intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và giải pháp

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:157

151
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và giải pháp nghiên cứu thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên THPT ở các trường THPT huyện Tân Thành, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường THPT trong huyện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và giải pháp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hữu Thọ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh, 2008
  2. MỞ ĐẦU 1- Lý do chọn đề tài Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) giữ vai trò đặc biệt cần thiết đối với sự phát triển của mỗi con người và của cả xã hội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Văn kiện hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII tiếp tục khẳng định: “Thực sự coi giáo dục (GD) là quốc sách hàng đầu”. GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân, và chỉ ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ giáo viên, coi đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD và được xã hội tôn vinh. Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý (CBQL) là động lực của sự phát triển nhà trường, của quá trình GD. Luật GD 2005 đã dành 2 điều 15, 16 để nói về vai trò của nhà giáo và CBQL giáo dục. Lao động của nhà giáo, của đội ngũ CBQL giáo dục là lao động sư phạm đòi hỏi có sự sáng tạo và phải có năng lực cao, phẩm chất nghề nghiệp trong sáng lành mạnh để GD con người. Nước ta đang có những sự thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, trước sự biến động của nền kinh tế thị trường và sự phát triển kinh tế - xã hội thì GD cũng bị tác động rất lớn. Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục giai đoạn 2005-5010” của Chính phủ, xác định mục tiêu tổng quát là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đồng thời chỉ ra nhiệm vụ tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện chính sách ưu đãi đối với nhà giáo và CBQL giáo dục, khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới công tác quản lý (QL) nhà giáo. Những bất cập về QL đội ngũ giáo viên trong nền kinh tế thị truờng, những vấn đề mới về lý luận QL đội ngũ giáo viên khi Việt Nam đã gia nhập WTO và khi Đảng ta cho phép nước ngoài đầu tư vào GD, đòi hỏi phải bổ sung về lý luận QL đội ngũ giáo viên và đòi hỏi phải cụ thể hoá lý luận này trong từng trường học, bậc học, cấp học. Mọi thành tựu, mọi yếu kém trong một trường học xét cho cùng đều có nguyên nhân của sự QL của Hiệu trưởng (HT) trường đó. Trong công tác QL của
  3. HT thì QL đội ngũ giáo viên là mặt QL quan trọng nhất vì hoạt động giảng dạy, GD học sinh (HS) của giáo viên (GV) và hoạt động học tập, rèn luyện của HS là hai hoạt động trung tâm trong một trường học. Tình hình chất lượng GD yếu kém đang là vấn đề bức xúc của xã hội và của ngành GD nước ta. Vì thế vấn đề QL đội ngũ giáo viên là vấn đề cấp thiết. Ở cấp trung học phổ thông (THPT) từ năm học 2006-2007 tiến hành phân ban theo diện rộng. Trước yêu cầu về thay sách giáo khoa, thay đổi nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, đòi hỏi người thầy giáo phải có đủ phẩm chất, năng lực thích ứng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. HT trường THPT cần phải có các giải pháp để tăng cường công tác QL đội ngũ giáo viên phù hợp với yêu cầu phát triển GD trong giai đoạn mới. Hiện nay trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (BR-VT) có 3 trường THPT: trường THPT Phú Mỹ (trường PM), trường THPT Hắc Dịch (trường HD), trường THPT Trần Hưng Đạo (trường THĐ). Đây là huyện có 5 khu công nghiệp đang hoạt động, đội ngũ lao động từ nhiều nơi khác về gia tăng, vì vậy số lượng học sinh THPT tăng nhanh kéo theo đội ngũ giáo viên thiếu, các trường THPT tuyển nhiều GV từ nhiều nguồn, chất lượng GV không đồng đều. Mặt khác trong những năm qua, mặc dù công tác QL đội ngũ giáo viên của các HT đã có nhiều cố gắng song nhìn từ góc độ khoa học quản lý giáo dục (QLGD) thì vẫn còn thiếu đồng bộ, cần phải có những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế để QL, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Qua quá trình thực tiễn làm công tác QL tại một trường THPT ở huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT, và quá trình học tập nghiên cứu về khoa học QLGD tại trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, bản thân tôi xét thấy mình có đủ điều kiện để nghiên cứu được vấn đề này. Với các lý do trên tôi chọn vấn đề: “Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu, với hy vọng góp thêm một phần kết quả nghiên cứu để ứng dụng vào việc QL đội ngũ giáo viên và nâng cao chất lượng đội
  4. ngũ giáo viên ở các trường THPT trong huyện. 2- Mục đích nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên THPT ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác QL và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường THPT trong huyện. 3- Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa làm rõ cơ sở lý luận về người giáo viên THPT, về đội ngũ giáo viên THPT và việc QL đội ngũ giáo viên THPT. - Nghiên cứu thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT và tìm ra nguyên nhân của nó. - Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác QL và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT. 4- Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1- Khách thể nghiên cứu - Các trường THPT ở huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT. - HT, Phó hiệu trưởng (PHT), Tổ trưởng chuyên môn (TTCM), GV các trường THPT nói trên. 4.2- Đối tượng nghiên cứu Thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT. 5- Giả thuyết nghiên cứu Trong công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT bên cạnh việc QL tương đối tốt ở một số mặt như sử dụng GV, đánh giá GV, bồi dưỡng (BD) đội ngũ giáo viên, còn có những hạn chế trong tuyển dụng GV, kiểm tra hoạt động sư phạm của GV. Vì thế chất lượng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT chỉ ở mức trung bình khá. Nguyên nhân có thể là do các HT chưa thực hiện chặt chẽ và đồng bộ các chức năng QL.
  5. Đánh giá đúng thực trạng QL đội ngũ giáo viên và biết được nguyên nhân của nó thì có thể đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm thực hiện tốt hơn công tác QL đội ngũ giáo viên và nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên. 6- Giới hạn nghiên cứu 6.1- Giới hạn về thời gian: Đề tài này được nghiên cứu trong vòng 12 tháng, kể từ khi được duyệt đề tài cho đến khi hoàn thành đề tài. 6.2- Giới hạn về không gian: Đề tài nghiên cứu tại 3 trường THPT trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT. 6.3- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: QL đội ngũ giáo viên là vấn đề khó khăn và phức tạp gắn với nhiều vấn đề như xây dựng quy hoạch đội ngũ giáo viên; tuyển dụng GV; sử dụng GV; ĐT, BD đội ngũ giáo viên; khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chế độ tiền lương và tạo điều kiện làm việc cho đội ngũ giáo viên. Trong đề tài này tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT với các vấn đề: Quy hoạch, tuyển dụng GV; sử dụng GV; kiểm tra hoạt động sư phạm của GV; đánh giá GV; BD đội ngũ giáo viên. Đề tài chỉ nghiên cứu QL của HT đối với đội ngũ giáo viên, không nghiên cứu hoạt động dạy học của GV, chất lượng của đội ngũ giáo viên được xem như là hệ quả của hoạt động QL đội ngũ giáo viên. 7- Phương pháp nghiên cứu [26], [44] Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 7.1- Các phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp phân loại, hệ thống hóa. 7.2- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến dựa trên cơ sở lý luận, mục đích nghiên cứu gồm một số lựa chọn câu hỏi dành cho CBQL và GV các trường THPT. Đây là phương pháp chủ đạo trong đề tài nghiên cứu. - Phương pháp tọa đàm: Xin số liệu, thu thập thông tin qua việc nói chuyện
  6. trực tiếp với CBQL Sở GD&ĐT, CBQL và GV các trường THPT. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua các bảng thống kê để tìm hiểu tình hình phát triển GD, tình hình đội ngũ CBQL, đội ngũ giáo viên và thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên. - Phương pháp quan sát: Người nghiên cứu dùng phương pháp quan sát để tìm hiểu môi trường, điều kiện làm việc của đội ngũ giáo viên. 7.3- Phương pháp bổ trợ Người nghiên cứu sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu nhằm định lượng kết quả nghiên cứu, tập trung vào các phép tính tần số, tần suất (Frequencise), số trung bình (mean), phương sai (varition ) và độ lệch chuẩn (standard deviation). 8- Đóng góp mới của đề tài - Đề tài hệ thống hóa được lý luận về người giáo viên THPT; về đội ngũ giáo viên THPT và về QL đội ngũ giáo viên nói chung, QL đội ngũ giáo viên THPT nói riêng. - Đề tài cũng làm rõ được thực trạng công tác QL đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT và nêu được nguyên nhân của thực trạng. - Trên cơ sở đó đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác QL và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT. Kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu có ích cho CBQL các trường THPT trong huyện tham khảo, vận dụng trong việc QL đội ngũ giáo viên của trường mình. Đồng thời, các giải pháp và kiến nghị được đưa ra là khách quan và thiết thực có giá trị để Ủy ban Nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT; Sở GD&ĐT tỉnh BR-VT; Ủy ban Nhân dân tỉnh BR-VT làm cơ sở hoạch định một số chủ trương, chính sách trong việc QL các trường THPT trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT.
  7. Chương 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1- Lịch sử vấn đề nghiên cứu Trên thế giới vấn đề QLGD, QL trường học và QL đội ngũ giáo viên rất được quan tâm nghiên cứu. Các tác giả V.A.Xukhomlinxki, Jaxapob đã nghiên cứu và đề ra những vấn đề QL của HT trường phổ thông. Các tác giả đều khẳng định người HT phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm cao nhất trong công tác QL nhà trường [17, tr.16]; [42, tr.17]. Đặc biệt họ đều thống nhất là trong những nhiệm vụ QL của HT thì nhiệm vụ hết sức quan trọng là xây dựng và BD đội ngũ giáo viên. HT phải biết tuyển chọn GV bằng nhiều nguồn khác nhau và BD họ trở thành những GV tốt theo tiêu chuẩn nhất định, bằng những biện pháp khác nhau [42, tr.24-25]. Giáo sư Stanislaw kowalski khi nghiên cứu về xã hội học GD và GD học đã khẳng định thầy giáo như là khâu kết hợp nhà trường với môi trường và đề cập đến các loại QL và phong cách QL nhà trường, vai trò xã hội và trình độ nghề nghiệp của thầy giáo [37, tr.421-458]. Ở Việt Nam nhiều tác giả đã nghiên cứu chuyên sâu về QLGD, QL đội ngũ giáo viên. Tác giả Trần Kiểm nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống những vấn đề về QL, QLGD, phân tích rất cụ thể quá trình QLGD, các chức năng, nguyên tắc, phương pháp và công cụ QLGD [18]. Trong cuốn “Một số vấn đề cơ bản về GD phổ thông trung học”, nhà xuất bản GD, 1998 [8], tác giả Nguyễn Hữu Dũng đã đưa ra những vấn đề về xu thế phát triển giáo dục THPT trên thế giới, vị trí mục tiêu của GD trung học và QL trường trung học. Các tác giả Chu Mạnh Nguyên, Mai Quang Tâm, Dương Thúy Giang, Đỗ Thị Hòa nghiên cứu một cách hệ thống nghiệp vụ QL trường Trung học cơ sở và trường Tiểu học, đặc biệt trong đó đã chi tiết hóa công tác QL, BD, kiểm tra, đánh giá đội ngũ giáo viên. [27], [38]. Vấn đề QLGD trong nhà trường, vai trò của HT trong QL trường phổ thông, lao động sư phạm của đội ngũ giáo viên cũng được các tác giả Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn Diệu, Lê Tràng Định nghiên cứu chuyên sâu. [29,tr.135-168]
  8. Vị trí, tầm quan trọng của người GV, đặc điểm lao động của đội ngũ giáo viên, những yêu cầu chung về xây dựng đội ngũ giáo viên và nhiệm vụ của họ đều được thể hiện trong các giáo trình của các tác giả Hà Thế Ngữ [28]; Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo [11]; Bùi Thanh Huyền [16]. Các tác giả Phùng Đình Mẫn, Trần Văn Hiếu, Hồ Văn Liên, Phan Minh Tiến, Trương Thanh Thúy – Đại học Sư phạm Huế, đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về đổi mới giáo dục THPT hiện nay trong đó nhấn mạnh vai trò của người GV và xu hướng đổi mới đánh giá ở trường THPT [23]. Riêng tác giả Phạm Quang Huân đã đưa ra những quan niệm mới: GV thực sự là chủ thể QL chất lượng trong nhà trường. [15, tr.3] Các tác giả Nguyễn Kim Hồng – Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Vũ Lan Hương – Trường Cán bộ QLGD và ĐT II đã có những bài viết về “coi trọng việc ĐT đội ngũ QLGD có tình độ sau đại học cho các quận/huyện” và “hướng tới mục tiêu 10% giáo viên THPT có trình độ sau đại học vào năm 2010” [41, tr.17.82]. Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử GD, tác giả Nguyễn Bá Cường – Trường đại học Sư phạm Hà nội đã chỉ ra vấn đề trọng dụng hiền tài trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm. Với Ngô Thì Nhậm, vấn đề tuyển chọn và sử dụng nhà giáo rất được quan tâm, bởi theo ông, nhà giáo có ảnh hưởng to lớn đối với sự nghiệp phát triển của quốc gia. [5, tr.12] Vấn đề bồi dưỡng GV về tư tưởng chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao năng lực giảng dạy cho họ là cần thiết. Các tác giả Nguyễn Văn Lê [20], Trần Bá Hoành [12] đã chú ý nhiều đến nội dung này. Đặc biệt tác giả Trần Đình Thuận đã đề xuất xây dựng chương trình BD cán bộ, GV qua truyền hình, một vấn đề không mới nhưng rất cần được đầu tư. [40, tr.6] Nhóm nghiên cứu gồm các tác giả Nguyễn Kim Hồng, Đoàn Văn Điều, Nguyễn Sỹ Trung, Đoàn Nguyễn Thùy Dương – Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh qua nghiên cứu tiêu chí đánh giá GV cấp THPT tại thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất bảng đánh giá giờ dạy của GV gồm 35 tiêu chí cụ thể. [13] Các tác giả Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng khi nghiên cứu về phát triển
  9. GD, ĐT nhân tài đã đưa ra cách khắc phục những tồn tại trong GD phổ thông, cải cách chương trình đào tạo GV và tiếp tục khẳng định đội ngũ giáo viên quyết định chất lượng GD [45, tr.113-121]. Vấn đề QLGD, QL trường học nói chung, QL đội ngũ giáo viên nói riêng đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Gần đây các luận văn Thạc sỹ khoa học chuyên ngành QLGD ở trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh của các tác giả Đỗ Thị Cúc, Lê Bạt Sơn, Vũ Thị Huyền, Đỗ Ngọc Mỹ, Phạm Đình Ly, Phạm Kiều Mai cũng đã đề cập đến một số mặt như tuyển dụng, sử dụng, BD, khen thưởng trong công tác QL đội ngũ giáo viên. QL đội ngũ giáo viên đang là vấn đề cấp thiết và rất cần được tiếp tục quan tâm nghiên cứu. Ở huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT vấn đề này vẫn chưa được đề cập đến. Vì thế đề tài: “Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường THPT huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và giải pháp” đã được trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt và cho phép tiến hành nghiên cứu. 1.2- Lý luận về người giáo viên THPT và đội ngũ giáo viên THPT 1.2.1- Khái niệm về người giáo viên THPT và đội ngũ giáo viên THPT 1.2.1.1- Khái niệm giáo viên THPT Khái niệm giáo viên: Theo từ điển tiếng Việt của nhóm tác giả Hồng Mây - Ngọc Sương - Minh Mẫn, nhà xuất bản Thống kê 2004, thì GV là người dạy học ở bậc phổ thông hoặc tương đương. Như vậy: Nhà giáo giảng dạy, GD ở cơ sở GD mầm non, GD phổ thông, GD nghề nghiệp gọi là GV. Ở các trường Mầm non, GV không làm công việc giảng dạy, mà GV là người chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nhà giáo giảng dạy ở bậc Đại học được gọi là giảng viên. Khái niệm trường THPT: Trường THPT là cơ sở GD phổ thông, nơi tiến hành công tác giảng dạy, giáo dục HS từ lớp 10 đến lớp 12. Trường THPT có loại hình công lập và tư thục.
  10. Khái niệm giáo viên THPT: Giáo viên THPT là người hành nghề giảng dạy một môn học nào đó ở trường THPT và qua sự giảng dạy môn học đó mà GD học sinh theo mục tiêu GD mà Bộ GD&ĐT đã đề ra đối với giáo dục THPT. 1.2.1.2-Khái niệm đội ngũ giáo viên THPT Khái niệm đội ngũ : Đội ngũ được hiểu là một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng.[27, 166] Khái niệm đội ngũ giáo viên THPT: Đội ngũ GV của một trường THPT là tập hợp tất cả các giáo viên của trường đó theo một cấu trúc nhất định về mặt tổ chức, có một số lượng GV nhất định (đủ hay chưa đủ theo quy định), có một chất lượng nhất định (về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, nghiệp vụ) tạo thành một tập thể sư phạm được đánh giá là vững mạnh hay yếu kém nói chung, hoặc vững mạnh hay yếu kém về từng mặt nói riêng. Đội ngũ giáo viên THPT là tập hợp những GV làm nhiệm vụ giảng dạy, GD trong trường THPT, là lực lượng chủ yếu giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu và kế hoạch GD của trường THPT. Bất kỳ GV nào cũng có ảnh hưởng GD rộng rãi đến một tập thể HS, và ngược lại HS nào cũng đều trực tiếp nhận sự GD của đội ngũ giáo viên. Chất lượng GD trong trường THPT là sự đóng góp chung của tập thể sư phạm trong đó đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định. Chất lượng GD không chỉ phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm và năng lực công tác của từng GV mà còn phụ thuộc vào sự phối hợp GD của các GV. Đội ngũ giáo viên trong trường THPT có sự quan hệ gần gũi, gắn bó, giúp đỡ, tương trợ nhau trong cuộc sống và trong công tác. Đội ngũ giáo viên THPT tham gia tích cực vào các hoạt động GD của nhà trường, coi trọng sinh hoạt của các tổ chức, có sự thống nhất cao về nhận thức và hoạt động GD. [27, 171-172] 1.2.2- Vai trò của người giáo viên THPT và vai trò của đội ngũ giáo viên THPT 1.2.2.1- Vai trò của người giáo viên THPT
  11. Người giáo viên THPT nói riêng và nhà giáo nói chung đóng vai trò quyết định đến chất lượng dạy và học. Luật GD năm 2005 quy định vai trò và trách nhiệm của nhà giáo đối với sự nghiệp GD&ĐT là: - Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng GD. - Nhà giáo không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học. - Nhà nước tổ chức ĐT, BD nhà giáo, có chính sách sử dụng, đãi ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình, giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học. [22, tr.14] Vai trò của người giáo viên THPT trong các hoạt động giảng dạy, GD: Vai trò người thiết kế: Căn cứ vào mục tiêu giáo dục THPT, mục tiêu bài học, nội dung chương trình và lôgic của quá trình sư phạm, dựa trên các khả năng và điều kiện cho phép, người giáo viên THPT chọn nội dung GD, xây dựng quy trình hoạt động, sử dụng và phối hợp các phương pháp giảng dạy, GD, để thiết kế chương trình dạy học. Quá trình hình thành bản thiết kế bài dạy của GV đáp ứng được nội dung chương trình; thể hiện tính sáng tạo; khéo léo tạo ra các tình huống có vấn đề phù hợp với đối tượng HS. Người thầy giáo thiết kế để cho HS tự thiết kế và tự giác thi công, người thầy vừa thiết kế hoạt động chung cho tập thể vừa thiết kế cho từng đối tượng HS. Vai trò người tổ chức: Thông qua bản thiết kế của mình, với đặc trưng dạy học theo tiết học, người giáo viên THPT tổ chức cho HS học tập. Việc tổ chức này phải khéo léo và khoa học mới lôi kéo, thu hút được tất cả các đối tượng HS học tập. Với phương pháp dạy học hiện đại, người GV tổ chức cho HS tìm tòi, thảo luận, tranh luận, phản biện và báo cáo thông qua các hoạt động của cá nhân, tổ, nhóm, từ đó HS mới nắm vững vấn đề, hiểu sâu, nhớ lâu và có khả năng vận dụng. Giáo viên THPT cũng là những người dạy Hướng nghiệp, giáo dục HS Ngoài giờ lên lớp. Vai trò người cổ vũ: Vai trò cổ vũ của người GV sẽ dẫn dắt, uốn nắn, điều chỉnh, khích lệ, khơi dậy và phát huy được khả năng sáng tạo của HS. Nếu người
  12. thầy chỉ thiên về đánh giá HS lĩnh hội tri thức từ người thầy thì HS rất dễ máy móc, rập khuôn, thụ động. Người thầy phải giữ vai trò cổ vũ cho HS sáng tạo. Bằng những cử chỉ, ánh mắt, lời nói, sự khen chê, trách phạt, với khả năng sư phạm của mình người thầy tạo cho HS sự mạnh dạn, tự tin, tạo ra sự hưng phấn cho HS say mê khai thác tìm tòi tri thức mới. Vai trò người đánh giá: Người giáo viên THPT cuối học kỳ I và cuối năm học đánh giá học lực và hạnh kiểm HS. Trong quá trình học tập, kiểm tra, người thầy là trọng tài tin cậy của HS. Việc đánh giá khách quan, công bằng, chính xác là một động lực quan trọng thúc đẩy quá trình học tập của HS. Đánh giá đúng sẽ phát huy được sức sáng tạo, nhiệt tình, say mê học tập của HS. Đánh giá sai không những ảnh hưởng đến sự say mê, nhiệt tình, gây nên sự so bì, không tạo được bầu không khí lớp học mà còn ảnh hưởng đến uy tín của GV. Muốn vậy người GV phải có đầy đủ năng lực, trình độ để chỉ ra cái hay, cái độc đáo, đánh giá đúng những giá trị năng lực thực sự và phẩm chất, nhân cách của HS để từ đó hoàn thiện quá trình GD. [23, tr.26-27] 1.2.2.2- Vai trò của đội ngũ giáo viên THPT - Vai trò của đội ngũ giáo viên THPT đối với sự nghiệp GD&ĐT: Đội ngũ giáo viên THPT nói riêng và đội ngũ nhà giáo nói chung có một vai trò to lớn trong sự nghiệp GD-ĐT. Từ xưa, vị trí, vai trò và công ơn của người thầy đã được nhân dân ta lưu truyền: “Muốn khôn thì phải có thầy”, “Không thầy đố mày làm nên”, “Mười năm rèn luyện đèn sách, công danh gặp bước chớ quên ơn thầy”. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn vinh nghề dạy học và vị trí cao cả của người thầy. Đảng ta có đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp GD, người thầy giáo là chiến sỹ cách mạng trên mặt trận tư tưởng văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD và được xã hội tôn vinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có gì vẻ vang hơn là nghề ĐT những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng trên báo, không
  13. được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Những đóng góp, hy sinh vì sự nghiệp “trăm năm trồng người” của các thế hệ nhà giáo, cùng với sự chăm sóc của toàn Đảng, toàn dân, ngày nay nước ta có một nền GD nhân dân. Có thể nói rằng lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà chúng ta có một nền GD có đủ khả năng ĐT từ mẫu giáo đến bậc tiến sỹ. [45, tr.115-116] - Vai trò của đội ngũ giáo viên THPT đối với giáo dục THPT: Đội ngũ giáo viên THPT quyết định đến chất lượng của giáo dục THPT, giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của GD trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. [22, tr.21] - Vai trò của đội ngũ giáo viên THPT trong quản lý nhà trường: Một mặt đội ngũ giáo viên THPT là đối tượng QL vì họ là người thực hiện công việc giảng dạy, giáo dục HS trong trường THPT, họ được xem là đối tượng QL của các chủ thể QL trực tiếp như: HT, PHT, TTCM. Mặt khác đội ngũ giáo viên THPT là thành viên chiếm số đông trong tập thể sư phạm, họ tham gia QL nhà trường với tư cách là những viên chức tham gia QL đơn vị hành chính – sự nghiệp nơi họ công tác. Họ trực tiếp QL, điều hành những công việc khá phức tạp như: QL một lớp chủ nhiệm hay một giờ lên lớp, QL tất cả những công việc liên quan tới hoạt động dạy học hay QL một buổi lao động, một buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, một buổi hướng nghiệp. Điều đó đòi hỏi người GV phải biết QL, tổ chức công việc theo một trình tự nghiêm túc, hợp lý. Không dừng lại ở đó, họ còn phải đảm trách những công việc với tư cách là một chủ thể QL thực thụ ở phạm vi QL rộng hơn, với những hoạt động có tính chất phức tạp hơn khi được tập thể, được chính quyền nhà trường và cấp trên giao phó. [15, tr.3-5] - Trong mỗi trường THPT đội ngũ giáo viên đã được xây dựng thành một tập thể thì đội ngũ đó còn có một vai trò quan trọng trong việc phát huy ảnh hưởng của mình là một tập thể đối với từng cá nhân GV. Tập thể này là tập thể nhỏ của từng tổ GV và tập thể lớn gồm tất cả GV của tất cả các tổ.
  14. Đội ngũ giáo viên THPT có vai trò to lớn đối với sự nghiệp GD&ĐT và tham gia công tác QL nhà trường. Là người QL trường THPT, HT phải thấy được vai trò to lớn của họ, để xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ giáo viên vững mạnh. 1.2.3- Nhiệm vụ của người giáo viên THPT và nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên THPT 1.2.3.1- Nhiệm vụ của người giáo viên THPT Điều lệ trường THPT ban hành ngày 2/4/2007 quy định chi tiết nhiệm vụ của GV trường THPT. - GV bộ môn có những nhiệm vụ: + Dạy học và GD theo chương trình, kế hoạch GD; soạn bài; dạy thực hành thí nghiệm, kiểm tra, đánh giá theo quy định; vào sổ điểm, ghi học bạ đầy đủ, lên lớp đúng giờ, quản lý HS trong các hoạt động GD do nhà trường tổ chức, tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; + Tham gia phổ cập GD ở địa phương; + Rèn luyện đạo đức, học tập văn hóa, BD chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và GD; + Thực hiện Điều lệ nhà trường, thực hiện quyết định của HT, chịu sự kiểm tra của HT và các cấp QLGD; + Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước HS, đối xử công bằng với HS, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích chính đáng của HS, đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; + Phối hợp với GV chủ nhiệm, các GV khác, gia đình HS, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục HS; + Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. - GV chủ nhiệm lớp, ngoài các nhiệm vụ trên còn có nhiệm vụ: + Tìm hiểu và nắm vững HS trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức GD sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp;
  15. + Cộng tác chặt chẽ với gia đình HS, chủ động phối hợp với các GV bộ môn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục HS của lớp mình chủ nhiệm; + Nhận xét, đánh giá và xếp loại HS cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ luật HS, đề nghị danh sách HS được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ HS; + Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với HT. [1] 1.2.3.2- Nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên THPT - Thực hiện nhiệm vụ giảng dạy: Đội ngũ giáo viên THPT phải thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình với một mức độ chuyên môn hóa cao, theo một thời khóa biểu chặt chẽ, khoa học. Điều này đòi hỏi tính tự giác và ý thức trách nhiệm cao của từng GV. - Thực hiện nhiệm vụ giáo dục HS: Thông qua các môn học đội ngũ giáo viên THPT có nhiêm vụ GD toàn diện về lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp tư duy biện chứng, GD truyền thống văn hóa dân tộc cho HS. Phong cách, hành vi, ứng xử của đội ngũ giáo viên phải hết sức cẩn thận và chuẩn mực để HS noi theo. - Thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ giáo viên THPT thành một tập thể vững mạnh: + Có sự thống nhất cao trong nhận thức và thực hiện mục tiêu GD + Hợp tác chặt chẽ trong giảng dạy, giáo dục HS và trong công tác khác + BD, giúp đỡ những GV yếu, kém để trở thành GV khá, giỏi. Thường xuyên BD để nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cả đội ngũ. + Đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực như: chống tiêu cực trong thi cử, chống HS ngồi nhầm lớp, chống dạy thêm, học thêm tràn lan. + Phát huy được năng lực của từng GV, tạo được phong trào thi đua thiết thực trong đội ngũ giáo viên.
  16. + Đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ các thành viên trong công tác và trong cuộc sống. 1.2.4- Yêu cầu đối với người giáo viên THPT và yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên THPT 1.2.4.1- Yêu cầu đối với người giáo viên THPT Nhà giáo phải giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin và có tinh thần yêu nước. Nhà giáo phải nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Làm thầy phải yêu trò như con, không nên phân biệt giữa trò này và trò khác. Thầy giáo có đạo đức, có tình thương yêu trẻ thì chưa đủ mà phải tự sửa mình, làm gương học tập nâng cao trình độ mà vươn lên mãi để khỏi lạc hậu. [25, tr.126-127] Điều 70 Luật GD 2005 nêu rõ nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây: - Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; - Đạt trình độ chuẩn được ĐT về chuyên môn, nghiệp vụ; - Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; - Lý lịch bản thân rõ ràng. [22, tr.60] Điều lệ trường THPT quy định yêu cầu đối với người giáo viên THPT như sau: Về trình độ chuẩn, giáo viên THPT có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ BD nghiệp vụ sư phạm theo đúng chuyên ngành tại các khoa, trường đại học sư phạm [ 1]. Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD giai đoạn 2005-2010” ngày 11/1/2005 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra yêu cầu: 100% GV các cấp học, bậc học phổ thông, dạy nghề phải đạt chuẩn ĐT theo quy định; 10% giáo viên THPT và dạy nghề đạt trình độ sau đại học. [39] Về phẩm chất đạo đức, người giáo viên THPT không được có các hành vi sau đây: - Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của HS, đồng nghiệp, người khác.
  17. - Gian lận trong kiểm tra thi cử, tuyển sinh, gian lận trong đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của HS. - Xuyên tạc nội dung GD. - Ép buộc HS học thêm để thu tiền. - Hút thuốc, uống rượu, bia; nghe, trả lời bằng điện thoại di động khi đang dạy học, khi đang tham gia các hoạt động GD ở nhà trường. [1] 1.2.4.2- Yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên THPT Đội ngũ giáo viên THPT phải đủ về số lượng. Quy định hiện hành về biên chế số lượng giáo viên THPT bình quân của một lớp học là 2,5 GV/lớp. Đội ngũ giáo viên THPT phải đồng bộ về cơ cấu, mỗi bộ môn đều phải có GV chuyên trách để giảng dạy. Đội ngũ giáo viên THPT phải có đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu mới đảm bảo được GV không phải dạy trái chuyên môn và dạy không quá nhiều tiết so với quy định. Đội ngũ giáo viên THPT phải được trang bị những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để làm nền tảng trong nhận thức tưởng, chính trị và lập trường giai cấp. Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước, gương mẫu thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của cán bộ, viên chức, các quy định của Điều lệ trường THPT, các Quy chế của tổ chức và hoạt động của trường THPT. Đội ngũ giáo viên THPT phải đạt chuẩn ĐT về chuyên môn, nghiệp vụ; có kiến thức cần thiết về tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi; có kiến thức phổ thông về những vấn đề xã hội và nhân văn; hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa và GD của địa phương nơi họ đang công tác. Khi thực hiện nhiệm vụ dạy học ở trên lớp, yêu cầu đội ngũ giáo viên THPT phải đảm bảo dạy đúng nội dung chương trình và kế hoạch dạy học; chuẩn bị giáo án và lên lớp đúng quy định nhưng đặc biệt chú ý phù hợp với đối tượng HS; tổ chức cho HS lĩnh hội vững chắc kiến thức cơ bản, rèn luyện được những kỹ năng chủ yếu, sử dụng hợp lý phương pháp dạy học làm cho tiết học tự nhiên, nhẹ nhàng, HS hứng thú học và học có tiến bộ.
  18. Trong công tác chủ nhiệm lớp và các hoạt động GD khác, yêu cầu đội ngũ giáo viên THPT phải thực hiện GD đạo đức cho HS, xây dựng nề nếp, rèn luyện thói quen tốt, giúp đỡ HS cá biệt; phối hợp với gia đình HS và cộng đồng xây dựng môi trường GD lành mạnh. Họ phải tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường, của tổ chuyên môn; tham gia các lớp BD chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của các cấp QLGD, tham gia học tập, tự học tập để nâng cao trình độ. Đội ngũ giáo viên THPT phải thật sự đoàn kết; trung thực trong công tác; sống mẫu mực, trong sáng; có uy tín cao trong đồng nghiệp, HS và cha mẹ HS; có ảnh hưởng tốt trong nhà trường và ngoài xã hội. Do đặc điểm lao động của đội ngũ giáo viên THPT là lao động sư phạm, nên yêu cầu đối với đội ngũ GV là phải đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, phải thật sự gương mẫu và đoàn kết. Có như vậy công việc giảng dạy, giáo dục HS mới đạt hiệu quả cao. 1.3- lý luận về công tác quản lý đội ngũ giáo viên THPT 1.3.1- Quản lý Thuật ngữ Hán – Việt: “quản” có nghĩa là bao trùm, coi sóc, trông coi tất cả, giữ gìn, duy trì trạng thái ổn định; “lý” nghĩa là chỉnh đốn, sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa vào hệ thống phát triển. “QL” là sự tích hợp hai quá trình “quản” và “lý”, tức là bảo quản, duy trì, đổi mới, phát triển sự vật ở trạng thái ổn định trong bối cảnh biến động. “QL” là khái niệm rất chung, rất tổng quát, dùng để chỉ quá trình QL xã hội. Trong QL xã hội cũng có nhiều quan niệm khác nhau về QL: Theo thuyết QL khoa học của TayLor: QL là biết được điều bạn muốn người khác làm, và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. [6, tr. 89] Nhà lý luận kinh tế người Pháp Henry Fayol lại định nghĩa rằng: QL hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra. [7,tr.90]
  19. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì QL là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể QL đến đối tượng bị QL trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt được mục đích nhất định. [32, tr.130] Tác giả Nguyễn Bá Sơn cho rằng: QL là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động. [36, tr.15] Các khái niệm QL trên đây tuy khác nhau nhưng chúng đều có chung những dấu hiệu: Là những tác động phối hợp giữa người QL và người bị QL, được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội và theo một mục đích nhất định. Vậy: QL là một quá trình trong đó chủ thể QL tác động bằng một tổ hợp các chức năng QL đến khách thể QL nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Ngày nay QL trở thành một khoa học. QL là lao động điều khiển lao động diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người [14, tr.6-7]. Bản chất của QL là: - Hoạt động QL mang tính tự giác của con người: là sự biểu hiện ý nguyện của chủ thể QL muốn điều chỉnh các hiện tượng xã hội. - Tính mục đích: chủ thể QL luôn hướng tới mục đích xác định, điều khiển, lôi cuốn đối tượng bị QL thực hiện. - Tính quần chúng: Trong mối quan hệ hai chiều, đối tượng bị QL cũng tác động trở lại chủ thể QL. Đối tượng bị QL cũng là chủ thể tự giác, tích cực tham gia vào QL để tất cả cùng đạt mục tiêu mong muốn. Có thể sơ đồ hóa mô hình QL bằng sơ đồ 1.1 dưới đây: Công cụ quản lý CHỦ THỂ KHÁCH THỂ QUẢN LÝ MỤCTIÊU QUẢN LÝ QUẢN LÝ Phương pháp quản lý Sơ đồ 1.1: Mô hình về quản lý
  20. Nội dung, phương pháp hoạt động cơ bản mà nhờ đó chủ thể QL tác động đến khách thể QL được gọi là chức năng QL. Có 4 chức năng QL cơ bản đó là: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra [24, tr.68]. Tất cả các chức năng QL này lập thành một chu trình QL và đều cần đến yếu tố thông tin. Chu trình QL được thể hiện ở sơ đồ 1.2: Kế hoạch hóa Kiểm tra Tổ chức Thông tin Chỉ đạo Sơ đồ 1.2: Chu trình quản lý 1.3.2- Quản lý giáo dục 1.3.2.1- Khái niệm quản lý giáo dục Chúng ta biết rằng về bản chất, GD là quá trình truyền thụ và tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử, văn hóa, xã hội của các thế hệ loài người. Do đó QLGD được hình thành là một tất yếu khách quan. Cũng giống như khái niệm QL, có những quan niệm khác nhau về khái niệm “QLGD”. QLGD một đối tượng có quy mô lớn nhất, bao quát toàn bộ hệ thống, đó là cấp QL vĩ mô. Nhưng trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống con, tương ứng với hệ thống con này là cấp QL vi mô. [18, tr.35] Đối với cấp vĩ mô: - QLGD được hiểu là những tác động tự giác có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của chủ thể QL đến tất cả các mắt xích của hệ thống, từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà trường, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển GD, ĐT thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2