điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. Như vậy, Dựa vào 2 tiêu chí trên để xác định mức chuẩn nghèo, hộ nghèo là hộ đáp ứng 1 trong 2 tiêu chí sau: Hộ nghèo: - Khu vực nông thôn: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. - Khu vực thành thị: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống. + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. Hộ cận nghèo: Ở khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 16
  19. 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Ở khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. 1.2.2. Các tiêu chí đánh giá giảm nghèo bền vững Để đánh giá việc giảm nghèo có bền vững hay không thì không chỉ căn cứ vào số lượng hộ nghèo giảm, điều kiện thực tế của địa phương mà cần quan tâm đến nhiều yếu tố khác nhau. Cụ thể để được xem là giảm nghèo bền vững cần phải đạt các yếu tố: Về dịch vụ xã hội: mức độ thiếu hụt tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản một cách chủ động: Họ được tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật theo chính nhu cầu của họ; họ có được tiếng nói của bản thân trong các hoạt động mà không bị chi phối về các yếu tố. Việc tiếp cận dịch vụ xã hội có vai trò quan trọng trong giảm nghèo bền vững, nhất là mức độ cải thiện trong khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế - giáo dục, đối tượng nghèo nếu được tiếp cận với dịch vụ này thì họ được trang bị nguồn kiến thức cũng như sức khỏe để vươn lên với cuộc sống, họ trang bị cho bản thân đủ kiến thức để nắm bắt với nhu cầu định hướng phát triển của xã hội về kinh tế. Mức thu nhập: gia tăng thu nhập đầu người, đây là tiêu chí căn bản dủng để đánh giá khả năng năng cao mức sống của người dân tại những khu vực áp dụng chính sách giảm nghèo bền vững. tiêu chí này tác động mạnh đến các dịch vụ xã hội, khi thu nhập ổn định họ không phải lo về cái ăn cái mặc thì họ sẽ quan tâm về vấn đề phát triển xã hội, các nhu cầu khác như văn hóa, tinh thần. Không có nguy cơ tái nghèo trong thời gian dài: Thỏa mãn hai yếu tố trên thì sẽ không có nguy cơ tái nghèo, họ hoàn toàn không bị ảnh hưởng 17
  20. nặng bởi các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh… Họ có thể khó trong một giai đoạn nhưng không quay lại mức nghèo. Đây chính là yếu tố đánh giá có bền vững hay không? Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách giảm nghèo bền vững: Trong những năm qua, chủ trương giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đạt được nhiều thành tựu quan trọng và kinh nghiệm trong xây dựng và tổ chức thực hiện. Giảm nghèo bền vững đã trở thành chính sách nền tảng, xuyên suốt, luôn được cập nhật, bổ sung trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 đã xác định: “Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, không ngừng cải thiện đời sống và chất lượng dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số”, “thực hiện có hiệu quả chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ bền vững; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn”. Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” được quy định tại điều 34 và điều 59 quy định “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”. Luật Giáo dục quy định miễn học phí cho học sinh cấp trung học cơ sở theo lộ trình; các nhóm đối tượng sinh viên, học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập dạy nghề. Hỗ trợ hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại khu vực nông thôn; hộ gia đình tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu; người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị…theo quy định tại điều 49 Luật Nhà ở năm 2014. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2