Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
lượt xem 13
download
Mục tiêu của đề tài là đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGÔ VĂN GIANG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 60 31 01 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phí Mạnh Hồng Hà Nội -2007
- MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN SHTT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 8 1.1. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền SHTT 8 1.1.1. Khái niệm quyền SHTT 8 1.1.2. Nhu cầu khách quan của việc bảo hộ quyền SHTT 12 1.1.3. Đặc tính kinh tế của quyền SHTT 14 1.2. Quyền SHTT trong nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế 15 1.2.1. Ảnh hưởng của quyền SHTT đến hoạt động thương mại 15 1.2.2. Ảnh hưởng của quyền SHTT đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ 16 1.2.3. Quyền SHTT và phát triển kinh tế 18 1.2.4. Quyền SHTT và thu nhập 19 1.2.5. Quyền SHTT và phát triển văn hoá 20 1.2.6. Quyền SHTT và toàn cầu hoá 21 1.3. Bảo hộ quyền SHTT theo các công ƣớc quốc tế và Hiệp định TRIPs 22 1.3.1. Bảo hộ quyền SHTT theo các công ước quốc tế 22 1.3.2. Bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs 24 1.3.2.1. Bối cảnh ra đời của Hiệp định TRIPs 24 1.3.2.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định TRIPs 26 1.3. Những cơ hội và thách thức đối với các nƣớc đang phát triển liên quan đến bảo hộ quyền SHTT trong quá trình hội nhập kinh tế 31 quốc tế i
- CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SHTT Ở VIỆT NAM 38 2.1. Chủ trƣơng, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc về bảo hộ quyền SHTT 38 2.1.1. Chính sách, pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn bảo hộ và trình tự, thủ tục xác lập quyền SHTT 39 2.1.2. Chính sách, pháp luật liên quan đến thực thi quyền SHTT 43 2.2. Tình hình thực thi bảo hộ quyền SHTT 46 2.2.1. Đăng ký xác lập quyền SHTT 46 2.2.1.1. Đối với quyền sở hữu công nghiệp 46 2.2.1.2. Đối với quyền tác giả 52 2.2.2. Tình xâm phạm quyền SHTT 53 2.2.3. Tình hình xử lý xâm phạm quyền SHTT 59 2.3. Đánh giá khái quát về thực hiện bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam 62 2.3.1. Những bất cập 62 2.3.1.1. Về nội dung chính sách, quy định pháp luật 62 2.3.1.2. Về hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật 65 2.3.2. Những vấn đề đặt ra 73 CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VỀ BẢO HỘ QUYỀN SHTT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 78 3.1. Quan điểm 78 3.1.1. Bảo hộ quyền SHTT cần được thắt chặt theo hướng đáp ứng các 78 tiêu chuẩn quốc tế, cụ thể là Hiệp định TRIPs 3.1.2. Đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp 79 luật về bảo hộ quyền SHTT 3.1.3. Thắt chặt bảo hộ quyền SHTT đi đôi với việc thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm tạo dễ dàng cho việc tận dụng có hiệu quả những cơ hội và lợi ích được tạo ra từ bảo hộ quyền SHTT 80 ii
- 3.1.4. Gắn vấn đề bảo hộ quyền SHTT với việc bảo vệ lợi ích quốc gia, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 82 3.2. Các giải pháp 83 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền SHTT theo hướng tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPs 83 3.2.2. Tăng cường hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền SHTT 85 3.2.2.1. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo hộ quyền SHTT 86 3.2.2.2. Đổi mới và nâng cao năng lực của các cơ quan đảm bảo thực thi bảo hộ quyền SHTT 89 3.2.2.3. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền SHTT 91 3.2.3. Khai thác các quy định mềm dẻo và ngoại lệ của Hiệp định TRIPs phục vụ các mục tiêu phát triển 92 KẾT LUẬN 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO 100 iii
- MỤC LỤC CÁC HỘP Trang Hộp 1.1. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp 10 Hộp 1.2. Một số công ước tiêu biểu về SHTT 22 Hộp 2.1. Tình hình sử dụng bất hợp pháp phần mềm máy tính 55 Hộp 2.2. Yếu kém của hệ thống các quy định pháp luật về SHTT 69 Hộp 2.3. Sự thiếu hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật về bảo hộ quyền SHTT 70 v
- MỤC LỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Đăng ký sáng chế giai đoạn 1995-2005 47 Bảng 2.2. Đăng ký giải pháp hữu ích giai đoạn 1995-2005 48 Bảng 2.3. Đăng ký kiểu dáng công nghiệp giai đoạn 1995-2005 50 Bảng 2.4. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá giai đoạn 1995-2005 51 Bảng 2.5. Số giấy chứng nhận bản quyền được cấp trong một số năm 53 Bảng 2.6. Tỷ lệ sử dụng phần mềm bất hợp pháp tại một số nước châu Á- Thái Bình Dương năm 2003-2004 55 Bảng 2.7. Khiếu nại về việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 59 Bảng 2.8. Đăng ký xác lập quyền SHTT giai đoạn 1995-2005 66 iv
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Tên viết tắt Tên đầy đủ SHTT Sở hữu trí tuệ TRIPs Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại WTO Tổ chức Thương mại Thế giới FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài WIPO Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới NT Đối xử quốc gia MFN Đối xử tối huệ quốc PATENT Bằng sáng chế DSB Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (thuộc Tổ chức Thương mại Thế giới) vi
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu của Đề tài Có thể nói lịch sử phát triển của nhân loại là lịch sử phát triển của tri thức; nền văn minh ngày nay là thành quả của quá trình tích luỹ và kế thừa tri thức qua các thời đại. Ngày nay, các quốc gia trên thế giới càng ngày càng ý thức được giá trị và tầm quan trọng của các sản phẩm do trí tuệ con người tạo ra, vì vậy đã không ngừng nỗ lực khuyến khích các hoạt động sáng tạo và bảo vệ thành quả của nó bằng nhiều biện pháp. Bảo hộ quyền SHTT có hiệu quả không chỉ bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ sở hữu nhằm thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản xuất, kinh doanh, mà còn góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn xã hội. Đối với mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế, bảo hộ quyền SHTT không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển nội tại, mà còn phải tuân thủ các chuẩn mực nêu trong các điều ước quốc tế về SHTT mà quốc gia ấy tham gia. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và hướng tới kinh tế tri thức. Vấn đề bảo hộ quyền SHTT được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội ngày càng quan tâm. Bảo hộ quyền SHTT được coi là một nội dung quan trọng của chính sách đổi mới, mở cửa, phát triển kinh tế tri thức và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Xem xét bối cảnh của Việt Nam hiện nay, có thể nhận thấy nổi lên một số vấn đề đáng chú ý sau đây: - Thứ nhất, qua 20 năm đổi mới, hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Trên thực tế, tuy bảo hộ quyền SHTT đã được thắt chặt hơn, song vẫn còn rất lỏng lẻo. Việt Nam hiện bị coi là một trong những quốc gia có mức độ xâm phạm quyền SHTT cao trên thế giới. - Thứ hai, Việt Nam đang phát triển mạnh nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, điển hình là việc gia nhập WTO vào tháng 11/2006. Trong khuôn khổ WTO, hệ thống bảo hộ quyền SHTT của 1
- Việt Nam phải tuân thủ các chuẩn mực của Hiệp định về các Khía cạnh của quyền SHTT liên quan đến Thương mại (Hiệp định TRIPs). Rõ ràng đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Trước tình hình đó, có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần phải thắt chặt bảo hộ quyền SHTT thông qua hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật theo hướng phù hợp với Hiệp định TRIPs, tăng cường hiệu lực thực thi bảo hộ quyền SHTT, nâng cao ý thức tôn trọng quyền SHTT trong xã hội... Tuy nhiên, những ý kiến khác lại cho rằng, trong một số năm trước mắt, Việt Nam không nên thắt chặt quá mức bảo hộ quyền SHTT mà chỉ nên duy trì bảo hộ một cách tương đối lỏng lẻo để cho phép người dân và doanh nghiệp có thể khai thác thuận lợi các tài sản trí tuệ phục vụ cho mục tiêu phát triển và vì lợi ích của quốc gia. Điều này đặt ra các câu hỏi là: “Làm thế nào để nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam? Trong bối cảnh hội nhập, làm thế nào để hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam vừa đáp ứng được những chuẩn mực của các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền SHTT, đặc biệt là Hiệp định TRIPs của WTO, kích thích các động lực của kinh tế thị trường, đồng thời vừa đảm bảo lợi ích quốc gia, đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước?” Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Đề tài nghiên cứu “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam” sẽ cố gắng đi tìm câu trả lời ấy. 2. Tình hình nghiên cứu - Nghiên cứu ngoài nước Đối với thế giới, vấn đề bảo hộ quyền SHTT là không mới, đặt biệt ở những nước có nền kinh tế thị trường sớm phát triển thì hệ thống bảo hộ quyền SHTT đã được hình thành từ cách đây hàng trăm năm. Vì vậy, đã có vô số các công trình nghiên cứu, các bài viết của các tác giả nước ngoài đề cập đến vấn đề này. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, khi xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và phát triển kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, đã có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề 2
- bảo hộ quyền SHTT gắn với xu hướng này. Dưới đây là một số luận điểm nghiên cứu tiêu biểu. Siebeck (1990)1, sau khi soát xét một loạt công trình nghiên cứu về bảo hộ quyền SHTT ở các nước đang phát triển, cho rằng việc bảo hộ quyền SHTT đem lại lợi ích cho các nước đang phát triển, nhất là về việc tạo lập vốn, thu hút FDI và thúc đẩy R&D, tuy nhiên rất khó đo lường những lợi ích này. Trong khi đó, việc bảo hộ quyền SHTT lỏng lẻo sẽ làm nản lòng các công ty đa quốc gia trong việc đầu tư và chuyển giao công nghệ vào các nước đang phát triển. Sargant (1999)2 đã chỉ ra sự cần thiết phải có một hệ thống thực thi bảo hộ quyền SHTT vận hành tốt. Ông cho rằng một hệ thống như vậy sẽ khuyến khích các hoạt động sáng tạo, đổi mới khoa học kỹ thuật, khuyến khích các hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ,... qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của các quốc gia. Tiến sỹ Stauder (1998) 3 đã bổ sung thêm các nguyên tắc để thực thi có hiệu quả hệ thống bảo hộ quyền SHTT. Ông cho rằng việc thực thi các quy định pháp luật về bảo hộ quyền SHTT phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản như: rõ ràng, minh bạch, bình đẳng, công bằng, khả thi,...; trên phạm vi quốc tế thì phải đảm bảo các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), đối xử tối huệ quốc (MFN), tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu,... Ông cũng nhấn mạnh rằng, các quốc gia cần phải có các cơ quan thực thi pháp luật hoạt động có hiệu quả để bảo hộ quyền SHTT. Liên quan đến Hiệp định TRIPs, tác giả Geuze (2004) 4 đã chỉ ra 1 Siebeck W. E. (Ed.) (1990), Strengthen Protection of Intellectual Property in Developing Countries, The World Bank, Washington D.C. 2 Sargant G. (1999), Needs of a well-functioning intellectual property enforcement, UK Patent Office, March. 3 Stauder D. (1998), Principles and needs for an effective enforcement system of intellectual property right, Centre d’Etudes Internationales de la Propriété Industrielle, France, March. 4 Matthijs Geuze (2004), The TRIPs Agreement and criteria for effective enforcement, International Intellectual Property Alliance Paper, October. 3
- sáu tiêu chuẩn để thực thi có hiệu quả Hiệp định TRIPs, bao gồm: (1) các thủ tục thực thi cho phép chống lại một cách có hiệu quả các hành vi xâm phạm quyền SHTT; (2) các biện pháp chế tài khẩn cấp để ngăn ngừa các hành vi xâm phạm; (3) các biện pháp chế tài răn đe không để những hành vi xâm phạm tiếp diễn xảy ra; (4) các thủ tục thực thi không quá phức tạp một cách bất hợp lý; (5) các thủ tục thực thi không quá tốn kém một cách bất hợp lý; và (6) giới hạn thời gian không gây chậm trễ quá mức hoặc không quá ngắn một cách bất hợp lý. Tóm lại, các nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến sự cần thiết, các nguyên tắc, các tiêu chuẩn và các biện pháp để thực thi có hiệu quả bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi quốc tế hoặc ở các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam đang ở bối cảnh rất khác biệt (nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi và đang hội nhập). Hơn nữa, các tác giả cũng chưa chỉ ra được những nước đang phát triển cần phải làm gì để có thể khai thác tốt những ngoại lệ của Hiệp định TRIPs để phục vụ các mục tiêu phát triển. Vì vậy, những nghiên cứu trên chỉ có thể được tham khảo ở trong chừng mực nhất định để giải quyết các vấn đề thực tiễn ở Việt Nam. - Nghiên cứu trong nước Đối với Việt Nam, vấn đề bảo hộ quyền SHTT là tương đối mới, thực tế mới nổi lên trong khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây khi các điều kiện kinh tế thị trường của Việt Nam ngày càng phát triển và quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng, trong đó đáng chú ý là quá trình Việt Nam tích cực đàm phán gia nhập WTO. Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu về vấn đề này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuốn sách và các bài viết đề cập đến những khía cạnh khác nhau của bảo hộ quyền SHTT. Trong số đó, phải kể đến hai cuốn sách sau đây: (1) Bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam: những vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS. TS. Lê Hồng Hạnh và ThS. Đinh Thị Mai Phương đồng chủ biên (NXB Chính trị Quốc gia, 2004); và (2) Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về SHTT của TS. LS. Lê Xuân Thảo (NXB Tư pháp, 2005). 4
- Hai cuốn sách này đã nghiên cứu khá sâu về hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam từ giữa những năm 1990 cho đến đầu những năm 2000. Cuốn thứ nhất đã đề cập đến vai trò và vị trí của pháp luật SHTT trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thực trạng bảo hộ SHTT ở Việt Nam và nêu ra những triển vọng, thách thức và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về SHTT. Cuốn thứ hai nghiên cứu sâu về cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam, trong đó tập trung vào các yếu tố như: hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh SHTT và bảo hộ quyền SHTT; quan hệ pháp luật về bảo hộ quyền SHTT; và các hành vi tuân thủ về bảo hộ quyền SHTT và các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Cuốn sách cũng đề ra phương hướng đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ SHTT ở Việt Nam. Tuy hai cuốn sách nêu trên đã nghiên cứu khá sâu về bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam, nhưng mới chủ yếu đề cập đến khía cạnh pháp lý của quyền SHTT mà ít chú ý đến khía cạnh kinh tế. Trong khi đó, bảo hộ quyền SHTT về cơ bản là một vấn đề kinh tế. Hơn nữa, tại thời điểm nghiên cứu của hai cuốn sách, Việt Nam chưa gia nhập WTO nên áp lực thực hiện Hiệp định TRIPs là chưa quá lớn. Vì thế, hai cuốn sách cũng chưa chỉ ra Việt Nam cần phải làm gì để hệ thống bảo hộ quyền SHTT vừa đáp ứng được các chuẩn mực vừa khai thác được các ngoại lệ của TRIPs nhằm phục vụ mục tiêu phát triển. Còn một số vấn đề quan trọng nữa mà hai cuốn sách chưa đề cập tới như: các khía cạnh lý thuyết về quyền SHTT; những thách thức mà các nước đang phát triển phải đối mặt khi thực hiện Hiệp định TRIPs... Đề tài này sẽ nhấn mạnh hơn đến các khía cạnh kinh tế của quyền SHTT và cố gắng bổ sung những vấn đề mới liên quan đến việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 5
- - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của Đề tài là: + Thứ nhất, hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền SHTT trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. + Thứ hai, phân tích thực trạng bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam. + Thứ ba, đề xuất những quan điểm và giải pháp về bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam trong thời gian tới, có nhấn mạnh tới hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu của nền kinh tế Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: + Các đối tượng của quyền SHTT: Đề tài sẽ đề cập đến tất cả các đối tượng, bao gồm: quyền tác giả (bản quyền); quyền sở hữu công nghiệp; và quyền đối với giống cây trồng. + Khía cạnh thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay. + Liên quan đến Hiệp định TRIPs: Đề tài tập trung nghiên cứu một số nội dung và quy định quan trọng đóng vai trò là những “chuẩn mực” mà hệ thống bảo hộ quyền SHTT của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải đáp ứng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện Đề tài, trên nền tảng chung phương pháp biện chứng duy vật, tác giả chú trọng đến các phương pháp truyền thống như phân tích, tổng hợp và so sánh. Ngoài ra, tác giả cũng thực hiện phỏng vấn, tham khảo ý kiến của một số chuyên gia tại các cuộc hội thảo khoa học, từ các bài giảng và trên các phương tiện thông tin đại chúng. 6. Những đóng góp mới của Luận văn - Làm rõ những khía cạnh kinh tế của bảo hộ quyền SHTT và những cơ hội cũng như thách thức đặt ra đối với các nước đang phát triển khi thực hiện các 6
- điều ước quốc tế về bảo hộ quyền SHTT, đặc biệt là Hiệp định TRIPs, trong quá trình hội nhập. - Phân tích và đánh giá thực trạng về bảo hộ quyền SHTT ở nước ta trong những năm vừa qua (về thiết lập tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT, về các hành vi xâm phạm quyền SHTT, về xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT, tác động của bảo hộ quyền SHTT đến phát triển kinh tế - xã hội...). - Chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong việc thực hiện bảo hộ quyền SHTT khi đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của bảo hộ quyền SHTT, trong đó chú ý đến việc khai thác các quy định linh hoạt và các ngoại lệ của Hiệp định TRIPs nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, Đề tài được kết cấu thành ba chương, bao gồm: Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền SHTT trong nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế: Trình bày khái quát sự cần thiết của việc bảo hộ quyền SHTT; Quyền SHTT trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; Những thách thức đối với các nước đang phát triển về bảo hộ quyền SHTT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chƣơng 2. Thực trạng bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam: Phân tích khái quát các chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền SHTT; Tình hình thực thi bảo hộ quyền SHTT; Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong việc bảo hộ quyền SHTT. Chƣơng 3. Quan điểm và giải pháp về bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam trong thời gian tới: Nêu ra những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam, đặc biệt là gắn với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. 7
- CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN SHTT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền SHTT 1.1.1. Khái niệm quyền SHTT Cho đến nay, “quyền SHTT” vẫn còn là một khái niệm pháp lý khá mơ hồ đối với nhiều người, song mức độ sử dụng thuật ngữ này đang ngày càng gia tăng cùng với sự lan tỏa nhanh chóng của các vấn đề liên quan đến quyền SHTT. Diễn giải một cách đơn giản nhất, quyền SHTT là quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ. Với cách hiểu như vậy thì, ở đây, tài sản trí tuệ được coi là yếu tố cơ bản hình thành quyền SHTT. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm “quyền SHTT”, trước tiên cần tìm hiểu khái niệm và các đặc trưng của “tài sản trí tuệ”. Theo khái niệm được thừa nhận rộng khắp, tài sản trí tuệ là những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo thể hiện thành những mẩu thông tin kết hợp chặt chẽ với nhau trong các vật thể hữu hình xuất hiện trong cùng một thời gian với số lượng bản sao không giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới và được thừa nhận là tài sản. Quyền sở hữu trong trường hợp này không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao mà chính là những thông tin chứa đựng trong các bản sao đó5. Khi được thể chế hoá thì những mẩu thông tin này biểu hiện cụ thể thành các đối tượng của quyền SHTT như: tác phẩm văn học nghệ thuật, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, giống cây trồng mới, v.v... Tài sản trí tuệ là loại tài sản đặc biệt, có nhiều thuộc tính đặc thù, và những thuộc tính này ảnh hưởng đến tính chất của quyền SHTT. Một điểm đáng chú ý là 5 Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về SHTT, NXB Tư pháp Hà Nội. 8
- tài sản trí tuệ có tính chất của một hàng hoá công cộng toàn cầu. Nó có tính phi cạnh tranh và phi loại trừ trong sử dụng. Điều này khiến cho quyền SHTT phải được quyết định bởi nhà nước, chứ không phải thị trường, để sửa chữa thất bại của thị trường. Khi tài sản trí tuệ được nhà nước bảo hộ, thì người nắm giữ tài sản đó có một số quyền nhất định đối với tài sản của mình, đó chính là quyền SHTT; và cũng từ đó tài sản trí tuệ mới trở thành một loại tài sản quan trọng có giá trị. Như vậy, quyền SHTT là quyền mà nhà nước dành cho các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu tài sản trí tuệ sự kiểm soát độc quyền trong một thời gian nhất định nhằm ngăn chặn sự khai thác các tài sản này một cách bất hợp pháp. Theo Luật SHTT được thông qua vào tháng 11/2005 của Việt Nam (sau đây được gọi là Luật SHTT 2005), quyền SHTT là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. (1) Quyền tác giả và quyền liên quan - Quyền tác giả: Quyền tác giả (hay còn được gọi là bản quyền) là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi của người sáng tác ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật, và khoa học được thể hiện ở dạng hữu hình6, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Quyền tác giả là quyền duy nhất do chính phủ trao cho tác giả của tác phẩm để ngăn cản việc in sao, sửa đổi, hoặc phân phối tác phẩm, trình diễn hoặc trình bày tác phẩm đó mà không được sự đồng ý của tác giả. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả thông qua hệ thống pháp luật- xác lập quyền của chủ thể (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) đối với đối tượng quyền tác giả tương ứng và bảo vệ quyền đó 6 Cần lưu ý sự bảo hộ chỉ áp dụng đối với sự thể hiện các ý tưởng dưới dạng hữu hình chứ không áp dụng sự bảo hộ đối với chính ý tưởng đó. Thí dụ, khi một tác giả bộc lộ ý tưởng của mình là làm thế nào để chế tạo được một máy thu radio trong một bài báo đăng trên một tạp chí, thì tác giả được hưởng “bản quyền” đối với bài báo đó và như vậy không ai được phép sao chụp bài báo đó mà không được sự đồng ý của tác giả, song tác giả sẽ không có quyền ngăn cản người khác sử dụng ý tưởng đó để tạo ra một chiếc radio như được mô tả trong bài báo của tác giả. 9
- chống lại bất cứ sự xâm phạm nào của phía thứ ba. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng của chúng. - Quyền liên quan: Đó là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Đây là các cá nhân, tổ chức không phải là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm gốc, nhưng lại có sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm, hoặc chuyển tác phẩm đến với công chúng. Ở các nước, quyền liên quan từ lâu đã được đưa vào luật quyền tác giả. Đối với Việt Nam, quyền liên quan là một lĩnh vực tương đối mới. (2) Quyền sở hữu công nghiệp Theo Luật SHTT 2005, quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Bản chất của quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo, chống lại việc khai thác bất hợp pháp ở quy mô công nghiệp. Các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được trình bày trong Hộp 1.1. Hộp 1.1. Đối tƣợng quyền sở hữu công nghiệp - Bằng sáng chế (patent). Bằng sáng chế là một quyền theo luật định mà chính phủ ban cho nhà sáng chế trong một thời hạn xác định để ngăn ngừa các đối tượng khác sản xuất, sử dụng hoặc bán sản phẩm được bảo hộ theo bằng sáng chế hoặc sử dụng phương pháp hoặc quy trình đang được bảo hộ. Có thể nói rằng bằng sáng chế là hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một bên là nhà sáng chế 7. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà sáng chế được toàn quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và bán một sáng chế đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định để đổi lại việc nhà sáng chế phải công bố chi tiết sáng chế của mình cho công chúng. Bằng sáng chế không được cấp cho những ý tưởng mơ hồ mà chỉ được cấp 7 Thomas G. Field (2006), What is intellectual property?http://vietnamese.usembassy.gov. 10
- cho những đơn xin cấp bằng được trình bày một cách cụ thể và cẩn thận. Quy trình xét duyệt và cấp bằng sáng chế đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức của các nhà chuyên môn. - Kiểu dáng công nghiệp: Là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. - Bí mật thương mại: Bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm, chẳng hạn như công thức sản xuất Coca Cola. Thông tin bí mật đó được bảo hộ chống lại những người tiếp cận thông tin này qua cách thức không phù hợp hoặc bằng việc tiết lộ bí mật. Vi phạm bí mật thương mại là một kiểu cạnh tranh không lành mạnh. - Nhãn hiệu: Nhãn hiệu là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt để xác định một loại hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể sản xuất hoặc cung cấp. Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và tiêu dùng ở cách xa nhau. Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải được đăng ký theo Luật Nhãn hiệu hàng hóa thì mới có thể bảo hộ được và việc đăng ký cần phải được ra hạn. Hiện nay, số đơn đăng ký và số giấy chứng nhận đăng bạ nhãn hiệu hàng hóa ngày càng tăng ở từng nước, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong những năm gần đây, hàng năm trên thế giới có từ 600 đến 700 nghìn nhãn hiệu được cấp giấy chứng nhận đăng ký. - Chỉ dẫn địa lý: Chỉ dẫn địa lý là khái niệm rộng hơn tên gọi xuất xứ hàng hoá, bao gồm cả dấu hiệu, biểu tượng hình ảnh, dùng để chỉ về một khu vực địa lý, nơi hàng hoá xuất xứ có “đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác” chủ yếu do nguồn gốc địa lý tạo nên. - Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn: Là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn. - Tên thương mại: Là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Nguồn: Luật SHTT 2005 và một số nguồn khác. 11
- (3) Quyền đối với giống cây trồng Giống cây trồng và vật liệu nhân giống đã trở thành đối tượng của quyền SHTT được bảo vệ theo Công ước về bảo vệ giống cây trồng năm 1961. Theo Luật SHTT 2005, quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. 1.1.2. Nhu cầu khách quan của việc bảo hộ quyền SHTT Nhìn từ quan điểm triết học, có ba quan điểm khác nhau về “sở hữu trí tuệ”. Quan điểm thức nhất coi sản phẩm sáng tạo trí tuệ như các sản phẩm lao động khác, do đó người tạo ra các sản phẩm này có quyền tư hữu, và Nhà nước bảo hộ quyền tư hữu đó. Quan điểm thứ hai thì coi sản phẩm sáng tạo trí tuệ thuộc toàn xã hội, không thừa nhận quyền SHTT; người tạo ra sản phẩm trí tuệ có giá trị được Nhà nước thưởng công hoặc ghi công. Còn quan điểm thứ ba không phủ nhận quyền tư hữu trí tuệ nhưng cũng không công khai thừa nhận quyền đó, nhất là các sản phẩm được tạo ra ở nước ngoài có giá trị đối với nền kinh tế trong nước. Nhìn từ quan điểm kinh tế học, nhất là kinh tế tân cổ điển, thì sự cần thiết của quyền SHTT (và quyền tư hữu nói chung) phải được xem xét trên căn bản phúc lợi cộng đồng. Mazzoleni và Nelson (1998) nêu ra một số lý do chính. Thứ nhất, quyền SHTT sẽ khuyến khích người có óc sáng chế và dọn đường cho những phát minh tiếp theo. Đó là vì muốn được cấp bằng sáng chế thì người phát minh phải công bố chi tiết phát minh của mình, dựa vào những thông tin này người khác có thể đưa ra phát minh kế tiếp. Hơn nữa, nếu người phát minh được cấp quyền sở hữu một cách rộng rãi thì sẽ yên tâm tìm những phát minh liên hệ. Thiếu quyền đó thì nhiều phát minh sẽ có nguy cơ trùng lặp, lãng phí. Thứ hai, quyền SHTT là một cách dùng lợi nhuận để thúc đẩy người phát minh đi vào sản xuất. Một số thị trường, nhất là thị trường các sản phẩm và dịch vụ mới sẽ khó xuất hiện nếu nhà kinh doanh không được khuyến khích sản xuất. 12
- Do đó, dù nghĩ thế nào về căn bản triết lý của SHTT, tiếp cận kinh tế khẳng định quyền SHTT là phải có vì phúc lợi chung. Một mặt, xã hội cần những biện pháp cụ thể để khuyến khích sáng tạo, mặt khác nếu quá chặt chẽ thì sản phẩm trí tuệ sẽ không được xã hội tận dụng. Như Mục 1.1.1 đã khẳng định, quyền SHTT do Nhà nước, chứ không phải do thị trường, quyết định. Tại sao lại như vậy? Để trả lời câu hỏi này, hãy trở lại tính chất đặc biệt của tài sản trí tuệ. Như đã nêu, tài sản trí tuệ có tính chất của một hàng hóa công cộng toàn cầu. Nó có tính phi cạnh tranh trong sử dụng (việc sử dụng tài sản trí tuệ của người này không làm nó “hao mòn” đi, do đó không làm giảm đi khả năng sử dụng tài sản trí tuệ của người khác). Nó cũng có tính phi loại trừ trong tiêu dùng (một khi tài sản trí tuệ đã được công bố, người ta khó ngăn cản người khác sử dụng nó). Giống như mọi hàng hóa công cộng khác, thị trường không có khả năng phân bổ tối ưu phúc lợi xã hội liên quan đến việc sử dụng tài sản trí tuệ. Tính phi cạnh tranh trong tiêu dùng đòi hỏi tài sản trí tuệ cần được cung cấp cho mọi người một cách miễn phí vì lợi ích ròng xã hội sẽ tăng lên khi càng có nhiều người có khả năng tiếp cận và sử dụng tài sản ấy. Việc cung cấp miễn phí là trái ngược với các nguyên tắc thị trường. Tính phi loại trừ trong tiêu dùng sẽ làm nảy sinh hiện tượng “kẻ ăn không”, những người không muốn đầu tư để tạo ra hay bỏ tiền để mua tài sản trí tuệ nhưng lại muốn và hoàn toàn có thể sử dụng tài sản ấy, miễn là đã có ai khác tạo ra và sử dụng nó. Tình trạng này làm nản lòng mọi nhà đầu tư tư nhân. Những điều trên cho thấy cơ chế thị trường đã thất bại trong việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT. Việc Nhà nước đứng ra bảo hộ quyền SHTT là một giải pháp sửa chữa thất bại thị trường gắn liền với tính phi loại trừ, do đó, hiện tượng “kẻ ăn không” trong việc sử dụng tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa người chủ sở hữu và xã hội, Nhà nước chỉ nên duy trì việc bảo hộ quyền SHTT trong một thời hạn thích hợp. 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn