Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn tỉnh An Giang
lượt xem 7
download
Luận văn hướng tới hai mục đích chính đó là đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn tỉnh An Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ XUÂN LAN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ XUÂN LAN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. HỒ NGỌC TRƯỜNG HÀ NỘI, 2021
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài TG là một thực thể xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, trong quá trình hình thành và phát triển, các TG đã ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tự do TG là một trong những quyền tự nhiên của con người được pháp luật bảo vệ, đồng thời đó cũng là một mặt của giá trị dân chủ trên thế giới hiện nay. Nước ta là một quốc gia có nhiều tôn giáo, với trên 20 triệu người theo các tôn giáo khác nhau. Tín đồ các TG đa số là nhân dân lao động nên có tinh thần yêu nước, có ý thức gắn bó cùng dân tộc, dễ gần và đi theo cách mạng, nhiều chức sắc đã tích cực cùng khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, có lúc, có nơi do nhiều nguyên nhân và sự tác động nhiều mặt của tình hình thế giới, cũng như chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch... càng làm cho các hoạt động TG, tín ngưỡng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, có một số ít TG đã bị kẻ xấu lôi kéo, kích động đi ngược lại lợi ích của dân tộc và tổ quốc, cũng như lợi ích của đại đa số tín đồ. Trong các TG ở Việt Nam, PGHH là một TG nội sinh, ra đời ở tỉnh AG và ảnh hưởng chủ yếu ở các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long, có nhiều đặc điểm mang đậm tính văn hóa, tính cách của người dân Nam bộ. Dưới thời kỳ Việt Nam bị đế quốc xâm chiếm, PGHH với giáo lý dễ hiểu, lễ nghi đơn giản dễ thực hành, tỏ ra rất phù hợp với tâm lý của người dân vốn có trình độ văn hóa không cao, nên đã nhanh chóng được đông đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận, không ngừng tăng nhanh. Tuy nhiên, PGHH, cũng như các TG khác, đã bị chính trị hóa, bị các thế lực thù địch lợi dụng, chi phối nhằm thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng. Mặt khác, nội bộ PGHH cũng nảy sinh mâu thuẫn, chia rẽ sâu sắc. Năm 1999, PGHH được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, sự kiện này đã kịp thời động viên tinh thần, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo quần chúng có đạo. Từ khi được công nhận tư cách pháp nhân đến nay, 1
- với tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, tín đồ PGHH luôn phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tích cực phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm tốt công tác từ thiện nhân đạo,… đóng góp nhất định, thiết thực vào công cuộc xây dựng, phát triển quê hương đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, tu hành theo phương châm “Vì đạo pháp, vì dân tộc”. Tuy nhiên, ở một vài địa điểm vẫn còn một số tín đồ PGHH tham gia sinh hoạt, hoạt động TG chưa đúng tinh thần “Vì dân tộc”, chưa “Tuỳ tài, tuỳ sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở” như lời dạy của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Trên thực tế, vẫn còn nhiều vụ án, vụ việc liên quan đến PGHH gây không ít khó khăn trong công tác quản lý nhà nước của chính quyền, trong đó có một số đối tượng cực đoan ở An Phú gây mất an ninh trật tự trong nhiều năm qua. Các vấn đề như xây dựng cơ sở thờ tự không phép; xin lại, đòi lại, phục hồi lại cơ sở thờ tự; lợi dụng hoạt động từ thiện xã hội chính quyền chưa kiểm soát được,… đòi hỏi phải được giải quyết từ phương diện quản lý nhà nước đối với hoạt động của Giáo hội PGHH. AG là tỉnh có đông tín đồ PGHH và cũng là nơi ra đời của đạo PGHH, nên các chính sách liên quan đến PGHH lại càng được xem trọng. Bên cạnh những thành quả đã đạt được thì quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Với mong muốn đánh giá khách quan và trung thực kết quả cũng như quá trình thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh nên tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách tôn giáo đối với Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn tỉnh AG” làm luận văn thạc sĩ cho chuyên ngành CSC của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Như chúng ta đã biết TG và CSTG là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng và đây cũng là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tại Việt Nam, từ trước tới nay đã có nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến TG, công tác quản lý nhà nước về TG, chính sách về TG ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Để làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu, trong phần tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xin điểm qua các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài theo 2 nhóm chính như sau: 2
- 2.1. Nhóm những công trình nghiên cứu liên quan đến TG và chính sách TG Từ trước tới nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề TG và CSTG. Song trong luận văn này, chúng tôi chỉ điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Năm 2005, trong cuốn Một số TG ở Việt Nam tác giả Nguyễn Thanh Xuân đã đề cập đến các TG lớn ở Việt Nam như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, PGHH, Hồi Giáo. Riêng về PGHH, tác giả đã dành nhiều trang nói về quá trình hình thành và phát triển; về giáo lý, giáo luật; về sự phân hóa nội bộ dẫn đến sự thành các phái khác nhau và hoạt động liên quan đến lĩnh vực chính trị của TG này. Năm 2006, trong cuốn TG và chính sách TG ở Việt Nam của Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình bày khái quát về quá trình hình thành các TG ở Việt Nam, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, TG, kết quả việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, TG. Năm 2009, trong cuốn Tôn giáo - Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Đức Lữ đã trình bày một cách hệ thống về quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về TG; nhận thức, quan điểm của Đảng về TG từ năm 1930 đến năm 1986; nhận thức, quan điểm và chính sách đối với TG của Đảng và Nhà Nước ta trong thời kỳ đổi mới và đặc biệt là trong chương cuối của cuốn sách, tác giả đã tập trung trình bày về công tác quản lý Nhà nước đối với tôn giáo của Nhà nước Việt Nam hiện nay. Năm 2011, trong cuốn Tìm hiểu về Tôn giáo và chính sách đối với Tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Đức Lữ, tác giả đã nhìn nhận CSTG là “phương tiện, công cụ” của quản lý Nhà nước đối với hoạt động TG. Năm 2016, trong cuốn kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chính sách, pháp luật về Tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do Nxb Lý luận Chính trị xuất bản. Cuốn sách là kết quả của cuộc hội thảo lớn do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức nhằm đánh 3
- giá, làm rõ thành tựu và hạn chế của chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG của nước ta từ 1990 đến nay. Trong đó có nhiều bài viết đề cập đến quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề TG và công tác TG; chủ nghĩa xã hội và TG ở Việt Nam; nhà nước pháp quyền và TG; quyền tự do tín ngưỡng, TG trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; chính sách pháp luật của Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, TG ở Việt Nam hiện nay; những điểm mới trong dự thảo Luật tín ngưỡng, TG; vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc phản biện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng; phát huy nguồn lực - sức mạnh mềm của các TG trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Năm 2017, để đáp ứng nhu cầu của công tác TG và công tác quản lý TG Nhà nước đối với TG cũng như nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của đồng bào theo TG và những người quan tâm đến các vấn đề về TG, Ban Tôn giáo Chính phủ đã xuất bản cuốn Tài liệu giới thiệu luật tín ngưỡng, tôn giáo. Tài liệu đã trích dẫn đầy đủ nội dung của Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2016 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 01/12/2016. Ngoài ra, cuốn tài liệu này cũng phân tích sâu về sự cần thiết phải ban hành luật tín ngưỡng, tôn giáo, mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng luật, những điểm mới cơ bản của Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc biệt là năm 2019, trong cuốn giáo trình Tôn giáo và tín ngưỡng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do tác giả Đỗ Lan Hiền chủ biên đã cập nhật, bổ sung một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đời sống TG trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay, nhất là nhưng nội dung về TG được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị định của Chính phủ về TG và công tác TG những năm qua. Gần đây nhất là năm 2020 trong cuốn Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay do tác giả Hà Ngọc Anh chủ biên đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam; phân tích thực tiễn quản lý Nhà Nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam và đặc biệt là tác giả đã giành trọn vẹn một chương sách để trình bày các quan điểm, 4
- phương hướng và đề xuất giải pháp tăng cường quản lý Nhà Nước đối với hoạt động TG ở Việt Nam trong thời gian tới. Tóm lại, tuy những công trình nghiên cứu trên không đi sâu nghiên cứu về PGHH nhưng đó là những kiến thức nền tảng cung cấp cho chúng tôi một bức tranh khái quát về công tác TG và CSTG, góp phần định hướng cơ sở lý luận và đánh giá một cách toàn diện đối với vấn đề nghiên cứu của luận văn. 2.2. Nhóm những công trình nghiên cứu liên quan đến PGHH và chính sách TG đối với PGHH. PGHH là đề tài luôn thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học và quản lý. Do vậy từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu từ sách, các đề tài, các luận án, luận văn. Điển hình như: Về sách, Trước năm 1975, người ta biết đến PGHH thông qua một số tác giả trong giới lý luận của Hoà Hảo như: “Nguyễn Văn Hầu với các tác phẩm: “Nhận thức Phật giáo Hoà Hảo”, “Năm cuộc đối thoại về Phật giáo Hoà Hảo”, “Thất Sơn mầu nhiệm”, “Muốn về cõi Phật”,…các tác phẩm này nhằm giới thiệu cho người đọc hiểu khái lược về giáo lý, giáo luật, lễ nghi và việc “Tu Nhân - Học Phật” của Phật giáo Hoà Hảo. Sau năm 1975, hoạt động nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo đạt được nhiều kết quả khá quan trọng như công trình: “Một số Tôn giáo ở Việt Nam” của Ban Tôn giáo Chính phủ (1993). Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam bộ và Tôn giáo bản địa, Nxb TG, Hà Nội. Cuốn sách này vốn là kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học cấp Nhà nước, chỉ giới hạn ở việc khảo sát và kiến giải về đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ Hương và PGHH từ góc độ tâm lý. Tác giả đã dành một số trang nói về PGHH, song cũng chỉ là những miêu tả tóm tắt về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, khảo sát không nhiều về ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần ở Đồng bằng sông Cửu Long. 5
- Đoàn Nô (2007), PGHH ở Miền Tây Nam bộ, Nxb Văn hóa Sài Gòn. Công trình này bàn về lịch sử hình thành, phát triển của PGHH và ảnh hưởng ở miền Tây Nam bộ, còn ở An Giang tác giả hầu như chưa luận bàn. Về đề tài nghiên cứu, Năm 2001, Vụ Các Tôn giáo khác - Ban Tôn giáo Chính phủ có Báo cáo tổng quan đề tài “Khảo sát thực trạng Phật giáo Hoà Hảo - kiến nghị và chủ trương, chính sách”; Năm 2001, đề tài nhánh, “Thực trạng, xu hướng phát triển PGHH ở nước ta hiện nay” thuộc đề tài cấp Nhà nước “Xu hướng phát triển Tôn giáo ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với công tác lãnh đạo, quản lý” do Ts. Nguyễn Thị Nga - Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và Tôn giáo thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đi sâu, phân tích thực trạng chung của PGHH trong giai đoạn hiện nay, phân tích những xu hướng vận động chủ yếu, trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Đảng và Nhà nước đối với TG này. Năm 2012, đề tài khoa học Tổng kết lịch sử đấu tranh chống các thế lực thù địch phản động lợi dụng PGHH (1975 - 2010) do Cục A88 - Bộ Công an chủ trì thực hiện. Đề tài có nhiệm vụ: Khái quát lịch sử đấu tranh chống các thế lực phản động lợi dụng PGHH và rút ra các bài học kinh nghiệm từ công tác này. Viện Nghiên cứu khoa học - Bộ Công an có đề tài nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo ở cấp độ nghiệp vụ và kết quả nghiên cứu của công trình này nhận diện rõ nét hơn về tính chính trị và tính TG của PGHH từ khi ra đời đến khi có Nghị quyết số 24 (1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Về luận án, Phạm Bích Hợp với luận án Đời sống xã hội và tâm lý nông dân người Việt ở làng Hoà Hảo tại AG trước và sau 1975 đã tổng quan về PGHH với tư cách là một tổ chức TG (có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tín đồ), đời sống tâm lý của tín đồ PGHH và người dân không có đạo ở làng Hòa Hảo. Nguyễn Hoàng Sa với Luận án Tiến sĩ “Đạo Hòa Hảo và ảnh hưởng của nó ở Đồng bằng sông Cửu Long” đã tập trung làm rõ sự ra đời, nét đặc trưng và xu 6
- hướng phát triển của TG Hòa Hảo ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nêu lên một số giải pháp cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác TG trong vùng Hòa Hảo trong giai đoạn cách mạng lúc đó. Về luận văn, Bùi Văn Hải với luận văn Thạc sĩ Triết học về công tác tôn giáo đối với Phật giáo Hoà Hảo hiện nay đã phản ánh thực trạng PGHH, đề xuất chủ trương đối với việc công nhận PGHH với tư cách là một tổ chức TG độc lập, quá trình thực hiện chính sách đối với PGHH của các địa phương, dự báo xu hướng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối với PGHH. Nguyễn Hồng Điệp với luận văn Thạc sĩ ngành quan hệ xã hội về Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay đã làm rõ thực trạng của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo, luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam hiện nay. Bùi Thị Thu Hà với luận văn Thạc sĩ bàn về “Đảng bộ An Giang vận động quần chúng tín đồ Phật giáo Hoà Hảo tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1954-1975”. Phan Bá Tài với khóa luận tốt nghiệp đại học về Phật giáo Hoà Hảo ở Đồng Tháp thực trạng và chính sách. Nhìn lại các công trình nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy vấn đề PGHH đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đi sâu phân tích, đánh giá việc thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang dưới góc độ của chuyên ngành CSC. Do đó, đề tài nghiên cứu sẽ là một hướng tiếp cận mới, tác giả hy vọng công trình nghiên cứu này sẽ là tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm. Chúng tôi xem các công trình của những tác giả đi trước như một nguồn tư liệu tham khảo quý giá và cần thiết, đồng thời kế thừa các thành tựu mà giới nghiên cứu đã đóng góp để có những định hướng thiết thực, những giải pháp cụ thể cho việc tiếp cận đề tài nghiên cứu của mình. 7
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng tới hai mục đích chính đó là đánh giá thực trạng thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện CSTG đối với PGHH. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về CSTG đối với PGHH ở Việt Nam hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang, chỉ ra ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó. Đề xuất, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện CSTG đối với PGHH từ thực tiễn tại An Giang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang. Về không gian: Không gian nghiên cứu được xác định là vùng địa lý - hành chính tỉnh An Giang, hoạt động thu thập dữ liệu sẽ được thực hiện chủ yếu ở huyện Phú Tân nơi khai sáng đạo PGHH và là nơi có đông tín đồ PGHH. Về thời gian: Các số liệu thu thập để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực trạng sẽ được lấy từ năm 2015 - 2020. Dựa trên cơ sở thực trạng, luận văn sẽ đưa ra hệ thống các giải pháp có giá trị đến năm 2030. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: - Nghiên cứu quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về TG và công tác TG. 8
- - Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước về TG và việc thực hiện CSTG. - Nghiên cứu các lý thuyết về CSC, về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong các quá trình CSC. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả sử dụng những phương pháp như: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành chính sách công và các phương pháp phân tích, tổng hợp từ các tài liệu liên quan đến tôn giáo và chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1 Ý nghĩa lý luận Luận văn làm phong phú thêm những vấn đề lý luận có liên quan đến TG và CSTG, góp phần làm rõ những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về các CSTG mà cụ thể là các chính sách liên quan đến PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Về mặt thực tiễn, căn cứ trên kết quả đánh giá thực trạng việc thực hiện CSTG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang, luận văn sẽ đưa ra hệ thống giải pháp phù hợp có thể áp dụng trong công tác quản lý nhà nước về TG đối với PGHH trên địa bàn tỉnh An Giang. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn có kết cấu chủ yếu gồm có 3 chương và 10 tiết. 9
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO 1.1 Những khái niệm cơ bản 1.1.1 Khái niệm TG TG, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền của cái tột cùng, như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người và thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái linh thiêng với cái trần tục. Trong tiếng anh, TG là religion, có nghĩa là sự tồn tại của một quyền lực bên ngoài mà con người phải tuân theo; cảm giác mộ đạo và tuân theo quyền lực đó. Theo tiếng Hy Lạp thì TG là regere - ràng buộc hay mối liên hệ giữa con người và thần linh. Theo từ điển tiếng việt: “TG là một hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh” [50, tr.239], Tại điều 2, Luật tín ngưỡng, tôn giáo có ghi rõ: TG là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về TG, nhưng chúng ta có thể hiểu TG theo định nghĩa như sau: TG là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng TG, được vận hành bằng những nghi lễ, giáo lý những hành vi TG khác nhau của từng cộng đồng xã hội TG khác nhau. 1.1.2 Khái niệm chính sách TG CSTG là chính sách đặc thù của Nhà nước ta. Từ trước tới nay đã có nhiều quan niệm hay cách tiếp cận khác nhau về CSTG, trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi xin điểm qua một số quan niệm cũng như cách hiểu về CSTG như sau: Theo tác giả Nguyễn Đức Lữ, CSTG là "phương tiện, công cụ" của quản lý 10
- nhà nước đối với hoạt động TG, trong đó quản lý nhà nước với hoạt động TG được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh hướng các quy trình TG và hành vi hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý. Theo nghĩa hẹp, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều chỉnh các quá trình TG và mọi hành vi hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn ra theo quy định của pháp luật [28, tr.103, tr.270 - 271]. Tác giả Hà Ngọc Anh cho rằng: Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của Chính phủ, bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Chính sách đối với hoạt động TG là hệ thống những quan điểm, chủ trương về nguyên tắc cho những hoạt động của các TG như: Các TG của Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; mọi công dân của Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất cứ công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, không phân biệt tôn giáo [1, tr. 33]. Tác giả Nguyễn Văn Thanh thì nêu quan điểm về CSTG theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Cụ thể là, theo nghĩa rộng: CSTG ở Việt Nam là tổng thể các quy định, quy tắc xử sự chung, các biện pháp trên các lĩnh vực do Đảng, Nhà nước ban hành nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, TG, đoàn kết toàn dân tộc, làm cho đồng bào có đạo được đảm bảo an sinh, sống tốt đời đẹp đạo, các hoạt động TG được quản lý, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. Còn theo nghĩa hẹp thì: CSTG của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể những quy phạm pháp luật, các chương trình hành động, các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của Nhà nước, nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, TG, đoàn kết toàn dân tộc, làm cho đồng bào có tín ngưỡng, TG được đảm bảo an sinh, sống tốt đời đẹp đạo, các hoạt động tín ngưỡng, TG được quản lý, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. 11
- Tác giả Trương Ngọc Tuấn cho rằng: CSTG là CSC về lĩnh vực xã hội, được biểu hiện bằng hệ thống các hành vi mà nhà nước ứng xử (làm hoặc không làm) với TG, nhằm bảo vệ quyền và những lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người trong hoạt động tín ngưỡng, [39, tr. 80]. Trong phạm vi của luận văn này, CSTG được hiểu là những quy phạm pháp luật, các chương trình hành động, các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của Nhà nước nhằm tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình TG và hành vi hoạt động TG của tổ chức, cá nhân TG diễn ra phù hợp theo quy định của pháp luật, nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển đất nước. 1.1.3 Khái niệm thực hiện chính sách TG Thực hiện chính sách là một khâu quan trọng, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Thực hiện chính sách nói chung, CSTG nói riêng là khâu, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách, có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống. CSTG ở Việt Nam chủ yếu thực hiện nguyên tắc, đường lối, quan điểm của Đảng ta và nguyên tắc Hiến định: Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, TG; có quyền theo hay không theo tín ngưỡng, TG. Vì vậy, việc thực hiện CSTG của Việt Nam phải đảm bảo và bảo hộ quyền tự do TG, tín ngưỡng của mọi người; phải bình đẳng trước pháp luật giữa người theo TG và không theo TG; Đồng bào các TG là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào có TG với đồng bào không theo TG xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Trong quá trình thực hiện CSTG cần phải chú ý đến những đặc điểm của CSTG riêng của Việt Nam như: CSTG của Việt Nam chịu sự tác động, chi phối bởi các điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Việt Nam; Đối tượng thụ hưởng CSTG là đồng bào có đạo, là những nhóm xã hội đặc thù, liên kết với nhau trên cơ sở niềm tin TG; Việc thực hiện CSTG của Việt Nam cũng phải vừa có tính phổ quát, hội nhập, tương thích với các quy tắc, thông lệ chung của thế giới, vừa phải có những quy định, quy tắc riêng mang tính dân tộc. Có chính sách ban hành áp dụng chung đối với tất cả các TG, có chính sách áp dụng đối với một TG cụ thể, có loại 12
- chính sách không áp dụng đối với các tổ chức và cơ sở TG; Việc thực hiện chính sách phải chịu sự tác động, chi phối bởi đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta, trong đó công tác TG được xác định là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài việc các cơ quan lãnh đạo của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, kết luận, thông báo... về TG và CSTG để các cơ quan Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, nhiều văn bản của Đảng, cơ quan lãnh đạo của Đảng hoặc những tổ chức đảng được cấp có thẩm quyền ủy quyền có thể chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp giải quyết trực tiếp vấn đề TG ở Trung ương, địa phương; có chính sách, văn bản chính sách mang tính nội bộ, không phổ biến rộng hoặc ở chế độ Mật với các cấp độ khác nhau; Quá trình thực hiện CSTG của Việt Nam phải có sự kế thừa những truyền thống lịch sử tốt đẹp của cha ông, phát huy vai trò, tư tưởng và các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các TG, tín ngưỡng trong xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng nền văn hóa Việt Nam nhân nghĩa, khoan dung. 1.2 Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với TG 1.2.1 Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về TG Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thực hiện các chính sách TG được Đảng khẳng định trên rất nhiều văn bản, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về TG và công tác TG; văn kiện các Đại hội Đảng, từ khóa VI đến nay. Trong các Nghị quyết chuyên đề, trước hết phải kể đến Nghị quyết số 24- NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác TG trong tình hình mới. Tại Nghị quyết này, nhiều quan điểm về TG và chỉ đạo công tác TG của Đảng lần đầu tiên được đưa ra với nhiều nội dung đổi mới và mang tính “đột phá”. Đó là các quan điểm: TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và là vấn đề còn tồn tại lâu dài; đạo đức TG có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng và kiên quyết đấu tranh chống các thế lực phản động và lợi dụng TG chống phá cách mạng. 13
- Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng về TG và công tác TG đã chuyển từ nhận thức TG là chính trị, là nhạy cảm, tiêu cực, là địch lợi dụng TG sang TG là nhu cầu của nhân dân, là lực lượng quần chúng của Đảng và TG có những giá trị tích cực. Nhận thức của Đảng về TG như vậy là khách quan và toàn diện hơn so với trước đây. Đến Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác TG, Đảng ta một lần nữa lại thể hiện sự khẳng định nhất quán cao độ với quan điểm: hoạt động TG và công tác TG phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các TG trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết số 25-NQ/TW còn đi sâu, nhấn mạnh 5 quan điểm chính sách đối với TG, đó là: - Tín ngưỡng, TG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các TG là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. - Nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng. - Công tác TG là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. - Vấn đề theo đạo và truyền đạo. Các quan điểm trên đòi hỏi công tác TG phải luôn quán triệt từ nhận thức đến thực tiễn. Đó cũng là cơ sở trực tiếp để Đảng, Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương, chính sách cụ thể đối với TG nói chung và đối với các hình thức TG cụ thể nói riêng. Có thể thấy từ những văn kiện Đại hội Đảng các khóa, Đảng ta đã đưa ra các quan điểm nhận thức về TG và định hướng chính sách, pháp luật đối với TG mang tầm chiến lược. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó vấn đề TG và công tác TG được Đảng khẳng định trên một số quan điểm định hướng có ý nghĩa căn cốt đối với chính sách, pháp luật về TG. Đó là: Lãnh đạo và giúp đỡ 14
- đồng bào theo TG đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, giữa đồng bào theo đạo này với đồng bào theo đạo khác. Trên cơ sở đó, đến các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI và XII, các quan điểm định hướng của Đại hội VI tiếp tục được Đảng ta khẳng định với sự mở rộng, làm sâu sắc hơn và đặc biệt là đã nhấn mạnh tới quan điểm “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức của các TG và đại đoàn kết toàn dân tộc”. Về nội dung này, Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, TG, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các TG. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức TG sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức TG đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, TG để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, TG trái quy định của pháp luật” [46, tr. 165]. Chính sách đối với TG của Đảng và Nhà nước ta một mặt được xây dựng dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vể vấn đề tín ngưỡng, TG; mặt khác, căn cứ vào tình hình quốc tế, đặc điểm tín ngưỡng, TG ở Việt Nam và nhu cầu của cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên, tư tưởng nhất quán xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, đoàn kết TG, hoà hợp dân tộc. Mặt khác, mọi người - kể cả có hay không có tín ngưỡng cũng như có tín ngưỡng, TG khác nhau - cần đề cao cảnh giác chống mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng TG chống phá cách mạng. Chính sách đối với hoạt động TG là hệ thống những quan điểm, chủ trương về nguyên tắc cho những hoạt động của các TG như: Các TG của Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; mọi công dân của Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất cứ công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, không phân biệt TG nào. 15
- Thể chế hóa quan điểm, chính sách đối với TG của Đảng, năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, TG và sau đó, Chính phủ ra Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, sau đó thay thế bằng Nghị định số 92/2012/NĐ- CP ngày 08-11-2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tiếp đó, đến ngày 18-11-2016, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XIV, kỳ họp thứ 2, đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Luật này đã quy định những nội dung cụ thể của chính sách đối với tín ngưỡng, TG tại Hiến pháp năm 2013 và đồng thời làm cơ sở trực tiếp cho công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, TG. 1.2.2 Quan điểm, chủ trương, chính sách của tỉnh An Giang về TG. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, TG như: Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo; Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo… Trên cơ sở đó, UBND tỉnh An Giang đã xây dựng và ban hành các văn bản nhằm thể chế hóa và hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo như Quyết định số 43/2006/QĐ-UBND ngày 13/11/2006 quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND ngày 18/3/2013 về việc ban hành quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong thực hiện quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 196/KH-UBND ngày 11/4/2017 của UBND tỉnh về việc triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Song song với việc ban hành các văn bản chỉ đạo, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang và chính quyền các địa phương thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, TG với nhiều hoạt động đa dạng (lồng ghép với các buổi báo cáo tại các lớp bồi dưỡng giáo lý do các tổ chức TG, các cuộc họp, hội nghị thường niên của các tổ chức TG…). Việc phổ biến pháp 16
- luật về tín ngưỡng, TG đã nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của chức sắc, chức việc, tín đồ các TG; tạo sự đồng thuận, niềm tin của chức sắc, chức việc, tín đồ các TG vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả công tác TG của tỉnh, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang đã tích cực, chủ động tham mưu và thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo công tác TG tỉnh đối với những vấn đề nổi cộm, nảy sinh liên quan đến tín ngưỡng, TG trên địa bàn thông qua các phiên họp định kỳ hoặc đột xuất. Các ngành liên quan và Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang đã có sự phối hợp chặt chẽ trong việc xem xét cho phép thành lập cơ sở TG, tổ chức TG cơ sở trên địa bàn tỉnh. Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, chính quyền cấp huyện thu hồi, giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở TG… Phối hợp với Sở Ngoại vụ và các địa phương về các đoàn công tác của Đại sứ quán, Tổng lãnh sự các nước… đến thăm và làm việc tại AG. Trong đó có, Lãnh sự quán Mỹ, Đại sứ quán Pháp, Đài phát thanh BBC, các đoàn sinh viên Mỹ, đoàn phóng viên của các nước In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a… đến tìm hiểu và nghiên cứu về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của một số tôn giáo, trong đó có Phật giáo Hòa Hảo. Đối với người nước ngoài sinh hoạt TG tại AG, tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài sinh hoạt tín ngưỡng, TG theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, dễ bị các thế lực chống phá lợi dụng để xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, các ngành chức năng của tỉnh và chính quyền địa phương đã chủ động tạo điều kiện mở rộng đối ngoại TG trên nguyên tắc tôn trọng, phù hợp với pháp luật mỗi bên và thông lệ quốc tế. UBND tỉnh cũng tạo điều kiện cho các chức sắc, chức việc, tín đồ Hồi giáo Islam đi hành hương Mecca theo nguồn tài trợ hằng năm của Tổng lãnh sự quán các nước Hồi giáo… Với sự nỗ lực, cố gắng của Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh An Giang và chính quyền các cấp, tình hình hoạt động của các tổ chức TG trên địa bàn những năm gần đây khá ổn định. Hằng năm các tổ chức TG đều đăng ký sinh hoạt, lễ hội TG với 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 65 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 71 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông
89 p | 55 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 82 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi Chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội
107 p | 83 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới tại các xã thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
119 p | 71 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam
128 p | 39 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
121 p | 31 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách thu hút đầu tư vốn trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Vĩnh Long
127 p | 41 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 33 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách ứng phó với vấn đề giảm sinh ở Hàn Quốc
93 p | 29 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn