Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang
lượt xem 11
download
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang gồm các nội dung: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em; Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em tại An Giang; Một số giải pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THÙY TRANG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THÙY TRANG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH HÀ NỘI, 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xâm hại tình dục trẻ em đã và đang xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới, đang là vấn đề nổi cộm và gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội hiện nay. Xâm hại tình dục (XHTD) trẻ em gây ra những tổn thương nghiêm trọng, lâu dài đối với trẻ em trên nhiều phương diện, gây nhiều hậu quả nặng nề tới sự phát triển của xã hội. Hậu quả của trẻ bị XHTD từ nhỏ về thể chất phải mang thương tật suốt đời; về tâm lý như trẻ luôn cảm thấy căng thẳng lo lắng, cô đơn, không tự tin, nghi ngờ mọi người xung quanh; có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, hành vi tiêu cực như hung hăng, phá phách, ngỗ ngược, luôn tìm cách gây hấn với những đứa trẻ khác; những trẻ này lớn lên sẽ khó hòa nhập với môi trường sống. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ năm 1990, ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em từ năm 2004. Đặc biệt, Luật trẻ em (được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 05/4/2016 tại kỳ họp thứ 11) và có hiệu lực thi hành vào 01/6/2017 đã quy định cụ thể các quyền và bổn phận của trẻ em; các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Cụ thể, Điều 25 trong Luật Trẻ em có quy định quyền được bảo vệ để không bị XHTD. Tuy nhiên, tình trạng xâm hại trẻ em hiện nay đang đưa ra con số báo động. Giai đoạn 2011 – 2015 xảy ra 5.300 vụ việc xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu là với trẻ em gái. Theo báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em giai đoạn 2016 - 2019 của Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng – Quốc hội khóa XIV, có 6.432 trẻ em bị XHTD, chiếm 73,85% tổng số trẻ em bị xâm hại [57]. Trẻ em có thể gặp nguy cơ bị xâm hại ở bất cứ nơi đâu, có thể là trên sân chơi, ở trường học, nhà người thân quen, thậm chí trong chính ngôi nhà của mình. Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt, thầy giáo…[25] Có nhiều nguyên nhân dẫn đến gia tăng trẻ bị XHTD như do vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục (BVCS&GD) trẻ em của gia đình, cộng đồng chưa được coi 1
- trọng; kiến thức và kỹ năng BVCS&GD trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ em chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn hạn chế; trẻ em dễ trở thành nạn nhân của XHTD; sự thiếu hiểu biết về pháp luật, lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm của một số gia đình đã tạo ra sự mất an toàn cho trẻ ngay trong chính gia đình của mình. Bản thân các em cũng chưa được nhà trường và cha mẹ trang bị những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ mình [30]. Về mặt xã hội, các loại hình dịch vụ chăm sóc, vui chơi giải trí dành cho trẻ hiện nay còn rất thiếu thốn, làm cho trẻ em dễ bị dụ dỗ với các hoạt động giải trí do những kẻ xâm hại tạo ra; việc quản lý về văn hóa thông tin còn bất cập trước sự xuất hiện của hàng loạt các loại hình văn hóa phẩm không lành mạnh, phim ảnh ngoài luồng có tính chất bạo lực, khiêu dâm dễ đánh thức sự tò mò của các em… Đối với tỉnh An Giang, những năm gần đây, cùng với việc triển khai thực hiện Luật Trẻ em 2016 và các quy định của Nhà nước, công tác phòng, chống XHTD trẻ em đã được quan tâm. Tuy nhiên, nguy cơ xâm hại trẻ em nói chung, XHTD trẻ em nói riêng, nhất là trẻ em nữ vẫn còn rất nghiêm trọng. Cụ thể từ năm 2016 đến năm 2019, có 198 trẻ em bị xâm hại (191 trẻ bị xâm hại là nữ, 07 trẻ bị xâm hại là nam), trong đó có 147 trẻ bị XHTD, 01 trẻ bị xâm hại bằng hành vi bạo lực, 01 trẻ bị mua bán và 49 trẻ bị xâm hại bằng các h́ nh thức khác; các vụ việc xâm hại đã khiến 01 trẻ em có thai, 04 trẻ em phải bỏ học [18]. Trong khi đó, các nghiên cứu về việc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em từ cách tiếp cận chính sách công còn ít được thực hiện, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Để góp phần cùng với Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi trẻ em, đồng thời nhằm bổ sung thêm kiến thức cho bản thân, tôi lựa chọn đề tài: Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ emtrên địa bàn tỉnh An Giang, nghiên cứu để làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xâm hại tình dục trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em là vấn đề đang được các nhà lãnh đạo, quản lý và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề XHTD trẻ em; phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở nhiều mức độ và phạm vi khác nhau. 2
- 2.1. Công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em Một số nghiên cứu đã cung cấp bức tranh thực trạng đáng quan tâm về xâm hại trẻ em nói chung và XHTDtrẻ em nói riêng. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát – Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600 – 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ XHTD, số vụ mà trẻ em là nạn nhân chiếm 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12 – 15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề đáng báo động, chiếm tới 13,2% [31]. Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016 giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm 171 em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị XHTD: 1.397 em, so với năm 2016 tăng 186 trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư nguồn lực cho trẻ em [27]. Theo Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em” của Đoàn giám sát Quốc hội khóa XIV từ ngày 01/01/2015 - 30/6/2019, cả nước có tới 8.442 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, xử lý với 8.709 trẻ em bị xâm hại; trong đó, có 6.432 trẻ bị XHTD; 857 trẻ bị bạo lực; 106 trẻ bị mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt; 1.314 trẻ bị xâm hại bằng các hình thức khác. Đáng chú ý, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2019, số trẻ em bị xâm hại tăng đột biến, với 1.400 em, tính trung bình cứ mỗi ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm hại. Con số này khiến chúng ta không khỏi giật mình lo ngại trước vấn nạn xâm hại trẻ em đang diễn ra trong thời gian gần đây. Và trên thực tế, con số này còn cao hơn rất nhiều bởi có nhiều trường hợp trẻ em bị xâm hại nhưng chưa được phát hiện, xử lý kịp thời, nhất là các hành vi bạo lực gây tổn hại về thể chất và tinh thần cho trẻ em. Đối tượng XHTD trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt, thầy giáo, hàng xóm…[25]. Từ việc phân tích thực trạng các nghiên cứu cho thấy, bảo vệ trẻ em trước vấn nạn xâm hại là việc làm bức thiết, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, ngành, gia đình và toàn xã hội; cần tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, cơ chế chặt chẽ để phòng ngừa hiệu quả, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm đối với những hành vi 3
- xâm hại trẻ em để đảm bảo tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời, các cấp, các ngành cần tập trung giáo dục, nâng cao ý thức và kỹ năng phòng, XHTD trẻ em không chỉ với chính các em mà còn phải với người lớn để xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em thông qua các hoạt động truyền thông trong phòng, chống XHTD trẻ em, hoạt động giáo dục trong phòng, chống XHTD trẻ em, hoạt động phát triển kỹ năng trong phòng, chống XHTD trẻ em và hoạt động tư vấn trong phòng, chống XHTD trẻ em. 2.2. Các nghiên cứu, sách viết về kỹ năng, kiến thức phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em Sách “Phòng ngừa XHTD trẻ em” do Dự án tuổi thơ – Chương trình phòng ngừa do AusAID và Tổ chức tầm nhìn thế giới thực hiện với nội dung xoay quanh các vấn đề nhận thức và hiểu biết về XHTD trẻ em để từ đó cha mẹ có cách phòng ngừa phù hợp cũng như chuẩn bị cho bé cách tự bảo vệ bản thân trước những tình huống xấu xảy ra. Sách “Cẩm nang phòng tránh xâm hại cho con – Cha mẹ cần biết trước khi quá muộn” do tác giả Phạm Thị Thúy biên soạn năm 2017 cung cấp những hiểu biết cơ bản về vấn đề XHTD trẻ em, cách dạy trẻ phòng, chống XHTD, những điều cần làm khi thấy trẻ có dấu hiệu bị XHTD, tâm sự của những người từng bị XHTD … Các công trình khoa học trên đã góp phần quan trọng trang bị những kiến thức cơ bản về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ đề cập tới XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em trên phạm vi rộng, chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện lý luận và thực tiễn về XHTD trẻ em, phòng, chống XHTD trẻ em và nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em ở phạm vi địa phương An Giang. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị chính sách phù hợp với tình hình thực tế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ 4
- em trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần xác định các nhiệm vụ thực hiện của luận văn như sau: Thứ nhất, nghiên cứu Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013); Luật BVCS&GD trẻ em (2004); Luật Trẻ em (2016); Luật Hôn nhân - Gia đình (2014); các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và các văn bản có liên quan…. Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về phòng, chống XHTD trẻ em và lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Thứ ba, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. Thứ tư, đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc triển khai, thực hiện chính sách phòng, chống XHTDtrẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống XHTD trẻ em. 4.2. Khách thể nghiên cứu - Đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi). - Các cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại trẻ em nói chung, thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em nói riêng trên địa bàn tỉnh. - Cán bộ làm công tác BVCS&GD trẻ em tại địa phương. 4.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Tỉnh An Giang. - Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2016 – 2019. - Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận 5
- Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách phòng, chống xâm hại trẻ em nói chung, và chính sách phòng, chống XHTD trẻ em nói riêng. 5.2. Phương pháp cụ thể Luận văn sử dụng các phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích,… số liệu và dữ liệu có sẵn liên quan đến chủ đề nghiên cứu: các văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ ngành ở trung ương và địa phương; thu thập thông tin trên mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác như các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, kết hợp với trao đổi, thảo luận với 09 cán bộ đại diện cơ quan lãnh đạo, quản lý tham gia thực hiện chính sách về phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh: Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh, Công an tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) tỉnh, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) tỉnh, Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (TNCS) tỉnh; 04 cán bộ phụ trách công tác bảo vệ trẻ em, điều tra viên, kiểm sát viên cấp cơ sở. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng, chống XHTD trẻ em và thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em ở cấp độ địa phương. Nghiên cứu gợi ra những cách tiếp cận mới trong việc đánh giá tầm quan trọng trong thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trước vấn đề bức xúc hiện nay, từ đó nâng cao chất lượng công tác đối với các cơ quan quản lý, thực hiện chính sách tại địa phương cũng như hỗ trợ, giúp đỡ những kỹ năng phòng ngừa, ứng phó được các tình huống có thể xảy ra. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua việc tìm hiểu và phân tích thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang, nhằm đề ra những biện pháp thúc 6
- đẩy việc thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hoạt động thực tiễn trong công tác phòng, chống XHTD trẻ em. 7. Kết cấu của Luận văn Luận văn này ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu, có ba chương cụ thể như sau: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em tại An Giang. Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy hiệu quả thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em. 7
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM 1.1. Lý luận về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1.Trẻ em Việc tìm hiểu khái niệm trẻ em có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc vận dụng vào thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em. Trẻ em là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời mỗi con người. Tâm lý học cho rằng trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người. Ở giai đoạn này, cùng với sự phát triển về mặt thể chất thì phẩm chất tâm lý của trẻ em cũng dần hình thành và chịu sự ảnh hưởng khách quan của môi trường sống, xã hội và những người xung quanh. Ở lứa tuổi này các em chưa nhận thức đầy đủ được những nguy cơ trong cuộc sống trong đó có việc bị XHTD. Theo Điều 1 Công ước Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc thông qua ngày 20/11/1989 quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, quy định về độ tuổi của trẻ em là thấp hơn so với Công ước. Luật Trẻ em 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta và quốc tế không có quy định thống nhất về ranh giới giữa độ tuổi trẻ em và người lớn nhưng các văn bản pháp luật nước ta cũng như quốc tế đều xác định trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ và chăm sóc cũng như cần được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và toàn thể xã hội, cộng đồng nhằm tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Để trẻ em được phát triển toàn diện, đúng hướng thì người lớn cũng như xã hội phải tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần thuận lợi cho sự phát triển tâm, sinh lý của trẻ em. Trong nghiên cứu này khái niệm về trẻ em được xác định như sau: trẻ em là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, ở độ tuổi dưới 16. 8
- 1.1.1.2. Xâm hại tình dục trẻ em Khái niệm XHTD trẻ em, được hiểu một cách chung nhất là sự xâm phạm, động chạm đến quyền tự do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em. Trước đây, chúng ta hay dùng từ “lạm dụng tình dục”. Tuy nhiên, ở Việt Nam nghĩa của từ “lạm dụng” không sát nghĩa với thuật ngữ quốc tế sử dụng nên có thay đổi thành “xâm phạm tình dục”. Trong quá trình sử dụng, cụm từ này tiếp tục không phù hợp nên sau khi Quốc hội quyết định thay đổi thì cụm từ “xâm hại tình dục” được sử dụng từ năm 2010. Luật trẻ em 2016 đã nêu rõ tại Điều 4 “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [38]. Cụ thể hóa nội dung XHTD trẻ em trong Luật Trẻ em, Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, trong đó nêu rõ tại:“Điều 13. Trẻ em bị XHTD bao gồm các hành vi: 1.Trẻ em bị hiếp dâm. 2.Trẻ em bị cưỡng dâm. 3.Trẻ em bị giao cấu. 4.Trẻ em bị dâm ô. 5.Trẻ em bị sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”. Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm tất cả các hành vi tình dục không mong muốn có thể bao gồm cả hành vi xâm hại có tiếp xúc hay hành vi xâm hại không tiếp xúc. XHTDtrẻ em có thể xảy ra ở bất kì nền văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, thể chế chính trị nào. 1.1.1.3. Phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em Khi xã hội đang bức xúc và lên án hàng loạt những vụ ấu dâm, quấy rối tình dục trẻ em thì cha mẹ và những người chăm sóc trẻ đang loay hoay không biết làm cách nào để bảo vệ con mình, làm thế nào để có thể phòng, chống XHTD xảy ra. Phòng, chống XHTD chính là tổng thể các biện pháp về luật pháp, chính sách, thể chế, tổ chức, truyền thông nhằm giảm thiểu các trường hợp XHTD trẻ em và tác hại của nó. Các biện pháp phòng, chống XHTD trẻ em được thể hiện cả ở 3 cấp độ bảo vệ trẻ em như đã quy định ở Luật Trẻ em 2016, đó là cấp độ phòng ngừa (Điều 48), cấp độ hỗ trợ (Điều 49) và cấp độ can thiệp (Điều 50). Cụ thể, cấp độ phòng ngừa 9
- gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em. Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em và gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Có thể thấy rằng, hậu quả của tội phạm XHTD trẻ em là hết sức nghiêm trọng đối với bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội. Vì vậy, để phòng, chống loại tội phạm này một cách hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại có thể xảy ra cho xã hội, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau: Về chính sách nhà nước: Cần sự phối hợp và hỗ trợ đồng bộ cả các ban ngành tổ chức xã hội và cộng đồng; cần quan tâm công tác tổ chức bộ máy, bố trí nhân lực; Kiện toàn ban chỉ đạo, Ban điều hành và nhóm công tác liên ngành bảo vệ trẻ em cấp huyện, cấp xã; xây dựng và thực hiện Đề án bố trí, nâng cao năng lực, ổn định đội ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở ngoài địa phương; xác lập cơ chế phối hợp phòng, chống, xử lý vụ việc xâm hại trẻ em tại địa phương; xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng, chống XHTD và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết. Xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân che giấu, không thông báo, không tố cáo vụ việc, hành vi xâm hại trẻ em. Từ phía nhà trường: Nhà trường cần cung cấp cho trẻ em những kiến thức cơ bản nhất về giới tính. Có thể dạy cho trẻ em biêt rằng không ai được chạm vào “chỗ riêng tư” của trẻ. Dạy cho trẻ biết những hành vi lạm dụng tình dục là phạm pháp và quyền mình được bảo vệ và tự bảo vệ. Dạy cho trẻ hiểu thân thể là “tài sản riêng” của chúng. Trẻ có quyền từ chối những cái ôm hoặc những tiếp xúc gây khó chịu. Từ phía gia đình và cộng đồng: Cha mẹ không nên né tránh mà cần thường xuyên trò chuyện với con về vấn đề tế nhị. Khuyến khích con đặt câu hỏi về các vấn đề khác nhau trong cuộc sống cũng như câu hỏi về những vấn đề sâu kín. Bên cạnh 10
- đó, bố mẹ cần cố gắng tìm hiểu và hòa đồng với bạn bè của con, vì qua đó bố mẹ có thể có được những thông tin cần thiết. Cần dạy trẻ không bao giờ được đi vào chỗ kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu không có sự đồng ý của bố mẹ. Trang bị cho con biết cách phòng vệ, không mặc hở hang vì dễ gây kích thích sự ham muốn đối với những kẻ có ý xấu. 1.1.2. Đặc điểm xâm hại tình dục trẻ em 1.1.2.1. Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em Mọi trẻ em cộng đồng đều có nguy cơ bị XHTD kể cả những trẻ sống trong gia đình nghèo hay gia đình khá giả. Không những trẻ em gái mà trẻ em trai cũng có thể trở thành nạn nhân bị XHTD. Điều đáng nói là sau khi bị xâm hại, nạn nhân thường không hoặc không dám kể về những cái gì đã diễn ra với chúng. Hầu hết, những người XHTD là nam giới và hầu hết trẻ em bị xâm hại bởi người quen biết như họ hàng, bạn của người lớn trong gia đình hoặc hàng xóm… Đôi khi việc xâm hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài nhiều năm. Hành vi XHTD trẻ em được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, để thỏa mãn nhu cầu của người lớn hơn, không nhằm mục đích kiếm tiền như: cưỡng hiếp, sờ mó, vuốt ve vào chỗ kín của trẻ em, hôn trẻ em có tính chất gợi dục; cố ý phơi bày bộ phận kín của mình cho trẻ em nhìn thấy; để cho trẻ em nhìn thấy người lớn có cử chỉ yêu đương hoặc cho trẻ em nghe, xem các nội dung phim ảnh khiêu dâm, đồi trụy; nhìn trộm trẻ em tắm, để trẻ em làm mẫu hoặc trình diễn thời trang không mặc quần áo, ăn mặc hở hang. Ngoài ra, các hành vi sau cũng đều bị coi là hành vi XHTD trẻ em như: dùng tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích khác để dụ dỗ, lôi kéo trẻ em hoạt động mại dâm; dùng thủ đoạn nói dối, gian lận để trẻ em hoạt động mại dâm; dẫn, chỉ dẫn, môi giới, tổ chức xúi giục trẻ em hoạt động mại dâm; che giấu, cho thuê, mượn hoặc bố trí nơi để trẻ em hoạt động mại dâm; dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng uy quyền để ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm… [38]. 1.1.2.2. Biểu hiện của trẻ bị xâm hại tình dục Khi trẻ em bị xâm hại, các em thường sợ hãi, rất sợ nói với người lớn vì những kẻ xâm hại thường đe dọa không cho trẻ nói hoặc trẻ cảm thấy chúng đã làm điều đó sai hoặc các em chưa biết cách thể hiện những gì đã xảy ra. Do đó, để nhận biết trẻ có bị xâm hại hay không, chúng ta cần phải quan sát các dấu hiệu có thể [17] . 11
- - Về thể chất: trẻ có những vết thương ở bộ phận sinh dục hoặc xung quanh hậu môn, sưng tấy, phồng rộp, chảy máu ở miệng; quần áo lót có dính máu hoặc bị rách; trẻ khó đi tiểu hoặc đại tiện, trong nước tiểu có máu hoặc phân; có mủ bất thường ở âm đạo, dương vật, hậu môn, trẻ bị mang các bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục; trên cơ thể trẻ có các vết thương thâm tím, đau đầu hoặc đau bụng. - Trẻ bị XHTD có thể: ít tắm hoặc tắm rửa nhiều hơn thường lệ, hay thay quần áo; chơi với những trẻ khác hoặc chơi đồ chơi theo kiểu tình dục một cách hiểu biết hơn hoặc thường xuyên hơn so với lứa tuổi của chúng; biết nhiều về tình dục hơn các bạn cùng lứa. - Các biểu hiện về tâm lý: trẻ bị XHTD thường rất cảnh giác, sợ hãi, nhạy cảm hoặc đột ngột sợ một ai đó, một nơi nào đó hoặc chỉ muốn đi cùng với bố mẹ; trẻ có biểu hiện thu mình, kín đáo hoặc hầu như muốn ở một mình; có những biểu hiện, hành động theo cách giống như trẻ nhỏ hoặc lứa tuổi nhỏ hơn; trở nên hung hãng và bạo lực; cố gắng chạy ra khỏi nhà; luôn cảm thấy buồn hoặc không bày tỏ bất kỳ một cảm xúc nào; trẻ trở nên khó ngủ, khóc hét, thức giấc đêm vì bị các cơn ác mộng, sợ bóng tối hay đái dầm; trẻ tỏ ra sợ hãi khi bị sờ vào người hoặc sợ thực hiện các hoạt động thể chất. Các dấu hiệu nêu trên có thể hiện một cách rõ ràng hoặc không rõ ràng. Và ở mỗi trường hợp trẻ em bị XHTD, các biểu hiện lại khác nhau. Cả trẻ em trai và trẻ em gái, cả trẻ em sống trên đường phố hay những trẻ em sống cùng gia đình. 1.1.2.3 Các vấn đề gặp phải của trẻ bị xâm hại tình dục trẻ em Cho dù sử dụng bạo lực, sự đe dọa hay lòng tốt để bắt trẻ thực hành hành vi XHTD thì hậu quả của việc xâm hại này đều gây tổn thương cho trẻ ở các mức độ khác nhau. Sự XHTD làm tổn thương trẻ vào thời điểm khi hành vi xâm hại diễn ra và có thể tiếp tục gây tổn thương nạn nhân trong suốt quãng đời còn lại của trẻ đặc biệt đối với những trẻ không thể kể về sự xâm hại này hoặc không nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ hay trị liệu từ phía gia đình và xã hội. Về mặt thể chất, trẻ em bị XHTD có thể chịu tổn thương thể xác kéo dài do các bệnh như HIV/AIDS, viêm gang, lậu, giang mai và những bệnh lây lan qua đường tình dục khác… Nếu không được chữa trị có thể gây nên những vấn đề trong tương lai như có thai ngoài ý muốn, ung thư và tử vong do nhiễm trùng nặng. Ngoài 12
- ra, trẻ còn có thể chịu những tổn thương thể chất trong quá trình phản kháng lại hành vi XHTD: các tổn thương của bộ phận sinh dục. Với trẻ lớn hơn, nguy có thai được phát hiện muộn không phải là hiếm gặp. Với những trường hợp này, sức khỏe và tương lai của bà mẹ lẫn trẻ em thường ở trong tình trạng rất mong manh, khó khăn. Về mặt tâm lý, trẻ em bị XHTD thường sẽ cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, xấu xa, thất bại, cộc tính… Trẻ thường cho rằng mình là kẻ thất bại và nguy cơ trở thành tội phạm khi trưởng thành. Đặc biệt, nếu trẻ không được điều trị tâm lý kịp thời sau khi bi xâm hại thì rất dễ bị ám ảnh lâu dài và khi lớn lên có thể trở thành người đi XHTD trẻ em khác. Ngoài ra, trẻ bị XHTD khi còn nhỏ lớn lên có thể gặp vấn đề về giới tính của mình, nhiều đứa trẻ bị trầm cảm, rối loạn nhân cách… Điều đáng ngại là không phải lúc nào trẻ bị XHTD cũng thể hiện ra bên ngoài những tổn thương về tâm lý mà đôi khi, cơn sang chấn tâm lý phải sau nhiều năm mới thể hiện ra. Vì thế, phụ huynh thường khó phát hiện ra những bất thường của con em mình… Trẻ em bị XHTD có thể tiếp tục bị người khác xâm hại trong suốt quãng đời còn lại. Vì những trải nghiệm bị xâm hại khi còn là một đứa trẻ, chúng lớn lên và tin rằng tình dục là cách duy nhất để thể hiện cảm xúc và an toàn. Nghiêm trọng hơn, bị đối xử tồi tệ và XHTD có thể trở thành hình mẫu trong cuộc sống của chúng. Nếu không được hỗ trợ và giúp đỡ để có thể hàn gắn từ sự xâm hại, những đứa trẻ bị xâm hại có thể trở thành những người đi xâm hại khi chúng lớn lên. 1.1.3. Trẻ có nguy cơ bị xâm hại tình dục 1.1.3.1. Những trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục Tất cả các trẻ em đều có nguy cơ trở thành nạn nhân của XHTD không có sự phân biệt dân tộc, học vấn, điều kiện kinh tế, lứa tuổi, giới tính, đặc điểm cá nhân. Tuy nhiên, một số trẻ em thuộc các nhóm như: trẻ em sống trong các gia đình khó khăn, trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ; trẻ em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số; trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ… có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em khác và trẻ em gái có nguy cơ bị XHTD cao hơn trẻ em trai. - Nhóm trẻ em sống trong gia đình khó khăn, trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ: là các trẻ em sống trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói; trẻ có cha mẹ ly thân, ly dị, chỉ sống 13
- với cha hoặc mẹ hoặc sống với người thân, không sống cùng cả cha hoặc mẹ trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ hoặc mồ côi cả cha mẹ. Những trẻ này thường không được hoặc nhận được ít sự quan tâm chăm sóc từ gia đình, người thân. Chính vì thế, các em rất dễ trở thành đối tượng mà những kẻ đi xâm hại để ý, nhắm đến. - Nhóm trẻ em khuyết tật, chậm phát triển: là các trẻ em gặp vấn đề về sức khỏe ngoại hình như khuyết tật vận động, câm điếc, bại liệt hay các em mắc các chứng bệnh thần kinh, chậm phát triển trí tuệ… Các trẻ em này thường không có đủ nhận thức, sức khỏe cũng như khả năng tự bảo vệ, chăm sóc bản thân, phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác. - Nhóm trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số: là các trẻ em sống trong các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nghèo đói, giao thông, văn hóa, thông tin liên lạc kém phát triển, vùng dân tộc, miền núi, hải đảo… Trẻ sống trong các vùng này thường ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin, ít được quan tâm chăm sóc, giáo dục nên các em thường bị hạn chế về nhận thức, thiếu các kiến thức để có thể tự chăm sóc bản thân và bảo vệ mình, dễ trở thành nạn nhân của XHTD. - Nhóm trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ như trẻ em lang thang đường phố, trẻ em mồ côi, trẻ sống trong các khu có nhiều tệ nạn xã hội như nghiện hút ma túy, mại dâm… Các em dễ chịu tác động xấu từ môi trường sống và những người xung quanh, thiếu sự quan tâm của người lớn, dễ bị cám dỗ, sa ngã vào các tệ nạn xã hội, phát triển lệch lạc và rất dễ trợ thành trẻ em có nguy cơ bị XHTD. Như vậy, tất cả trẻ em đều có nguy cơ bị XHTD. Tuy nhiên, trẻ em gái và các trẻ em có nguy cơ bị XHTD cao hơn các trẻ em sống trong các gia đình khó khăn, trẻ em sống trong các gia đình khuyết thiếu chỉ có cha hoặc mẹ hoặc thiếu cả cha mẹ; trẻ em khuyết tật, chậm phát triển; trẻ em sinh sống ở các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số; trẻ em sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ, các trẻ em này còn hạn chế thể chất, trí tuệ và nhận thức. 1.1.3.2. Các đặc điểm của trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục Thiếu hiểu biết về vấn đề XHTD trẻ em - Trẻ em có nguy cơ bị xâm hại và gia đình trẻ thường gặp khó khăn khi tiếp cận các nguồn thông tin, kiến thức. Các trẻ em này sinh sống trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, éo le, phức tạp như bị khuyết tật, mồ côi cha mẹ, sống cùng 14
- với ông bà / người thân hoặc thuộc hộ nghèo, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa, sinh sống trong các khu vực có nhiều tệ nạn xã hội, nghèo đói… Do hoàn cảnh khó khăn nên các em và gia đình thường khó khăn hoặc ít cơ hội tiếp cận với các kênh thông tin như tivi, báo chí, internet hoặc tham gia các câu lạc bộ, lớp giáo dục kỹ năng hoặc cha mẹ, người thân do bận làm ăn kinh tế mà thiếu sự quan tâm đến con trẻ… mà đây là một trong những nguồn chính cung cấp các thông tin, kiến thức về quyền trẻ em, các thông tin về XHTD trẻ em, kỹ năng phòng, chống XHTD trẻ em… Chính vì ít cơ hội được tiếp xúc với các thông tin nên nhận thức của trẻ em và gia đình các em về vấn đề XHTD trẻ em rất hạn chế, trẻ em và gia đình thường không nhận biết được các mối nguy cơ để tự bảo vệ bản thân, bảo vệ con / em mình. Hoặc đối với các em là trẻ khuyết tật, nhiều em không đủ khả năng nhận thức để tiếp thu thông tin… Do vậy, các em rất dễ trở thành nạn nhân của kẻ đi xâm hại. Gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội. - Dịch vụ xã hội ở đây là các dịch vụ cơ bản như chăm sóc sức khỏe, tư vấn tâm lý, giáo dục cung cấp kiến thức kỹ năng tự bảo vệ bản thân, hỗ trợ pháp lý… Đối với các trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD, cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ xã hội thường khó hơn so với các trẻ em khác. Các em ít có cơ hội được chăm sóc y tế, cung cấp các kiến thức về sức khỏe sinh sản, được hỗ trợ tham vấn, tư vấn khi gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống. Đặc biệt, với các trẻ em ở độ tuổi mới lớn, trẻ thường thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, cách tự bảo vệ và chăm sóc bản thân hay còn đang tò mò về tình cảm tuổi mới lớn, các em rất cần được sự hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên, các em gặp khó khăn rất nhiều khi tiếp cận các dịch vụ xã hội này do khó khăn về kinh tế, do cha mẹ hoặc người thân thiếu hiểu biết, do gia đình không có điều kiện đưa các em đến gặp các chuyên gia tâm lý, thăm khám sức khỏe hay đến gặp các nhà tư vấn pháp lý để xin trợ giúp. Bản thân trẻ em và gia đình thiếu kỹ năng bảo vệ, chăm sóc. - Phần nhiều trẻ em có nguy cơ cao bị XHTD thường có hoàn cảnh gia đình éo le, phức tạp: nhà nghèo, cha mẹ không hạnh phúc, ly thân, ly hôn, trẻ sống cùng bố hoặc mẹ hoặc sống với ông bà, người thân khác. Cũng có trường hợp cha mẹ vì mưu sinh gửi trẻ cho ông bà, người thân trông nom… Chính vì thế, gia đình không 15
- có điều kiện quan tâm sát đối với trẻ. Do hoàn cảnh gia đình như vậy nên cha mẹ hoặc người lớn đều không có các kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ, không thường xuyên quan tâm, chú ý tới trẻ. Người lớn khi nhắc tới vấn đề xâm hại thường có tâm lý e ngại, nhạy cảm, né tránh sự việc, thiếu cởi mở, ngại tiếp cận với các thông tin, kiến thức, pháp luật về bảo vệ chăm sóc trẻ em dẫn tới thiếu các kỹ năng về bảo vệ cũng như chăm sóc trẻ. Một phần do không được quan tâm từ phía gia đình, một phần do không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tiếp cận với các nguồn thông tin… nên trẻ có nguy cơ bị XHTD thiếu các kỹ năng: từ các kỹ năng cơ bản như cách chăm sóc bản thân đến các kỹ năng để bảo vệ bản thân như tự nhận biết tình huống nguy hiểm, phản kháng, xử lý tình huống hay việc chia sẻ với người khác khi bản thân bị rơi vào các tình huống nguy hiểm… [30]. 1.2. Lý luận về thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em 1.2.1. Một số khái niệm 1.2.1.1. Thực hiện chính sách Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng [22] . Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Đây là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực. 1.2.1.2. Thực hiện chính sách phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em Thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em [38]. 1.2.1.3. Cán bộ làm công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em Cán bộ làm công tác phòng, chống XHTD trẻ em có thể gọi là người làm công tác xã hội, là người có trình độ chuyên môn, được trang bị kiến thức kỹ năng về công tác xã hội chuyên nghiệp và sử dụng, kiến thức, kỹ năng đó trong quá trình tác nghiệp trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng) có vấn đề xã hội giải quyết vấn đề gặp phải, vươn lên trong cuộc sống. 16
- Người làm công tác xã hội là những người được đào tạo một cách chuyên nghiệp về công tác xã hội để sử dụng những kiến thức và kỹ năng của mình để: giúp cho xã hội thấy rõ trách nhiệm của mình đối với sự phát triển chung của xã hội. Giúp thân chủ: cung cấp các dịch vụ xã hội; tăng cường khả năng giải quyết và đối phó với các vấn đề của mình; tiếp cận các nguồn lực; thiết lập những mối quan hệ thuận lợi giữa họ và môi trường của họ. 1.2.2. Lý thuyết ứng dụng trong thực hiện phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em 1.2.2.1. Thuyết nhu cầu Nhà tâm lý học Abraham Maslow Harold, một nhà tâm lý học người Mỹ, được xem là người tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn. Năm 1943, ông đã phát triển một trong những lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Maslow đã thiết lập một lý thuyết có thứ bậc của nhu cầu. Tất cả các nhu cầu cơ bản theo ông là bản năng, giống với bản năng của động vật. Nhu cầu của con người thành 5 bậc. Biểu đồ Tháp nhu cầu Maslow [29] Bậc thang nhu cầu cơ bản của Maslow được tóm lại bằng những ý chính như sau: - Nhu cầu sinh lý: đây là những nhu cầu sinh học, chúng bao gồm nhu cầu khí thở, thực phẩm, nước và cơ thể có nhiệt độ tương đối ổn định. - Nhu cầu an toàn: khi tất cả các nhu cầu sinh học được thỏa mãn và không còn làm cho con người lo lắng, bận tâm, thì cái nhu cầu cho sự an toàn có thể phát sinh. - Nhu cầu xã hội: khi nhu cầu về an toàn và sinh học được đáp ứng, nhu cầu kế tiếp là nhu cầu xã hội như tình cảm, tình yêu và được nhìn nhận xuất hiện. 17
- - Nhu cầu cần được tôn trọng: khi ba loại nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn, nhu cầu lòng tự trọng có thể phát sinh. - Nhu cầu tự chứng tỏ mình: khi tất cả các nhu cầu nói trên được thỏa mãn, thì nhu cầu muốn hiện thực hóa, tự chứng tỏ bản thân xuất hiện. Việc vận dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích rằng con người có rất nhiều nhu cầu cần đáp ứng. Ngoài các nhu cầu cơ bản như ăn, uống, mặc, đi lại thì nhu cầu được học tập, phát triển kỹ năng cho trẻ, cán bộ giáo dục và gia đình trẻ là nhu cầu cần thiết và cần ðáp ứng ngay. Chính vì vậy, muốn làm tốt công tác thực hiện chính sách phòng, chống XHTD trẻ em thì cần phân tích được nhu cầu của các trẻ em và gia đình nuôi dưỡng các em để có các giải pháp đáp ứng nhu cầu một cách phù hợp. 1.2.2.2. Thuyết hệ thống Lý thuyết hệ thống được sáng lập bởi L.V.Bertalanffy (1901-1972) người Áo, thuộc trường Đại học Tổng hợp Chicago, tiếp cận vấn đề hệ thống từ góc độ sinh học bởi theo ông: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”. Lý thuyết hệ thống cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là hệ thống, được tạo từ các hệ thống và ngược lại cũng là phần cứng của hệ thống lớn. Do đó, con người là một bộ phận của xã hội, đồng thời cũng được tạo nên từ các phần tử nhỏ hơn. Các hệ thống có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Khi một hệ thống thay đổi, kéo theo sự thay đổi của một hệ thống khác và ngược lại khi muốn thay đổi một hệ thống thì phải thay đổi hệ thống nhỏ tạo nên nó và thay đổi cả hệ thống bao trùm nó [24]. Ứng dụng thuyết hệ thống vào đề tài nghiên cứu nhằm mục đích giải thích rằng tình trạng XHTD trẻ em có thể bị ảnh hưởng của các yếu tố nằm trong một hệ thống lớn gồm một số tiểu hệ thống như xã hội, nhà trường, gia đình và cá nhân. Trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em, lý thuyết hệ thống chỉ ra sự tác động mà các tổ chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên trẻ em. Mỗi trẻ em đều có một môi trường sống và một hoàn cảnh sống, chịu tác động của các yếu tố trong môi trường sống và cũng tác động, ảnh hưởng ngược lại môi trường xung 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 65 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 71 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 81 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
72 p | 49 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh
70 p | 78 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
73 p | 37 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
77 p | 49 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
77 p | 46 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 33 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
70 p | 48 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn thành phố Phúc Yên- tỉnh Vĩnh Phúc
24 p | 51 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn