intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách Tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

47
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu Nhận diện và đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo của thành phố Châu Đốc. Qua đó, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách và đề xuất khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tôn giáo tại địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách Tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH ÁNH LINH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH ÁNH LINH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH NGỌC HÀ NỘI, 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là một hiện tượng xã hội tác động qua lại hết sức phức tạp và sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với hoạt động "đời sống tâm linh". Vì thế, chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn về tôn giáo sẽ góp phần làm cho kinh tế, xã hội phát triển một cách ổn định và bền vững . Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và có nhiều loại hình tín ngưỡng. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chức sắc, tín đồ các tôn giáo có những đóng góp to lớn, quan trọng. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, đoàn kết tôn giáo là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta được cụ thể bằng pháp luật và đảm bảo trên thực tế và đây là một trong những quyền cơ bản của công dân, được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định (Hiến pháp năm 2013). Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9- 1945 tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo. Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương - giáo đoàn kết”. Ngày 14- 6-1955, Người đã ký Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà. 1
  4. Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003. Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/ PL- UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 1-3- 2005 về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31-12-2008 “về nhà, đất liên quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đây là điều cần thiết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi quan trọng về chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là của “mọi người”, ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thông qua, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018. Chính phủ đã ban hành Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 30-12-2017 về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Châu Đốc là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, sát biên giới Việt Nam với Campuchia với chiều dài 15,4 Km, có diện tích đất tự nhiên 105,29 Km2. Thành phố Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: 5 phường Châu Phú A; Châu Phú B; Núi Sam; Vĩnh Mỹ; Vĩnh Nguơn và 2 xã Vĩnh Châu; Vĩnh Tế. Diện tích nội thành 7,92 km²; Dân 2
  5. cư thành phố Châu Đốc sinh sống tập trung ở khu vực ven sông Hậu, ven Quốc lộ 91, tại các phường trung tâm thành phố, tại các khu dân cư... với cơ cấu dân số trẻ, dân cư đô thị chiếm gần 80%. Châu Đốc là vùng đất cộng sinh tôn giáo đa dạng, với đặc thù đồng bào có đạo khá đông, khoảng trên 90% dân số, gồm có Phật giáo, Công giáo, Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Theravada, Hồi Giáo. Vì vậy, đời sống tâm linh của cư dân Châu Đốc khá phức tạp, chịu ảnh hưởng đồng thời của nhiều tín ngưỡng – tôn giáo khác nhau. Châu Đốc có khu danh thắng Núi Sam, với nhiều lịch sử – văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, như: Lăng Thoại Ngọc Hầu, Miếu Bà Chúa xứ Núi Sam, Tây An cổ tự, chùa Hang (Phước Điền tự), Đình Châu Phú, đình Vĩnh Nguơn. Lễ hội cấp Quốc gia Vía Bà Chúa xứ Núi Sam (di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia) được tổ chức hằng năm thu hút đông đảo du khách đến tham quan, cúng bái. Tôn giáo là một phạm trù mang tính lịch sử, có sức ảnh hưởng và cũng là một nhu cầu tinh thần của đại bộ phận nhân dân, để làm tốt công tác tôn giáo phải làm tốt công tác vận động quần chúng, quán triệt các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Cán bộ, đảng viên cần thông suốt chính sách tôn giáo để thực hiện và xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Trong lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định tôn giáo và công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược, có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của nước ta nói dung và đối với Châu Đốc nói riêng. Thời gian qua, tình hình thực hiện chính sách tôn giáo của cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố Châu Đốc chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, chỉ tổng kết đánh giá tình hình thực hiện hàng năm; Xuất phát từ 3
  6. những nhận thức trên đây, tôi chọn đề tài "Thực hiện chính sách Tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang" làm luận văn cao học, do trình độ lý luận cũng như trước đề tài lớn, nhạy cảm và phức tạp, bản thân không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong quý thầy, cô góp ý, bổ sung để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn và cũng giúp cho công tác quản lý nhà nước có các giải pháp thiết thực nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố trong giai đoạn mới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Về mặt cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý, C.Mác và Ănghen, Toàn tập, Tập 1, tập 9 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2019), Vấn đề tôn giáo tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 1 năm 2019; Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nghị quyết số 25- NQ/TW năm 2003 về công tác Tôn giáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018; Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 30-12-2017 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Trên đây là một số tài liệu, văn bản quy phạm pháp luật là nền tảng, cơ sở lý luận và pháp lý cho các hoạt động thực hiện chính sách tôn giáo. C.Mác và Ănghen đã xem xét, nghiên cứu tôn giáo dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, theo đó, xã hội, nhà nước được cho là “cơ sở trần tục” của tôn giáo và tôn giáo luôn có mối liên hệ mật thiết với cơ sở trần tục đó. Đồng thời nghiên cứu của hai ông cũng chỉ ra bản chất phức tạp và tính lịch sử lâu dài của tôn giáo, phân tích các điều kiện tồn tại và mất đi của tôn giáo theo tiến trình phát triển của xã hội, và bởi mối quan hệ mật thiết với xã hội và con người, tôn giáo vẫn là một khía cạnh tinh thần tồn tại trong đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí 4
  7. Minh, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin về tôn giáo để xác định và vận dụng một cách linh hoạt trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo đó, Người nêu hai điểm chính đó là tự do tôn giáo, tín ngưỡng và thực hiện đoàn kết lương – giáo, hào hợp dân tộc. Về các cơ sở pháp lý, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nêu lên một số nội dung chính liên quan đến vấn đề tôn giáo, như, tiếp tục hoàn thiện các chính sách pháp luật về tôn giáo, phát huy các giá trị tốt đẹp của tôn giáo, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận sinh hoạt theo đúng quy định của pháp luật và luôn đề phòng các hành vi lợi dụng tôn giáo để chống phá và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Bên cạnh các tài liệu được tham khảo như cơ sở lý luận và pháp lý, có rất nhiều tài liệu khác mang tinh thực tiễn và liên quan đến hoạt động quản lý và thực thi các chính sách tôn giáo tại Việt Nam như công trình nghiên cứu “ Quản lý hoạt động tôn giáo, cơ sở lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi Đức Luận (chủ biên); “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS Đặng Nghiêm ; “Những vấn đề cơ bản về chính sách công, Giáo trình chính sách công” của Đỗ Phú Hải, Đỗ Quang Hưng (2013), Tiến tới một chính sách công về tôn giáo, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 6; Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước, tôn giáo, luật pháp,; Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Đỗ Quang Hưng, Nxb.ĐHQGHN (2014); Nguyễn Công Hoàng (2013), Chính sách tôn giáo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Nguyễn Đức Lữ (chủ biên, 2011), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam; Các công trình nghiên cứu trên đã có các đóng góp về lý luận và thực tiễn của hoạt động tôn giáo, việc thực hiện quản lý hoạt động tôn giáo, đồng thời nêu các nét khái quát về thực tiễn đời sống và hoạt động tôn giáo cũng như công tác thực hiện chính sách tôn giáo tại Việt Nam hiện nay. 5
  8. Liên quan đến công tác quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang và thành phố Châu Đốc nói riêng, tác giả đã tham khảo một số tài liệu như: Tỉnh ủy An Giang (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ X nhiệm kỳ 2016-2020; Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo Thành ủy Châu Đốc (2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo tổng kết tôn giáo năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019; Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo. Có thể nói, những công trình lý luận chung về tôn giáo, đời sống tôn giáo, chính sách, pháp luật tôn giáo ở Việt Nam nói chung và ở An Giang nói riêng, có rất nhiều như Địa chí An Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xuất bản năm 2013. Nhưng vấn đề tôn giáo ở thành phố Châu Đốc chưa nghiên cứu toàn diện về quá trình thực hiện các chính sách trên địa bàn trong thời gian qua, đề tài nghiên cứu này nhằm đánh giá việc thực hiện các chính sách tôn giáo của thành phố Châu Đốc thời gian qua. Từ đó đặt ra những vấn đế và khuyến nghị giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo tại thành phố Châu Đốc trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhận diện và đánh giá việc thực hiện chính sách tôn giáo của thành phố Châu Đốc. Qua đó, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách và đề xuất khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tôn giáo tại địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An giang 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực thi chính sách Tôn giáo và làm rõ những ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Tôn giáo tại Châu Đốc. - Nhận diện việc thực thi chính sách tôn giáo trên địa bàn Châu Đốc, An Giang. 6
  9. - Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách tôn giáo tại Châu Đốc, An Giang. - Đưa ra khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo và việc thực thi chính sách tôn giáo góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn thành phố Châu Đốc 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực thi chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước tại thành phố Châu Đốc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập trung vào một số nội dung: thực tiễn thực thi chính sách Tôn giáo và làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Tôn giáo tại thành phố Châu Đốc. - Phạm vi thời gian: từ 2004 đến nay. - Phạm vi không gian: thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn lấy quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các chính sách của Đảng và Nhà nước làm phương pháp luận cho nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá và nghiên cứu tài liệu thứ cấp. Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành các khảo sát thực địa để thu thập các thông tin thực tế, củng cố thêm cho các luận điểm của đề tài. Từ các phương pháp này, dựa trên các tài liệu và báo cáo liên quan, luận văn có thể đi sâu tìm hiểu, khái quát tình hình thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc. 7
  10. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận - Nghiên cứu làm rõ thêm cơ sở lý luận về tôn giáo, thông qua việc nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách tôn giáo tại địa bàn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và các văn bản pháp lý được nhà nước ban hành. Thông qua nghiên cứu, luận văn nêu rõ các mặt mạnh và các mặt hạn chế của chính sách tôn giáo 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc, An Giang. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho quá trình hoạch định chính sách liên quan đến tôn giáo trên địa bàn thành phố Châu Đốc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 02 chương, gồm: I. Phần mở đầu: Tổng quan đề tài nghiên cứu. II. Phần nội dung: Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách Tôn giáo; Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại thành phố Châu Đốc trong thời gian qua; Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tôn giáo tại thành phố Châu Đốc trong thời gian tới. 8
  11. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VẾ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm được sử dụng trong luận văn 1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo Xét theo khía cạnh ngôn ngữ học và lịch sử, thuật ngữ “tôn giáo” khá mới trong hệ thống tiếng Việt, đây là một thuật ngữ được du nhập từ phương Tây vào nước ta khoảng nửa cuối thế kỷ XIX. Tôn giáo được xem xét và nghiên cứu dưới nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau, do đó, khái niệm tôn giáo được đưa ra tùy theo mục đích, lĩnh vực, phạm vi nghiên cứu. Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hoá, tín ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo. Ngoài ra, các nghiên cứu theo mục đích và lĩnh vực khác nhau cũng có các quan niệm khác nhau về tôn giáo, xin được trích dẫn một số khái niệm đã được GS. Đặng Nghiêm Vạn đưa ra [5]: - Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”. - Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”. - Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”. 9
  12. - Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”. - Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …” Từ các khái niệm đa dạng trên, có thể thấy điểm chung được thể hiện qua việc coi tôn giáo là một khái niệm mang tính trừu tượng, là hiện thân của một thế giới tinh thần, đôi khi mang tính thiêng liêng, huyền bí, được nắm bắt bằng cảm giác, được đề cập bằng đức tin và thường được tôn trọng, tôn thờ. Xét theo quan điểm của quản lý nhà nước, đúc kết các khái niệm khác nhau được nêu bên trên, luận văn định nghĩa tôn giáo trên quan điểm hoạch định và thực thi chính sách tôn giáo, do đó tôn giáo có thể được định nghĩa là hình thái ý thức xã hội, được duy trì và củng cố thông qua các giáo lý, lễ nghi, đối tượng tôn thờ và có tính tổ chức. 1.1.1.2. Khái niệm chính sách công Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,...” [32, tr. 475]. Chính sách công có thể được hiểu là hướng dẫn nguyên tắc cho hành động được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp của nhà nước liên quan đến một nhóm các vấn đề, theo cách phù hợp với pháp luật và thiết chế xã hội. Chính sách công cũng đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như: - Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành (Peter Aucoin, 1971) [6] 10
  13. - Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter, 1990) [6] - Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999) [6] Các khái niệm được TS Đặng Ngọc Lợi trích dẫn tuy khác nhau, song vẫn có chung một xuất phát điểm đó là vai trò của Nhà nước. Chính sách công, có thể được hiểu là tập hợp các quyết định có hiệu lực pháp lý, mang tính định hướng do nhà nước ban hành, và tổ chức triển khai các kế hoạch, mục tiêu để chính sách phát huy hiệu quả mong muốn. Dù chưa có định nghĩa thống nhất về chính sách công, nhưng các định nghĩa khác nhau đều nhất trí về những đặc điểm cơ bản của chính sách công. Một là, chính sách công là các hành động của cơ quan trong bộ máy nhà nước. Cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước là chủ thể duy nhất ban hành và thực thi chính sách trên cơ sở sử dụng quyền lực pháp lý, chính trị và nguồn lực của nhà nước. Do chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước nên chính sách công thường được hiểu là chính sách của nhà nước, song, không phải mọi chính sách của cơ quan trong bộ máy nhà nước đều là chính sách công. Các chính sách được các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành và thực hiện nhằm điều tiết các hoạt động và giải quyết các vấn đề chỉ thuộc nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành hay tác động ngoài phạm vi cơ quan không phải là chính sách công, mà là “chính sách tư” hay “chính sách nội bộ”. Hai là, chính sách công được xây dựng và thực thi nhằm giải quyết một vấn đề công theo những mục tiêu đã xác định. Thực chất, chính sách công là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề công hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu nào đó của xã hội. Từ “công” ở trên được hiểu theo nghĩa là 11
  14. số đông hay cộng đồng hoặc xã hội. Vì thế, một vấn đề chỉ trở thành vấn đề công khi nó có ảnh hưởng hoặc là mối quan tâm của số đông hay cộng đồng hoặc xã hội. Ba là, chính sách công là tập hợp các quyết định. Chính sách công là một tập hợp quyết định bao gồm cả dự định và hành động (hành động thực tiễn). Các quyết định ở đây có ý nghĩa rộng có thể bao gồm cả luật, các quyết định dưới luật, các chương trình dự án là giải pháp cho vấn đề chính sách. Bốn là, chính sách công là quyết định về việc lựa chọn có làm hay không làm việc gì đó. Lựa chọn chính sách công là đưa ra quyết định “làm” một số việc hoặc quyết định “không làm” một số việc. Cả hai loại quyết định này đều quan trọng và có ý nghĩa như nhau. Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu về chính sách công như sau: Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó trên cơ sở có những tính toán và chủ đích rõ ràng nhằm giải quyết một vấn đề hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu của thực tiễn xã hội. Tóm lại, về bản chất, (1) Chính sách công là công cụ điều hành được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sử dụng để theo đuổi lợi ích công cộng; (2) Chính sách công là kết quả của việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của mình định hướng sự vận động và phát triển của cả hệ thống xã hội; (3) Chính sách công là quá trình thể chế hóa các mục tiêu tổng thể mà nhà nước theo đuổi; (4) Chính sách công là kết quả của quá trình đấu tranh quyền lực giữa các bên có liên quan. Mặc dù, chính sách công là do nhà nước ban hành và tổ chức thực thi, song nhà nước không phải là chủ thể duy nhất có ảnh hưởng đến chính sách. Thực tế, chính sách chịu ảnh hưởng của các chủ thể khác như là người dân, các tổ chức, các nhóm lợi ích, giới chuyên gia và truyền thông. 12
  15. Nhìn chung, chính sách và quá trình chính sách mang tính chính trị thể hiện ở các điểm chính sau. Một là, chính sách công là sự thể hiện, phản ánh quan điểm và thái độ chính trị của Đảng cầm quyền. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mặc dù Đảng không ban hành chính sách, song chủ trương, cương lĩnh và chiến lược của Đảng là căn cứ quan trọng định hướng chính sách và quá trình chính sách. Hai là, chính sách công thể hiện bản chất của nhà nước thông qua mối quan hệ giữa người dân với nhà nước. Có thể nói, chính sách công là thước đo phản ánh khá chính xác về bản chất của nhà nước và mối quan hệ giữa người dân với nhà nước ở mức độ mà nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân được thể hiện qua ý chí của nhà nước dưới hình thức là các mục tiêu chính sách. Ba là, chính sách công đơn giản là sản phẩm hoạt động của bộ máy nhà nước, mà nó còn là kết quả của sự đấu tranh quyền lực giữa các bên có liên quan. Trong quá trình chính sách, các nhóm chủ thể sử dụng quyền lực mà họ có được để ảnh hưởng, chi phối đến chính sách và quá trình chính sách nhằm theo đuối các ý tưởng, giá trị, động cơ và mục tiêu của họ. Bốn là, chính sách công giúp củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Khi mà quá trình chính sách là sự thống nhất nguyện vọng của nhân dân với ý chí quản lý của nhà nước thì nó sẽ củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với nhà nước và làm khăng khít thêm hơn mối quan hệ của nhân dân đối với nhà nước. Từ những phân tích trên cho thấy chính sách công chính là kết quả của các quyết định của Chính phủ, các quyết định này nhằm duy trì tình trạng của xã hội hoặc giải quyết “các vấn đề của xã hội” trong đó “là các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội” theo mục tiêu tổng thể của Đảng đã vạch ra từ 13
  16. trước. Như vậy, chính sách công trong trường hợp của Việt Nam có thể định nghĩa như sau: Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền [7, tr.12]. Chính sách công có nhiều khái niệm nhưng vẫn chưa được thống nhất với nhau. Nhưng chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất như sau: Chính sách công là hệ thống các quyết định hành động của chủ thể nắm quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt các mục tiêu đề ra. 1.1.1.3 . Các bước tổ chức thực hiện chính sách công: Để tổ chức điều hành có hiệu quả công tác thực thi chính sách, trước tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây: - Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công: Kế hoạch triển khai thực thi chính sách được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách bao gồm những nội dung cơ bản sau: về tổ chức, điều hành; oạch cung cấp các nguồn vật lực; thời gian triển khai thực hiện; kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; Dự kiến những nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nhiệm vụ, và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia: tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách, v.v... Dự kiến kế hoạch thực thi ở cấp nào do lãnh đạo cấp đó xem xét thông qua. Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch thực thi chính sách mang giá trị pháp lý, được mọi người chấp hành thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch quyết định. - Phổ hiến, tuyên truyền chính sách công: Đây là một hoạt động quan trọng, 14
  17. có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách... để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao. - Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công: Muốn tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối họp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Trong thực tế thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào dó. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để dạt yêu cầu quản lý. Hoạt động phân công, phối hợp cần được thực hiện theo tiến trình, có kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phân nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách. - Duy trì chình sách công: Đây là những hoạt động nhằm đảm báo cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn vậy phải có sự đồng tâm, hợp lực của cả người tố chức, người thực thi và môi trường tồn tại. Đối với các cơ quan Nhà nước - người chủ động tổ chức thực thi chính sách - phải thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn do môi trường thực tế biến động, thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi 15
  18. trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Đồng thời chủ động diều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cơ quan Nhà nước có thể kết hợp sử dụng biện pháp hành chính để duy tri chính sách. Những hoạt động đồng bộ trên đây sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì chính sách trong đời sống xã hội. - Điều chỉnh chính sách công: ược thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt, vì thế cơ quan nhà nước các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách. Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Để chính sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chinh làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách, thì coi như chính sách đó bị thất bại. - Theo dõi, kiếm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách công: Các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương không giống nhau, cũng như trình độ, năng lực tô chức điều hành của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách. Qua kiểm tra, đôn đốc, các mục tiêu và biện pháp chủ yếu của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, mỗi đối tượng thực thi chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu tiên trong quá trình thực thi chính sách. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đã được phê duyệt các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện hoạt động kiểm tra có hiệu quả. Kiểm tra theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực thi chính sách vừa kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực thi chính sách, 16
  19. giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách. - Đánh giá, tổng két, rút kinh nghiệm: Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiệu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách. Cơ sở để đánh giá tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng ở bước 2 của phần này. Đồng thời còn kết họp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước. Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo - điều hành của các cơ quan nhà nước, chúng ta còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách là công dân. Thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thúc chấp hành những quy định về cơ chế, biện pháp do Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian. 1.1.1.4 . Khái quát chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách tôn giáo Chính sách tôn giáo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu cụ thể tại Điều 70 Hiến pháp năm 1992: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo 1 tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được 17
  20. pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước". Theo đó, chính sách tôn giáo cũng đã được nêu trọng - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII : “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật” [35, tr.165] Nhà nước CNHXCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền, mọi người đều sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mỗi công dân, và ngược lại, công dân cũng như các tổ chức tôn giáo cũng có nghĩa vụ tôn trọng, tuân thủ hiến pháp và pháp luật, góp phần bảo vệ và tôn trọng trật tự, an ninh xã hội cũng như thể chế nhà nước. Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng nhưng cũng không cho phép các công dân hay tổ chức lợi dụng quyền này và các quyền khác được quy định trong Hiến pháp để sử dụng tôn giáo, tín ngưỡng như một công cụ chống phá nhà nước hay để thực hiện các hoạt động trái với thuần phong, mỹ tục. Công dân và các tổ chức tôn giáo cần chung tay xây dựng và bảo vệ “khối đại đoàn kết toàn dân tộc” với phương châm “sống tốt đời đẹp đạo”. 1.2. Các chức năng và một số đặc điểm của tôn giáo. 1.2.1. Các chức năng của tôn giáo Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo có năm chức năng chính: 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1