Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang
lượt xem 12
download
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang tập trung tìm hiểu về thực trạng và đưa ra giải pháp phát triển công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________ Nguyễn Quốc Khanh THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÒNG CHỐNG MA TÚY CỦA HIỆU TRƯỞNG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH AN GIANG Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VÕ THỊ BÍCH HẠNH Thành phố Hồ Chí Minh- 2010
- LỜI CÁM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến : - Lãnh đạo nhà trường, Phòng Khoa học công nghệ- Sau đại học, Khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh; - Tập thể quí Thầy cô giảng dạy khoá 18 (2007 - 2010) ngành Quản lý Giáo dục tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; - Ban Giám đốc, Lãnh đạo và Chuyên viên Phòng Giáo dục Trung học, Phòng Tổ Chức cán bộ - Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang đã tạo mọi điều kiện cho tôi cả về thời gian, tinh thần, vật chất trong suốt 3 năm qua. - Ban chỉ đạo phòng chống AIDS, phòng chống ma túy, mại dâm và tệ nạn xã hội tỉnh An Giang; Cục thống kê tỉnh An Giang; Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội- Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang; Thư Viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh;Thư viện tỉnh An Giang - Đặc biệt là TS. Võ Thị Bích Hạnh, giảng viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh - người đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Trân trọng biết ơn ! Tác giả luận văn Nguyễn Quốc Khanh
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trên thế giới. Cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới đã có những tác động tích cực tới đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường đã bộc bộ và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xã hội, một trong những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập và giao lưu thế giới là sự du nhập nhanh chóng các hiện tượng lạm dụng và sử dụng chất ma túy. Trường học cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập nói chung và của ma túy nói riêng. Tác động của ma túy tới học đường là mối nguy hiểm tiềm ẩn và gây nên những hậu quả không chỉ đối với bản thân học sinh (HS) bị nghiện mà còn cả với gia đình các em và toàn xã hội. Hiện nay, tình trạng nghiện ma túy và các tội phạm liên quan đến ma túy thật sự là mối đe dọa an ninh, trật tự của toàn xã hội. Tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa của xã hội, là nỗi lo lắng của mỗi gia đình, là nguy cơ đe dọa sự bền vững của đất nước và của dân tộc ta. Theo đánh giá tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị 06-CT/TW về phòng, chống và kiểm soát ma túy trong toàn quốc thì tình trạng nghiện ma túy trong HS-SV bị đẩy lùi nhưng chưa cơ bản, chưa vững chắc. Nguy cơ ma túy tái xâm nhập vào nhà trường vẫn còn rất lớn, nếu chúng ta buông lỏng hoặc lơ là thì tình hình sẽ tái diễn phức tạp. Nhất là hiện nay, ma túy tổng hợp đang xâm nhập vào nước ta mà HS-SV và thanh thiếu niên lại dễ tiếp cận lạm dụng loại ma túy này. Trong khi đó, một số trường học vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức, chưa kiên trì, thường xuyên và liên tục, thiếu các biện pháp kiên quyết trong việc giáo dục HS-SV phòng chống ma túy (PCMT). Đặc điểm tâm lý của thanh thiếu niên và HS là người đang trưởng thành, hiếu kỳ, dễ bị dụ dỗ hay kích động, luôn thể hiện ta là người lớn, suy nghĩ và hành động một cách bộc phát. Do vậy bọn tội phạm lợi dụng tâm lý này đã tìm cách dụ dỗ, lôi kéo, kích động thậm chí hăm dọa, khống chế các em vào con đường sử dụng ma túy. Hoạt động giáo dục PCMT có một vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay. Nó nhằm giáo dục HS những hiểu biết về tệ nạn ma túy, biết cách giữ mình không bị ảnh hưởng của ma túy và tham gia đấu tranh với tệ nạn này ở trong nhà trường cũng như ngoài xã hội. Để thực hiện điều đó, Hiệu trưởng nhà trường cần phải có những biện pháp quản lý việc giáo dục PCMT trong trường học một cách có hiệu quả hơn. An Giang là tỉnh ở phía tây nam bộ, có đường biên giới dài hơn 104 km giáp với Vương quốc Campuchia, có đường giao thông nối với thủ đô Phnôm Pênh, có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (huyện Tịnh Biên) và Khánh Bình (huyện An Phú) giáp với 02 tỉnh Kan - Đan và Tà- Keo của Campuchia là
- nơi có đông người dân của 02 nước qua lại làm ăn, buôn bán. Lợi dụng đặc điểm địa lý trên, bọn tội phạm ma túy xâm nhập vào tỉnh An Giang sau đó lan tỏa đi các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long và lên thành phố Hồ chí Minh. Công tác giáo dục PCMT trong trường học là một đòi hỏi quan trọng và cấp bách, là trách nhiệm của tất cả mọi người, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục. Là chuyên viên phụ trách công tác hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) tại Sở Giáo dục và Đào tạo, tôi xác định chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục phòng chống ma túy của Hiệu trưởng các trường trung học phổ thông tỉnh An Giang” với hy vọng đóng góp một phần nhỏ những biện pháp của mình vào công tác PCMT trong các trường học tại tỉnh An Giang. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng một số trường trung học phổ thông (THPT), tìm ra nguyên nhân và đề xuất một số biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tại tỉnh An Giang. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động giáo dục ở các trường THPT tỉnh An Giang. 3.2- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh An Giang. 4. Giả thuyết khoa học 4.1- Trong những năm qua, công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh An Giang đã đạt được một số kết quả. Song, thực tế công tác này còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế nhất định. 4.2- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác quản lý của Hiệu trưởng ở các trường THPT, trong đó phải kể đến những nguyên nhân chủ yếu là: chỉ đạo việc tuyên truyền nhận thức về tác hại của ma túy cho học sinh THPT còn quá ít thời gian; chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường trong tham gia hoạt động giáo dục PCMT; Hiệu trưởng các trường THPT đôi lúc còn chủ quan trong việc chỉ đạo, kiểm tra đánh giá thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục PCMT trong nhà trường. 4.3- Cho nên, cần có những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục PCMT hợp lý nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên.
- 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT. 5.2. Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT ở một số trường THPT tỉnh An Giang. 5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT ở các trường THPT tỉnh An Giang. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1- Phương pháp nghiên cứu lý luận : Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các loại tài liệu, sách báo, tạp chí, các đề tài khoa học, các văn bản pháp quy, các báo cáo kinh nghiệm … về lĩnh vực ma túy và PCMT làm cơ sở lý luận của đề tài. Xử lý thông tin nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 6.2- Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến : đây là phương pháp chủ yếu dùng cho HS, GV và CBQL giáo dục cấp THPT. Đối với học sinh: Nhằm hiểu rõ nhận thức, những hiểu biết của HS về ma túy và tác hại của ma túy; những hoạt động mà nhà trường đã thực hiện để giáo dục học sinh PCMT. Đối với CBQL và GV: Nhằm khảo sát thái độ của CBQL, GV đối với công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT, những hoạt động mà nhà trường đã thực hiện để giáo dục PCMT. Khảo sát nhiệm vụ quản lý của Hiệu trưởng và các biện pháp mà Hiệu trưởng đã thực hiện trong việc quản lý giáo dục PCMT tại đơn vị. 6.3- Các phương pháp bổ trợ Dùng phương pháp trao đổi, phỏng vấn : nhằm thu thập những thông tin đáng tin cậy từ CBQL, GV- những người trực tiếp thực hiện công tác PCMT . 6.4- Phương pháp sử dụng thống kê toán học để xử lý, phân tích các số liệu thu thập được nhằm định lượng kết quả nghiên cứu. 7. Giới hạn của đề tài Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh An Giang (11 trường THPT tiêu biểu của 11 huyện, thị (TP) trong tỉnh An Giang chia theo khu vực địa bàn TP, TX, (tt); địa bàn nông thôn và biên giới).
- Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1- Hoạt động PCMT ở một số nước trên thế giới Từ rất lâu, người ta sử dụng ma túy như một phương tiện để chữa bệnh, cho nên việc PCMT ít được quan tâm. Công tác PCMT chỉ được các nước trên thế giới quan tâm khi họ nhận thấy rõ bản chất của chúng. Hiện nay, vấn đề ma túy không còn hạn chế bởi quốc gia nào mà đã trở thành hiểm họa trên phạm vi toàn thế giới. Cho nên, “chống ma túy” đã trở thành nhiệm vụ chung của tất cả các nước. Chúng ta có thể điểm qua vài nét về lịch sử vấn đề này. [16] 1.1.1.1. Các nước Châu Á Ở Thái Lan, Luật PCMT đã có từ cuối những năm 1950. Ủy ban bài trừ ma túy của phủ thủ tướng được thành lập từ cuối những năm 1960. Năm 1982, nhà nước lại thành lập ủy ban đặc biệt trấn áp hoạt động buôn bán ma túy ở biên giới Thái-Miến (Thái Lan-Myanma). Trong những năm gần đây, việc lạm dụng ma túy ở Thái Lan đã đến mức báo động, đặc biệt trong HS, SV. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình “Trường học trắng” trong trường phổ thông nhằm đưa nhà trường và xã hội xích lại gần nhau hơn. [32] Các nước Myanmar, Malaixia, Singapore, Brunay, Indonesia, Philippine đều có luật PCMT và cơ quan chuyên trách PCMT. Nhìn chung luật pháp các nước đều có hình phạt nặng đối với những kẻ buôn bán hoặc tàng trữ ma túy phi pháp. Trong pháp lệnh chống ma túy đều có án tử hình. Malaixia, Singapore triển khai công tác giáo dục PCMT thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thành lập đội thiếu niên tuyên truyền PCMT trong và ngoài nhà trường; tập huấn cán bộ chuyên môn giảng dạy, biên soạn tài liệu về vấn đề ma túy và phụ trách công tác PCMT trong nhà trường; tăng cường lồng ghép các nội dung về ma túy và tác hại của ma túy trong các môn học có liên quan để nâng cao ý thức PCMT trong học sinh.[15, Tr.10] 1.1.1.2. Các nước Châu Mỹ Mỹ là nước tiêu thụ ma túy lớn nhất thế giới, vấn đề ma túy nghiêm trọng hơn bất cứ quốc gia nào. Luật chống ma túy Liên bang sớm nhất nước Mỹ là “ pháp lệnh Halition” năm 1914. Năm 1930 chính phủ liên bang thành lập cục chống ma túy trong Bộ Tài chính, tiến hành quản lý chất ma túy, heroine, cocaine đang lạm dụng lúc đó. Năm 1937, Chính phủ liên bang thông qua “ Pháp lệnh thu thuế đại ma” hạn chế mở rộng đại ma. Năm 1986, Quốc hội Mỹ thông qua “ pháp lệnh chống lạm dụng ma túy”, lần đầu tiên đưa ra về mặt pháp luật một cách toàn diện đối với vấn đề lạm dụng ma túy và vấn đề buôn lậu ma túy. Năm 1986, nhà trường ở nước Mỹ phải là nhà trường không có ma túy. [16, Tr.157]
- Các nước Trung và Nam Mỹ đều có luật chuyên về chống ma túy và áp dụng luật hình sự để trừng trị các loại hoạt động tội phạm vi phạm pháp lệnh cấm ma túy. Những năm 1970 đến nay, luật cấm ma túy là một loại luật pháp chủ yếu được coi trọng ở các nước, phần lớn các nước đều có cơ quan chấp pháp chống ma túy.[16, Tr.158] Nhìn chung, các nước Trung và Nam Mỹ rất coi trọng công tác giáo dục PCMT. Từ năm 1990, Bộ Giáo dục Pêru bắt đầu triển khai hoạt động chống lạm dụng ma túy trong HS, yêu cầu phụ huynh HS và GV tích cực phối hợp thực hiện công tác này. Braxin tiến hành tuyên truyền PCMT, thông qua nhà trường yêu cầu HS hiểu rõ tác hại của ma túy và tránh xa ma túy. Ở một số nước vùng Nam Mỹ hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng đều có chương trình tuyên truyền PCMT.[15, Tr.9] 1.1.1.3. Các nước Châu Âu [16] Năm 1975, Ý đã ban bố pháp lệnh về vấn đề ma túy. Tháng 6 năm 1990, Quốc hội thông qua Luật chống ma túy và thành lập “Cục chống ma túy Trung ương”. Các nước Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Đức ...đều có pháp luật và cơ quan phụ trách vấn đề PCMT từ những năm 80. 1.1.1.4. Các nước Châu Đại Dương [16, Tr.166] Năm 1987, Australia thực hiện luật PCMT, cho phép tịch thu tài sản những kẻ buôn bán ma túy, yêu cầu các cơ quan tài chính phải báo cáo tình hình giao dịch tiền tệ của tội phạm ma túy. Đầu những năm 1970, New Zealand thành lập cục tình báo ma túy để thu thập và phân tích tình hình tội phạm ma túy nhằm thực hiện công tác PCMT. Đến đầu những năm 1990, thành lập tổ công tác cấp Bộ chuyên đánh vào hoạt động buôn bán ma túy và điều hòa chống ma túy của các ngành có liên quan Chính phủ. 1.1.1.5. Các nước Châu Phi Ai Cập là nước rất tích cực và nghiêm minh trong công tác phòng chống tội phạm ma túy. Luật pháp về ma túy có quy định, những kẻ chế biến chất ma túy phi pháp với mục đích buôn bán phải chịu tội tử hình và phạt tiền tùy tính chất, những kẻ buôn lậu ma túy sẽ bị nghiêm trị, nhẹ thì vào tù, nặng thì xử tử hình. [16, Tr.167] Trong các nước Châu Phi, Ai Cập là nước có nét đặc sắc riêng về công tác giáo dục PCMT. Chính phủ đã phát động phong trào đài truyền hình tham gia PCMT nhằm vào đặc điểm yêu thích xem truyền hình của thanh thiếu nhi [15, Tr.11] Các nước khác như: Nigieria, Kênia, Nam Phi... đã và đang phải đối mặt với vấn đề ma túy ngày càng nghiêm trọng. Các quốc gia này cũng đã có luật pháp và cơ quan làm nhiệm vụ bày trừ ma túy.[16]
- 1.1.2- Hoạt động phòng chống ma túy ở Việt Nam Vào năm Cảnh Trị thứ ba (1665) Nhà nước Phong kiến Việt Nam đã ban hành đạo luật đầu tiên về “Cấm trồng cây thuốc phiện”. Đạo luật này nêu rõ: “ Con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dật, trộm cướp dùng nó để nhòm ngó nhà người ta. Trong thì kinh thành, ngoài thì thôn xóm, vì nó mà có khi hỏa hoạn, khánh kiệt tài sản. Vì nó mà thân thể tàn tạ, người chẳng ra người”. Đạo luật này còn quy định: “Từ nay về sau quan lại và dân chúng không được trồng hoặc mua bán thuốc phiện. Ai đã trồng thì phải phá đi, người nào chứa giữ thì phải hủy đi”. [30, Tr.470] Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) có quy định thêm những hình phạt cụ thể đối với tội phạm ma túy: gieo trồng, tàng trữ, buôn bán và nghiện hút thuốc phiện. Năm Tự Đức thứ ba (1840), quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm ma túy nghiêm trọng và chú trọng biện pháp điều trị cho người nghiện hút thuốc phiện. Đặc biệt là vấn đề khen thưởng hậu hỉ cho những người có công phát hiện hoặc tố giác đúng tội phạm ma túy. Trong thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp (1858- 1954), công tác PCMT không được chú trọng. Các cấp chính quyền bấy giờ không hề quan tâm đến việc phòng chống thuốc phiện, tình trạng gieo trồng, tàng trữ, buôn bán và nghiện hút thuốc phiện ở nước ta lại phát triển. Chính vì vậy, tệ nạn nghiện hút thuốc phiện làm cho nhiều gia đình tan nát, nhiều người rơi vào hoàn cảnh túng quẩn, sức khoẻ bị hủy hoại, trí tuệ cạn kiệt... [15, Tr14] Sau thành công của Cách mạng tháng Tám (1945), mặc dù chính quyền cách mạng còn non trẻ song vấn đề đấu tranh với tệ nạn thuốc phiện đã được Chính phủ rất quan tâm: Chính phủ đã cấm việc trồng trọt, buôn bán và sử dụng thuốc phiện ngoài danh mục y tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị rõ ràng trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước:“Cuối cùng tôi đề nghị cấm hút thuốc phiện”. Nghị định số 150/TTg của Chính phủ ban hành ngày 12/3/1952 ấn định chế độ tạm thời về thuốc phiện; Ngày 22/12/1952, Chính phủ lại ban hành Nghị định mới số 225/TTg sửa đổi lại Nghị định 150/TTg. Nhìn chung, đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh chống thuốc phiện nói chung.[36] Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, ở miền Bắc XHCN, tệ nạn trồng, hút thuốc phiện đã căn bản xóa bỏ được. Trong khi đó, ở Miền nam thời Mỹ- Ngụy, nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy rất phát triển ở Sài gòn, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Cần Thơ ... Sau ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (năm 1975) Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương bài trừ nạn trồng trọt, chế biến, sử dụng các chất ma túy. Cuộc đấu tranh chống nạn ma túy đã đạt được nhiều kết quả từ năm 1975- 1984. Nhưng từ giữa thập kỷ 80, do việc buông lỏng quản lý
- của Nhà nước và gia đình nên tệ nạn ma túy có cơ hội phát triển. Vì thế, để kịp thời ngăn chặn tệ nạn này ngày 08/4/1991, Chính phủ ra Nghị quyết số 99/CT về việc vận động nhân dân không trồng cây anh túc.[16] Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản để chỉ đạo công tác PCMT, cụ thể như: Chỉ thị số 33/CT-TW ngày 01/3/1994 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “ Phòng chống, khắc phục có hiệu quả các tệ nạn xã hội, trước hết là nạn mại dâm, nghiện ma túy, là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Đảng và Nhà nước ta phải kiên quyết lãnh đạo thực hiện để có bước tiến bộ rõ rệt ngay từ năm 1994”. Chỉ thị 06-CT/TW ngày 30/11/1996 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma túy đã yêu cầu: “Các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng chống và kiểm soát ma túy, phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng sử dụng ma túy trong nhân dân...” Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng đã nêu: “Phòng chống đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy. Thực hiện cơ chế, giải pháp đồng bộ về tuyên truyền, giáo dục, chữa trị, đào tạo nghề, tạo việc làm. Xử lý nghiêm theo pháp luật những hành động gây tệ nạn xã hội” Quốc hội ban hành Luật số 04/1997/QH9 “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự”, trong đó đã quy định 13 tội phạm về ma túy. Tháng 10/1999 Quốc hội đã ban hành Bộ luật hình sự thay thế Luật sửa đổi và bổ sung Bộ luật hình sự quy định các tội phạm về ma túy thành một chương riêng gồm 10 tội và tại kỳ họp lần thứ 8 Quốc hội khóa X, Luật phòng chống ma túy được thông qua ngày 09/12/2000 gồm 08 chương, 56 điều. 1.1.3. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Với đề tài nghiên cứu “Biện pháp giáo dục phòng chống ma túy ở một số trường trung học phổ thông tỉnh Lai Châu” (2003), tác giả Nguyễn Mạnh Chủ đã tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng nhận thức và những vấn đề vi phạm ma túy của HS trường THPT trên địa bàn tỉnh Lai Châu, trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất một số biện pháp giáo dục PCMT học đường có tính khả thi trong tình hình hiện nay. Tác giả Dương Thị Kim Oanh cũng đã xác định được thực trạng nhận thức của học sinh THPT về vấn đề ma túy và chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn nghiện ma túy trong HS trường THPT, qua kết quả nghiên cứu của đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nhận thức về ma túy và nguyên nhân dẫn tới tệ nạn nghiện ma túy của học sinh trung học phổ thông” (1998)
- Với nội dung nghiên cứu của đề tài “Một số giải pháp quản lý của Hiệu trưởng ngăn chặn tệ nạn ma túy xâm nhập vào các trường học trung học phổ thông ở Tây Ninh. Thực trạng hướng đến sự hoàn thiện nó trong thời gian tới”. (2002), tác giả Trần Úc Châu đã giúp cho chúng ta hiểu được thực trạng công tác quản lý của Hiệu trưởng nhằm ngăn chặn tệ nạn ma túy xâm nhập vào trường THPT và tìm ra nguyên nhân, đề xuất các biện pháp quản lý có tính khả thi giúp người quản lý đạt hiệu quả cao trong hoạt động PCMT xâm nhập vào trường học, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình hành động PCMT giai đoạn 2001-2005 của Chính phủ. Trong tạp chí “phòng chống ma túy” của Ủy ban quốc gia PCMT xuất bản do Đại tá Bùi Xuân Biên, Trung tá-PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm biên tập được phát hành hàng tháng. Các tác giả đã nêu lên nhiều vấn đề có liên quan đến ma túy. Nó cần thiết và bổ ích cho công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT trong các nhà trường hiện nay. Ngoài ra, còn có nhiều khóa luận, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này. Hầu hết các công trình tập trung nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của vấn đề ma túy. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn tỉnh An Giang, trong phạm vi các trường THPT, chưa có đề tài nào nghiên cứu về công tác quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trưởng. Vì vậy, trong đề tài này, chúng tôi khảo sát thực trạng một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục PCMT của Hiệu trường ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh An Giang. 1.2. Lý luận về hoạt động giáo dục PCMT ở trường THPT 1.2.1. Khái niệm ma túy Trong Từ điển tiếng Việt, “ ma túy” mới được đề cập trong thời gian gần đây song vấn đề nhận thức về thuật ngữ ma túy hiện nay tồn tại nhiều khái niệm khác nhau: Ma túy, theo gốc Hán- Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Thuật ngữ chất ma túy (gốc Hy lạp: Narcotikos) ban đầu được dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê, ngày nay dùng để chỉ tất cả các hợp chất tự nhiên và tổng hợp có khả năng gây nên bệnh nghiện. Theo cách hiểu này thì các chất ma túy được định nghĩa là “Các chất ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ gây tác dụng làm thay đổi trạng thái, ý thức, trí tuệ, tâm trạng của người đó. Nếu dùng lặp lại nhiều lần sẽ làm cho người dùng bị lệ thuộc vào nó, lúc đó gây tổn thương và nguy hại cho cá nhân và cộng đồng”. [10, Tr.7] Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm ma túy rất đơn giản: Ma túy là các chất kích thích lấy từ cây cần sa, dùng nhiều thành nghiện [7]. Theo giải thích của từ điển thì khái niệm ma túy được hiểu đơn thuần chỉ là chất gây nghiện được lấy từ cây cần sa. Giải thích này chưa đầy đủ vì ngoài cần sa ra
- còn nhiều loại cây khác hoặc các chất khác, các hợp chất khác có khả năng gây nghiện và đều được coi là ma túy. [14, Tr.10] Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 1982 thì ma túy được hiểu theo nghĩa rộng, là mọi thực thể hóa học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó làm biến đổi chức năng sinh học hoặc tâm lý học loại trừ thực phẩm, nước và ô xy đều được gọi là ma túy. [14, Tr.9] Theo chương trình kiểm soát ma túy quốc tế của Liên hợp quốc (UNDCP) năm 1991 thì: Ma túy là những chất độc, có tính gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Khi xâm nhập vào cơ thể con người có tác dụng thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào chúng, gây nên những tổn thương cho cá nhân người sử dụng và cả cộng đồng.[14, Tr.10] Theo định nghĩa trong Luật PCMT được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 12 năm 2000 tại kỳ họp thứ 8 khóa X : “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. [10, Tr.7-8] Tóm lại: Ma túy được hiểu đó là những chất độc nguy hiểm, có khả năng gây nghiện cao, có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và làm cho người sử dụng lệ thuộc vào chúng, gây tác hại xấu cho sức khoẻ người sử dụng và ảnh hướng xấu đến đời sống cộng đồng. 1.2.2. Tình hình ma túy và nguyên nhân của nghiện ma túy 1.2.2.1. Tình hình ma túy [26] Trên thế giới, nạn buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng ma túy đang là “cơn lốc” dữ dội, đã và đang là hiểm họa của nhiều nước. Theo số liệu mới nhất của chương trình kiểm soát ma túy Liên hiệp quốc (UNDCP), hiện nay trên thế giới có khoảng 218.2 triệu người đang thường xuyên sử dụng ma túy bất hợp pháp. Buôn bán ma túy là lĩnh vực kinh doanh có lời nhất, chỉ đứng sau buôn bán vũ khí; do đó, các hoạt động phòng chống các tổ chức buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ ma túy là công việc vô cùng khó khăn, tốn kém, thậm chí cả đổ máu. Ma túy thực sự là mối đe dọa an ninh, trật tự của cộng đồng nhân loại toàn thế giới. Hợp tác quốc tế đã trở thành mặt trận chung, là nhu cầu bức xúc của các quốc gia trên thế giới để chống tệ nạn ma túy. Từ ngày 08 đến ngày 10 tháng 6 năm 1998, tại New York (Mỹ) đã diễn ra kỳ họp đặc biệt lần thứ 20 Đại hội đồng Liên hiệp quốc về chống ma túy, nhằm hình thành chiến lược xóa bỏ hoàn toàn tệ nạn ma túy.
- Ở Việt Nam, theo số liệu báo cáo tổng kết công tác PCMT của Ủy ban quốc gia PCMT qua các năm, số người nghiện ma túy cả nước có hồ sơ quản lý như sau: Năm Số người nghiện có hồ sơ quản lý 2005 158.000 người 2006 129.999 người 2007 178.305 người 2008 173.603 người 2009 146.731 người Cuối năm 2009, cả nước có 4.788/11.017 xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy, chiếm tỷ lệ 43,46% tổng số xã phường của cả nước, tỷ lệ này cũng gần bằng so với năm 2004 [1]. Hàng năm, nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng cho công tác PCMT ở Việt Nam, số tiền trên được dùng cho việc chữa trị, cai nghiện, giáo dục nghề, tạo việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội sau chữa trị, cai nghiện cho các đối tượng nghiện ma túy.[33] Cũng theo thống kê, tính đến cuối năm 2009, cả nước có trên 156.800 người nhiễm HIV đang còn sống, trong đó có tới hơn 60% số người nhiễm bệnh qua tiêm chích ma túy; hơn 40% các vụ án do người nghiện ma túy gây ra và 85,5% người nghiện ma túy có tiền án, tiền sự. Đặc biệt nghiêm trọng, ma túy đã lan vào học đường trên qui mô cả nước, đã có một bộ phận HS và cả GV là nạn nhân của tệ nạn ma túy. Theo báo cáo tổng kết công tác phối hợp PCMT trong trường học giai đoạn 2001-2005 của Bộ GDĐT thì số HS, SV có liên quan đến ma túy, cụ thể như sau: [3, Tr.28] Năm Số liệu HS-SV có liên quan đến ma túy 2000 1. 533 người 2001 1.376 người 2002 1.187 người 2003 979 người (trong đó: 503 HS, 177 SV, 299 GV) 2004 600 người 2005 1.234 người (riêng Sơn La có 333 HS, SV và GV) Trong thời gian qua, công tác giáo dục PCMT trong các nhà trường đã được đẩy mạnh, bước đầu số HS và GV nghiện ma túy và liên quan đến ma túy đã giảm nhưng chưa có cơ sở vững chắc và đảm bảo sự ổn định, bền vững. Tệ nạn ma túy không chỉ hủy hoại sức khoẻ, đời sống vật chất và tinh thần của bản thân người nghiện, mà còn gây tác hại nghiệm trọng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế-
- văn hóa- xã hội của mỗi cộng đồng dân cư, mỗi quốc gia và toàn thế giới. Vì vậy, cần phải tổ chức các hoạt động PCMT ở các địa phương, nhất là trong các nhà trường để thực hiện mục tiêu của “ Kế hoạch tổng thể phòng chống ma túy đến năm 2010”: “Nâng cao nhận thức của mọi người trong toàn xã hội về ma túy, tệ nạn ma túy và công tác phòng chống ma túy; ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy để đến 2015 cơ bản thanh toán được tệ nạn ma túy trong cả nước, góp phần phát triển xã hội lành mạnh, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đồng thời tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống ma túy trong khu vực và trên thế giới”. 1.2.2.2. Nguyên nhân nghiện ma túy [15] Hiện nay, trong số người nghiện ma túy thanh thiếu niên chiếm từ 70 đến 80%, có nhiều nguyên nhân dẫn tới nghiện ma túy: Nguyên nhân chủ quan: do bản thân người nghiện ma túy có trình độ dân trí thấp, thiếu kiến thức, thiếu thông tin, không hiểu được những tác hại to lớn của tệ nghiện hút ma túy; lười biếng, thích ăn chơi, sống buông thả, cuộc sống gia đình gặp bế tắc; thiếu bản lĩnh, dễ bị người xấu kích động lôi kéo. Đặc biệt đa số thanh niên sa ngã, nghiện ma túy lúc đầu do bắt chước, không tỉnh táo để phân biệt đúng sai đã vội tiếp xúc và sử dụng ma túy, sau quen dần thành nghiện. Tất cả những loại này thường tìm đến ma túy như một giải pháp để quên đi thực tại trong chốc lát. Khi hết cơn say lại đối mặt với thực tại mà thấy bất lực, lại quay lại với thuốc. Nguyên nhân khách quan: do thói quen và tập quán của địa phương, nơi trồng thuốc phiện, cần sa... mà những người sinh ra và lớn lên ở đó bị ảnh hưởng bởi những tập tục mang tính truyền thống. Do gia đình không thực sự quan tâm đến sự phát triển và thay đổi của con em, những người lớn trong gia đình thiếu gương mẫu, gia đình quá nuông chiều con cái, đặc biệt là gia đình giàu chỉ có hai thế hệ bố mẹ và con cái. Mối quan hệ qua lại giữa gia đình và nhà trường còn lỏng lẻo; thông tin giữa gia đình và nhà trường về tình hình học tập và hoạt động của học sinh chưa được thiết lập hoặc nếu có thì còn rất hạn chế. Ban đại diện CMHS được thành lập tại các trường học nhưng nội dung và hình thức hoạt động chưa đáp ứng kịp yêu cầu phối hợp chặt chẽ để tạo điều kiện chăm sóc, giáo dục và kiểm soát các hoạt động của cá nhân HS. Công tác PCMT chưa được nhà trường và xã hội coi trọng, chưa có biện pháp xử lý triệt để những ổ tiêm chích, nghiện hút ma túy và những hành vi tàng trữ, buôn bán và sử dụng ma túy. Do pháp luật về PCMT chưa đủ chặt chẽ, chưa mạnh và việc thực thi chưa nghiêm nên việc phòng chống và kiểm soát ma túy chưa đạt hiệu quả. Các đoàn thể và các tổ chức xã hội chưa thực sự thu hút thanh niên vào các hoạt động xã hội mang tính hữu ích.
- Mặt khác, tổ chức Đoàn- Đội trong nhà trường chưa thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác PCMT, chưa là nơi để các thành viên trao đổi với nhau những quan điểm về cuộc sống, những ước mơ và hoài bão, về những mối quan tâm thường ngày giúp nâng cao nhận thức và hoàn thiện bản thân. Tổ chức và kỷ luật của Đoàn - Đội ở cơ sở còn lỏng lẻo, sinh hoạt chỉ mang tính hình thức. Các nhà trường thiếu các biện pháp kiên quyết về việc làm trong sạch môi trường trong và ngoài nhà trường, chưa nắm chắc tình hình và đánh giá đúng thực trạng HS nghiên ma túy hoặc có nguy cơ nghiện ma túy để có biện pháp phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia PCMT. 1.2.3. Công tác giáo dục PCMT trong nhà trường 1.2.3.1. Vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục PCMT trong nhà trường [26, Tr.62] Vị trí: Giáo dục PCMT ở nhà trường phổ thông là một trong các hoạt động giáo dục có vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục hình thành và phát triển toàn diện nhân cách thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay. Với đặc điểm tâm lý cùng với sự thiếu kinh nghiệm sống của tuổi mới lớn, học sinh đang là “con mồi” tấn công của tệ nạn ma túy, các em rất dễ bị lôi cuốn vào tệ nghiện hút, buôn bán ma túy. Vì vậy, nhà trường phổ thông có nhiệm vụ kết hợp với gia đình và xã hội tổ chức các hoạt động giáo dục có nội dung PCMT nhằm “miễn dịch” cho HS trước tệ nạn ma túy, để các em trở thành những con người sống có bản lĩnh, luôn nói không với các tệ nạn xã hội nói chung và đặc biệt là tệ nạn ma túy. Vai trò: giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông có tác dụng nâng cao sức đề kháng của HS trước một tệ nạn xã hội đang phát triển, hình thành ở họ một tâm thế đúng đắn trước những vấn đề liên quan tới tệ nạn ma túy. Tổ chức giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông có hiệu quả sẽ góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu chung xã hội không có ma túy. 1.2.3.2. Mục tiêu, nội dung giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông a. Mục tiêu [26, Tr.63] Giáo dục về mặt tri thức: giúp HS có những hiểu biết cần thiết về các chất ma túy, hiểu rõ tính chất nguy hại của tệ nạn ma túy đối với bản thân, gia đình, nòi giống, cộng đồng xã hội và đất nước; hiểu được hiện trạng về tệ nạn ma túy ở địa phương, trong nước và trên thế giới; hiểu được những thủ đoạn lôi kéo, rủ rê các em vào con đường nghiện hút ma túy; hiểu và nắm vững luật pháp Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy. Từ đó, mỗi HS cần hiểu và biết cách phòng chống tệ nạn ma túy với đầy đủ trách nhiệm của mình.
- Giáo dục về mặt thái độ: hình thành ở HS lối sống tích cực, lành mạnh; có thái độ không đồng tình, phản đối lối sống buông thả, tệ nạn hút hít, tiêm chích ma túy đang tồn tại và có chiều hướng gia tăng trong thanh thiếu niên. Hình thành ở học sinh thái độ kiên quyết chống lại những hành vi rủ rê, lôi kéo các em vào tệ nạn ma túy; có thái độ đúng đắn đối với người nghiện ma túy. Giáo dục về kỹ năng, hành vi: giúp HS biết giữ mình, không bị cám dỗ, lôi kéo vào tình trạng nghiện; không hút thuốc lá, uống rượu bia, không hút hít, tiêm chích ma túy; thực hiện tốt các quy định của nhà trường, của nhà nước về PCMT. Tích cực giúp đỡ chính quyền địa phương phát giác, ngăn chặn những hành vi buôn bán ma túy. b. Nội dung giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông [26] Tùy theo đối tượng mà nội dung giáo dục PCMT được ngành giáo dục và nhà trường xây dựng cho phù hợp. Những nội dung cơ bản về giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông gồm: Những kiến thức cơ bản về ma túy: Ma túy là gì ? Nghiện ma túy là gì ? đặc điểm của ma túy, phân loại ma túy. Những kiến thức về hiện tượng nghiện ma túy: tác hại của việc nghiện ma túy, nguyên nhân của nạn nghiện ma túy, nhận biết người nghiện ma túy, cai nghiện ma túy. Luật pháp Việt Nam đối với tội phạm ma túy: Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Bộ luật hình sự, Luật phòng chống ma túy. Hình thành ở HS thái độ và hành vi cần có trước những vấn đề liên quan đến ma túy, xây dựng lối sống lành mạnh. Việc cung cấp kiến thức về PCMT là cần thiết nhưng chưa đủ để xây dựng thái độ và kỹ năng tự bảo vệ cho bản thân khỏi bị lôi cuốn vào tệ nạn ma túy. Vì vậy, nhà trường còn phải áp dụng cách tiếp cận giáo dục kỹ năng sống vào giáo dục PCMT để giúp học sinh không chỉ hiểu biết mà có khả năng tự bảo vệ mình và tích cực tham gia hoạt động PCMT trong nhà trường và ngoài cộng đồng xã hội. Nhà trường nhất thiết phải trang bị cho HS một số kỹ năng “ kỹ năng giao tiếp- tự nhận thức (tự nhận thức và tự đánh giá, lắng nghe tích cực, giao tiếp bằng lời và không bằng lời, sự thông cảm); kỹ năng xác định giá trị (chính kiến, thái độ, niềm tin, lòng tự trọng, tình bạn); kỹ năng ra quyết định (suy nghĩ sáng tạo, suy nghĩ có phê phán cách giải quyết vấn đề...); kỹ năng kiên định (từ chối một cách cương quyết, biết đánh giá đúng mình và người khác, kiên quyết theo đuổi mục tiêu đã đặt ra ...) kỹ năng đặt mục tiêu (xác định mục tiêu ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, các bước đặt mục tiêu..)” 1.2.3.3. Phương pháp tổ chức giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông [26]
- Giáo dục PCMT tích hợp, lồng ghép vào một số môn học trên lớp: thông qua việc tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục PCMT vào nội dung giảng dạy, trước hết là các môn học có liên quan trực tiếp ở trường THPT như: Sinh học, GDCD, Hóa học ... để cung cấp cho HS những hiểu biết về các vấn đề có liên quan đến ma túy, tệ nạn ma túy; việc tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục PCMT vào các môn học, cần đảm bảo những nội dung cơ bản, phù hợp của giáo dục PCMT, đồng thời đảm bảo đặc trưng nội dung và tính hệ thống của các môn học; việc tích hợp được tiến hành một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không gò bó; có thể tiến hành ở các mức độ khác nhau, tùy nội dung kiến thức có trong bài học. Giáo dục PCMT thông qua HĐGDNGLL: hình thức lên lớp nội khóa với các nội dung tích hợp, lồng ghép trong chương trình các môn học nhằm trang bị kiến thức về ma túy, xây dựng thái độ và hành vi ứng xử phù hợp với lứa tuổi HS trong các nhà trường. HĐGDNGLL một mặt củng cố, mở rộng, khắc sâu những hiểu biết đã có; mặt khác, quan trọng hơn là tạo ra sân chơi lành mạnh, cuốn hút các em vào các hoạt động bổ ích, để các em không bị rủ rê vào các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn nghiện ma túy. Các hoạt động cụ thể là: tổ chức các buổi nói chuyện với chủ đề PCMT, tổ chức báo cáo ngoại khóa bộ môn về chủ đề PCMT; thi tìm hiểu về HIV/AIDS, về các tệ nạn xã hội, về PCMT dưới các hình thức bài viết dự thi của cá nhân, hùng biện, kính vạn hoa, tiếp sức đồng đội...; tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ, các hoạt động xã hội, các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ... nhằm thu hút sự tham gia đông đảo của HS vào các hoạt động lành mạnh, bổ ích; tổ chức thi vẽ tranh với chủ đề PCMT; tổ chức truyền thông PCMT, các tệ nạn xã hội vào các đợt cao điểm 26/6 ngày toàn dân PCMT và ngày 1/12 ngày thế giới phòng chống HIV/AIDS; lập hộp thư vì “tương lai bè bạn” để học sinh phát hiện cho nhà trường những bạn có biểu hiện sử dụng ma túy, chất gây nghiện... 1.3. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.3.1. Khái niệm về quản lý Quản lý là hoạt động mang tính xã hội, khoa học, nghệ thuật của chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý, khách thể quản lý một cách hợp quy luật, qua các chức năng quản lý (lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, kiểm tra) trong một hệ thống xác định nhằm làm cho hệ thống vận hành đến mục tiêu quản lý đã định. Theo Đại từ điển Tiếng việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB văn hóa thông tin, 1999; khái niệm quản lý được định nghĩa là: - Tổ chức và điều khiển các hoạt động của một số đơn vị, cơ quan. - Trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì. Theo một số tác giả khác định nghĩa về quản lý:
- Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng : “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý dẫn đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”. [18, Tr. 130] Theo PGS. TS Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”.[12, Tr.29] Theo F.W Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó là hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [8, Tr. 12] Theo Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [11, Tr.29] Tuy các khái niệm nêu trên có khác nhau, nhưng chúng cùng có chung những dấu hiệu chủ yếu sau đây: - Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội. - Hoạt động quản lý là những tác động hướng, có mục tiêu xác định. - Hoạt động quản lý gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt mục đích của nhóm. - Hoạt động quản lý là sự tác động liên tục của chủ thể quản lý tới khách thể và đối tượng quản lý một cách có kế hoạch, có tổ chức, có kiểm tra, đánh giá công việc nhằm đạt được những mục tiêu đã dự kiến. 1.3.2. Khái niệm về quản lý giáo dục Các nhà lý luận về quản lý giáo dục Liên xô (cũ) đã đưa ra một số định nghĩa về khái niệm quản lý giáo dục, theo như M.M.MechtiZeđe đã nêu: “quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương pháp, cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính, ...) nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng” [18, Tr.34] Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã viết: Theo PGS. TS. Đặng Quốc Bảo “ Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phân phối các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ, theo yêu cầu phát triển xã
- hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ. Cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành của hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân”. [34, Tr. 124] Theo PGS. TS. Trần Kiểm “ Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”. [12, Tr. 37- 38] Tác giả Nguyễn Ngọc Quang đã viết: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [18, Tr.35] Như vậy, có thể hiểu: Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý ) lên đối tượng giáo dục và khách thể quản lý giáo dục nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Quản lý giáo dục bao giờ cũng phải được định hướng tới những mục đích, mục tiêu nhất định. Có thể khái quát khái niệm quản lý giáo dục qua sơ đồ sau đây: [13, Tr. 9] SƠ ĐỒ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC CÔNG CỤ CHỦ THỂ ĐỐI TƯỢNG VÀ QUẢN LÝ GD KHÁCH THỂ MỤC QUẢN LÝ GD TIÊU PHƯƠNG PHÁP 1.3.3. Khái niệm quản lý nhà trường [25] Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật của chủ thể quản lý nhà trường, làm cho nhà trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo
- dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động quản lý: (1) tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường, (2) tác động của chủ thể quản lý bên trong nhà trường. Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, giáo dục, học tập của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp với nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng nhân dân, nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó. Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường (Hiệu trưởng) bao gồm các hoạt động: quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học - giáo dục, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học, quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng. Tóm lại, nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục. Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất là hoạt động trung tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp khác trong nhà trường đều hướng vào mục tiêu này. Quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập- tự giáo dục của trò diễn ra trong quá trình dạy học và giáo dục. Có thể nói rằng, quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình dạy học- giáo dục. 1.3.4. Khái niệm về quản lý hoạt động giáo dục PCMT Quản lý hoạt động giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông là hệ thống các tác động có mục đích của Hiệu trưởng tới CB, GV, NV và HS nhằm tổ chức hoạt động giáo dục PCMT đạt được mục tiêu và kế hoạch giáo dục của nhà trường. [26, Tr.67] 1.3.5. Vai trò và nhiệm vụ của Hiệu trưởng trường THPT [35] Vai trò: Hiệu trưởng là người lãnh đạo nhà trường, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường; là nhà sư phạm mẫu mực, nhà giáo dục có tâm hồn, hết lòng yêu mến trẻ; xây dựng mối quan hệ tốt với địa phương, vận động toàn xã hội tham gia sự nghiệp giáo dục; là người lãnh đạo cấp cơ sở trong sự nghiệp giáo dục và là người đi đầu trong phong trào nghiên cứu khoa học giáo dục. Nhiệm vụ: là người tổ chức bộ máy của nhà trường; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học; quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý và tổ chức giáo dục học sinh; quản lý hành
- chánh, tài chính, tài sản trong nhà trường; thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân viên và học sinh. 1.4. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục PCMT Nội dung Hiệu trưởng quản lý hoạt động giáo dục PCMT trong nhà trường phổ thông được trình bày theo cách tiếp cận các chức năng quản lý, nội dung cụ thể như sau: 1.4.1. Kế hoạch hóa hoạt động giáo dục PCMT ở trường THPT Xây dựng kế hoạch là điểm khởi đầu cho một chu trình quản lý khoa học mà người quản lý nào cũng phải thực hiện. Hiệu trưởng quản lý hoạt động giáo dục PCMT cũng phải bắt đầu từ việc xây dựng kế hoạch. Đầu mỗi năm học, Hiệu trưởng chỉ đạo các bộ phận trong nhà trường xây dựng kế hoạch công tác, trong kế hoạch đó có nội dung giáo dục PCMT; đặc biệt là kế hoạch của ban chỉ đạo, kế hoạch tổ nhóm chuyên môn, tổ chủ nhiệm, kế hoạch GVCN, kế hoạch Đoàn- Đội và Công Đoàn. Đối với hoạt động giáo dục PCMT: mục tiêu chung nhất là phấn đấu 100% nhà trường không có ma túy, đây là hoạt động giáo dục được thực hiện thông qua việc tích hợp, lồng ghép vào một số môn học trên lớp và thông qua các HĐGDNGLL khác. Vì vậy, kế hoạch hoạt động giáo dục PCMT cũng phải được tích hợp vào kế hoạch của các tổ nhóm bộ môn và tích hợp vào HĐGDNGLL. Kế hoạch giáo dục PCMT được xây dựng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường, đáp ứng được nhiệm vụ trọng tâm của năm học và nhiệm vụ chính trị của địa phương, dựa trên cơ sở kế hoạch năm học chung của nhà trường, trong sự phối hợp với kế hoạch của các bộ phận khác trong nhà trường. Việc xây dựng kế hoạch giúp Hiệu trưởng có cái nhìn bao quát về hoạt động diễn ra trong một năm học, từ đó có sự phối hợp nguồn lực một cách hợp lý cho hoạt động, mặt khác đảm bảo tính ổn định tương đối, tính hệ thống và tính có mục đích của hoạt động, loại trừ lộn xộn, tùy tiện trong tổ chức hoạt động. [26] 1.4.2. Tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch hoạt động giáo dục PCMT Tổ chức hoặc củng cố BCĐ các hoạt động giáo dục trong nhà trường, ban này được tổ chức và hoạt động theo thông tư số 32 của Bộ GDĐT và Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Theo thông tư này, nhiệm vụ cơ bản của BCĐ là giúp Hiệu trưởng quản lý các hoạt động giáo dục, trong đó có hoạt động giáo dục PCMT. Tổ chức các lực lượng giáo dục bên trong nhà trường, trước hết là việc xây dựng quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, tổ chủ nhiệm, tổ chuyên môn, Đoàn TNCS HCM trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho học sinh. Làm tốt công tác phối hợp với các lực lượng ngoài xã hội để hỗ trợ tổ chức các hoạt động giáo dục bởi vì các hoạt động giáo dục với đặc thù đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức hoạt
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 703 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương
145 p | 294 | 67
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 454 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 350 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 339 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
164 p | 368 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 175 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 47 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục trên địa bàn huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương
70 p | 129 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn