Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu đánh giá thực trạng về người công giáo di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà Nội tiếp cận với giáo dục
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Tìm ra được những yếu tố ảnh hưởng của điều kiện sống với việc tiếp cận giáo dục của các Giáo dân di cư; trên cơ sở đó đề xuất các chính sách xã hội hợp lý, cải thiện điều kiện sống, nâng cao cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội mà đặc biệt là tạo điều kiện để họ có cơ hội tiếp cận với giáo dục, nhằm đảm bảo sự đóng góp xây dựng thủ đô, mặt khác không đẩy người dân di cư tham gia các tệ nạn xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu đánh giá thực trạng về người công giáo di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà Nội tiếp cận với giáo dục
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC -----------------ώώώώ---------------------- NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG Nghiên cứu đánh giá thực trạng về người công giáo di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà Nội tiếp cận với giáo dục : \b Luận văn ThS. Giáo dục học / \c Nguyễn Thị Minh Phượng ; Nghd. : PGS.TS. Lê Đức Ngọc LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC HÀ NỘI, NĂM 2008
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là phần nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, kết luận nghiên cứu trình bày trong luận văn này chưa được công bố ở các nghiên cứu khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Học viên Nguyễn Thị Minh Phượng
- LỜI CẢM ƠN Học viên xin trân trọng bày tỏ lòng cảm ơn đối với Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục (CEQARD), các thấy, cô giáo của Trung tâm đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để học viên thực hiện nghiên cứu, viết khoá luận của mình. Luận văn sẽ không thể hoàn thành tốt nếu không có sự chỉ bảo, hướng dẫn của PGS.TS. Lê Đức Ngọc, người đã định hướng và giúp đỡ học viên hoàn thành khoá luận. Học viên xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn của mình. Đồng thời học viên cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (CGFED) đã ủng hộ và tạo cơ hội cho học viên được tiếp cận với đề tài nghiên cứu; cảm ơn các anh chị em, các bạn đồng nghiệp trong đơn vị đã giúp đỡ học viên trong quá trình nghiên cứu và viết khoá luận. Hà nội, ngày … tháng …. năm 2008 Học viên Nguyễn Thị Minh Phượng 2
- MỤC LỤC Trang Mở đầu 5 1. Lý do lựa chọn đề tài 5 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 7 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài 7 4. Câu hỏi nghiên cứu/giả thiết nghiên cứu 7 5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 7 6. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu 8 7. Phạm vi, thời gian khảo sát 8 Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan 10 I. TỔNG QUAN 10 II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA CƠ BẢN 14 1. Sự di cư (Lịch sử di cư) 15 2. Một vài nét về Giáo dân di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà Nội 17 3. Người di cư 17 4. Khái niệm về tiếp cận dịch vụ xã hội 19 4.1. Khái niệm chung về tiếp cận dịch vụ xã hội 19 4.2. Cơ hội tiếp cận với giáo dục 19 Chương 2: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu 21 I. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 21 1. Xây dựng bộ công cụ đo lường 23 1.1. Lịch sử di cư 23 1.2. Điều kiện - Chất lượng cuộc sống 29 1.3. Cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội (đặc biệt là khả năng tiếp cận 35 với giáo dục) 3
- 1.4. Những khó khăn thường gặp của Giáo dân di cư 36 2. Thiết kế mẫu 43 3. Nhập và xử lý số liệu 44 II. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN 45 1. Nghiên cứu định lượng 45 2. Nghiên cứu định tính 46 3. Thu thập thông tin Chương 3: Thực trạng về Giáo dân di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà 49 Nội 1. Một số thông tin nghiên cứu ban đầu về Giáo dân di cư 49 2. Các điều kiện sống 55 3. Những khó khăn mà Giáo dân di cư thường gặp phải trong quá 64 trình sống, học tập và làm việc tại Hà nội 4. Cơ hội tiếp cận với giáo dục của Giáo dân di cư 69 4.1. Khả năng chi trả học phí 71 4.2. Thời gian dành cho việc học tập 71 4.3. Xây dựng mô hình ước lượng ước lượng các nhân tố về khả năng 73 tiếp cận giáo dục của Giáo dân di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà nội 4.3.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về cơ hội tiếp cận với giáo dục 79 của Giáo dân di cư 4.3.2. Tìm hiểu sự khác biệt giữa các nhóm tuổi về khả năng tiếp 80 cận với giáo dục của Giáo dân di cư Kết luận chung 84 I. KẾT LUẬN 84 II. KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 87 Tài liệu tham khảo 95 Phụ lục 97 4
- Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Song song với công cuộc đổi mới đất nước, nhiều cơ hội kinh tế được mở ra cho người dân. Về bản chất, sự nghiệp đổi mới đã dẫn đến những biến đổi về cấu trúc xã hội và có sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Sự gia tăng tốc độ sản xuất hàng hoá công, nông nghiệp và sự thay thế vị trí, vai trò của sức lao động bằng công nghệ qua các nguồn đầu tư kinh tế lớn đã trở thành nhân tố cơ bản trong quá trình giải phóng một bộ phận lao động dư thừa ở nông thôn và khuyến khích họ đi làm ăn xa nhằm tìm kiếm những cơ hội việc làm và thu nhập tốt hơn. Do vậy, di cư trở thành một vấn đề có tính quy luật giống như quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các quốc gia khác. Cũng giống nhiều đô thị lớn khác như thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Biên Hoà ... hiện tượng di cư trong những năm gần đây ngày càng lớn; riêng với Hà Nội, hiện tượng di cư phát triển mạnh hơn cả. Với những chính sách đô thị hoá và mở rộng Hà Nội, gắn liền với phát triển công nghiệp, mở rộng các ngành dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng đầu tư nước ngoài cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng kinh tế thị trường, của các thành phần kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm với lao động đơn giản, thu hút nhiều lao động từ tỉnh ngoài đến. Bên cạnh đó, thực trạng tốt của môi trường giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, điều kiện y tế, chăm sóc sức khoẻ, đời sống văn hoá tinh thần... là những động lực hấp dẫn nhiều người đến Hà Nội để lập nghiệp, phát triển bản thân và mưu cầu cuộc sống tốt đẹp hơn. Dưới những hoàn cảnh mới, những mối quan hệ mới, lối sống hoàn toàn mới, để thích nghi với môi trường sống mới - môi trường đô thị với nhịp độ phát triển cao của công nghịêp hoá, hiện đại hoá, với cơ sở hạ tầng khác hẳn với môi trường sống ở nông thôn, người di cư đến Hà Nội thực sự gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình học tập, làm việc và ổn định cuộc sống tại nơi hoàn toàn xa lạ và mới đối với mình. Những bất cập đó đã đẩy không ít người di cư đến cảnh bần cùng và tham gia vào 5
- các tệ nạn xã hôi. Vì vậy, cuộc sống của họ sẽ diễn biến theo chiều hướng nào, hoặc tốt lên hoặc xấu đi? Cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội của họ ra sao; mà đặc biệt là với giáo dục? Điều này vẫn còn là câu hỏi mở đối với các nhà hoạch định chính sách. Xuất phát từ thực tế nên trên, đề tài luận văn thạc sỹ “Nghiên cứu đánh giá thực trạng về Giáo dân di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà Nội tiếp cận với giáo dục” sẽ đi tìm hiểu rõ hơn về những Giáo dân di cư đến Hà Nội trong vài năm gần đây. Hy vọng nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn bao quát hơn về điều kiện sống cũng như về cơ hội tiếp cận với giáo dục của họ, đồng thời những thông tin này sẽ phần nào giúp các nhà hoạch định chính sách xây dựng các chiến lược phát triển cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân di cư, góp phần nâng cao nhận thức và điều kiện sống của người dân nói chung - một trong nhiều nhân tố thúc đẩy sự phát triển của Hà Nội cũng như của cả nước. Mặt khác, xuất thân là một cán bộ nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển, với chức năng cơ bản của Trung tâm là nghiên cứu các vấn đề về Giới, Gia đình và Môi trường ở Việt Nam từ góc độ phát triển con người và trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề này; Và một trong nhiều sứ mệnh của Trung tâm đó là: Phát hiện những vấn đề xã hội nẩy sinh từ thực tiễn cuộc sống; Tìm giải pháp cho những vấn đề xã hội cơ bản, đặc biệt để tăng cường phát triển nguồn nhân lực, nên tôi chọn để tài nghiên cứu này nhằm chỉ ra một phần bức tranh chung về người di cư tại khu vực Hà Nội, đặc biệt là với các Giáo dân di cư. Những nhận định ban đầu về các Giáo dân di cư sẽ giúp cho Trung tâm xây dựng các hoạt động can thiệp nhằm đáp ứng đúng các nhu cầu cấp thiết trong đời sống và phù hợp với nhóm cư dân đặc thù này, đồng thời làm tiền đề cho việc xây dựng các dự án phát triển cải thiện chất lượng sống cho người dân di cư, góp phần nâng cao nhận thức và điều kiện sống của người dân nói chung - mở ra cơ hội để các Giáo dân di cư được tiếp cận với các dịch vụ nói chung, trong đó có dịch vụ y tế và được phát triển lành mạnh về mọi mặt, giúp Giáo dân di cư giải quyết những khó 6
- khăn và phòng ngừa những nguy cơ phải đối mặt trong quá trình sinh sống, học tập và làm việc tại Hà Nội. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Tìm ra được những yếu tố ảnh hưởng của điều kiện sống với việc tiếp cận giáo dục của các Giáo dân di cư; trên cơ sở đó đề xuất các chính sách xã hội hợp lý, cải thiện điều kiện sống, nâng cao cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội mà đặc biệt là tạo điều kiện để họ có cơ hội tiếp cận với giáo dục, nhằm đảm bảo sự đóng góp xây dựng thủ đô, mặt khác không đẩy người dân di cư tham gia các tệ nạn xã hội. 3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài - Đánh giá cơ hội tiếp cận giáo dục của các Giáo dân di cư thông qua các điều kiện sống. - Chỉ ra những thuận lợi và khó khăn hiện tại mà Giáo dân di cư gặp phải trong quá trình học tập cũng như làm việc tại Hà Nội. 4. Câu hỏi nghiên cứu/ giả thiết nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu - Các Giáo dân di cư có cơ hội tiếp cận với giáo dục không? - Những yếu tố về điều kiện sống có cản trở các Giáo dân di cư tiếp cận giáo dục không? Giả thuyết nghiên cứu - Giáo dân di cư ít có cơ hội tiếp cận với giáo dục. - Những thay đổi về điều kiện sống và công ăn việc làm của các Giáo dân di cư có ảnh hưởng đến việc tiếp cận với giáo dục. 5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: - Những Giáo dân từ nông thôn ra Hà Nội tìm việc làm đang tham gia sinh hoạt tại nhà thờ Thái Hà, quận Đồng Đa, Hà Nội. 7
- - Đối tượng nghiên cứu. Cơ hội tiếp cận với giáo dục của các Giáo dân di cư vùng nhà thờ Thái Hà, Hà Nội. 6. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu - Hình thức nghiên cứu của đề tài này thuộc loại hình nghiên cúu cơ bản, bước đầu nhằm tìm hiểu thực trạng về Giáo dân di cư tiếp cận với giáo dục. - Các phương pháp tiếp cận: sử dụng phối hợp các phương pháp sau: + Nghiên cứu tài liệu. + Điều tra khảo sát + Phỏng vấn sâu. 7. Phạm vi, thời gian khảo sát - Phạm vi nghiên cứu § Vùng dân cư nhà thờ Thái Hà, Quận Đống Đa, Hà Nội § Những Giáo dân di cư đến Hà Nội trong vòng 5 năm trở lại. - Thời gian tiến hành khảo sát § Từ tháng 3/2007 đến tháng 11/2007 8
- Nội dung CHƯƠNG 1 Cơ sở lý luận và tổng quan I. TỔNG QUAN Trong 50 năm trở lại đây, Việt Nam đã chứng kiến nhiều đợt di dân trên lãnh thổ của mình. Đến nay di cư Việt Nam đang ngày càng có xu hướng gia tăng hơn trước và đang là một trong những vấn đề thu hút sự chú ý của Chính phủ cũng như của các tổ chức trong nước và quốc tế. Các chính sách phân bố lại dân cư từ giữa những năm 70 đều cho thấy di cư ở Việt Nam nói chung xuất phát từ các khu vực đông dân thuộc đồng bằng sông Hồng, khu vực Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân ban đầu của hiện tượng di cư xuất phát từ những vấn đề sau: Một là: Tình trạng đô thị hoá đang diễn ra tại các khu vực nông thôn khiến cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp1. Hai là: Năng suất sản xuất nông nghiệp thấp dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp2. Ba là: Thời gian nông nhàn nhiều3. Bốn là: Khoảng cách chênh lệch về mức sống, thu nhập, cơ hội việc làm ngày càng gia tăng giữa thành thị và nông thôn 4. Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác như chính sách của nhà nước về quản lý hộ khẩu, các chủ trương và chính sách về di cư ... Các chuyên gia của Viện Khoa học xã hội Việt Nam nhận định rằng, tuy Việt Nam là một nước nông nghiệp nhưng việc làm giàu từ nông nghiệp lại là một bài toán 1 Giai đoạn năm 2000 – 2004, cả nước có 157.000 ha đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng. Ước tính có 13 lao động mất việc làm/1 ha đất nông nghiệp (www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2205) 2 Bình quân 1 lao động nông nghiệp tạo ra giá trị chỉ bằng 22.7% so với dịch vụ và 16.3% so với công nghiệp (2004). 1 ha đất nông nghiệp tạo ra giá trị chỉ bằng 22.5 triệu đồng (2005) (www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2205) 3 Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động của lực lượng lao động ở khu vực nông thôn là 80.65% (www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2205) 4 Chênh lệch về thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 2006 là 2.16 lần (www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2205). Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2005, thì cả nước có khoảng hơn 1,5 triệu người di chuyển nơi cư trú (Điều tra biến động về dân số và KHHGĐ năm 2005 _ Tổng cục Thống Kê). 9
- khó cho người nông dân. Những năm gần đây, tỷ trọng dân số thành thị ngày một tăng và đạt 27% vào năm 2005. Nhà nước ta dự kiến phấn đấu để tỷ trọng dân số thành thị đạt 40% vào năm 2020; bởi vậy, thoát ly khỏi ruộng đồng đi tìm kế sinh nhai ở nhiều đô thị, vùng miền khác là hiện tượng không mới mẻ đối với nông thôn Việt Nam5. Điều này có nghĩa là sẽ có luồng di cư vào các đô thị: tỷ suất nhập cư đến các vùng Đồng bằng sông Hồng là 2,5‰, Đông Nam Bộ là 13,5‰ và Đồng bằng sông Cửu Long là 1,1‰6. Một số liệu điều tra mới nhất năm 2006 cho thấy trong tống số 486.500 người di cư giai đoạn 5 năm trước cuộc điều tra, số người đến khu vực thành thị chiếm 57%, tiếp đến là luồng di cư nông thôn - nông thôn (30%). 7 Dưới tác động của toàn cầu hóa, những khác biệt mức sống, chênh lệch trong thu nhập, cơ hội việc làm, sức ép sinh kế, tiếp cận dịch vụ xã hội ... giữa các khu vực, vùng miền đã trở thành những nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư hiện nay. So với di dân đến nông thôn, di chuyển dân số ra thành thị đa dạng hơn về thể loại. Mức tăng trưởng nhanh và đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong những năm qua đã thu hút khá hiệu quả lực lượng lao động nhập cư. Với những cải cách theo cơ chế thị trường, Hà Nội cũng đã trở thành một trong nhiều tâm điểm của sự di cư. Nhiều cuộc điều tra đã chỉ ra rằng lao động ngoại tỉnh vào Hà Nội tìm việc làm trong một vài năm gần đây có xu hướng ngày càng gia tăng. Hà Nội mỗi năm lại có thêm 22.000 người di chuyển từ các tỉnh khác tới và phần nhiều là vào khu vực nội thành (TCTK, 2001). Theo điều tra của Công an thành phố Hà Nội, số lượng lao động ngoại tỉnh vào Hà Nội trong năm 2003 là 77.001 người, riêng 6 tháng đầu năm 2004 là 32.601 người. Hầu hết người di cư tự do tại Hà Nội là từ các vùng nông thôn, trong số đó đa phần di cư theo mùa vụ và di cư tạm thời, chiếm 78.5% số người di cư tự do vào Hà Nội. Người di cư vào Hà Nội chủ yếu là từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng, chiếm 69% (phần nhiều là từ Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc 5 Nguồn: “Di dân từ nông thôn vào đô thị - Hiện trạng và thách thức cho phát triển đô thị”, Đồng Bá Hướng _ Vụ trưởng vụ thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê. (http://www.tapchicongsan.org.vn/print_preview.asp?Object=4&news_ID1833323 ) 6 Theo số liệu điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2006 của Tổng cục thống kê. 7 Nguồn: “Di cư và giảm nghèo ở nông thôn: Một số vấn đề thực tiễn và chính sách“, PSG, TS Đặng Nguyên Anh 10
- Ninh ...), tiếp đến là các tỉnh miến núi trung du phía Bắc (Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hoà Bình, Thái Nguyên) và Bắc trung bộ (chủ yếu là Thanh Hoá) 8. Mặc dù đã có một số cuộc điều tra về dân di cư được thực hiện nhưng chưa có cuộc điều tra nào thực sự gắn vấn đề di cư với các điều kiện kinh tế và xã hội mà người di cư nước ta đang phải đối mặt. Ở nước ta, cuộc điều tra đầu tiên được tiến hành vào năm 1994, thuộc loại điều tra nhân khẩu học và sức khoẻ. Đến năm 2004, Tổng cục Thống kê quyết định tiến hành điều tra di cư. Mục tiêu chính của cuộc điều tra di cư Việt Nam, 2004 là bổ sung sự thiếu hiểu biết hiện nay về quyết định và kết quả của di cư. Như vậy, cho đến thời điểm này nhiều thông tin có liên quan tới các điều kiện kinh tế, xã hội của người di cư đến Hà Nội chưa được đưa ra và cũng chưa có những nhận định chuyên biệt về dân di cư công giáo. Tính đến thời điểm năm 2004, đã có nhiều nghiên cứu về đối tượng di cư được công bố như : Tống Văn Đường, 1995; Doãn Mậu Diệp và các tác giả, 1996; Đỗ Văn Hoà, 1998; Vũ Thị Hồng và các tác giả, 2003 ..., những nghiên cứu này đã chỉ ra nguyên nhân ban đầu của di cư, các đặc điểm đặc trưng cơ bản của di cư, việc làm và thu nhập của dân di cư nói chung v.v .. Trong nghiên cứu về “Di cư tự do đến Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” của TS. Hoàng Văn Chức, 2003 có đề cập đến tính hình di cư của người lao động trong những năm 1980 – 1990. Chỉ ra những nguyên nhân của di cư xuất phát từ sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Nghiên cứu cũng đặc biệt nhấn mạnh đến thực trạng di dân tự do đến Hà nội và những ảnh hưởng của di dân tự do đến môi trường, đến cơ sở hạ tầng của thành phố, đến việc quản lý nhân khẩu, các tệ nạn xã hội, trật tự an toàn xã hội v.v .. - những vấn đề đang ngày càng trở nên nan giải hơn khi dòng người đổ xô về đô thị ngày càng nhiều. Trên tạp chí Khoa học về phụ nữ có bài viết “Chiều cạnh giới của di cư lao động thời kỳ CNH, HĐH đất nước” của PGS.TS Đặng Nguyên Anh, 2005 xem xét đặc trưng của di dân nhìn từ góc độ giới, tập trung đánh giá loại hình di dân lao động nữ 8 Nguồn: “Di cư tự do đến Hà Nội - Thực trạng và giải pháp”, TS. Hoàng Văn Chức, Hà Nội 2004 11
- ra đô thị và đến các khu công nghiệp, chế xuất. Bài viết cho thấy sự gia tăng về quy mô, tỷ trọng cũng như các loại hình di cư nữ, đặc biệt đến khu vực thành thị, các khu công nghiệp là một thực tế khách quan phản ánh quy luật phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó là những bất cập, những khó khăn trở ngại mà phụ nữ phải đối diện trong quá trình di cư khi mà các chính sách, môi trường xã hội và pháp lý chưa tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo quyền lợi cho họ. Còn khi xem xét người di cư dưới khía cạnh tiếp cận các dịch vụ xã hội thì sao? Thực tế, nhiều nghiên cứu về dân số cũng đã tìm hiểu về khả năng tiếp cận các dịch vụ nói chung của người di cư, chẳng hạn như: Chuyên đề nghiên cứu ”Chất lượng cuộc sống của người di cư Việt Nam” của Tổng cục thống kê thực hiện năm 2006. Nghiên cứu này quan tâm xem xét tác động của di cư với bản thân những người di cư. Chất lượng cuộc sống của người di cư được đề cập trong báo cáo này đã mô tả các yếu tố quyết định sự thành công của di cư (cả khách quan và chủ quan) liên quan tới thu nhập, nhà ở, phúc lợi và an ninh nơi chuyển đến. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả di cư bao gồm từ các cơ hội kinh tế, tính sẵn sàng về nhà ở và các điều lệ, quy định của địa phương nơi đến, loại di cư, tức là di cư tạm thời, chuyển đến nơi mới rồi lại quay về, tạm trú dài hạn hoặc kết hợp của các hình thức trên, các hỗ trợ mà người di cư có thể có được thông qua hoặc hệ thống phúc lợi xã hội chung hoặc mạng lưới xã hội riêng của người di cư. Chuyên khảo ”Di cư trong nước và mối liên hệ với các điều kiện sống” do Tổng cục thống kê thực hiện cũng trong năm 2006 nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hoạch định chính sách và kế hoạch hoá phát triển các lĩnh vực khác nhau có tính đến sự khác biệt giữa các nhóm di cư. Mục tiêu chính của chuyên khảo này là miêu tả mối quan hệ giữa di cư và các sự kiện cuộc sống. Các sự kiện được phân tích xem xét bao gồm: việc làm, thay đổi nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, học vấn, sinh đẻ. Tập trung phân tích các mô hình di cư theo chu trình cuộc sống, gắn với các nguyên nhân và hậu quả chính của di cư. 12
- Hay như trong chuyên đề nghiên cứu "Di cư và sức khoẻ" năm 2006 của Tổng cục thống kê đã chỉ ra những nhân tố tác động trực tiếp đến sức khoẻ của người di cư, bao gồm lối sống, các điều kiện kinh tế - xã hội (điều kiện sống và làm việc) và "cơ hội sống" (như nơi sinh, giáo dục, cơ hội việc làm; sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng giới). Việc phân tích những nhân tố có liên quan đến quá trình di cư có tác động đến sức khoẻ đã cho biết người di cư có phải là nhóm yếu thế của xã hội không. Chính các nhân tố này hoặc thúc đẩy hoặc cản trở cơ hội hoàn thành việc di cư của từng cá nhân và cộng đồng. Bên cạnh đó, chuyên đề cũng đưa ra một số nhân tố khác có liên quan đến chính quá trình của sự di cư, gắn liền với các điều kiện khác nữa của di cư này cũng có ảnh hưởng tới sức khoẻ của người di cư. Nhưng chưa hề có một nghiên cứu chính thức nào đề cập đến cơ hội tiếp cận với giáo dục của người di cư dựa trên những điều kiện sống của chính bản thân họ. Và với nhóm người di cư là người Công giáo thì lại càng chưa có nghiên cứu nào. Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn vấn đề này để: một mặt xem xét đời sống kinh tế xã hội nói chung của Giáo dân di cư, mặt khác đánh giá những cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội của họ, mà đặc biệt là cơ hội tiếp cận giáo dục dựa trên những điều kiện sống của họ. Hy vọng những kết quả thu được từ nghiên cứu này sẽ góp phần xây dựng những chính sách hỗ trợ người di cư nói chung và Giáo dân người di cư nói riêng trên bước đường mưu sinh ổn định cuộc sống. II. MỘT SỐ QUAN NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA CƠ BẢN Hình thức nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu cơ bản, bước đầu nhằm tìm hiểu thực trạng về các Giáo dân di cư tiếp cận với giáo dục thông qua các điều kiện sống. Do vậy, hướng tiếp cận của nghiên cứu này chính là nghiên cứu chu trình sống: nghiên cứu những thay đổi của cá nhân theo thời gian trong mối liên quan với các sự kiện sống. Với hướng nghiên cứu này, cho phép nghiên cứu tập trung vào cá nhân người di cư và những sự kiện diễn ra trong quá trình di chuyển của họ, gắn liền các sự kiện kinh tế - xã hội của cuộc sống, với cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội nói chung, trong đó có cơ hội tiếp cận với giáo dục. 13
- 1. Sự di cư (Lịch sử di cư) Cho đến nay, sự di cư đã trở thành một phần quan trọng trong lịch sử của Việt Nam. Trong quá trình phát triển đất nước, việc di cư đều đặn đã giúp mở rộng biên giới đất nước dưới chế độ phong kiến. Tại thời điểm đó, thiếu đất nông nghiệp đã trở thành một trong nhiều lý do của sự di cư. Trong thời kỳ Pháp thuộc (1858 – 1954) những người không có đất đi từ nông thôn tới thành thị, nhiều lao động túng bấn xa rời làng quê để tới những miền đất khác. Như vậy, mùa di cư cứ thế quay vòng do sự di chuyển của những người lao động nông nghiệp9. Thứ đến sự phân chia đất nước tại thời điểm năm 1954 đã dẫn đến một sự di cư lớn giữa 2 miền Nam, Bắc. Việc ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà và chiến tranh với để quốc Mỹ đã có những ảnh hưởng đáng kể tới mô hình di cư trong nước. Trong thời gian này, sự phát triển của một cơ cấu quản lý kinh tế xã hội tập trung vào việc làm và hỗ trợ của nhà nước cho dân cư ở những nơi định cư ổn định đã làm giảm sự di cư trong nước ở miền Bắc10. Sau năm 1975, quá trình di dân nông thôn để khai khẩn đất hoang đã trở thành chính sách chiến lược của nhà nước nhằm phân bổ lại một cách hợp lý lực lượng sản xuất giữa các vùng. Với thời kỳ đổi mới, đại diện cho "một sự chuyển dịch cơ cấu từ hệ thống kinh tế tập trung từ trung ương sang một nền kinh tế thị trường. Sự tăng lên của việc thương mại hoá lao động có đầu tư tài chính là một yếu tố chính giải phóng cho lực lượng lao động nông thôn và thúc đẩy họ rời bỏ nông thôn".11 Đối với cộng đồng Giáo dân: Cuộc di dân lớn nhất của người Công giáo dân diễn ra vào năm 1954. Sau khi kháng chiến chống Pháp 1946-1954 kết thúc, hàng nghìn người dân Công giáo đã bỏ miền Bắc, nơi chế độ cộng sản nắm chính quyền, để vào Nam; trong khi đó, những người cộng sản lại tập kết ra Bắc. Có nhiều đánh giá về số người di cư. Phủ 8, 9 10 Nguồn: “Báo cáo đánh giá nhanh về tình hình trẻ em di cư tại Việt Nam”. Save the Children UK, tháng 1/2006. 14
- Tổng uỷ Di cư (TUDC), cơ quan do chính quyền Ngô Đình Diệm lập ra phụ trách về vấn đề di cư và định cư, đưa ra con số 928.152 người di cư tại thời điểm đó12. "Cuộc di cư là hệ quả trong cuộc đụng độ giữa chính quyền cách mạng với các thế lực chống cộng ở Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ. Nếu không có những áp lực từ nhiều phía cả trong và ngoài Giáo hội, tự thân giáo dân Bắc Kỳ ít có nguyện vọng di cư. Họ đã không được tự do trong việc quyết định di cư hay ở lại, không được tự do lựa chọn nơi cư trú theo ý muốn của mình theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ."13. Đến nay, vẫn còn nhiều cách nhìn khác nhau về cuộc di dân này; nhưng nhìn chung, các cuộc di cư trước năm 1975 đều mang màu sắc chính trị. Cùng với sự đổi mới và ngày một phát triển của xã hội, tình hình di cư của đồng bào Công giáo đang ngày càng gia tăng. Giáo hội Công giáo đã có những lo ngại trước việc tình hình giáo dân bỏ làng mạc, đổ xô vào các thành phố lớn kiếm việc làm. Theo Linh mục Paul Phạm Trung Dong, hiện nay tính bình quân cả nước người Công giáo chiếm 7%. Con số này chưa ổn định vì phần nhiều anh chị em di dân thay đổi chỗ ở luôn, tùy theo việc làm, lương bổng, điều kiện sinh hoạt, vật giá và hoàn cảnh riêng từng người. Giáo hội đã khẳng định rằng với người di dân chắc chắn phải quan tâm trước tiên đến đời sống đạo của họ, nhưng cũng phải để ý đến các vấn đề khác của họ như sức khoẻ, nghề nghiệp, nhà ở, giải trí v.v.. đến cả công bằng xã hội nữa. Tuy sống di cư nhưng các anh chị em di dân cũng có những sinh hoạt chung như: Cắm trại họp mặt, thi đấu thể thao, tĩnh tâm chung, sinh hoạt chung v.v.. Là một tôn giáo có tổ chức chặt chẽ, có tính cộng đồng cao nên Giáo dân di cư đều nhận được sự quan tâm của Giáo xứ, cộng đoàn. Ngày 13/01 đã trở thành ngày Quốc tế Di dân, tuần lễ di dân đối với người Công giáo di cư. Như vậy, di cư đã trở thành là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Những khác biệt mức sống, chênh lệch trong thu nhập, cơ hội việc làm, sức 12 Nguồn: Cuộc phỏng vấn với Linh mục Paul Phạm Trung Dong - Ủy Ban Mục vụ Di dân của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Thực hiện Minh Nguyên ( http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/index.htm ) 13 Nguồn: Vài nét về cuộc di cư của giáo dân Bắc Kỳ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954. TS. Nguyễn Quang Hưng (www.vae.org.vn ) 15
- ép sinh kế, tiếp cận dịch vụ xã hội giữa các khu vực, vùng miền đã tạo thành nguyên nhân của các dòng di cư hiện nay. 2. Một vài nét về Giáo dân di cư vùng Nhà thờ Thái Hà, Hà nội. Trong các giáo xứ ở Hà Nội, Giáo xứ Thái Hà là nơi tập trung đông lao động nhập cư nhất, và Giáo xứ này được gọi là “Giáo xứ nhà nghèo”14. Trong đánh giá sơ bộ ban đầu của các linh mục Giáo xứ thì ở đây hiện đang có khoảng 1.000 giáo dân tham gia sinh hoạt, chủ yếu là phụ nữ ở các địa phương khác nhập cư vào Hà Nội. Phần nhiều giáo dân là người từ các tỉnh Hà Tây, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Nam, Phú Thọ v.v... có tuổi đời từ 15 đến 55. Thực tế cho thấy hầu hết Giáo dân di cư thường là những người trẻ tuổi. Tại Giáo xứ Thái Hà cũng vậy, Giáo dân di cư phần nhiều là tầng lớp thanh niên trong khoảng tuổi từ 23 đến 29 - những thành phần trẻ, năng động. Trong đó phần nhiều là lao động phổ thông, chủ yếu làm nghề mua bán phế liệu hoặc giúp việc gia đình. Số ít còn lại là cán bộ công chức nhà nước đến tham dự các sinh hoạt tôn giáo, số khác vừa đi làm vừa đi học. Nhóm lao động đặc thù này thường gặp các vấn đề về đời sống, việc làm, nhà ở,... đặc biệt là việc tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục v.v... phần do thiếu thông tin, phần do tính chất nghề nghiệp tạo nên. Chính vì vậy, việc tiếp cận và đảm bảo các quyền lợi về mọi mặt cho các Giáo dân nhập cư chưa được thực hiện đầy đủ và toàn diện. 3. Người di cư Theo TS Kinh tế học Lao động Harvey B.King "di cư thường được hiểu là chuyển đến một chỗ ở khác cách chỗ ở cũ một khoảng đủ lớn buộc người di cư phải thay đổi “hộ khẩu thường trú”: chuyển đến một thành phố khác, một tỉnh khác hay một nước khác".15 14 Nguồn: Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT: Lễ thánh An Phong (Mt 9, 35-10,1), (Giảng tại Đền Đức Mẹ hằng Cứu giúp Hà Nội), (www.chuacuuthe.com/bgiang/07anphong205.htlm ) 15 Nguồn: Giáo trình Kinh tế lao động: Vấn đề di cư. TS Harvey B.King. (www.kinhtehoc.com/index.phh?name=New&file=article&sid) 16
- Di cư và nhập cư được coi là 2 khái niệm tương đồng nhau. Nhập cư là hành động di chuyển chỗ ở đến vào một vùng hay một quốc gia mới. Dân nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng đến một vùng khác để sinh sống, tạm trú. Trong cuộc điều tra di cư Việt Nam năm 2004, người di cư cũng được định nghĩa là những người di chuyển từ quận/huyện này sang quận/huyện khác: "Người di cư là những người từ 15 – 59 tuổi di chuyển từ quận/huyện này sang quận/huyện khác trong vòng 5 năm trước thời điểm điều tra và đã cư trú trên địa bàn điều tra từ một tháng trở lên. Một người di cư từ quận này sang quận khác trong nội thành phố trong khoảng thời gian 5 năm trước điều tra được xem là người không di cư".16 Thực tế, nhiều nghiên cứu cả trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng không có một định nghĩa duy nhất về người di cư. Tuỳ theo mục đích di cư của người di cư để phân chia thành nhiều hình thức khác nhau: có thể di cư để định cư, di cư thời hạn dài và di cư thời gian ngắn hạn. Sự phân biệt giữa hai loại sau này được thực hiện theo thời gian cư trú dự kiến. Với những điểm nêu trên, các Giáo dân di cư trong nghiên cứu này được định nghĩa như sau: là những người có tôn giáo, tín ngưỡng của riêng mình (Đạo Thiên chúa giáo) từ 15-50 tuổi, dưới những tác động khác nhau của môi trường xã hội, hoàn cảnh địa lý, kinh tế v.v.. di chuyển từ tỉnh/thành phố này sang tỉnh/thành phố khác để lập nghiệp, sinh sống; sự di chuyển này có khoảng cách về mặt địa lý đủ để Giáo dân đó phải thay đổi hộ khẩu thường trú hoặc khai báo tạm trú dài hạn (từ 3 tháng trở lên, trước thời điểm thực hiện khảo sát). Các trường hợp di chuyển trong cùng khu vực thành thị/nông thôn không được coi là người di cư và không được xem xét trong khảo sát này. Xét đến cùng, có thể hiểu sự di cư như là một quá trình mà theo thời gian nó sẽ làm thay đổi bản thân các điều kiện đã làm nảy sinh ra nó với thái độ và các sự kiện của những người đã di cư, hay nói cách khác là bởi nó gắn liền với các sự kiện diễn ra trong đời sống như học tập, hôn nhân, thay đổi nghề nghiệp v.v.. 16 Nguồn: Điều tra di cư năm 2004: Di cư trong nước và mối liên hệ với các sự kiện của cuộc sống. Tổng cục Thống kê, tháng 11 năm 2006) 17
- 4. Khái niệm về tiếp cận dịch vụ xã hội 4.1. Khái niệm chung về tiếp cận dịch vụ xã hội Khái niệm tiếp cận ở đây được hiểu là cơ hội đến gần các nguồn lực và có khả năng sử dụng nguồn lực. Tiếp cận dịch vụ xã hội đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc, và cũng là một trong nhiều nội dung gắn bó chặt chẽ với các hoạt động xã hội trong chiến lược phát triển bền vững của các quốc gia. Dịch vụ xã hội chính là cầu nối để mỗi cá nhân khắc phục trở ngại về trình độ học vấn, khả năng và trình độ tay nghề, khả năng tiếp cận thông tin về việc làm v.v.. bảo đảm cuộc sống. Như vậy "tiêu chí và phạm vi dịch vụ xã hội chính là khả năng cung ứng dịch vụ xã hội cần thiết, khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội, năng lực kiểm soát các dịch vụ xã hội của các cơ quan quản lý17". 4.2. Cơ hội tiếp cận với giáo dục 18 Có 5 tiêu chí cần thiết để đảm bảo quyền lợi của công dân cũng như của người nhập cư đối với giáo dục, đó là: (i) không có sự phân biệt đối xử, (ii) có đủ khả năng tiếp cận, (iii) có đầy đủ các điều kiện cần thiết, (iv) có khả năng chấp nhận và (v) khả năng theo đuổi đến cùng. Có thể nhiều nguyên tắc cơ bản trong các khía cạnh của yêu cầu này là cơ hội tiếp cận với giáo dục. Tiếp cận với giáo dục đã được ngầm hiểu thông qua nhiều nhân tố. Chúng ta hiểu tiếp cận giáo dục nghĩa là như thế nào? Có 3 khuynh hướng tiếp cận giáo dục. Điều này có nghĩa giáo dục phải thể hiện: + Tất cả đều không có sự phân biệt đối xử (cả trong luật và thực tế) + Có khả năng tiếp cận một cách tự nhiên + Và có khả năng về tài chính. Như vậy, tiếp cận giáo dục ở đây cần thiết phải được hiểu là sự chủ động tiếp cận của cá nhân, là xem xét đến khả năng liệu cá nhân có hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để tiếp cận với nguồn lực phát triển hay không? 17 Nguồn: Đề tài mã số: 01X-07/06-2002-1 Chủ nhiệm đề tài: TS. Hoa Hữu Lân, Trưởng phòng KH và QLKH-Viện Nghiên cứu phát triển KT -XH Hà Nội 18 Nguồn: Education access in deveploping countries. Davi Poccok. Sussex University Express. Sussex, 1999. 18
- Cùng với quan điểm trên, TS. Munir Mahmud19 cho rằng nhu cầu, cơ hội tiếp cận với giáo dục chủ yếu phụ thuộc vào bốn nhân tố chính, đó là: 1. Khác biệt về mức lương hay thu nhập (giữa người có học và không học). 2. Khả năng thành công trong việc tìm kiếm công ăn việc làm trong khu vực hiện tại (tỷ lệ thất nghiệp). 3. Các chi phí riêng trực tiếp cho giáo dục (tiền học phí). 4. Chi phí cơ hội hay gián tiếp cho giáo dục (tiền có thể kiếm được thay vì không đi học). Khi không có đủ nguồn lực để thoả mãn/đảm bảo nhu cầu của các cá nhân/xã hội, các cá nhân/xã hội phải đưa ra sự lựa chọn trong số các lựa chọn thay thế cạnh tranh để kiến tạo nên cơ hội phát triển bản thân; Và cũng bởi sự phát triển nhanh chóng số lượng các cơ hội giáo dục là một nhân tố then chốt để các cá nhân phát triển bản thân và thích ứng với hoàn cảnh mới. Trong nghiên cứu này, cơ hội tiếp cận giáo dục được xem xét thông qua các điều kiện sống của chính bản thân người di cư: sự ảnh hưởng của tính chất di cư, việc làm, thu nhập và các điều kiện vật chất khác v.v.. nhằm đáp ứng những yêu cầu thiết yếu cho việc tiếp cận với giáo dục. Cơ hội tiếp cận giáo dục của các Giáo dân di cư được xem xét dưới các khía cạnh sau: 1. Năng lực bản thân (trình độ văn hoá). 2. Tính ổn định cá nhân (thời gian sống và làm việc ở Hà nội). 3. Khả năng về tài chính (mức thu nhập). 4. Cơ hội được học tập và đào tạo thêm về lĩnh vực chuyên môn, công việc. 5. Các chi phí trực tiếp cho giáo dục (tiền học phí). 6. Cơ hội gián tiếp cho giáo dục: thời gian dành cho việc học tập và phát triển bản thân. Đây có thể coi là yếu tố nền tảng để cá nhân người Công giáo di cư xem xét hoàn cảnh và lựa chọn xu hướng phát triển bản thân. 19 Nguồn: Giáo trình Kinh tế học: Giáo dục và Phát triển. TS Munir Muhmud, người dịch Lê Thu. (www.kinhtehoc.com/index.php?name=pnforum ) 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
134 p | 1072 | 132
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 704 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 492 | 90
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 458 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 340 | 55
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục: Quản lý công tác giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng
26 p | 419 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa tệ nạn xã hội cho học sinh tại các trường trung học cơ sở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
26 p | 187 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng kế hoạch phát triển quy mô giáo dục Trung học phổ thông tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020
142 p | 169 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 49 | 17
-
Luân văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lí đội ngũ giáo viên của Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Cà Mau
115 p | 115 | 12
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn