Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10
lượt xem 9
download
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10 được thực hiện nhằm mục đích giúp GV và HS hiểu rõ những lí luận cơ bản về SGK, cụ thể là bộ sách Ngữ văn 10, từ đó giúp GV và HS sử dụng tốt hơn, phát huy đầy đủ hơn chức năng của SGK trong quá trình dạy và học nhằm góp phần chuẩn bị cho việc thực hiện hóa chủ trương một chương trình – nhiều bộ SGK.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10
- BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH Traàn Ngöï Ñaøn Chuyeân ngaønh : Lyù luaän vaø phöông phaùp daïy hoïc moân Vaên Maõ soá : 60 14 10 LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ GIAÙO DUÏC HOÏC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: TS. TRAÀN THANH BÌNH Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008
- LÔØI CAÙM ÔN Tröôùc heát, chuùng toâi xin traân troïng caùm ôn söï chæ ñaïo, giuùp ñôõ cuûa Phoøng Khoa hoïc - Coâng ngheä - Sau Ñaïi hoïc, khoa Ngöõ vaên tröôøng Ñaïi hoïc Sö Phaïm TP. Hoà Chí Minh ñaõ coù ñònh höôùng cuï theå, thieát thöïc giuùp chuùng toâi hình thaønh yù töôûng cuûa ñeà taøi naøy. Luaän vaên ñöôïc hoaøn thaønh döôùi söï höôùng daãn vaø giuùp ñôõ taän tình cuûa TS.TRAÀN THANH BÌNH. Em xin chaân thaønh caùm ôn! Trieån khai phaàn khaûo saùt, chuùng toâi nhaän ñöôïc söï quan taâm hôïp taùc cuûa nhieàu giaùo vieân Ngöõ vaên caùc tröôøng THPT treân ñòa baøn TP. Phan Thieát, quyù phuï huynh vaø hoïc sinh lôùp 10 tröôøng THPT Phan Boäi Chaâu. Chuùng toâi cuõng nhaän ñöôïc söï uûng hoä cuûa giaùo vieân caùc tröôøng THPT Traàn Khai Nguyeân (TP. Hoà Chí Minh), Laâm Thôùi (Huyeän Nhaø Beø) vaø Traàn Phuù (TP. Vuõng Taøu). Chuùng toâi xin chaân thaønh caùm ôn söï nhieät tình, quan taâm coäng taùc cuûa quyù thaày coâ. Toâi xin traân troïng caûm ôn Ban Giaùm hieäu tröôøng THPT Phan Boäi Chaâu – Phan Thieát ñaõ taïo moïi ñieàu kieän thuaän lôïi giuùp toâi hoaøn thaønh khoùa hoïc. Cuoái cuøng, toâi xin tri aân cha meï vaø gia ñình ñaõ luoân quan taâm, ñoäng vieân toâi trong suoát quaù trình thöïc hieän ñeà taøi naøy. Maëc duø ñaõ heát söùc coá gaéng, nhöng do vaán ñeà coøn môùi meû, nguoàn taøi lieäu nghieân cöùu chöa nhieàu, naêng löïc cuûa ngöôøi thöïc hieän ñeà taøi coøn coù haïn, luaän vaên chaéc chaén khoâng traùnh khoûi nhöõng haïn cheá. Moät laàn nöõa, chuùng toâi xin ghi nhaän vaø chaân thaønh caùm ôn nhöõng yù kieán chæ ñaïo, söï trao ñoåi, ñoùng goùp, giuùp ñôõ chuùng toâi trong quaù trình thöïc hieän luaän vaên. Phan Thieát, thaùng 8 naêm 2008 TRAÀN NGÖÏ ÑAØN
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X đã khẳng định: “Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học qui định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt còn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành; tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh” [10, tr.683]. Như vậy, khác với những lần cải cách trước đây (năm 1950, 1956, 1980), lần cải cách này chỉ tập trung đổi mới chương trình và sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông. Trong các sách giáo dục, SGK là bộ phận quan trọng nhất vì là sách dùng trong nhà trường, chứa đựng những kiến thức cơ bản mà học sinh (HS) phổ thông phải đạt được. SGK là tài liệu thể hiện một cách cụ thể nhất nội dung và phương pháp giáo dục của mỗi môn học trong chương trình giáo dục. Đó là công trình khoa học sư phạm, thể hiện mục tiêu giáo dục qui định trong Luật Giáo dục. SGK là đối tượng, nội dung và cả phương pháp trong suốt quá trình dạy và học ở nhà trường phổ thông. Mỗi bộ SGK chứa đựng những kiến thức cơ bản thích hợp với nhận thức của HS, là bộ sách dùng chung cho HS và giáo viên (GV). SGK chính là một trong những phương tiện giáo dục. Có vai trò quan trọng như vậy nhưng trên thực tế những vấn đề cơ bản về SGK cũng như vai trò của SGK đối với việc dạy học phát triển hay vấn đề sử dụng SGK tất cả đều chưa được GV và HS quan tâm đúng mức. Theo quan điểm biên soạn mới ngoài việc cung cấp kiến thức, SGK còn là tài liệu nhằm giúp học sinh tự học. Tự học là chiến lược học tập của xã hội ngày nay. Biết cách làm việc với SGK bộ môn, tận dụng mọi điều kiện mà SGK cung cấp để học tập và rèn luyện chính là thể hiện của tự học. Để có thể tự làm việc với SGK GV và HS phải hiểu được nguyên tắc biên soạn của bộ sách, nội dung bộ sách, cấu trúc bộ sách, cấu trúc bài học trong bộ sách, ưu điểm và hạn chế của bộ sách… Khảo sát 93 GV dạy Ngữ văn ở các trường Trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn thành phố Phan Thiết, một trường ở Vũng Tàu và hai trường tại thành phố Hồ Chí Minh về kỹ năng hướng dẫn HS làm việc với SGK Ngữ văn 10, chúng tôi nhận thấy không phải tất cả GV đều quan tâm xem HS tự làm việc với bộ sách này như thế nào. Con số GV không giới thiệu cho HS biết nguyên tắc biên soạn bộ sách Ngữ văn 10 là 46,23%; 41,93% GV không giới thiệu cấu trúc bộ sách Ngữ văn 10 cho HS; 58,06% GV không
- giới thiệu cho HS nhận biết cấu trúc bài học trong sách Ngữ văn 10. Có hơn một nửa GV được khảo sát (60,02%) không hướng dẫn HS làm việc với SGK Ngữ văn 10. Để đáp ứng chương trình và SGK mới, việc đổi mới phương pháp dạy học là rất quan trọng, đòi hỏi một phong cách làm việc, học tập mới của đội ngũ GV và HS. Đổi mới phương pháp dạy học không đồng nghĩa với việc xóa bỏ phương pháp dạy học truyền thống mà tiếp tục tận dụng những ưu điểm của phương pháp truyền thống và làm quen với những phương pháp dạy học mới, kết hợp các phương pháp một cách khoa học. Trong hệ thống phương pháp đó có cả ý thức của GV và HS trong việc hiểu và sử dụng SGK. Dạy học theo phương pháp tích cực, GV không chỉ hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức mà còn hướng dẫn HS biết cách tự làm việc với SGK, chủ động học tập chống lại thói quen học tập thụ động nhằm hình thành cho HS kỹ năng tự học. Trên cơ sở những điều đã trình bày, chúng tôi chọn đề tài “Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10” để góp phần vào việc giải quyết những vấn đề nêu trên. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn giúp GV và HS hiểu rõ những lí luận cơ bản về SGK, cụ thể là bộ sách Ngữ văn 10, từ đó giúp GV và HS sử dụng tốt hơn, phát huy đầy đủ hơn chức năng của SGK trong quá trình dạy và học nhằm góp phần chuẩn bị cho việc thực hiện hóa chủ trương một chương trình – nhiều bộ SGK. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu thứ nhất của luận văn là những vấn đề lí luận cơ bản của SGK.Vì thế, chương 1 của luận văn trình bày những vấn đề lí luận như: quan niệm về SGK, mối quan hệ giữa SGK với sách giáo viên (SGV) và sách tham khảo (STK), cấu trúc của SGK, phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK, chức năng của SGK. Chính mục tiêu giáo dục sẽ quy định việc đổi mới chương trình, chương trình sẽ quy định nội dung SGK. Cấu trúc và nội dung của SGK sẽ quy định tiến trình thực hiện chương trình môn học, phương pháp dạy học bộ môn cách thức làm việc với bộ SGK đó. Đối tượng nghiên cứu thứ hai của luận văn là SGK Ngữ văn 10. Chương 2 của luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề cơ bản nhất của bộ sách Ngữ văn 10. Những ưu điểm, hạn chế của bộ sách Ngữ văn 10, những ý kiến cần trao đổi, những nhận xét bước đầu về STK sẽ được đề cập ở chương 3. Hiểu biết những vấn đề này sẽ giúp GV và HS khai thác sách tốt hơn, phát huy chức năng của bộ sách trong quá trình dạy và học, chủ động trong phương pháp làm việc với SGK Ngữ văn 10. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Do khuôn khổ của luận văn, đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề cơ bản của SGK sau năm 2000 chú trọng đến bộ SGK Ngữ văn 10. Từ những nhận xét về bộ sách Ngữ văn 10, luận văn giúp GV và HS làm việc với bộ sách này một cách có hiệu quả.
- 4. Lịch sử vấn đề Ở nước ta, vấn đề nghiên cứu về SGK chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ các tổ chức xã hội, giáo dục khác. Các công trình chuyên sâu về SGK không nhiều. Sau mỗi lần cải cách thay SGK, những bài viết đăng tải trên các trang báo chỉ là những ý kiến khen, chê. Mặc dù, những ý kiến này đã có những đóng góp nhất định nhưng để xây dựng một hệ thống lí luận hoàn chỉnh về SGK thì cần phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Có thể nói, mới chỉ có Nhà xuất bản Giáo dục đặt vấn đề nghiên cứu về SGK một cách hệ thống. Trong quá trình 45 năm làm sách phục vụ cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai và lần thứ ba, Nhà xuất bản Giáo dục đã xuất bản 15 tập “Các vấn đề Sách giáo khoa”, 3 tập “Thông tin Sách giáo dục” và hơn 10 tập “Các vấn đề Sách giáo dục”. Đây là một tủ sách nghiệp vụ có giá trị lớn. Để hình dung cụ thể hơn lịch sử vấn đề, chúng tôi xin phép dừng lại ở công trình “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập”, là công trình tuyển chọn các bài viết có giá trị rút ra từ các Kỉ yếu và các tập sách nghiệp vụ nói trên. “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” trình bày những vấn đề cơ bản của việc nghiên cứu lí luận về SGK như: quan niệm về SGK, phương thức biên soạn, mô hình cấu trúc của SGK, chức năng của SGK, ngôn ngữ trong SGK, mĩ thuật trong SGK, phương pháp luận đánh giá SGK, quan niệm và chức năng của SGV, nội dung SGV, quan niệm về STK và đánh giá STK, chất lượng STK, … Nguyễn Khắc Phi, Vũ Dương Thụy, Dương Trọng Bái có chung quan điểm về SGK. Các tác giả này cho rằng: SGK là sách viết cho HS và GV dùng theo những nội dung chuyên môn đã quy định trong chương trình và theo những chỉ đạo thống nhất trong Luật giáo dục. Trong bài viết “Những tiêu chí của ngôn ngữ bản văn sách giáo khoa”, Nguyễn Ngọc Nhị nêu thêm một cách hiểu về SGK: “SGK có thể bao gồm cả sách viết cho học sinh và một cuốn sách kèm theo sách đó như sách hướng dẫn giáo viên, sách bài tập” [70, tr.40]. Theo đó, tác giả cho rằng các STK cũng như sách công cụ có liên quan đến GV và HS tạo thành tổ hợp giáo khoa. Như vậy, Nguyễn Ngọc Nhị quan niệm về SGK theo nghĩa rộng. Nói đến SGK không phải là nói đến một cuốn sách độc lập mà là một tổ hợp giáo khoa. Giáo sư Phan Trọng Luận dẫn ra một quan niệm mới về SGK khác với những quan niệm trước đây.Trong bối cảnh sự tiến bộ không ngừng của công nghệ thông tin, một CD-ROM có khả năng ghi hàng tỉ bít tương đương với 500 cuốn sách thì khái niệm quen thuộc về SGK không thể giữ nguyên như cũ. Với CD-ROM, SGK không thể chỉ là những kênh chữ, kênh hình hay các kiểu bài tập ghi chép. Như vậy, công tác biên soạn SGK trong tương lai cần quan tâm một cách thực sự đến yêu cầu hiện đại hóa. Phương thức biên soạn SGK là một trong những vấn đề mà tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” đề cập đến. Biên soạn SGK theo công thức “CTWA” (Comprehensive textbook writing approach) đang được chú ý. Ưu điểm của việc tổ chức biên soạn theo công thức “CTWA” phần nào khắc phục được hạn chế của phương thức biên soạn “cuốn chiếu”. Phương thức này giảm bớt được sự
- không đồng bộ trong nội dung kiến thức, sự không liên tục về trình độ và phần nào sự quá tải. Khi ứng dụng công thức “CTWA” ta cũng rút ngắn được thời gian biên soạn. Cùng thời gian 12 tháng, có thể hơn 12 tháng, biên soạn theo công thức này hoàn thành được 5 bản thảo ở mức hoàn chỉnh, nếu theo phương thức “cuốn chiếu” chỉ hoàn thành một bản thảo. Dù biên soạn theo phương thức nào cũng cần coi trọng tính đặc thù của bộ môn, cố gắng bám sát mô hình chung của SGK mới để có sự thống nhất tương đối giữa SGK các môn học. Tập tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” cung cấp khá đầy đủ các bài nghiên cứu về mô hình cấu trúc SGK. Trong bài “Mô hình cấu trúc sách giáo khoa sau năm 2000”, Trần Kiều - Lê Xuân Trọng đã nêu lên những điểm chung về cấu trúc SGK các môn học trong nhà trường phổ thông. Cấu trúc chung của SGK đều gồm ba phần: phần đầu SGK, phần giữa SGK và phần cuối SGK. Trong đó, phần giữa SGK là phần chính của sách, bao gồm các phần, các chương, các bài học. Khi nghiên cứu cấu trúc một chương SGK, các tác giả lưu ý cuối mỗi chương nên có những thành phần gì để HS có thể tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập của mình. Nội dung các câu hỏi, bài tập trong cấu trúc bài học nên hướng vào kỹ năng vận dụng kiến thức nhằm phát triển trí tuệ cho HS. Mức độ bài tập thể hiện sự phân hóa nhằm đáp ứng được những năng lực khác nhau của HS. Ngoài những vấn đề chung về mô hình cấu trúc SGK, các nhà nghiên cứu chú ý bước đầu đến mô hình cấu trúc SGK bộ môn. Về cơ bản, SGK mỗi bộ môn có sự thống nhất tương đối với mô hình chung của SGK nhưng tùy theo đặc trưng bộ môn mà cấu trúc SGK mỗi bộ môn có những điểm khác biệt. Theo Đỗ Ngọc Thống, mô hình và cấu trúc nội dung SGK môn Ngữ văn phải thể hiện được những quan điểm cơ bản về xây dựng và biên soạn SGK Ngữ văn. Mô hình đó được xây dựng theo tinh thần tích hợp, không chỉ chú trọng nội dung mà còn phục vụ tích cực cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Về mô hình SGK môn Sinh học, tác giả Nguyễn Quang Vinh xác định mô hình đó vừa cung cấp thông tin vừa hướng dẫn HS xử lí thông tin. HS được làm việc với các thông tin mới bằng cách trả lời câu hỏi, trình bày một vấn đề, tiến hành làm thí nghiệm… Nguyễn Minh Phương, Phạm Thu Phương đề xuất những kiến nghị xây dựng mô hình SGK thí điểm môn Địa lí. Cấu trúc bài học được trình bày sao cho HS có thời gian tiếp thu lượng kiến thức của bài học, HS thực sự thực sự được làm việc, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập và có thể tự kiểm tra lại kết quả làm việc. Có thể nói, nghiên cứu mô hình cấu trúc SGK sẽ giúp chúng ta có những kinh nghiệm bổ ích, đóng góp trực tiếp cho việc biên soạn SGK mới ngày càng khoa học và hiện đại hơn. Tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” cũng tuyển chọn các bài viết của nước ngoài nghiên cứu về các chức năng của SGK.Theo Francois Marie Gerard và Xavier Roegiers, SGK phổ thông có thể có nhiều chức năng khác nhau tùy theo người sử dụng, tùy theo môn môn học và tùy hoàn cảnh biên soạn sách. Khi HS sử dụng, một cuốn SGK sẽ có nhiều chức năng hướng vào việc học tập và các chức năng hướng vào việc thiết lập liên hệ giữa học tập với đời sống. Các SGK phổ thông còn có
- chức năng đào tạo đối với GV. SGK là công cụ cho phép GV thực hiện được vai trò nghề nghiệp của mình trong quá trình dạy học. Tài liệu cũng tuyển chọn một số bài nghiên cứu về ngôn ngữ SGK. Các bài nghiên cứu đều có chung một điểm: ngôn ngữ giáo khoa gồm hai kênh thông tin (kênh chữ và kênh hình) nhằm truyền tải kiến thức, kỹ năng đến với HS theo đúng yêu cầu của chương trình môn học. Tuy nhiên, mỗi bài viết này có một diện mạo riêng, góp phần nâng cao chất lượng ngôn ngữ bản văn SGK. Nguyễn Trí chỉ ra những thay đổi trong cách viết phần bài học, cách diễn đạt tiêu đề bài học và tiêu đề các phần trong bài học; Nguyễn Quốc Siêu phân tích ý nghĩa các yếu tố ngôn ngữ trong bản văn SGK; Nguyễn Văn Tùng bàn về chức năng của ngôn ngữ SGK; Nguyễn Ngọc Nhị chỉ ra các yếu tố tạo nên chất lượng ngôn ngữ bản văn và những tiêu chí đánh giá chất lượng ngôn ngữ bản văn. Ngoài những vấn đề chung về ngôn ngữ SGK, các nhà nghiên cứu còn quan tâm đến những yêu cầu riêng đối với ngôn ngữ SGK bộ môn. Mỗi môn học mang những đặc trưng riêng do đó ngôn ngữ SGK bộ môn cũng có những yêu cầu riêng. Theo Nguyễn Quốc Luân ngôn ngữ SGK Văn học phổ thông phải đạt 4 yêu cầu cơ bản: chính xác, đủ hiểu, phát triển, kết hợp hài hòa tính khoa học và tính nghệ thuật. Trần Phương Dung chỉ ra những chỗ dùng kí hiệu toán học, kí hiệu logic, câu trong SGK Toán chưa rõ, gây ra sự hiểu lầm làm mất đi sự chính xác của một đề toán. Từ đó, tác giả đưa ra những yêu cầu riêng đặc thù đối với ngôn ngữ bản văn SGK Toán. Đặc biệt là sự phân biệt giữa các từ trong ngôn ngữ thông thường được dùng trong toán. Dựa vào lí luận SGK, Nguyễn Thị Hồng Việt nêu một số suy nghĩ về việc dùng từ và câu trong SGK Vật lí để đi đến kết luận: ngôn ngữ bản văn SGK Vật lí cũng có tính đặc thù riêng của bộ môn. Phương pháp luận đánh giá SGK là một trong những yếu tố xây dựng hệ thống lí luận SGK. Đào Trọng Quang, Vũ Dương Thụy, Nguyễn Quốc Túy tìm hiểu tiến trình, các tiêu chí và phương pháp cụ thể đánh giá SGK. Đánh giá SGK phải gắn liền với quan niệm SGK thể hiện chương trình bộ môn. Mỗi môn học có những sắc thái riêng, vì thế bên cạnh tiêu chí chung, nên có hệ thống những tiêu chí riêng cho từng bộ môn, từng lớp hoặc từng cấp học. Trở lên trên là những vấn đề lí luận SGK mà tập tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” đã đề cập đến. Có thể xem Tuyển tập này là một tài liệu tham khảo quan trọng khi tìm hiểu về SGK. “Sách giáo khoa một số vấn đề lí luận và thực tiễn” là nhan đề của phần bốn trong tài liệu “Nguyễn Khắc Phi tuyển tập” do Vũ Thanh tuyển chọn. Phần này giới thiệu một số bài viết của Giáo sư Nguyễn Khắc Phi trao đổi về chương trình và SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở (THCS). Trong các bài viết, Giáo sư Nguyễn Khắc Phi nhấn mạnh một số điểm về phương pháp khi tiếp cận SGK mới làm sao phát huy được ưu thế của phương châm tích hợp. Các bài viết “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa”, “Cơ sở lựa chọn học vấn phổ thông để xây dựng chương trình môn học”, “Về chương trình và sách giáo khoa phổ
- thông”, “đổi mới cách viết sách giáo khoa bậc Trung học”, “Những điều kiện ràng buộc đối với công cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa Trung học” của Trần Bá Hoành đi sâu vào nghiên cứu những mục đích yêu cầu và những định hướng chính cho việc thiết kế chương trình và viết SGK. Qua các bài viết này, tác giả mong muốn chúng ta sẽ có một bộ máy chuyên và một cơ chế đáp ứng nhanh hơn nữa để không ngừng phát triển chương trình phổ thông theo yêu cầu phát triển của đất nước. Riêng đối với SGK Ngữ văn lớp 10, chúng ta có các tài liệu “Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn 10” của Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Trọng Hoàn, Lê Hồng Mai, Nguyễn Thị Nhuận, Lê Thị Thanh Tâm; “Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông” của Đỗ Ngọc Thống; “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 Trung học phổ thông môn Ngữ văn” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các tài liệu này trình bày các nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục môn Ngữ văn, nội dung chương trình môn Ngữ văn lớp 10, những định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 10 và đánh giá kết quả học tập. Về vấn đề “phương pháp làm việc với SGK”, ở nước ta hiện nay chưa có tư liệu chuyên sâu nào. Vấn đề này chỉ mới được nhắc đến trong tài liệu “Phương pháp dạy học văn” tập 2 của Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh. Các tác giả viết: “Làm việc với giáo khoa” rèn cho HS năng lực nghiên cứu, năng lực tự học theo giáo khoa. Hoạt động này tận dụng sách giáo khoa, khắc phục tình trạng “thiếu kiến thức nhưng thừa giáo khoa” như đã nói ở trên. “Làm việc với giáo khoa” đòi hỏi HS phải chuẩn bị bài học văn học sử theo nếp: đọc giáo khoa, lập dàn ý kiến thức bài học, nêu thắc mắc. “Làm việc với giáo khoa” có thể vận dụng qua cá biện pháp sau: HS dàn ý hóa giáo khoa, HS đọc giáo khoa, HS phát hiện luận điểm và các dẫn chứng minh họa cho luận điểm, HS thắc mắc về nội dung cấu trúc giáo khoa, HS học bài theo giáo khoa…, HS đối chiếu nội dung và cách trình bày kiến thức giữa các bộ sách khác nhau… Các biện pháp này có thể thực hiện theo sự gợi ý của GV, có thể do GV thuyết giảng độc thoại hoặc có thể cho HS làm bài tập ở nhà” [54, tr.46]. Tóm lại, các vấn đề lí luận SGK tuy đã được đặt ra và đã có nhiều bài viết đề cập đến nhưng để xây dựng được một hệ thống lí luận hoàn chỉnh về SGK thì vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Những bài viết, công trình nghiên cứu, các cuộc thảo luận về SGK là cơ sở khoa học để SGK trở thành một đối tượng nghiên cứu khoa học, một công trình khoa học. Đây chính là nền tảng để xây dựng một hệ thống lí luận hoàn chỉnh về SGK. 5. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm đổi mới giáo dục của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, chỉ thị của Chính phủ, các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới phương pháp dạy học, các nguyên tắc biên soạn chương trình, SGK các bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng.
- Luận văn sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp nghiên cứu sản phẩm, phương pháp so sánh. Ngoài ra, để vấn đề nghiên cứu có cơ sở chứng thực, luận văn dùng phương pháp khảo sát, trắc nghiệm, xử lý kết quả khảo sát. 6. Ýnghĩa khoa học của đề tài Luận văn cố gắng hệ thống hóa các luận điểm về SGK nhằm giúp GV và HS hiểu được những vấn đề cơ bản về SGK. Đó chính là cơ sở lí luận để GV và HS phát huy vai trò của SGK, sử dụng SGK trong thực tế dạy học một cách có hiệu quả. Từ việc phân tích cấu trúc, nội dung và hình thức của SGK Ngữ văn 10, những cảm nhận của bản thân đối với bộ sách Ngữ văn 10 nói riêng và những bộ SGV, STK Ngữ văn khác, luận văn giúp GV và HS chủ động đưa ra hướng giải quyết trong quá trình soạn giảng cũng như soạn bài, học bài theo SGK.
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN CỦA SÁCH GIÁO KHOA 1.1. Quan niệm về sách giáo khoa Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Sách giáo khoa là sách soạn theo chương trình để dạy và học trong nhà trường” [114, tr.1354]. Định nghĩa trên được hiểu theo nghĩa hẹp và quen thuộc, SGK là sách viết cho HS theo những nội dung chuyên môn đã được quy định trong chương trình và theo những quan điểm chỉ đạo thống nhất về phương pháp dạy học. Theo định nghĩa này, một số nhà nghiên cứu cho rằng các loại sách phục vụ cho HS mẫu giáo, sách dạy học vần... chưa được coi là SGK. Luật Giáo dục, chương 2 mục 2 điều 29 quy định: “Sách giáo khoa cụ thể hoá yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở những lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giảng dạy phổ thông. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình phổ thông, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa” [9, tr.16]. Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở trường Trung học” [10, tr. 144]. Hiểu theo nghĩa rộng SGK có thể bao gồm cả sách viết cho HS và một số sách kèm theo như SGV, sách bài tập (SBT). Đây là một đặc điểm của giáo dục hiện đại, quan tâm nhiều đến kỹ năng thực hành. Trước đây, hệ thống SGK không bao gồm SBT, phần bài tập được in luôn trong SGK dành cho HS nay hầu như tất cả các bộ môn đều có SBT bên cạnh SGK. Tập hợp các cuốn SGK, các STK và sách công cụ có liên quan đến việc dạy học của GV và HS tạo thành một tổ hợp giáo khoa. Tổ hợp giáo khoa đó phải là một chỉnh thể gắn bó mật thiết với nhau, trong đó SGK phải là tài liệu thể hiện cụ thể nhất nội dung, phương pháp giáo dục và các loại sách trong tổ hợp nói trên phải phụ thuộc vào SGK. Cho nên nói đến SGK là nói đến một tổ hợp giáo khoa và lí luận về SGK cũng là lí luận một tổ hợp sách. Cho đến nay SGK vẫn là tài liệu chủ yếu để dạy và học ở các lớp học phổ thông. Do đó, các yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông về cơ bản đã được thể hiện trong nội dung và phương pháp biên soạn SGK. Trong quá trình biên soạn chương trình và SGK mới, chúng ta đã chú ý đến quan điểm đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” các nội dung, hình thức trình bày của SGK mới về cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho HS tiếp tục nâng cao năng lực tự học và giúp GV đổi mới phương
- pháp dạy học theo hướng tổ chức, hướng dẫn HS chủ động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu, tiếp nhận tri thức. 1.2. Quan hệ giữa sách giáo khoa với sách giáo viên và sách tham khảo Tuỳ theo người sử dụng, môn học và từng hoàn cảnh biên soạn mà một cuốn SGK phổ thông có thể có nhiều mối quan hệ khác nhau. Một nguyên tắc khi xây dựng chương trình và SGK phổ thông là làm sao đảm bảo được sự cân đối hài hòa giữa nhiều mối quan hệ: đặc trưng của môn học với nhiệm vụ chính trị và cuộc sống từng giai đoạn lịch sử, nội dung chương trình với đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS, tri thức môn học gắn liền với hệ thống kỹ năng cần hình thành; mối quan hệ giữa SGK môn học này với SGK môn học khác trong chương trình; mối quan hệ giữa SGK bậc THPT với SGK bậc THCS cũng như SGK Tiểu học trong một hệ thống hoàn chỉnh; đặc biệt là mối quan hệ giữa SGK với SGV, SGK với STK trong một bộ môn. Có hai quan niệm về SGV: SGV đóng và SGV mở. SGV đóng là tài liệu giúp GV sử dụng SGK về mặt sư phạm. Sách sẽ bao gồm những lời khuyên cải tiến việc sử dụng, khai thác SGK. SGV cung cấp những chỉ dẫn về cách tiến hành bài học gắn liền với SGK. SGV mở như là một công cụ tham khảo nhằm nuôi dưỡng sự suy nghĩ của GV. Sách bổ sung những thông tin khoa học và sư phạm, nêu các đề nghị liên quan đến quá trình học tập nhưng không trói buộc GV trong những chỉ dẫn và một trình tự gò bó. Như vậy, SGV đóng được biên soạn dựa trên cơ sở SGK và không còn ý nghĩa nếu tách rời SGK. SGV mở có thể sử dụng độc lập với SGK, dù vẫn dựa trên SGK. Trong quá trình triển khai cải cách giáo dục, bên cạnh hệ thống SGK biên soạn theo chương trình mới còn song hành hệ thống SGV. Tác giả SGK cũng là tác giả SGV tương ứng, công thức này đảm bảo tốt hơn chất lượng của SGV. SGV là một loại sách nghiệp vụ, trong đó có sự kết hợp giữa khoa học giáo dục và khoa học cơ bản, nhằm phục vụ việc dạy học về mặt nội dung và phương pháp. Một cuốn SGV có thể được biên soạn trước, trong khi hoặc sau khi biên soạn SGK cho HS. Trước hết, một cuốn SGV có thể được coi như một cuốn hướng dẫn sư phạm, tức là một tài liệu giúp đỡ việc sử dụng SGK sao cho phù hợp với khoa sư phạm. SGV có nhiệm vụ giúp GV hiểu được ý đồ biên soạn SGK nói chung cũng như nội dung và phương pháp giảng dạy từng bài cụ thể trong SGK. Tuy không có tính bắt buộc, nhưng SGV vẫn là tài liệu quan trọng trong quá trình soạn bài và dạy học theo SGK. Các định hướng kiến thức cơ bản, phương pháp cơ bản và cả kĩ thuật giảng dạy đều được trình bày sao cho SGV có thể như là một “khuôn mẫu” để GV hướng dẫn HS học tập. Nó sẽ gồm những lời khuyên, những chú ý nhằm cải tiến việc dùng SGK và khai thác mọi khả năng của sách. Có thể coi đây là nguồn văn bản thông tin chủ đạo, chủ yếu của việc soạn bài, giảng bài của GV. Tuy nhiên, nó không đồng nhất với bài soạn, các định hướng của SGV không thể loại bỏ đặc trưng của lao động giảng dạy,
- tính chất linh hoạt đa dạng của các bài soạn, bài giảng, diễn tiến giờ học, khả năng tiếp nhận của HS,… SGV chỉ là một cơ sở để GV phát huy tiềm lực vốn có và đang phát triển của lao động sư phạm chứ không thể là một tư liệu sử dụng nguyên mẫu. SGV thường dành những trang đầu để trao đổi với GV những vấn đề phương pháp giúp cho HS nắm được tri thức ghi trong chương trình và thể hiện trong SGK. Nội dung chính của SGV là cung cấp những thông tin về cách hiểu bài, cách khai thác, trả lời các câu hỏi và lưu ý những điểm HS cần lưu ý sau mỗi bài học, gợi ý những tư liệu tham khảo thiết yếu,… Những nội dung này chưa được trình bày trong SGK. Cùng với SGK, SGV góp phần thực hiện mục tiêu chung của chương trình. STK là sách chuyên dùng để tra cứu, đọc thêm nhằm hiểu rõ hơn vấn đề cần phải dạy học. Muốn hiểu được mối quan hệ giữa SGK với STK không thể không nhắc lại chức năng của SGK. SGK có nhiều chức năng. Ở đây chỉ đề cập đến những chức năng có quan hệ đến HS: chức năng truyền đạt kiến thức, phát triển các khả năng và kỹ năng, củng cố và đánh giá những hiểu biết, giáo dục về mặt xã hội và văn hóa. Tính chất đa chức năng ấy đảm bảo cho SGK đóng vai trò chủ yếu trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của môn học. Trong khi đó, STK chỉ có một chức năng duy nhất đó là chức năng tham khảo. Đối chiếu với những chức năng của SGK, STK chỉ thiên về phát triển các khả năng và kỹ năng, hoặc chức năng củng cố những hiểu biết. Với tính chất đơn chức năng ấy, STK có vai trò bổ trợ cho SGK trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của môn học (trừ trường hợp những cuốn STK được biên soạn với mục đích thuần tuý thương mại, phi giáo dục). Thông tư Liên tịch số 35/1999/TTLT-BGD&DT ghi “Sách tham khảo bổ trợ sách giáo khoa dùng cho hoc sinh các bậc học phổ thông là tài liệu học tập dựa theo chương trình sách giáo khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý đảm bảo chất lượng khoa học, nâng cao tính sư phạm nhằm thực hiện chương trình theo danh mục bậc học đã được quy định” [9, tr. 821]. Theo quan niệm thông thường, SGK được coi là sách học chính thức, bắt buộc còn STK là sách đọc thêm, không bắt buộc. Trong quan hệ với SGK, xét chung, STK vừa phụ thuộc SGK vừa có phần độc lập với SGK, tuy cả hai đều cùng nhằm thực hiện mục tiêu môn học. Những cuốn STK như các loại Từ điển, sách tra cứu, Văn tuyển v.v… hoàn toàn độc lập với SGK. STK các bộ môn vừa phải đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ của các đơn vị kiến thức vừa bổ sung nhiều nội dung kiến thức mà SGK không chứa đựng hết. Kiến thức trong STK thường được tổng kết theo vấn đề hay chuyên mục. STK cung cấp thêm những thông tin mới, những tư liệu cập nhập giúp GV và HS hiện đại hóa kiến thức trong SGK. Trong xã hội học tập, bao giờ cũng có một nhu cầu lớn về STK. Có thể nói, STK liên quan đến một phương châm quan trọng của giáo dục: biến quá trình học thành quá trình tự học. Nhiều STK các môn khoa học xã hội gợi ý cho GV và HS những hướng tiếp cận tác phẩm, bài học, giai đoạn lịch sử v.v…; những phân tích mới lạ nhằm làm sáng tỏ thêm, hoàn thiện thêm những kiến thức trong SGK.
- Ví dụ: những bộ STK môn Tiếng Việt và Làm văn, kiến thức cung cấp trong các bộ sách này, nhìn chung, đã bám sát các kiến thức chuẩn trong SGK, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, có tính sư phạm cao. Các bộ sách này đều có những kiến thức mở rộng, đi sâu vào những vấn đề được trình bày trong các bài học, tiết học. Với những gợi ý, những hướng giải bài tập, HS đủ điều kiện thu nhận kiến thức tự mình hoàn thành bài học một cách căn bản, thậm chí có tính sáng tạo. Trong các sách “hướng dẫn Làm văn”, các tác giả đã chú ý về kỹ năng làm bài của HS. Trong chừng mực nhất định, sách cũng tạo cho các em những cảm thụ tinh tế khi tiếp xúc với từng loại bài tập Làm văn. Ở các sách “hướng dẫn giải bài tập Tiếng Việt”, các tác giả đã hệ thống kiến thức tiếng Việt được học trong SGK các bậc học. Những kiến thức đó được trình bày cụ thể, cô đọng, diễn giải rõ ràng, có tính sư phạm cao. GV có thể tham khảo vận dụng vào các giờ dạy trên lớp để bài giảng phong phú hơn. STK các môn khoa học tự nhiên căn cứ vào chương trình và SGK mà chia thành các chủ đề nhỏ hoặc các chương giống như SGK sao cho HS có thể tham khảo song song với SGK. STK các môn khoa học tự nhiên trình bày các phương pháp giải các bài tập cơ bản của môn học theo yêu cầu của chương trình; thông qua đó, HS nắm được kiến thức cơ bản của SGK. Mở rộng một số vấn đề trong SGK, phân tích theo chiều sâu những vấn đề lí thuyết hay bài tập đã được SGK đề cập nhưng chưa có điều kiện đi sâu, kể cả các dạng bài tập đòi hỏi sự tổng hợp nhiều đơn vị kiến thức với mục đích cung cấp cho HS phương pháp tư duy logic và vận dung kiến thức đã học để giải các bài tập. GV có thể tham khảo sách để dạy các giờ bài tập trên lớp, tổng kết, hướng dẫn HS ôn tập sau mỗi chương, mỗi học kì và cả năm học, bước đầu bồi dưỡng HS khá giỏi. Ở phổ thông, vai trò người GV rất quan trọng. Chính GV là người dẫn dắt lớp học để HS nắm được những yêu cầu chính của bài học. Nhưng một GV giỏi không chỉ làm tốt việc truyền thụ kiến thức mà còn phải gợi mở cho HS suy nghĩ những gì mà SGK chưa đề cập đến, những kiến thức chưa được cập nhập hay những cách hiểu khác nhau, cách giải khác hoặc những vấn đề mới vượt quá yêu cầu của bậc học. STK là nguồn tư liệu nuôi dưỡng niềm đam mê nghiên cứu, học tập ấy. Tóm lại, SGK, SGV và STK có mối quan hệ liên thông với nhau, hỗ trợ cho nhau. Mỗi loại sách có những đặc trưng riêng đồng thời giữa chúng có những điểm chung, phối kết với nhau. Trong đó, SGK đóng vai trò trung tâm, SGK không đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài liệu giúp HS tự học, tự phát hiện giải quyết các vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng kiến thức mới một cách linh hoạt. SGV và STK phụ thuộc, xoay quanh SGK để tạo nên một tổ hợp giáo khoa đảm bảo mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Trong quá trình giảng dạy, mỗi người GV lấy SGK làm tài liệu giảng dạy chính thức nhưng không nên phụ thuộc hoàn toàn vào SGK, độc tôn SGK mà cần nghiên cứu SGV, không ngừng học tập qua STK phối hợp một cách linh hoạt các tri thức giữa các tài liệu tạo nên sự thống nhất tương đối để nâng cao chất lượng giảng dạy. SGK chỉ thực sự có ý nghĩa khi được xác định trong mối tương quan với việc học tập của HS, với việc dạy của GV, với SGV và STK, với các công cụ dạy học khác.
- 1.3. Mô hình cấu trúc sách giáo khoa 1.3.1. Cấu trúc chung của sách giáo khoa Theo tinh thần Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TTg về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, với tư cách là văn bản được “sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông”, tư tưởng xuyên suốt của mô hình SGK mới là SGK phải vừa cung cấp thông tin vừa hướng dẫn HS hình thành và phát triển phương pháp, kỹ năng học tập, nghiên cứu và vận dụng kiến thức vào việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập cũng như trong thực tiễn đời sống; đồng thời SGK phải phù hợp với khả năng nhận thức, với đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi HS ở từng cấp, lớp học. SGK của các môn học khác nhau hoặc đối với cùng môn học cho những lớp học khác nhau có thể có vài điểm khác nhau trong cấu trúc. Tuy nhiên, về mặt lí thuyết mô hình cấu trúc SGK thường gồm 3 phần: a) Phần đầu SGK Phần đầu SGK mỗi môn học thường có những thành phần sau: - Trang bìa chính, bìa lót ghi tên Bộ Giáo dục và Đào tạo, tên các tác giả, tên sách, tên lớp, tên Nhà xuất bản và năm xuất bản. - Trang mở đầu giới thiệu về quan điểm biên soạn bộ môn, mục đích, nội dung, hướng dẫn sử dụng sách, giới thiệu phương pháp học tập chủ yếu HS cần vận dụng, tóm tắt về chương trình môn học của lớp… Nhìn chung trang mở đầu SGK chưa được chú ý nhiều, phần hướng dẫn sử dụng sách, giới thiệu phương pháp học tập hầu như bị bỏ qua, nếu có đề cập thì cũng rất sơ lược và thường chỉ được ghi một cách rất chung ở SGK đầu cấp học, trong khi đó môn học ở từng lớp học cũng có những đặc điểm riêng. Bên cạnh việc giới thiệu quan điểm biên soạn SGK, nên chăng ở SGK mỗi lớp học chúng ta quan tâm hơn đến việc hướng dẫn HS sử dụng sách, hướng dẫn phương pháp học tập bộ môn phù hợp với quan điểm biên soạn và nội dung sách. - Tuỳ theo môn học, phần đầu của sách có thêm chú thích về những kí hiệu thống nhất dùng trong SGK. - Bài mở đầu cho mỗi môn học mới bắt đầu ở cấp học (giới thiệu đối tượng nghiên cứu của môn học; vai trò, ý nghĩa của môn học đối với thực tiễn, phương pháp học bộ môn…). b) Phần giữa SGK Phần giữa SGK là phần chính của sách, bao gồm các phần, các chương, các bài học. Đó là những đơn vị kiến thức của môn học trình bày dưới dạng lời văn, hình ảnh (ảnh chụp, tranh vẻ, sơ đồ, lược đồ, bản đồ…) và những chỉ dẫn về cách tiến hành các hoạt động học tập để lĩnh hội các đơn vị kiến thức. c) Phần cuối SGK
- Tuỳ theo tính chất của môn học mà nội dung phần cuối khác nhau, phần cuối SGK thường những phần sau: - Phần tra cứu: dùng để tra cứu ngữ nghĩa của môn học theo lớp và mục lục thuật ngữ, từ mới, bảng tên riêng, những sự kiện. Chúng được sắp xếp theo thứ tự ABC và ghi thứ tự của trang trong SGK. Tra cứu ngữ nghĩa và mục lục có thể được viết riêng hoặc ghép với nhau thành một, có tên là phần tra cứu. - Phần phụ lục: tuỳ theo các môn học mà phần phụ lục có thể có những phần sau : các biểu bảng kí hiệu, công thức, đơn vị đo lường, bảng tổng kết ngữ pháp, từ ngữ, danh mục tiểu sử tác giả, tác phẩm. - Phần trả lời bài tập: trả lời gắn gọn hoặc thông báo đáp án những bài tập trong SGK. - Xuất xứ các tranh ảnh (chú thích ngắn gọn về nguồn gốc các tranh ảnh đã dùng; trích từ tài liệu nào, của ai…). - Tài liệu tham khảo: liệt kê các tài liệu đã dùng trong quá trình biên soạn SGK. - Mục lục của SGK: tên bài học được sắp xếp theo phân phối chương trình. 1.3.2. Cấu trúc một chương trong sách giáo khoa Tuỳ theo đặc trưng bộ môn mà SGK có thể được cấu trúc theo phần hay chương (có khi còn được hiểu là cụm bài). Nhìn chung, một chương của SGK có cấu trúc như sau: - Trang mở đầu của mỗi chương gồm số thứ tự của chương, tên chương. Mở đầu mỗi chương nhằm nêu vấn đề, định hướng vấn đề sẽ nghiên cứu, kết quả cần đạt. - Các bài học trong chương cụ thể hóa kiến thức của chương được bố trí dạy theo phân phối chương trình. - Cuối mỗi chương thường có những phần sau: + Tóm tắt những kiến thức cơ bản của chương. Đây là nội dung kiến thức HS phải nắm vững sau khi học xong một chương. + Bài thực hành, thí nghiệm của chương: gồm có nội dung, yêu cầu và hướng dẫn thí nghiệm, thực hành. Tuỳ theo môn học có thể có bài thực hành có tính tổng hợp kiến thức, kỹ năng của một chương. Bài thực hành thí nghiệm có thể trình bày bằng kênh chữ hoặc kênh hình. Câu hỏi và bài tập tổng hợp của chương gồm các bài tập tự luận, bài tập trắc nghiệm để HS có thể tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của cá nhân. Truyền thống của SGK Ngữ văn nói chung không có khái niệm “chương”. Cấu trúc SGK Ngữ văn là cấu trúc bài. Cấu trúc SGK Ngữ văn 10 không chia thành các chương, các phần như cấu trúc SGK các môn học khác. 1.3.3. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa
- “Theo truyền thống của lí luận dạy học và phương pháp dạy học bộ môn, bài học (t.Anh: lesson; t.Nga: ypok) được xác định là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ chức các hoạt động dạy học trong nhà trường. Mỗi bài học là một đơn vị, đơn vị đó vận dụng nhiều phương pháp, biện pháp sư phạm phong phú, đa dạng để tổ chức các tập thể học sinh thực hiện hoạt động học tập trong một thời gian nhất định và theo một kế hoạt dạy học nhất định. Như một chỉnh thể kiến thức, mỗi bài học đều có mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức, tiến trình, phương pháp, biện pháp dạy học,… của mình; đồng thời, như một mắt xích nhận thức, mỗi bài học đều có những mối liên hệ logic, mật thiết với các bài học trước và sau nó trong một chương trình dạy học - giáo dục thống nhất” [4, tr.63] Bài học là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ chức các hoạt động học tập trong nhà trường, có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa bộ môn… SGK phải thể hiện được các quan điểm chỉ đạo việc biên soạn SGK các môn học trong nội dung thông qua các bài học cụ thể. Cấu trúc bài học trong SGK các bộ môn có những điểm tương đồng, có thể phác họa như sau: - Phần mở bài Phần này nhằm xác định mục tiêu của bài học (những kiến thức, kỹ năng, kết quả cần đạt). Phần mở bài trình bày ngắn gọn, hướng HS tới đích của bài, nêu cả gợi ý về phương pháp học tập; có thể từ những điều HS đã biết, đề xuất những vấn đề HS chưa biết có liên quan đến bài học; có thể trình bày một hiện tượng, một câu hỏi hay một thí nghiệm làm nảy sinh vấn đề cần nghiên cứu. Phần mở bài có vai trò tạo tâm thế chuẩn bị bước vào nội dung bài học, GV có thể sử dụng phần này như một lời vào bài. Trong quá trình soạn bài, giảng bài mọi hoạt động học tập quy về mục tiêu của bài học. GV cần hướng dẫn cho HS trong khi soạn bài, học tập phải nắm vững phần mở bài để có hướng tiếp cận bài học đúng đắn, khoa hoc. Đây là một thao tác tưởng chừng như đơn giản, nhiều GV thường không lưu ý HS khi dặn dò HS soạn bài. Cần lưu ý: cấu trúc bài học trong SGK trước năm 2000 không có phần mở bài xác định mục tiêu cần đạt (chỉ được ghi trong SGV). - Nội dung bài học Nội dung bài học thường bao gồm các thành phần: thông báo thông tin, xử lí các thông tin, kết quả cần đạt được. Thông tin được cung cấp qua kênh chữ và kênh hình. Thông tin có thể là văn bản, các sự kiện, các hiện tượng, quá trình, quy luật, những ý tưởng mới, những kĩ năng mới… Nội dung của một bài học được xây dựng qua các đề mục trong bài học, tên các đề mục trong bài học thường là một tình huống vấn đề phải giải quyết, hoặc một câu hỏi ngắn gọn nói lên một nội dung cơ bản của bài, của mục sẽ học. Xử lí thông tin là các hướng dẫn HS hoạt động giải quyết vấn đề. HS xử lí thông tin có thể bằng cách: trả lời các câu hỏi đặt ra đối với các hình vẽ, biểu đồ, đồ thị; trình bày một vấn đề buộc HS phải suy nghĩ nhiều về thông tin mới đó và trao đổi thảo luận; giải bài tập; tiến hành các thí nghiệm thực
- hành… Qua xử lí thông tin dưới sự hướng dẫn của GV, HS phải đi đến kết luận, tức là nắm được nội dung cần đạt của bài học. Các lệnh yêu cầu và hướng dẫn HS xử lí thông tin phải rõ ràng, ngắn gọn để HS dễ dàng nhận biết nhiệm vụ và cách thức thực hiện, tạo điều kiện để HS được làm việc với những thông tin mới. Kết quả cần đạt được là những kiến thức, kỹ năng cơ bản của bài học. Thành phần này đòi hỏi HS phải chiếm lĩnh được sau khi đã xử lí các thông tin. Hình thức trình bày mục kết quả cần đạt thường là những dòng chữ được in đậm, đóng khung. - Phần bài tập Tùy môn học mà số lượng bài tập có thể dao động trong một giới hạn khá rộng. Bên cạnh các bài tập có tính truyền thống là bài tập tự luận, nên sử dụng rộng rãi các loại bài tập trắc nghiệm. Nội dung các câu hỏi, bài tập hướng vào sự vận dụng kiến thức đã học. Mức độ bài tập đám ứng được những năng lực khác nhau của HS. Tăng cường các loại bài tập có tác dụng phát triển trí tuệ, kỹ năng thực hành thí nghiệm cho HS. Dưới đây xin trình bày tóm tắt mô hình bài 23, sách Ngữ văn 9 : BÀI 23 Kết quả cần đạt VĂN BẢN MÙA XUÂN NHO NHỎ Chú thích ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN Ghi nhớ LUYỆN TẬP Do có vai trò là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ chức các hoạt động dạy học, nhìn vào cấu trúc của đơn vị bài học, chúng ta có thể xây dựng được phương pháp dạy học tương ứng. Nội dung và mục tiêu cần đạt của bài học là những yếu tố quan trọng nhất để GV dựa vào đó thiết kế bài học và xác định phương pháp dạy học. 1.4. Phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong sách giáo khoa SGK là một xuất bản phẩm đặc biệt, cho một đối tượng rộng lớn, đa dạng về tính chất, chủng loại, về các ngành khoa học khác nhau, nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ… Bởi vậy nó phải được hoàn thiện về nội dung và đẹp về hình thức. Trong mười năm trở lại đây, kể từ khi tiến hành cải cách giáo dục, mà trọng tâm là cải cách chương trình và nội dung SGK các môn học, xây dựng một phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK sao cho thể hiện được mục tiêu của giáo dục là một đòi hỏi cấp thiết.
- Kênh chữ và kênh hình là những thông tin chủ yếu được dùng trong SGK để trình bày nội dung tri thức của môn học, đó là những chỉ dẫn về phương pháp dạy và học cũng như việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Kênh chữ và kênh hình phải thể hiện tính chính xác, khoa học, sao cho hài hòa, cân đối và hỗ trợ lẫn nhau một cách có hiệu quả về mặt thẩm mĩ, mặt sư phạm. Tức là, kênh chữ phải là thông tin chính phản ánh đúng nội dung tri thức môn học. Kênh hình (ảnh chụp, tranh ảnh, hình vẻ, sơ đồ, đồ thị…) thể hiện đúng đối tượng nghiên cứu, phù hợp với nội dung kênh chữ, không mang yếu tố hiểu lầm hoặc làm phân tán sự tập trung suy nghĩ của HS, kênh hình cần được khai thác, hỗ trợ cung cấp thông tin song song với thông tin chính nếu bỏ đi sẽ hạn chế việc hiểu bài. Phương pháp trình bày kiến thức phải phù hợp với tâm lí lứa tuổi HS ở từng lớp học, có tác dụng hình thành các thao tác tư duy ngày một nâng cao và hình thành được ở HS một số năng lực hành động ứng xử cần thiết. Nội dung những thông tin trình bày trong mỗi bài học phải thể hiện được phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của người học, tạo điều kiện để HS được suy nghĩ, được làm việc thực sự, tự kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức,… Từ đó, HS chiếm lĩnh được kiến thức, hình thành được kỹ năng. Số lượng, chất lượng và sự bố trí, sắp xếp các thông tin trong mỗi bài học phải vừa sức đối với HS, đề xuất được sự áp dụng cụ thể, tiến trình những kiến thức được chuyển tải qua nội dung các môn học ở các lớp học đi từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Hệ thống câu hỏi, bài tập hay thí nghiệm thực hành vừa phải sát hợp nội dung bài học vừa đa dạng giúp HS có được phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho HS khai thác nội dung, làm xuất hiện tình huống vấn đề, sau đó hướng dẫn HS quan sát, giải thích, tìm tòi cách giải quyết vấn đề một cách tối ưu, đồng thời HS có thể tự kiểm tra sự tiến bộ và thành tích của mình. Tình huống có vấn đề có thể phát sinh trong môn học hoặc trong đời sống hằng ngày có liên quan trực tiếp tới môn học. Ở cấp phổ thông, SGK là sự thể hiện những nội dung cụ thể của chương trình phổ thông. Các kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội… có sự lựa chọn rất kĩ. Kiến thức trong SGK là một hệ thống khoa học, chính xác theo trình tự logic chặt chẽ, được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với trình đô học sinh vàthời gian học tập. Nội dung kiến thức được trình bày bằng lối văn phong sáng rõ, dễ hiểu có hiệu lực, phù hợp với môi trường văn hóa, đạo đức, chính trị và dân tộc. Ngoài phần kiến thức, SGK còn có một phần về rèn luyện các kỹ năng và các phương pháp giảng dạy môn học. Phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK đã tạo ra sự khác nhau giữa SGK và các loại sách khoa học khác. Phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK đầu thế kỉ XXI đã có nhiều thay đổi. Các tác giả không mô tả, giảng giải kiến thức mà đưa ra các hướng dẫn quan sát, hướng dẫn thí nghiệm, hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận, câu hỏi kiểm tra kiến thức,… với phương pháp trình bày như vậy, hứng thú học tập và năng lực làm việc của HS đã được tính đến. Có thể nói, mỗi cuốn SGK được coi như một cuốn sách “phương pháp hướng dẫn học tập” ở một chừng mực nào đó. 1.5. Các chức năng của sách giáo khoa
- SGK trước hết là một loại sách nên cũng như các loại sách khác nó cũng phải đảm bảo chức năng chung là chức năng giáo dục nhân văn theo những chuẩn mực đang được xã hội thừa nhận. Chức năng này liên quan đến mọi điều kiện học tập về hành vi, về các mối quan hệ với người khác, về cuộc sống xã hội nói chung. Một cuốn SGK không chỉ chuyên nhằm truyền thụ kiến thức, mà cũng có thể phát triển khả năng ứng xử, cho phép HS xác định được vị trí của mình trong phạm vi xã hội, gia đình, văn hoá, dân tộc. Đặc biệt đối với SGK các môn học khoa học xã hội và nhân văn chức năng giáo dục nhân văn càng biểu hiện rõ. Thông qua tri thức, SGK giáo dục HS về đạo đức, nhân cách, tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần say mê học tập... Nhưng khác với các loại sách, SGK tồn tại trong một môi trường đặc biệt, đó là nhà trường phổ thông, SGK chứa đựng những kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. SGK là một trong những phương tiện dạy học quan trọng ở trường phổ thông. Do đó, chức năng chủ yếu của SGK là hướng vào việc học tập trong nhà trường. SGK là phương tiện làm việc của HS và là phương tiện hỗ trợ GV hiểu và thực hiện chương trình dạy học đã quy định. Nó bao gồm chức năng truyền thụ kiến thức, chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập và chức năng kích thích hướng thú học tập. 1.5.1. Chức năng thông tin kiến thức Đây là chức năng truyền thống, thông tin kiến thức là chức năng quan trọng nhất; chính vì thế có một số quan điểm cho rằng SGK chỉ có một chức năng duy nhất là chức năng thông tin, còn hai chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập và kích thích hướng thú học tập chỉ là sự kéo theo, khi GV đứng lớp để thực hiện được chức năng thông tin thì bản thân GV phải hướng dẫn HS, kích thích hướng thú học tập tạo tâm thế học tập cho HS. Chức năng thông tin được thể hiện qua nội dung của SGK, trình bày dưới dạng lời văn (kênh chữ) và hình ảnh (kênh hình). Đối với SGK Tiểu học và Trung học cơ sở, kênh hình và kênh chữ gần như tương đương. Nhưng lượng kênh hình này phải phục vụ cho chức năng thông tin chứ không phải phục vụ nghệ thuật. Kênh hình trong SGK phải được tính toán sao cho giúp HS lĩnh hội kiến thức một cách liên tục và không cho phép học sinh phân tán bởi những yếu tố khác. Đối với SGK bậc THPT kênh chữ là chủ yếu. Một yếu tố kiến thức nào đó nếu cần làm rõ thêm qua kênh hình thì kênh hình bao giờ cũng phải có chữ đi kèm để giải thích, chỉ dẫn. Như vậy, kênh chữ trong SGK giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chức năng thông tin. SGK cung cấp những thông tin kiến thức gì? Kiến thức đó có đặc điểm như thế nào? Nội dung SGK hay lượng thông tin trong SGK bao gồm các đơn vị kiến thức của môn học; những chỉ dẫn về cách tiến hành các hoạt động học tập để lĩnh hội các đơn vị kiến thức. Những kiến thức đó có nhiều mức độ: khái niệm, quy tắc, định lí, định luật, quy luật, các dữ liệu đặc biệt, các sự việc,… Cần khẳng định rằng kiến thức dường như không đứng yên mà luôn vận động do đó nhận thức của con người mới phát triển được. Kiến thức nhân loại thì vô cùng phong phú đa dạng trong khi đó
- kiến thức trong SGK thì phải ổn định, sử dụng lâu dài. Để giải quyết vấn đề này chức năng thông tin phải hướng đến tính vừa sức và tính chuẩn mực, cổ điển. SGK dùng chủ yếu ở trường phổ thông, biên soạn riêng cho từng lớp. Sách của lớp này, cấp này không thể dùng cho HS lớp dưới, cấp dưới. Tính vừa sức tạo ra sự khác nhau giữa SGK và các loại sách khác. Sách nói chung đều trình bày các kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhưng các sách khác không quan tâm đến trình độ của người đọc còn SGK có sự lựa chọn rất kĩ trước khi đưa những đơn vị kiến thức khoa học vào sách. Đặc biệt cần chú ý tới tính hệ thống chặt chẽ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của HS. Những đơn vị kiến thức khoa học trong SGK phải làm cho HS ở một độ tuổi nào đó hiểu được, đảm bảo hoạt động tư duy tích cực của HS, đảm bảo sự phát triển có thể được về khả năng nhận thức của HS. Khác với thông báo khoa học hay các giáo trình có thể trình bày những vấn đề khoa học mới phát minh thậm chí còn hết sức mới mẻ, chưa hoàn toàn được thừa nhận thì SGK phải đưa vào chương trình những kiến thức khoa học phổ thông cơ bản nhất, chuẩn mực và đã ổn định, những kiến thức ít thay đổi, không thay đổi quá nhiều theo những xu thế thời cuộc, các kiến thức đó không mâu thuẫn nhau không tạo nên những cuộc tranh luận lâu dài. Kiến thức đó phải được mọi người thừa nhận, trở thành nhận thức chung của nhân loại. SGK không những thông tin kiến thức mà còn chỉ dẫn cách thức để hiểu được, lĩnh hội được các kiến thức đó, trang bị cho HS những phương pháp tư duy, phương pháp học tập, kỹ năng thực hành những bộ môn cụ thể. Cho nên, hệ thống kiến thức trong SGK phải xây dựng theo những hệ thống nhất định, phương pháp nhất định, trình tự nhất định để HS dùng hệ thống kiến thức ấy làm tư liệu học tập dưới sự chỉ đạo của GV. Điều đó toát lên từ nhiều bình diện trong bài học dễ thấy nhất là cách trình bày các yếu tố kiến thức trong mỗi bài học: các kiến thức đi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, phần lí thuyết trình bày trước, sau đó đến phần hướng dẫn học bài, cuối đến là phần ôn luyện. 1.5.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập So với các loại sách khác, SGK thể hiện tương đối rõ chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập. Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong các yêu cầu hàng đầu của SGK mới. Để HS chuyển từ học tập thụ động sang học tập chủ động, để GV phát triển các phương pháp dạy học tích cực, SGK cần chuyển cách trình bày kiểu thông báo, giải thích sang cách tổ chức các hoạt động học tập. Cấu trúc bài học trong SGK mới chủ yếu xoay quanh nội dung hướng dẫn hoạt động học tập, với cấu trúc bài học như thế thì chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập ngày càng thể hiện rõ hơn. Đây là một bước tiến của SGK mới. Thiết kế các hoạt động học tập khám phá là sự thể hiện rõ nhất của chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập. Hoạt động học tập khám phá có nhiều dạng khác nhau: trả lời câu hỏi; điền từ, điền bảng, điền tranh; lập bảng, biểu, đồ thị, sơ đồ, bản đồ, đọc và phân tích; làm thí nghiệm, đề xuất giả thiết, phân tích nguyên nhân, thông báo kết quả; thảo luận tranh cải về một vấn đề; giải bài toán nhận thức, xử lí tình huống, v.v… tương ứng với các dạng hoạt động có các hình thức tổ chức hoạt động: cá nhân;
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
134 p | 1072 | 132
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 704 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 457 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 340 | 55
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục: Quản lý công tác giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng
26 p | 419 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục phòng ngừa tệ nạn xã hội cho học sinh tại các trường trung học cơ sở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
26 p | 186 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng kế hoạch phát triển quy mô giáo dục Trung học phổ thông tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020
142 p | 169 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 49 | 17
-
Luân văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lí đội ngũ giáo viên của Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Cà Mau
115 p | 115 | 12
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn