Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam
lượt xem 4
download
Mục tiêu của Luận văn là phân tích thực trạng JDI ở Việt Nam trong thời gian qua để làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của các giải pháp thu hút nguồn vốn này vào nước ta trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định khu vực kinh tế có vốn nước ngoài là một trong năm thành phần kinh tế chủ chốt, là một bộ phận quan trọng cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế khác. Trong những năm tới, mục tiêu chung của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là phải tăng nhiều hơn cả về lượng và chất so với giai đoạn 2001- 2005 (với đóng góp khoảng 15% GDP, 25% kim ngạch xuất khẩu, trên 10% tổng thu ngân sách quốc gia,...). Như vậy, để duy trì tỉ lệ trên với mức gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam cả về lượng và chất là một thách thức không nhỏ, nhất là trong điều kiện cạnh tranh thu hút FDI trong khu vực ngày càng gia tăng như hiện nay. Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam ban hành nhiều quy định mới về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài đáp ứng yêu cầu trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Mục tiêu lâu dài nhằm thu hẹp dần sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và minh bạch. FDI không chỉ là vốn mà điều quan trọng nhất ở đây là lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ được chuyển giao, là yếu tố tạo nên sự chuyển biến về năng suất lao động xã hội, về sự cạnh tranh cho từng doanh nghiệp và từng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nếu đánh mất cơ hội thu hút FDI cũng chính là đánh mất cơ hội cho việc thu hẹp khoảng cách, tụt hậu về trình độ phát triển kinh tế của nước ta hiện nay so với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực. Trong bối cảnh mới, khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO đang đặt ra nhiều thách thức mới. Điều đó không chỉ đòi hỏi chúng ta phải có sự thay đổi mới về nhận thức mà còn -1-
- phải có các giải pháp hành động phù hợp trong lộ trình hội nhập kinh tế thế giới sâu rộng nói chung, thu hút FDI nói riêng. Hiện nay, Nhật Bản là một đối tác kinh tế có vị trí rất quan trọng đối với Việt Nam. Thực tế, Nhật Bản không chỉ là bạn hàng lớn, là nước cung cấp viện trợ ODA nhiều nhất mà còn là quốc gia đứng vào hàng đầu về vốn FDI ở Việt Nam. Mặc dù, triển vọng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản (JDI) là khá sáng sủa, song vẫn còn nhiều vấn đề cần được phân tích, mổ xẻ nhằm thu hút dòng vốn này vào nước ta. Những năm gần đây, FDI của Nhật Bản luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong nguồn FDI vào Việt Nam, khoảng trên 9.0% tổng số dự án và 10% tổng số vốn FDI. Vì vậy đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề về FDI nói chung và những đánh giá đóng góp JDI là hết sức cần thiết. Do đó, tác giả đã chọn vấn đề: “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam’’ làm đề tài Luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Do tính chất thiết yếu và vai trò đặc biệt quan trọng của vấn đề FDI đối với việc phát triển kinh tế, cho nên hoạt động này đã thu hút sự quan tâm chú ý của các cấp, các ngành, nhiều nhà quản lí, nhà kinh doanh và các nhà khoa học trong và ngoài nước. Đã có nhiều hội nghị chuyên đề, hội thảo khoa học được tổ chức, nhiều đề tài nghiên cứu ở cấp nhà nước, cấp ngành, một số sách, luận án, các bài nghiên cứu được đăng trên các báo, các tạp chí nghiên cứu về FDI ở Việt Nam. Trong số đó, có thể nêu lên một số công trình chủ yếu sau: - Shopro Tokunaga (Chủ biên), Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ở Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, 4/1996. - Dương Phú Hiệp (Chủ biên), Ngô Xuân Bình, Trần Anh Phương: 25 năm Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản (1973-1998), Nxb. Khoa học xã hội, 4/1999. - Vũ Văn Hà (Chủ biên): Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm 1990 và triển vọng, Nxb. Khoa học xã hội, 4/2000. - Furuta Motu, Hiroshi Kimura, Nguyễn Duy Dũng (Chủ biên): Những bài học về quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, Nxb. Tư tưởng Kyoto - Nhật Bản, 2001. -2-
- - Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng (Chủ biên): Điều chỉnh chính sách kinh tế của Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, 4/2002. - Nguyễn Trọng Hà: Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến ngoại thương Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 62/2002. - Nguyễn Xuân Thiên: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở ASEAN và một số kiến nghị với Việt Nam, Luận án tiến sĩ, 2002. - Tô Thị Ánh Dương: Thu hút và ổn định luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập và mở cửa, VNH 2002 - 2003, Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội, 2004. - Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Viện khoa học xã hội Việt Nam: Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản: Quá khứ, hiện tại và tương lai, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005. Các công trình trên có nhiều đóng góp nổi bật sau: - Làm rõ hơn sự vận động của FDI trong thời gian qua và cho phép nhận diện rõ hơn sự di chuyển của dòng vốn này. - Phân tích khá sâu sắc thực trạng JDI ở các nước Châu Á và Việt Nam. Từ đó, cho phép rút ra những đặc điểm chung và riêng của FDI nước này. - Làm rõ vai trò của JDI ở Việt Nam, qua đó nêu bật mối quan hệ FDI, ODA, và thương mại trong bối cảnh quan hệ kinh tế hai nước đang được tăng cường mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiều vấn đề có liên quan xung quanh JDI vẫn chưa được bàn luận một cách đầy đủ. Trong đó, vai trò của FDI đối với tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam ít được chú ý. Nhất là trong bối cảnh mới khi quan hệ hai nước ngày càng phát triển và các lĩnh vực FDI, thương mại tự do đang được xúc tiến mạnh mẽ đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc hơn, toàn diện hơn. JDI vào Việt Nam như là một động thái tích cực thúc đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nước ta cũng như mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và Nhật Bản nói riêng. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu JDI là hết sức cần thiết, nhằm góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh lí luận và thực tiễn của dòng vốn này, đặc biệt khi Việt Nam ra nhập WTO và hội nhập sâu hơn vào các hoạt động kinh tế quốc tế. -3-
- 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của Luận văn là: Phân tích thực trạng JDI ở Việt Nam trong thời gian qua để làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của các giải pháp thu hút nguồn vốn này vào nước ta trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu trên, tác giả đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài; - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động JDI ở Việt Nam (chủ yếu từ năm 1996 đến nay); - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy JDI ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động JDI ở Việt Nam * Phạm vi nghiên cứu: - Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động JDI ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay. Đây được coi là mốc thời gian có sự chuyển biến lớn trong hoạt động JDI ở nước ta. - Về không gian: Luận văn tập chung luận giải JDI ở nước ta trên góc độ nghiên cứu vĩ mô. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt mục tiêu của luận văn, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu hiện đại: phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, dự báo... Ngoài nguồn tài liệu đã được công bố, tác giả còn sử dụng thêm các phương pháp phỏng vấn, trao đổi ý kiến với các chuyên gia về lĩnh vực FDI và quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. 6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn -4-
- - Góp phần hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lí luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Phân tích một số chính sách nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của một số nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng JDI ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay, để từ đó thấy được những điểm mạnh và những mặt còn tồn tại trong hoạt động thu hút đầu tư trong thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy JDI ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lí luận chung và kinh nghiệm quốc tế về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam trong thời gian qua Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam trong thời gian tới -5-
- CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1. Lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức của đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia trên thế giới. Mặc dù có nhiều khác biệt về quan niệm, nhưng nhìn chung thì FDI được hiểu như hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt trong sử dụng vốn và quản lí đầu tư. Điều đó có nghĩa là xét về mặt chủ thể thì FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt về quốc tịch hay lãnh thổ sinh sống mà còn xác định tư bản di chuyển trong đầu tư trực tiếp của các nước ngoài bắt buộc phải vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia. Nội dung kinh tế của FDI được phản ánh trong Luật Đầu tư. Ở đó, người ta đã cố gắng tạo ra những hình thức pháp lí thoả mãn hai đặc trưng cơ bản nhất của FDI đó là: - Có sự di chuyển tư bản trên phạm vi quốc tế; - Chủ đầu tư (một bên hoặc cả hai bên) trực tiếp hoặc cùng thống nhất với nhau tham gia vào việc sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư. Theo “Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987, FDI vào Việt Nam được hiểu là các tổ chức và cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam cấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư” (Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội 1995, T.761). -6-
- Dưới góc độ kinh tế quốc tế có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người sở hữu đồng thời là trực tiếp quản lí và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự đầu tư của các công ti nhằm xây dựng cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây chính là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Để làm rõ hơn dòng vốn đầu tư nước ngoài cần phân biệt hai loại: đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI) (Financial Investment hay Indirect Investment hoặc Portfolio Investment). Mặc dù có nhiều điểm tương đồng và liên kết song giữa FDI và FPI có sự khác biệt khá lớn, về mục đích, hình thức, thời hạn, yêu cầu đặt ra đối với nước nhận đầu tư và nhất là lợi ích và rủi ro... 1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến sự di chuyển vốn đầu tư nước ngoài Hiện nay, trên thế giới đã và đang tồn tại một cách khách quan những nước giàu và nước nghèo hay còn gọi là nước phát triển và chậm nước phát triển. Trên thực tế, các nước phát triển có nguồn vốn, công nghệ khá hơn, các nước chậm phát triển lại rơi vào tình trạng thiếu vốn, nhân lực, công nghệ và kinh nghiệm quản lí non kém. Các nước này lại có nguồn nhân công dồi dào và nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và có nhu cầu phát triển khá hơn. Đây là cơ hội đầu tư đầy triển vọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Đầu tư trong nước đang có xu hướng chững lại và khả năng sinh lời thấp. Vì thế, đầu tư ra nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yếu. Mặc dù đầu tư vào các nước phát triển đang chiếm tỉ trọng lớn. Song trên thực tế, dòng vốn đầu tư và các nước phát triển đang có xu hướng tăng. “Nếu trước năm 1985, tổng dòng vốn FDI của các nước đang phát triển chỉ đạt bình quân 6,5 tỉ USD và tăng gần 1,7%/năm thì sau đó dòng vốn đã tăng nhanh từ mức 15 tỉ USD năm 1985 lên tới hơn 40 tỉ USD năm 1990 và liên tục tăng tới khoảng 110 tỉ USD năm 1996 và 138,2 tỉ USD năm 1997 (PGS.TS. Đỗ Lộc Diệp, TS. Đào Duy Quát, PGS.TS. Lê Văn Sang (đồng chủ biên), Chủ nghĩa tư bản đầu thế kỉ XXI, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, T 140). Hơn nữa, ở các nước phát triển tình trạng cạnh tranh rất quyết liệt. Đầu tư vào các nước đang phát triển nhằm tăng vòng quay -7-
- của vốn, tận dụng và khai thác được công nghệ hạng 2 và thu được lợi nhuận cao. Nhờ tiết kiệm nhiều chi phí như chi phí đổi mới công nghệ, chi phí thanh lí công nghệ, chi phí lao động chất xám, chi phí lao động phổ thông, được ưu đãi về thuế và các chính sách kinh tế của các nhà nhận đầu tư mà FDI trở thành dòng vốn có khả năng sinh lời cao ít rủi ro... Với các lí do trên thì quá trình đầu tư nước ngoài thực chất là quá trình di chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lí từ nước phát triển sang nước chậm phát triển nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Hơn thế nữa, nhu cầu và lợi ích của các nước nhận FDI cũng dẫn đến lí do thúc đẩy và gia tăng hoạt động của dòng vốn này. Đầu tư quốc tế đã tăng lên nhanh chóng và trở thành hiện tượng nổi bật trong các hoạt động kinh tế quốc tế, đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu kinh tế. Với các phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm, lí thuyết để lí giải nguyên nhân hình thành hoạt động đầu tư quốc tế và những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới cũng như các khu vực và các quốc gia riêng biệt. Những quan điểm, lí thuyết này có thể được chia thành hai nhóm chủ yếu ở khía cạnh: Lí thuyết vĩ mô và vi mô. 1.1.2.1. Theo quan điểm kinh tế vĩ mô Trong các tài liệu đầu tư nước ngoài, các lí thuyết kinh tế vĩ mô lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế thường chiếm vị trí quan trọng và được coi là các lí thuyết cơ bản của đầu tư quốc tế. Các lí thuyết này giải thích hiện tượng đầu tư quốc tế dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư giữa các nước, trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Tác giả A.Mac Dougall (1960) đã giải thích hiện tượng đầu tư quốc tế từ phân tích so sánh giữa chi phí và lợi ích của di chuyển vốn quốc tế. Ông cho rằng, chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân lưu chuyển vốn quốc tế. Quan điểm này được M.Kemp (1964) phát triển thành mô hình Mac Dougall - Kemp (hình vẽ). Theo tác giả, những nước phát triển (dư thừa vốn đầu tư) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở các nước đang phát triển (thiếu vốn). Vì thế, xuất hiện dòng lưu chuyển vốn giữa hai nhóm nước này. -8-
- (II) m M u (I) P E e n N O1 S Q O2 Mô hình Mac Dougall - Kemp Tổng vốn đầu tư của hai nước là O1O2, trong đó vốn ở nước đầu tư (I) là O1Q và tương tự ở nước nhận đầu tư (II) là O2Q. Năng suất cận biên của vốn ở nước (I) là O1M, tương tự ở nước (II) là O2m. Các đường MN và mn là giới hạn năng suất cận của vốn ở hai nước (nước I thấp hơn nước II) và đều có xu hướng giảm dần. Trước khi có sự di chuyển vốn giữa hai nước (i) là O1MNQ và của nước (II) là O2mnQ. Do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn ở hai nước cân bằng tại điểm P (SP = O1E = O2e). Kết quả làm tăng sản lượng hai nước là PuN, phần dôi ra ngoài tổng sản lượng của hai nước trước khi có sự chuyển dịch vốn đầu tư. Một cách lí giải khác của K.Kojima (1978) về nguyên nhân xuất hiện đầu tư quốc tế là do sự khác nhau về tỉ suất lợi nhuận giữa các nước. Cũng dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của mô hình HO, K.Kojima đã phát triển và chứng minh rằng những nước có tỉ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Theo tác giả, nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế là có sự chênh lệch về tỉ suất lợi nhuận giữa các nước và sự chênh lệch này được bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Trên cơ sở mô hình lí thuyết thương mại quốc tế của Heckcher & Ohlin (1993), Richard S. Eckaus (1987) đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế. Theo tác giả, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là nguyên nhân chủ yếu xuất hiện di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Richard cho rằng, nước đầu tư thường có dòng vốn đầu tư quốc tế. -9-
- Ngoài ra, nguyên nhân di chuyển dòng vồn đầu tư quốc tế còn được giải thích bởi lí thuyết phân tán rủi ro. Lí thuyết này giải thích rằng các nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn (lãi suất cao) mà còn chú ý đến mức độ rủi ro trong từng hạng mục đầu tư cụ thể (D.Salvatore - 1993). Vì lãi suất của các cổ phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp, nên để tránh tình trạng mất trắng (phá sản) các nhà đầu tư không muốn bỏ hết vốn của mình vào một hạng mục đầu tư ở một thị trường nội địa. Bởi thế họ quyết định dành một phần tài sản của mình để mua cổ phiếu, chứng khoán ở thị trường nước ngoài. Như vậy, qua phân tích trên cho thấy các lí thuyết đã giải thích sự xuất hiện đầu tư quốc tế về thực chất đều dựa vào nguyên tắc lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Mặt khác, các quan điểm lí thuyết cũng cho rằng đầu tư quốc tế có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư, trong đó nhất là thực hiện công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. 1.1.2.2. Theo quan điểm kinh tế vi mô Hầu hết các lí thuyết kinh tế vi mô về đầu tư quốc tế đều xoay quanh trả lời câu hỏi là tại sao các công ti, cá nhân lại đầu tư ra nước ngoài? Các lí thuyết về tổ chức công nghiệp ra đời từ thập kỉ 1960 giải thích đầu tư quốc tế (FDI) như là kết quả tự nhiên từ sự tăng trưởng và phát triển của các công ti lớn độc quyền ở Mĩ, trong đó nổi bật là mô hình lí thuyết của Stephen Hymer (1976). Theo tác giả, do kết cấu của thị trường độc quyền đã thúc đẩy các công ti Mĩ mở rộng ra thị trường quốc tế để khai thác các lợi thế của mình về công nghệ, kĩ thuật, quản lí mà các công ti trong cùng ngành công nghiệp ở nước nhận đầu tư không có được. Charles Kindleberger (1969) và Richard E. Caves (1971) cũng cho rằng những sản phẩm mới thường có xu hướng độc quyền và có giá thành hạ. Vì thế, các công ti có sản phẩm mới đã tích cực mở rộng phạm vi sản xuất của mình ra thị trường quốc tế để khai thác lợi thế độc quyền nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy, theo các lí thuyết tổ chức công nghiệp, nguyên nhân hình thành FDI là do sự mở rộng thị trường ra nước ngoài của các công ti lớn nhằm khai thác lợi thế độc quyền. -10-
- Cách tiếp cận về chu kì sống của sản phẩm đã giải thích hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất hàng loạt), đạt mức bão hoà và bước vào gia đoạn suy thoái. Theo tác giả của lí thuyết này, giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển như Mĩ, vì ở đó mới có điều kiện để nghiên cứu và phát triển, có khả năng triển khai sản xuất với khối lượng lớn. Ở những nước này thì kĩ thuật sản xuất tiến tiến mới đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới phát huy được hiệu quả sử dụng cao. Do vậy, sản phẩm được ra hàng loạt với giá thành hạ và đã nhanh chóng đạt tới điểm bão hoà. Để tránh lâm vào tình trạng suy thoái và khai thác hiệu quả sản xuất theo quy mô, công ti phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra quốc tế, nhưng các hoạt động xuất khẩu đã gặp trở ngại bởi hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển. Vì thế, công ti di chuyển sản xuất ra quốc tế để vượt qua những trở ngại này. Như vậy, theo cách giải thích của Vernon thì FDI là kết quả tự nhiên từ quá trình phát triển sản phẩm theo chu kì. Trên đây là một số nội dung cơ bản của lí thuyết về đầu tư quốc tế nhằm giải thích sự xuất hiện của FDI và bản chất kinh tế của nó. Cũng như những hạn chế của lí thuyết thương mại quốc tế, các lí thuyết vĩ mô của đầu tư quốc tế được xây dựng trên những giả định trừu tượng, phân tích ở trạng thái tĩnh, để so sánh hiệu quả của một yếu tố sản xuất (vốn) hoặc hai yếu tố (vốn, lao động) giữa các nước, trong khi dòng lưu chuyển vốn giữa các nước còn phụ thuộc quan trọng vào nhiều yếu tố khác của môi trường đầu tư. Bởi thế, các lí thuyết kinh tế vĩ mô mới chỉ giải thích được những điều kiện để các công ti đầu tư ra nước ngoài, các lí thuyết kinh tế vi mô giải thích một cách cụ thể hơn về nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế như là kết quả tự nhiên của quá trình khai thác các lợi thế độc quyền ở nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Cách luận giải này đã gắn được các đặc trưng của FDI với các đặc điểm của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Vì thế, có thể nói rằng các lí thuyết vi mô đã giải thích rõ ràng hơn về nguyên nhân hình thành FDI và tác động của nó đối với công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. 1.1.3. Đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.3.1. Đặc điểm -11-
- Đặc điểm nổi bật của FDI được biểu hiện ở các khía cạnh chủ yếu: Vốn, quyền quản lí, lợi nhuận, loại hình đầu tư và các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo quy định của Luật Đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ: Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án (ở Hoa Kì quy định 10%). Quyền quản lí xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành quản lí. Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỉ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có). Đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập các doanh nghiệp với nhau. 1.1.3.2. Các hình thức Nhìn chung, hình thức của FDI khá đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Song về cơ bản có các hình thức sau: Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là văn bản kí kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh có một số đặc điểm như: - Là một hình thức đầu tư trực tiếp, chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư, do vậy, nó khác với các hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế về trao đổi mua bán thông thường (các hợp đồng này không bị Luật Đầu tư điều chỉnh). - Không hình thành một pháp nhân mới. - Các bên hợp doanh vẫn giữ nguyên sở hữu riêng đối với tài sản góp vào hợp doanh. - Kết quả hoạt động phụ thuộc vào sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh. -12-
- Nội dung hoạt động kinh doanh, các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, cách thức xác định và phân chia kết quả, thời hạn hợp đồng, cách giải quyết tranh chấp được xác định cụ thể trong hợp đồng. Hình thức đầu tư trược tiếp của nước ngoài này phải được xét duyệt và cấp giấy phép kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài, hoặc trên cơ sở hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. - Doanh nghiệp liên doanh là pháp nhân Việt Nam và được thành lập theo hình thức công ti trách nhiệm hữu hạn, mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh và bên thứ ba trong phạm vi phần vốn của mình vào vốn pháp định. - Doanh nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính trên cơ sở hợp đồng liên doanh, phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam. - Doanh nghiệp liên doanh có tài sản riêng do các bên liên doanh đóng góp và là sở hữu chung của các bên liên doanh. - Doanh nghiệp liên doanh được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng kí điều lệ doanh nghiệp. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, tự quản lí và chịu tránh nhiệm về hoạt động kinh doanh. Cơ sở pháp lí để thành lập và hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, giấy phép đầu tư, điều lệ doanh nghiệp và pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ti trách nhiệm hữu hạn là pháp nhân Việt Nam. Tài sản của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc tổ chức, cá nhân nước ngoài nên họ có quyền quyết định bộ máy quản lí, điều hành doanh nghiệp. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng kí điều lệ doanh nghiệp. -13-
- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT); Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) là văn bản kí kết giữa chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài). Ở Việt Nam với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến hành khai thác và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời hạn thì chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước. Vốn để thực hiện hợp đồng này có thể là 100% vốn nước ngoài cộng với vốn của Chính phủ Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các chủ đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, khai thác, kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lí. Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) có hiệu lực khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư. Ngày nay, khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) đang nổi lên một phương thức thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả nhất để phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Mục đích của việc xây dựng (KCN, KCX) là thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút FDI từ các công ti đa quốc gia hoạt động kinh doanh vào khu vực này. 1.1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.4.1. Đối với đối tác đầu tư Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tỉ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá cả phải chăng. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tăng cường sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín thương hiệu. Thông qua việc xây dựng các cơ sở sản xuất, dịch vụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. - Vì chủ đầu tư nước ngoài được tham dự vào quá trình điều hành kinh doanh của xí nghiệp theo chế độ góp vốn nên họ trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho mình. Điều đó đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư được sử dụng. -14-
- - Giúp chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại. - Cho phép các chủ đầu tư nước ngoài có thể hạ thấp chi phí sản phẩm do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại. Từ đó, nâng cao được tỉ suất lợi nhuận. - Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại vì thông qua FDI, các chủ đầu tư xây dựng được các doanh hoạt động chính trong lòng các nước thi hành chính sách bảo hộ. Qua phân tích các đặc điểm trên cho thấy FDI có những thế mạnh của nó. Mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ nhưng FDI ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác, do nước ngoài trực tiếp tham gia quản lí sản xuất, kinh doanh nên tính khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Vì quyền lợi gắn chặt với dự án, do vậy, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, cho nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lí và tay nghề công nhân. Vì vậy, FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Sự gặp gỡ lợi ích của các bên đã là lí do chủ yếu để dòng vốn FDI ngày càng gia tăng trong khu vực và trên thế giới. 1.1.4.2. Đối với đối tác tiếp nhận Những ưu thế của FDI không chỉ với những nước có vốn mà chính các nước tiếp nhận dòng vốn này cũng thu được nhiều lợi ích. Đó là: - Loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài không quy định mức góp vốn tối đa, chỉ quy định mức tối thiểu, do vậy cho phép các nước sở tại tăng cường khai thác được nhiều vốn bên ngoài. - Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể tiếp thu được kĩ thuật và công nghệ tiến tiến, kinh nghiệm quản lí kinh doanh bên ngoài. - Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lí. - Giúp cho nước sở tại nâng cao hiệu quả sử dụng phần vốn đóng góp của mình, mở rộng tích lũy và góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng của -15-
- nền kinh tế trong nước. Với việc đẩy mạnh FDI sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các nước và hơn thế nữa tăng cường quan hệ lẫn nhau ở nhiều lĩnh vực khác. Bên cạnh những tác động tiêu cực nêu trên, đầu tư nước ngoài cũng có những hạn chế sau: - Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học sẽ dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. - Nước sở tại phải đương đầu với các chủ đầu tư giàu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt. - Cũng không ít trường hợp việc đầu tư đi liền với việc du nhập của những công nghệ thứ yếu, công nghệ đem theo chất thải ô nhiễm. - Thậm chí, nếu năng lực tiếp nhận kém nước sở tại có thể bị FDI chi phối và làm méo mó chiến lược phát triển kinh tế đất nước. * Một số tác động cụ thể của FDI - Đầu tư nước ngoài góp phần tăng tổng đầu tư xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế của nước chủ nhà. Hiện nay có hai dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài. Đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển. Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát. Qua FDI, các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại các công ti, doanh nghiệp có nguy cơ phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lí học hỏi kinh nghiệm quản lí của các nước khác. Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần thất nghiệp ở những nước này. FDI giúp cho các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, -16-
- đặc biệt là thời kì đầu của quá trình công nghiệp hóa - thời kì mà thông thường đòi hỏi đầu tư một tỉ lệ vốn lớn hơn các giai đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự cung ứng từ bên trong. FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển, tránh tình trạng tích lũy quá căng thẳng dẫn đến về kinh tế không đáng xảy ra. Thực tế ở nhiều nước đang phát triển, mà nổi bật nhất là các nước ASEAN và Đông Á, nhờ có FDI đã giải quyết một phần khó khăn về vốn nên đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa đất nước, đã và đang trở thành NIEs (thế hệ I hoặc II). Đối với Việt Nam, từ đầu những năm 1990 đến nay, các nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào nước ta đã tăng lên rất nhanh và liên tục trong thời gian dài, tỉ lệ đóng góp vào GDP của khu có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đều đặn qua các năm giúp nền kinh tế tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 7 - 8%. - Các hoạt động đầu tư nước ngoài thường đi kèm với các hoạt động chuyển giao công nghệ. Có thể nói, công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà cần có một trình độ phát triển nhất định, nhất là khả năng khoa học kĩ thuật công nghệ. Hơn nữa, đầu tư cho lĩnh vực này thường phải chịu nhiều rủi ro, tốn kém. Đây là những hạn chế khó khăn rất lớn ở nhiều nước, đặc biệt với nước đang phát triển. Với các nước tiếp nhận FDI, dòng vốn này vô cùng quan trọng để phát triển và mở rộng khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện thông qua việc chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà FDI. Thông qua con đường đầu tư trực tiếp, các cá nhân hay tổ chức nước ngoài khi thành lập xí nghiệp, công ti tại nước tiếp nhận đầu tư sẽ cùng một lúc đưa máy móc thiết bị và công nghệ mà họ cần cho quá trình sản xuất. Bằng cách này các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận được công nghệ mới, thu hút được số lượng người lao động bản xứ vào những doanh nghiệp mới này. Quyền -17-
- lợi sát sườn của nhà đầu tư đã gián tiếp mang lại công nghệ sản xuất mới, trình độ quản lí kĩ thuật cho nước tiếp nhận đầu tư. Chính quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế. - Đầu tư nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khỏe và dinh dưỡng, giáo dục đào tạo nghề nghiệp và kĩ năng quản lí sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhân lực. Việc nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác sẽ đó đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Ở Việt Nam cũng như các nước khác khi bắt đầu đi vào hoạt động, hầu như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào cũng đều phải bỏ ra một khoản chi phí khá lớn để đào tạo, đào tạo lại số lao động cả về chuyên môn, quản lí. Thông qua nhiều hình thức tổ chức các khóa học chính quy, không chính quy, đào tạo trong công việc, đã góp phần nâng cao tay nghề và trình độ quản lí cho lao động trong các doanh nghiệp FDI. Cùng với FDI, những kiến thức quản lí kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức quản lí trong nước dần dần bắt kịp phương thức quản lí công nghiệp hiện đại. Lực lượng lao động cũng sẽ quen dần với phong cách làm việc công nghiệp, tao nhiều cơ hội để hình thành đội ngũ quản lí và những nhà doanh nghiệp giỏi. - Đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng của xuất - nhập khẩu Xuất, nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả tới tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh: Xuất khẩu cho phép khai thác được lợi thế so sánh, tăng hiệu quả kinh tế, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất. Nhập khẩu sẽ bổ sung được các hàng hóa, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng. Xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dich vụ tăng cường kiến thức Marketing cho các doanh nghiệp nội địa và thu hút họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ -18-
- đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận FDI. Thu hút FDI góp phần để mở rộng xuất khẩu là yếu tố hết sức quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất ở các nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Bởi vậy, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước chủ nhà. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, xuất khẩu cũng mang lại nhiều lợi ích cho họ thông qua việc sử dụng nhiều yếu tố đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả nhờ quy mô (không bị hạn chế bởi quy mô thị trường nước chủ nhà). Đồng thời cho phép thực hiện chuyên môn hóa sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nơi có điều kiện lợi thế nhất, tạo lập mạng lưới sản xuất sản phẩm ở quy mô rộng rãi hơn. Do những lợi ích trên, định hướng xuất khẩu ngày càng được chú trọng đối với các nước chủ nhà và trong chiến lược phát triển của TNCs. Trong hơn ba thập kỉ gần đây, đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu ngày càng được gia tăng và nó đã đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu của nước chủ nhà. - Đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển. Do tác động của vốn, khoa học công nghệ, FDI sẽ tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu kĩ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động sẽ được biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Các nước đang phát triển chủ yếu là các quốc gia nông nghiệp, tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP là rất lớn. Khi thu hút được các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vào các ngành thương mại, dịch vụ, công nghiệp sẽ đem đến sự chuyển biến trong bộ mặt kinh tế của nước chủ nhà nhất là góp phần thay đổi cơ cấu ngành. Đây là một điều thuận lợi cho các nước đang phát triển nói chung Việt Nam nói riêng nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. * Một số vấn đề khác Ngoài các tác động đã phân tích ở trên, đầu tư nước ngoài còn có một số tác động tích cực và tiêu cực khác. Cụ thể: Về ngoại tệ, FDI ngắn hạn có ảnh hưởng tích cực đối với chi thu quốc tế của nước chủ nhà, nhưng xét về lâu dài, việc TNCs chuyển lợi nhuận ra khỏi nước chủ nhà sẽ tạo gánh nặng ngoại tệ đối với nước này, đặc biệt là sau khi TNCs thu hồi vốn. -19-
- Những năm gần đây do sự phát triển của khoa học công nghệ, lao động không lành nghề trở nên có hiệu suất thấp. Do vậy, TNCs ít sử dụng lao động tại chỗ mà thường áp dụng phương thức sản xuất tập trung tư bản cao. Điều này sẽ làm giảm việc làm và thu hút lao động đi ngược với chiến lược việc làm của các nước đang phát triển đang mong đợi. Trong việc thu hút FDI, các nước chủ nhà còn chịu nhiều thiệt thòi, do tỉ lệ lợi nhuận của các nước đầu tư vào các nước đang phát triển cao hơn tỉ lệ lợi nhuận đầu tư tại nước họ. Các ngành công nghiệp mới, công nghiệp chủ yếu bị các nhà đầu tư kiểm soát, kết cấu kinh tế còn bị phụ thuộc khá nhiều vào kĩ thuật công nghệ của họ. Sự chuyển dịch và sử dụng những kĩ thuật kém tiến tiến, tiêu hao nhiều năng lượng sang các nước đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức. Văn hóa xã hội là lĩnh vực nhạy cảm và mang nặng bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia. Khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài, có nghĩa là các nước chủ nhà đã mở cửa giao lưu với nền văn hóa các dân tộc trên thế giới, điều này mở ra nhiều cơ hội mới, song song sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Làm thế nào để giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc dân tộc với tiếp nhận nền văn hóa bên ngoài, đảm bảo phát triển xã hội lành mạnh? Hoạt động đầu tư nước ngoài sẽ tác động mạnh đến các khía cạnh như: đổi mới tư duy, thái độ và đạo đức nghề nghiệp, lối sống và tập quán, giao tiếp ứng xử, bình đẳng giới và các vấn đề xã hội. Đầu tư nước ngoài chủ yếu được thực hiện bởi TNCs. Đây là những tập đoàn có tiềm lực mạnh về tài chính, khoa học công nghệ và mạng lưới phân phối quy mô toàn cầu. Không ít TNCs có tài sản hay doanh số bán hàng hàng năm còn vượt GDP của một số nước phát triển và thậm chí còn hơn cả tổng GDP của nhiều nước đang phát triển cộng lại. Phần lớn TNCs khổng lồ đều tập trung vào các nước tư bản phát triển, trong đó đặc biệt là Mĩ, Tây Âu và Nhật Bản. Do đó khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà, nhất là các nước đang phát triển đều lo ngại trước sức mạnh của TNCs đối với chủ quyền quốc gia, đe dọa đến an ninh, chính trị và làm lũng đoạn nền kinh tế đất nước. Tóm lại, trong việc thu hút FDI, các nước chủ nhà không chỉ thu được nhiều lợi ích mà còn gặp không ít khó khăn, thua thiệt. Giải quyết hài hòa vấn -20-
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn