Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học Hoá học chương Oxi – lưu huỳnh (lớp 10 - ban Nâng cao )
lượt xem 49
download
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học Hoá học chương Oxi – lưu huỳnh (lớp 10 - ban Nâng cao) nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy học Hoá học 10 ở trường THPT .
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học Hoá học chương Oxi – lưu huỳnh (lớp 10 - ban Nâng cao )
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________ Trần Thị Thanh Tâm RÈN LUYỆN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC HOÁ HỌC CHƯƠNG OXI – LƯU HUỲNH ( LỚP 10 - BAN NÂNG CAO ) Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học hóa học Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ HIỀN Thành Phố Hồ Chí Minh – 2008
- LỜI CẢM ƠN Đề tài này được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn nhiệt tình của TS.Nguyễn Thị Hiền và các thầy cô giáo khoa Hóa trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh. Xin chân thành cảm ơn TS.Nguyễn Thị Hiền – với lòng biết ơn sâu sắc – cô đã dành nhiều thời gian để đọc bản thảo, bổ sung và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Hóa học, phòng quản lý sau Đại Học và các thầy cô trong tổ bộ môn Hóa học đã tạo nhiều thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Xin cảm ơn sâu sắc Ban giám hiệu, tập thể giáo viên và học sinh các trường THPT Tân Hiệp, THPT Nguyễn Văn Tiếp, THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT Thiên Hộ Dương đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực nghiệm sư phạm theo đúng kế hoạch. Sau cùng tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, bạn bè đặc biệt là chồng và cha mẹ chồng luôn quan tâm, động viên về tinh thần trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn. Trần Thị Thanh Tâm
- CÁC CHỮ VIẾT TẮT HS : Học sinh GV : Giáo viên THPT : Trung học phổ thông DH : Dạy học HH : Hóa học PTHH : Phương trình hóa học TN : Thực nghiệm ĐC : Đối chứng PPDH : Phương pháp dạy học PTKT : Phương tiện kĩ thuật HUNK : Hiệu ứng nhà kính
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Công cuộc xây dựng đất nước ta trong thời đại mới đòi hỏi phải có những người lao động tự chủ năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề thường gặp, luôn luôn theo kịp được với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, tự lo được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống, có đạo đức, biết giữ gìn bản sắc truyền thống dân tộc qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh. Muốn vậy, chúng ta cần vận dụng tốt một trong những thành tựu xuất sắc của khoa sư phạm ở nhiều nước trong thế kỷ XX về tâm lý học và lý luận dạy học là : cách tốt nhất để hình thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo của học sinh là đặt họ vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, thông qua hoạt động tự lực tự giác tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo và hình thành quan điểm đạo đức. Trước tình hình đó, với suy nghĩ và mong muốn được đóng góp và làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình trong giai đoạn hiện tại của đất nước chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “ Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học hoá học - khi dạy chương oxi - lưu hùynh (lớp 10- Ban nâng cao) ” 2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2.1 . Khách thể nghiên cứu : Quá trình dạy học hoá học ở trường THPT Việt Nam. 2.2 . Đối tượng nghiên cứu : Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học hoá học - chương oxi – lưu huỳnh (lớp 10 - Ban nâng cao). 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu và đề xuất 1 số biện pháp nhằm rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy học hoá học 10 ở trường THPT
- 4. Nhiệm vụ của đề tài 4.1. Nghiên cứu lí luận về đổi mới phương pháp dạy học hoá học, về những biểu hiện của năng lực sáng tạo và biện pháp rèn luyện năng lực đó cho học sinh. 4.2. Điều tra thực tiễn dạy và học môn hoá học 10 (Ban nâng cao), trong việc rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh. 4.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường năng lực sáng tạo cho học sinh. 4.4. Kiểm tra tính giá trị và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất. 5. Giả thuyết khoa học Nếu có biện pháp phù hợp và trình độ cần thiết của giáo viên thì có thể bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy và học hoá học. 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Tổng kết một số cơ sở lý luận về những biểu hiện của năng lực sáng tạo cho học sinh THPT trong dạy và học hoá học. 6.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh hoá 10. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết : Nghiên cứu lý luận, tổng hợp các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Sử dụng phương pháp điều tra để điều tra thực tiễn dạy và học hoá học 10 ở trường trung học phổ thông. - Sử dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm để tiến hành lên lớp theo hai loại giáo án để so sánh. 8. Giới hạn của đề tài Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh khi dạy chương oxi – lưu huỳnh - lớp 10 - Ban nâng cao.
- Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Năng lực sáng tạo của học sinh, những biểu hiện của năng lực sáng tạo và cách kiểm tra đánh giá Chúng ta đang đứng ở những năm đầu của thế kỷ XXI, thế giới đang xảy ra sự bùng nổ về tri thức khoa học công nghệ. Sáng tạo là một trong những phẩm chất tư duy được nhấn mạnh trong mục tiêu giáo dục nhằm chuẩn bị nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010 đã nêu rõ : Tạo được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo…Ưu tiên hàng đầu cho việt nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, PP dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ GV và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của HS, SV [3]. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nhà giáo dục là tìm ra và đổi mới PPDH phù hợp, hiện đại để bồi dưỡng năng lực sáng tạo, bồi dưỡng HS giỏi, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Vậy năng lực sáng tạo là gì ? Tính sáng tạo được biểu hiện như thế nào trong quá trình dạy học ? 1.1.1. Năng lực sáng tạo là gì? 1.1.1.1. Khái niệm năng lực Năng lực (Capacite – Pháp, Capacity – Anh) : Còn gọi là khả năng thực hiện như khả năng giải nhanh các bài tập … là một sự kết hợp linh hoạt và độc đáo của nhiều đặc điểm tâm lý của một người, tạo thành những điều kiện
- chủ quan thuận lợi giúp cho người đó tiếp thu dễ dàng, tập dượt nhanh chóng và hoạt động đạt hiệu quả cao trong một lĩnh vực nào đó [25]. Theo từ điển Tiếng việt thông dụng: “Năng lực là khả năng làm tốt công việc”. Trong tâm lý học người ta coi năng lực là những thuộc tính tâm lý riêng của cá nhân, nhờ những thuộc tính này mà con người hoàn thành tốt đẹp một loạt hoạt động nào đó, mặc dù phải bỏ ra ít sức lao động. Người có năng lực về một mặt nào đó thì không phải nỗ lực nhiều trong quá trình công tác mà vẫn khắc phục được nhiều khó khăn một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn những người khác hoặc có thể vượt qua khó khăn mới mà người khác không thể vượt qua được. Theo các nhà tâm lý học, năng lực chính là khả năng thực hiện một hoạt động nào đó trong một thời gian nhất định nhờ những điều kiện nhất định và những tri thức tiểu xảo đã có. Năng lực chứa đựng yếu tố mới mẻ linh hoạt, có thể giải quyết nhiệm vụ thành công trong những tình huống khác nhau, trong một lĩnh vực hoạt động rộng hơn. Do vậy, năng lực của học sinh sẽ là mục đích của dạy học, giáo dục, những yêu cầu về bồi dưỡng phát triển năng lực cho học sinh cần đặt đúng chỗ của chúng trong mục đích dạy học. Năng lực của mỗi người một phần dựa trên cơ sở tư chất. Nhưng năng lực hình thành và phát triển chủ yếu là dưới tác dụng của sự rèn luyện thông qua dạy học và giáo dục. Năng lực (tiếng la tinh là « competentia », có nghĩa là gặp gỡ, khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau) [6]: Năng lực : Là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức. Năng lực : Là những khả năng và kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động
- cơ, xã hội…và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt [26]. Hiện nay, người ta quan tâm nhiều đến phát triển năng lực hành động. Vậy năng lực hành động có cấu trúc như thế nào? Cấu trúc năng lực hành động gồm: Năng lực chuyên môn: Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ về chuyên môn cũng như đánh giá kết quả một cách độc lập, có PP và đảm bảo chính xác về mặt chuyên môn (bao gồm khả năng tư duy logic, phân tích, tổng hợp và trừu tượng; khả năng nhận biết các mối quan hệ thống nhất trong quá trình). Năng lực phương pháp: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong công việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề đặt ra. Trung tâm của năng lực PP là những PP nhận thức, xử lý, đánh giá, truyền thụ và giới thiệu. Năng lực xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau với sự phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Trọng tâm của năng lực xã hội là ý thức được trách nhiệm của bản thân cũng như của những người khác, tự chịu trách nhiệm, tự tổ chức, có khả năng thực hiện các hành động xã hội, khả năng cộng tác và giải quyết xung đột. Năng lực cá thể: Là khả năng suy nghĩ và đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của mình; phát triển được năng khiếu cá nhân cũng như xây dựng và thực hiện kế hoạch cho cuộc sống riêng; những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các hành vi ứng xử. Các thành phần năng lực “gặp nhau” tạo thành năng lực hành động.
- Năng lực Năng lực Cá thể chuyên môn Năng lực Năng lực Xã hội Phương pháp NĂNG LỰC HÀNH ĐỘNG Sơ đồ 1.1. Cấu trúc năng lực hành động 1.1.1.2. Khái niệm sáng tạo Có rất nhiều quan niệm về sáng tạo. Sáng tạo (reation) : Nghĩa là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có sẵn[25, tr.15]. Sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi ... theo những cách khác với thông thường. Tức là nhìn mọi thứ từ các góc độ, tầm nhìn khác, “ nhìn ” theo những cách không bị hạn chế bởi thói quen, bởi phong tục, bởi tiêu chuẩn... Theo từ điển Tiếng việt thông dụng thì : “ Sáng tạo là nghĩ ra và làm ra những giá trị vật chất hoặc tinh thần ”. Theo từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô tập 42 thì : “ Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần hay vật chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị”.
- Theo nhà tâm lý học thì sáng tạo là năng lực đáp ứng một cách thích đáng nhu cầu tồn tại theo lối mới, năng lực gây ra cái gì đấy mới mẻ. Sự thích ứng như vậy, nếu có xu hướng nội tâm lý thì chủ yếu liên quan tới cảm giác phát hiện sự nảy sinh những ý và nghĩa trong, quá trình hình thành mục đích, nếu có xu hướng ngoại tâm lí thì mang hình thức của các cấu trúc mới, những quy trình hoặc sáng chế mới hoặc tiếp tục tồn tại.[41] Theo từ điển Triết học, sáng tạo là quá trình, hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Mặc dù, có nhiều ý kiến khác về bản chất nguồn gốc của trí sáng tạo nhưng vì nó rất cần cho cuộc sống nên nhà tâm lý học đã tìm cách đo lường, đánh giá năng lực sáng tạo của mọi cá nhân. Người ta đưa ra một tình huống với một số điều kiện, xuất phát từ yêu cầu đề xuất càng nhiều giải pháp càng tốt, trong một thời gian càng ngắn càng hay. Việc đánh giá được căn cứ vào số lượng tính mới mẻ, tính độc đáo, tính hữu ích của các đề xuất. Những trắc nghiệm theo hướng như vậy, cùng với nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác đã cho biết : - Sáng tạo là một tiềm năng vốn có trong mỗi người, khi gặp dịp thì bộc lộ. - Mỗi người thường chỉ quen sáng tạo trong một vài lĩnh vực nào đó (toán, văn, mỹ thuật…) và có thể luyện tập để phát triển đầu óc sáng tạo trong lĩnh vực đó. Như vậy, sáng tạo cần cho bất cứ lĩnh vực nào của hoạt động xã hội loài người và cho mọi người. Bởi vì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường gặp nhiều tình huống cần có sáng kiến mới giải quyết tốt được. Học sinh phải giải bài toán. Nhà sản xuất phải đưa ra thị trường sản phẩm phù hợp với yêu cầu người mua. Nhà thiết kế phải tạo ra mẫu mã mới thu hút thị hiếu người tiêu dùng. Thầy cô phải biết dùng phương pháp giảng dạy hay, gây
- được hứng thú kích thích học sinh tự học. Rõ ràng cần có sáng tạo mới giải quyết tốt được những tình huống đó. Sáng tạo đem lại cho mỗi người cũng như cộng đồng lợi ích rõ rệt, có khi thật to lớn, không sách báo nào nói hết những kết quả to lớn do sáng tạo đem lại. Cũng chính vì lẽ đó, tài liệu khoa học quốc tế cho biết “ Tương lai của cả thế giới phần lớn tuỳ thuộc vào chất lượng của tư tưởng, và cả ý tưởng sáng tạo do nhân loại khám phá và đề nghị trong tất cả với mọi lĩnh vực của cuộc sống”. Do đó, vấn đề “Rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học hóa học” cũng thật sự đáng được coi trọng. Những quan niệm về năng lực sáng tạo ở học sinh: Từ các cơ sở trên chúng ta có thể có những quan niệm về năng lực sáng tạo của học sinh như sau : - Năng lực tự chuyển tải tri thức và kỹ năng từ lĩnh vực quen biết sang tình huống mới, vận dụng kiến thức đã học trong điều kiện mới hoàn cảnh mới. - Năng lực nhận thấy vấn đề lớn trong điều kiện quen biết (tự đặt câu hỏi mới cho mình và cho mọi nguời về bản chất của các điều kiện, tình huống, sự vật). Năng lực nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết. - Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực chất là bao quát nhanh chóng, đôi khi ngay tức khắc, các bộ phận, các yếu tố của đối tượng trong mối tương quan giữa chúng với nhau. - Năng lực biết đề xuất các giải pháp khác nhau khi phải xử lý một tình huống. Khả năng huy động các kiến thức cần thiết để đưa ra giả thuyết hay các dự đoán khác nhau khi phải lý giải một hiện tượng. - Năng lực xác nhận bằng lý thuyết và thực hành các giả thuyết hoặc phủ nhận nó. Năng lực biết đề xuất các phương án thí nghiệm hoặc thiết kế sơ đồ
- thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết hay hệ quả suy ra từ giả thuyết hoặc để đo một đại lượng nào đó với hiệu quả cao nhất có thể được trong những điều kiện đã cho. - Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới những góc độ khác nhau, xem xét đối tượng ở những khía cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau. Năng lực tìm ra các giải pháp lạ, chẳng hạn đối với bài toán hóa học, có nhiều cách nhìn để tìm kiếm lời giải, năng lực kết hợp nhiều phương pháp bài tập để tìm ra một phương pháp mới, độc đáo. Như vậy, năng lực sáng tạo chính là khả năng thực hiện được những điều sáng tạo. Đó là biết làm thành thạo và luôn đổi mới, có những nét độc đáo riêng luôn phù hợp với thực tế. Luôn biết và đề ra những cái mới khi chưa được học, nghe giảng hay đọc tài liệu hay tham quan về việc đó nhưng vẫn đạt được kết quả cao. Đối với học sinh phổ thông tất cả những gì mà họ “ tự nghĩ ra ” khi GV chưa dạy, HS chưa đọc sách, chưa biết được, nhờ trao đổi với bạn bè đều coi như có mang tính sáng tạo. Sáng tạo là bước nhảy vọt trong sự phát triển năng lực nhận thức của HS. Không có con đường logic để dẫn đến sáng tạo, bản thân HS phải tự tìm thấy kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình. Cách tốt nhất để hình thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo của HS là đặt họ vào vị trí chủ thể của hoạt động tự lực, tự giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo, hình thành quan điểm đạo đức. Như vậy, trách nhiệm chủ yếu của người GV là tìm ra biện pháp hữu hiệu để rèn luyện năng lực sáng tạo cho HS từ khi cấp sách đến trường. 1.1.2. Những biểu hiện của năng lực sáng tạo Trong quá trình học tập của học sinh, sáng tạo là yêu cầu cao nhất trong bốn cấp độ nhận thức: biết, hiểu, vận dụng, sáng tạo. Tuy nhiên ngay từ
- những buổi đầu lên lớp hoặc làm việc mỗi học sinh đã có thể có những biểu hiện năng lực sáng tạo của mình. Những biểu hiện đó cụ thể là: 1. Biết trả lời nhanh chính xác câu hỏi của giáo viên, biết phát hiện vấn đề mấu chốt, tìm ra ẩn ý trong những câu hỏi, bài tập. Ví dụ: Khi giáo viên cho một bài tập hay câu hỏi mà học sinh không nắm chắc dễ bị nhầm lẫn thì học sinh vẫn phát hiện ra. 2. Biết tự tìm ra vấn đề, tự phân tích, tự giải quyết đúng với những bài tập mới, vấn đề mới. Ví dụ: Khi giáo viên cho bài tập mới, hoặc một câu hỏi mới chưa từng gặp, học sinh có thể tự phân tích, phát hiện ra vấn đề cốt lõi và giải quyết đúng. 3. Biết kết hợp các thao tác tư duy và các phương pháp phán đoán, đưa ra kết luận chính xác ngắn gọn nhất. Ví dụ: Khi học xong một bài hay một chương, học sinh biết tự phân tích, so sánh với các bài học trước để khái quát hoá, đưa ra mối liên hệ giữa các bài các chương đã học. 4. Biết trình bày linh hoạt một vấn đề, dự kiến nhiều phương án giải quyết. Ví dụ: Đối với một bài toán có thể đưa ra rất nhiều cách giải khác hoặc với một câu hỏi mở có thể đưa ra nhiều phương án trả lời. 5. Biết vận dụng tri thức thực tế giải quyết vấn đề khoa học và ngược lại biết vận dụng tri thức khoa học để đưa những sáng kiến, những giải thích, áp dụng phù hợp. Ví dụ: Khi điều chế một chất nào đó nhưng hoá chất cần thiết không có, học sinh có thể thay bằng những hoá chất khác nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu. Học sinh dựa vào kiến thức đã học để giải thích những vấn đề xảy ra trong cuộc sống, những hiện tượng tự nhiên: hiện tượng ma trơi, mưa axit…
- 6. Dám mạnh dạn đề xuất những cái mới không theo đường mòn, không theo những quy tắc đã có. Biết cách biện hộ, bảo vệ luận điểm đưa ra và bác bỏ quan điểm không đúng. Ví dụ: Đối với một bài toán có thể đưa ra một cách giải nào đó khác những cách đã biết và biết cách lập luận để bảo vệ cách giải đó. 7. Biết cách học thầy, học bạn, biết kết hợp các phương tiện thông tin, khoa học kĩ thuật hiện đại trong khi tự học. Biết vận dụng và cải tiến những điều học được. Ví dụ: Học sinh có thể tự học trên các phương tiện thông tin đại chúng: trên mạng internet, báo, tivi, radio… 8. Luôn biết đánh giá và tự đánh giá công việc bản thân và đề xuất biện pháp hoàn thiện. Ví dụ: Học sinh tự nhận thấy những điểm yếu kém, lỗ trống kiến thức của mình và tìm ra được phương pháp học tập thích hợp để khắc phục chúng. 9. Có năng lực tưởng tượng – liên tưởng. Ví dụ: Khi học sinh học phần cấu tạo nguyên tử, có những kiến thức khó, trừu tượng, đòi hỏi học sinh phải có tính tưởng tượng phong phú. Hoặc học sinh có thể nhìn sự vật, các khái niệm, các định nghĩa, dưới nhiều góc độ khác như định nghĩa về chất oxi hoá - chất khử. Ở lớp 8: - Chất chiếm oxi của chất khác là chất khử. - Chất nhường oxi của chất khác là chất oxi hoá. Học sinh có thể hiểu định nghĩa mở rộng: - Chất chiếm oxi của chất khác hoặc là chất nhường hiđro cho chất khác là chất khử. - Chất nhường oxi cho chất khác hoặc là chất kết hợp với hiđro là chất oxi hoá. Ở lớp 10: - Chất khử là chất nhường e - Chất oxi hoá là chất nhận e
- Trên đây chúng tôi đã đề cập đến một số biếu hiện thường thấy của những học sinh thông minh, sáng tạo trong học tập và lao động. Tuy nhiên những biểu hiện của năng lực sáng tạo có được thể hiện hay không, thể hiện nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào cách kiểm tra – đánh giá của giáo viên. 1.1.3. Cách kiểm tra đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh Trong dạy học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Để đào tạo ra những con người năng động sáng tạo, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không chỉ dừng lại ở việc tái hiện các kiến thức, kĩ năng đã học mà phải phát huy trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Đánh giá kết quả học tập của HS là việc làm thường xuyên của người GV. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm trong việc đánh giá kết quả học tập của HS qua các bài tập tái hiện. Đối với các bài tập sáng tạo thì khi đánh giá có thể dựa vào các biểu hiện của năng lực sáng tạo. Tuy nhiên để giúp việc kiểm tra đánh giá năng lực sáng tạo một cách dễ dàng, chính xác, ta có thể áp dụng các cách sau : 1. Sử dụng phối hợp các phương pháp kiểm tra – đánh giá khác như : viết, vấn đáp, thí nghiệm, trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách quan. 2. Sử dụng các câu hỏi phải suy luận, bài tập có yêu cầu tổng hợp, khái quát hoá, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. 3. Chú ý kiểm tra tính linh hoạt, tháo vát trong thực hành, thực nghiệm, (thí nghiệm hoá học, sử dụng các phương tiện trực quan). 4. Kiểm tra việc thực hiện những bài tập sáng tạo và tìm ra cách giải ngắn nhất, hay nhất (những bài tập yêu cầu học sinh đề xuất nhiều cách giải quyết).
- 5. Đánh giá cao những biểu hiện sáng tạo dù nhỏ. 1.1.4. Một số năng lực sáng tạo chủ yếu 1.1.4.1. Năng lực tư duy - sáng tạo Tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận thức bậc cao ở con người. Có nhiều loại tư duy, nhưng tựu chung có 3 loại tư duy cơ bản: tư duy logic hình thức (gọi tắt là tư duy logic), tư duy biện chứng và tư duy hình tượng. Trong các năng lực của con người, năng lực tư duy đóng vai trò số một. Bởi vì tư duy tốt (tư duy có phê phán) hay tư duy không tốt sẽ có ảnh hưởng quyết định đến đời sống của con người về thể chất, về tinh thần, về quan hệ với cộng đồng, đến sự giàu có, hạnh phúc của một gia đình đến hưng thịnh, hùng cường của một quốc gia. Năng lực tư duy là tiêu chuẩn đánh giá đối với người lao động ở thế kỉ trí tuệ này. Tư duy có phê phán không những chỉ giúp học tập tốt ở trường học mà còn giúp trở thành người công dân tốt trong việc ra những quyết định thông minh, có ý thức, suy nghĩ sâu sắc, để tìm ra những giải pháp sáng tạo, thích hợp tối ưu cho mọi vấn đề xã hội yêu cầu, trở thành con người tích cực, tiến bộ, văn minh, tỉnh táo tìm ra được những giải pháp sáng tạo trong đấu tranh, lao động, vì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Chính vì tầm quan trọng của tư duy như vậy mà hiện nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều quyển sách viết về “cách dạy các kỹ năng tư duy”, “tư duy sáng tạo ”…. phục vụ cho việc dạy và học cách tư duy trong nhiều trường học, ngoài xã hội trên thế giới. Quy luật hình thành và phát triển của tư duy sáng tạo (TDST): - Khi hoàn cảnh có vấn đề (có tình huống vấn đề) thì TDST mới phát triển. - TDST hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn rồi trở lại làm phong phú thực tiễn.
- - TDST phát triển từ tư duy độc lập, tư duy phê phán. - Chủ thể của TDST cần được cung cấp đầy đủ tư liệu, đó là tri thức, thông tin, kinh nghiệm, các phương pháp, các sự kiện trong tự nhiên, xã hội. - Bộ não cần được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng, và được hoạt động trong môi trường thuận lợi. - TDST hình thành và phát triển dần dần theo qui luật từ tiệm tiến đến nhảy vọt. 1.1.4.2. Năng lực quan sát và sáng tạo Quan sát là hình thức phát triển cao độ tri giác có chủ định, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động thực tiễn, sáng tạo của loài người. D.Mendeleep nhà bác học người Nga cũng đã đánh giá rất cao về năng lực quan sát: “ Quan sát và thực nghiệm là cửa ra của khoa học ”. Quan sát chiếm một vị trí quan trọng trong phát minh sáng tạo. Rất nhiều phát minh, sáng tạo vĩ đại bắt đầu từ sự quan sát chu đáo. Do đó đối với các nhà khoa học, năng lực quan sát, tinh vi, sắc sảo và có hệ thống vẫn là điều kiện cơ bản của phát minh sáng tạo. Để nâng cao năng lực quan sát cần phải : - Xác định chính xác mục đích và nhiệm vụ của quan sát. - Chuẩn bị tốt tri thức về đối tượng quan sát: dụng cụ, máy móc, thời gian lập đề cương kế hoạch tỉ mỉ trong quan sát. - Khi quan sát, tập trung sức chú ý trong phạm vi đã quy định, và đối với từng khâu cần thực hiện quan sát chu đáo, chính xác,và ghi chép tỉ mỉ, cụ thể, chuẩn xác. - Tăng cường sử dụng yếu tố tư duy trong quan sát. Nghĩa là tăng cường so sánh, phân tích, tổng hợp, suy xét… để có kết quả cuối cùng đáp ứng nhiệm vụ quan sát đã đề ra.
- 1.1.4.3. Năng lực tưởng tượng – liên tưởng Tưởng tượng và liên tưởng là hai phẩm chất quan trọng của tư duy sáng tạo 1. Tưởng tượng là xây dựng trong đầu những hình ảnh mới trên cơ sở các biểu tượng đã có. Biểu tượng : là hình ảnh sự vật nảy sinh trên võ não khi sự vật không còn trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta nữa. Trong tưởng tượng những biểu tượng đã có được sắp xếp lại, được kết hợp với nhau theo một phương thức nào đó để tạo ra một biểu tượng mới. Biểu tượng trong tưởng tượng thường xuất hiện không rõ rệt như hình ảnh của vật khi ta tri giác mà nó thường xuất hiện với những nét cơ bản. Dù là tưởng tượng mang tính viễn tưởng nhất (như tưởng tượng ra trời phật, ma quỷ, con người của hành tinh khác…) nhưng chính tưởng tượng là sự kết hợp độc đáo của các yếu tố nằm trong các sự vật, hiện tượng có thật. Vì vậy, để cho năng lực tưởng tượng phong phú và phát triển hợp lý cần gắn với hoạt động thực tiễn. Phác thảo là tưởng tượng nguyên thuỷ của nhà sáng tạo, cần được bổ sung sửa chữa nhiều lần để sản phẩm của tưởng tượng được hoàn chỉnh, chất lượng cao. Con người tưởng tượng không chỉ trên cơ sở các hình tượng đã tri giác trực tiếp, mà còn dựa trên các hình tượng do ngôn ngữ cung cấp vì ngôn ngữ là phương tiện để tưởng tượng, cũng là phương tiện để tư duy. 2. Ý nghĩa của tưởng tượng trong cuộc sống sáng tạo của con người. Tưởng tượng cần thiết cho hoạt động của con người giúp ta nhìn thấy trước sản phẩm hoạt động trong nhiều trường hợp là một hoạt động mang tính sáng tạo. Người kiến trúc sư, nhà hội hoạ, nhà khoa học, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc … nhờ trí tưởng tượng phong phú mà có được những sản phẩm sáng tạo lừng danh.
- Trí tưởng là món quà vĩ đại của thiên nhiên, nó đã có sẵn trong con người. Nó làm cho thế giới tinh thần của con người càng thêm phong phú, nó đem lại cho con người niềm vui và kiến thức. Trí tưởng tượng giúp con người “nhìn thấy” được những cái tưởng như không thể thấy, tiếp cận được những cái tưởng như không thể tiếp cận. Trí tưởng tượng cung cấp cho con người những gì mà thực tại chưa kịp hoặc không thể cho con người. Ước mơ: là loại tưởng tượng tích cực. Nó có thể thúc đẩy con người vươn lên. Lý tưởng: là sự tưởng tượng về mục tiêu cao đẹp, định hướng cho hành động và thúc đẩy con người vươn lên. Có lí tưởng vì xã hội là mức độ cao của sự phát triển nhân cách. 3. Cần làm gì để năng lực tưởng tượng phát triển phong phú, đúng hướng ? - Làm giàu đầu óc mình bằng tri thức và khái niệm thực tiễn. Người có tri thức và khái niệm thực tiễn phong phú, đa dạng thường có năng lực tưởng tượng mạnh hơn người chỉ biết một mặt của tri thức. - Nỗ lực rèn luyện năng lực liên tưởng của mình, tức là khả năng sử dụng khái niệm để chuyển sang giải quyết những vấn đề khác tương tự. Không có năng lực liên tưởng rất mạnh thì không thể có năng lực tưởng tượng phong phú. - Vận dụng tư duy, can thiệp làm cho tưởng tượng hợp logic hơn và hợp với quy luật. - Tư duy giúp cho tưởng tượng ném bớt sự bay bổng, viễn vông và gắn thực tế hơn. . - Luôn luôn chịu khó suy nghĩ, tưởng tượng ra cái mới tốt hơn cái cũ là một yêu cầu không thể thiếu được với nhà sáng tạo.
- - Trí tưởng tượng và óc liên tưởng ở nhiều nhà sáng tạo rất mạnh, giúp họ thành công lớn 1.1.4.4. Năng lực phát hiện vấn đề Năng lực phát hiện vấn đề chính xác để giải quyết đúng theo quy luật khách quan đem lại kết quả cho họat động sáng tạo. Quy luật khách quan không dễ gì tìm ra, đòi hỏi phải quan sát mọi hiện tượng cần thiết, tìm tòi hiểu biết những sự thật khách quan. Để xác định được quy luật khách quan (về tự nhiên, về xã hội, vế con người). Phải chọn đúng đề tài (vấn đề) nghiên cứu. Cũng có nhiều nhà sáng tạo dù thông tin chưa đầy đủ đã giỏi suy đoán chọn đúng vấn đề giải quyết đem lại kết quả tốt. 1.2. Về phương pháp dạy học hóa học và tình hình dạy học hóa học ở trường THPT hiện nay 1.2.1. Vài nét về phương pháp dạy học hóa học Phương pháp dạy học hóa học có thể hiểu là cách thức hoạt động có mục đích giữa thầy và trò trong đó có sự thống nhất của 2 quá trình (điều khiển của thầy và tự điều khiển của trò). Nhằm làm cho trò chiếm lĩnh khái niệm hóa học. Cấu trúc và chức năng của phương pháp dạy học hóa học (sơ đồ 1.2): PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HOÁ HỌC Phương pháp dạy Phương pháp học P truyền thụ P tự điều khiển P điều khiển P lĩnh hội Sơ đồ 1.2. Cấu trúc của phương pháp dạy học hoá học
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 704 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương
145 p | 294 | 67
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 457 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 350 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 340 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
164 p | 369 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 176 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 49 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục trên địa bàn huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương
70 p | 129 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn