Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
lượt xem 8
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển các khu, cụm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu cho phát triển các khu, cụm công nghiệp của Thành phố trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGÔ QUỐC CA PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGÔ QUỐC CA PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 60 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU HÀ NỘI - 2013
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA 9 BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1 Lý luận chung về phát triển khu công nghiê ̣p, cụm 9 công nghiệp 1.2 Thực trạng phát triển các khu, cụm công nghiệp trên 25 địa bàn Thành phố Hà Nội Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG 47 NGHIỆP THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1 Xu hướng và triển vọng phát triển các khu, cụm công 47 nghiệp hiện nay 2.2 Quan điểm phát triển khu, cụm công nghiệp thành phố 49 Hà Nội 2.3 Một số giải pháp chủ yếu phát triển các khu, cụm công 60 nghiệp Thành phố Hà Nội trong thời gian tới KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 PHỤ LỤC 81
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ VIẾT TẮT 1. Công nghiệp CN 2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 3. Cụm công nghiệp CCN 4. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN 5. Doanh nghiê ̣p nhà nước DNNN 6. Đầu tư phát triển ĐTPT 7. Giải phóng mặt bằng GPMB 8. Khoa học kỹ thuâ ̣t KHKT 9. Kinh tế - xã hội KT-XH 10. Khu chế xuất KCX 11. Khu công nghệ cao KCNC 12. Khu công nghiệp KCN 13. Ngân sách nhà nước NSNN 14. Quản lý nhà nước QLNN 15. Sản xuất kinh doanh SXKD 16. Ủy ban nhân dân UBND
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới những năm qua đã chứng tỏ rằng việc thành lập các khu công nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vận dụng kinh nghiệm thế giới vào thực tế Việt Nam, từ năm 1991, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thí điểm và triển khai việc xây dựng các khu công nghiệp và khu chế xuất. Đến nay, các KCN đã và đang trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến bộ khoa học - công nghệ và tạo ra những nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quá trình xây dựng và phát triển các KCN, KCX và các CCN tại các địa phương trên cả nước trong những năm qua đã cho thấy những đóng góp quan trọng trong việc tăng tỷ trọng GDP, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động của các địa phương và trên cả nước. Những đóng góp tích cực của KCN, KCX và các CCN vào phát triển kinh tế, xã hội trong hơn 20 năm qua đã khẳng định đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển KCN, KCX và các CCN. Thành phố Hà Nội với vị trí địa lý thuận lợi, là trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hà Nội có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp nói chung và KCN, CCN nói riêng. Trong đó các KCN, CCN được coi là các trung tâm, là xương sống của nền công nghiệp Thủ đô và các tỉnh lân cận. Các KCN, CCN của Hà Nội đã phát triển một cách nhanh chóng, hiệu quả, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, làm tăng nhanh tốc độ CNH, HĐH và tăng trưởng kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội và cả nước. Các KCN thành lập trong giai đoạn đầu đến nay cơ bản đã lấp đầy diện tích đất
- công nghiệp, Hà Nội đã phát triển thêm một số KCN mới và các CCN nhằm tạo thêm quỹ đất thu hút đầu tư trong giai đoạn tới. Kết quả xây dựng và phát triển các KCN, CCN trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã tạo dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Thành phố. Hoạt động của các KCN, CCN đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Thành phố theo hướng CNH, HĐH. Sản xuất công nghiệp tại các KCN, CCN chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng trong ngành sản xuất công nghiệp của Thành phố, cụ thể: Chiếm tỷ trọng hơn 60% giá trị sản xuất công nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu toàn Thành phố. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp tại các KCN, CCN nghiệp đạt 75.000 tỷ đồng, tổng giá trị nộp ngân sách 1.500 tỷ đồng, tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD, tổng số lao động đang làm việc tại các KCN, CCN hơn 200.000 lao động. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng thực tế trong hơn 20 năm xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp cho thấy chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, lợi thế của Thành phố. Mặt khác, kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội khoá 12 về điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội, các yếu tố, điều kiện kinh tế - xã hội có sự thay đổi lớn, đặc biệt là sự mở rộng quỹ đất phát triển công nghiệp, đây là cơ hội có tính đột phá để phát triển các khu, cụm công nghiệp của Thành phố Hà Nội. Đó chính là lý do chủ yếu để học viên quyết định lựa chọn đề tài "Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ - chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Từ khi Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương phát triển các KCN đến nay đã có các cuộc hội thảo liên quan đến đề tài và đặc biệt là có một số công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về hiệu quả
- kinh tế - xã hội của các KCN, các giải pháp phát triển KCN ở một số địa phư- ơng, tác động của phát triển các KCN đến các vấn đề xã hội hoặc nghiên cứu vấn đề việc làm và thu nhập của người dân bị thu hồi đất để xây dựng KCN, vấn đề nhà ở cho người lao động làm việc tại KCN. Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo chuyên đề có các công trình: "Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế" của Viện Kinh tế học năm 1994; "Khu công nghiệp,khu chế xuất các tỉnh phía Nam" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 2002, nhằm đánh giá khái quát về những thành công và hạn chế của các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các tỉnh phía Nam nước ta. Năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiệm thu đề tài cấp Bộ "Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam" nội dung của đề tài là nhằm mục đích giới thiệu kinh nghiệm quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất của nước ngoài, đánh giá những mặt tốt và những hạn chế của mô hình quản lý hiện đang áp dụng tại Việt Nam, đồng thời đề xuất một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất trong những năm tiếp theo. Năm 2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tạp chí Cộng sản và UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức Hội thảo với chủ đề "Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh phía Bắc - những vấn đề lý luận và thực tiễn" tại Thanh Hóa đã có 40 bài tham luận gửi đến Hội thảo. Các bài viết đã tập trung vào một số vấn đề cơ bản, như vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KCN, KCX, một số vấn đề lý luận, quy hoạch phát triển các KCN, KCX; các chính sách liên quan đến phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của các KCN phía Bắc so với các KCN phía Nam; Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX. Tháng 7/2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức "Hội nghị - hội thảo quốc gia 15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
- Việt Nam" tại Long An nhằm đánh giá những thành tựu đạt được, những hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta, kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của các KCN, KCX. Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình: Luận án Tiến sỹ kinh tế (năm 1994): "Những biện pháp phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp ở Việt Nam" của tác giả Lê Tuyển Cử. Luận án đã nghiên cứu thực trạng hình thành và phát triển của các KCN ở Việt Nam. Đánh giá những ưu, nhược điểm đã đạt được trong hoạt động phát triển và công tác QLNN các KCN, chỉ ra những yếu kém và nguyên nhân của chúng. - Luận án tiến sỹ kinh tế (năm 2007): “Hoàn thiện chính sách và mô hình tổ chức quản lý nhà nước đối với việc phát triển khu công nghiệp Việt Nam - Thông qua thực tiễn các khu công nghiệp miền Bắc” của tác giả Lê Hồng Yến. Luận án đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về chính sách và mô hình tổ chức QLNN đối với việc phát triển KCN. Chính sách và mô hình tổ chức QLNN đối với việc phát triển KCN giai đoạn 1994-2006. Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện chính sách và mô hình tổ chức quản lí nhà nước đối với việc phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015. Các nghiên cứu liên quan đến đề tài được đề cập ở trên mới tập trung nghiên cứu những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên một địa bàn - một vùng, một tỉnh khác và chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ QLNN về khu, cụm công nghiê ̣p. Cho đến nay, ở Thành phố Hà Nội chưa có công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị về phát triển các khu, cụm công nghiê ̣p. Do vậy đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu là đề tài mới, không trùng lặp với công trình khoa học nào đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: Mục đích của luận văn là nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển các khu, cụm công nghiệp trong quá trình
- công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu cho phát triển các khu, cụm công nghiệp của Thành phố trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp. - Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển khu, cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội và tìm nguyên nhân chủ yếu của các thực trạng đó. - Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các khu, cụm công nghiệp phù hợp với đặc thù và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Phát triển các khu, cụm công nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài: - Về không gian nghiên cứu là địa bàn Thành phố Hà Nội. - Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước có liên quan; Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, đồng thời sử dụng lý luận kinh tế chính trị học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp
- phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp lôgíc lịch sử và tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của đề tài - Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho viê ̣c xây dựng quy hoạch, kế hoạch, hoạch định các chủ trương, chính sách về phát triển các khu, cụm công nghiệp phù hợp với đặc thù và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, của Thành phố; học tập, phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp. - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị tại các trường đại học, học viện. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Lý luận chung về phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp 1.1.1. Khái niệm về khu, cụm công nghiệp * Khái niệm khu công nghiệp Thuật ngữ KCN xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX khi các KCN được bắt đầu hình thành và phát triển nhân rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay trên thế giới vẫn đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm KCN. Theo quan niệm thông thường: KCN là khu vực có tính chất độc lập, trong đó có các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa, thực hiện các hoạt động dịch vụ và có chế độ quản lý riêng. KCN là một trong các loại hình của khu kinh tế đặc biệt. Theo quan điểm của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) thể hiện trong tài liệu khu chế xuất tại các nước đang phát triển (Export processing Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì: KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần còn lại của nước chủ nhà. Trong đó, đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hóa dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế. - Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về khu chế xuất (World Export Processing Zone Association - WEPZA), KCX là tất cả khu vực được chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được tổ chức này công nhận. Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, xuất phát từ
- yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển, khái niệm này đã được bổ sung bằng quan niệm mới như khu kinh tế mở, thành phố mở, đặc khu kinh tế... Ngoài các quan niệm của các tổ chức, hiệp hội quốc tế, các nước cũng có những quan niệm khác như: KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở. Hoặc KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như Ma-lai-xi-a, In-đô- nê-xi-a, Thái Lan, Đài Loan. Như vậy, trên thế giới có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về KCN, song về cơ bản có thể thống nhất với nhau ở những điểm sau đây: Thứ nhất, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời của mỗi quốc gia, thường là những khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào giới hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại; được Chính phủ nước sở tại cho phép xây dựng và phát triển. Thứ hai, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế đặc biệt, các chính sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại dịch vụ, đầu tư trên cơ sở các chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính - tiền tệ, môi trường đầu tư… Thứ ba, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về chính sách ưu tiên hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các loại hình kinh doanh, sản xuất phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính sách phát triển kinh tế - xã hội mở cửa của một quốc gia.
- Tùy điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau nhưng tựu trung lại trên thế giới hiện nay có hai mô hình phát triển KCN, từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về KCN. - Định nghĩa 1: KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở… KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc biệt như KCN thương mại Indonesia, các công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu. - Định nghĩa 2: KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Theo quan điểm này, ở một số nước như Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan... đã hình thành nhiều KCN với quy mô khác nhau. Ở Việt Nam, khái niệm KCN lần đầu tiên được xuất hiện tại Luật đầu tư nước ngoài năm 1986 và được định nghĩa: “Là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập” [13, tr.4]. Tại Quy chế KCN ban hành kèm theo Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ, KCN được định nghĩa: “KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống” [18, tr.2]. Tại Quy chế KCN, KCX, khu kinh tế - ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997, KCN được định nghĩa: “Là khu tập trung các doanh nghiệp, KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất” [19, tr.3]. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ Quy định về KCN, khu chế xuất, khu kinh tế. Tại khoản 1 Điều 2, KCN được định nghĩa là
- “Khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này” [22, tr.3]. Như vậy, qua việc nghiên cứu các quan niệm, khái niệm về KCN của các nước trên thế giới và quy định về KCN của nước ta qua các thời kỳ, tác giả luận văn đồng ý với khái niệm: "Khu công nghiệp là nơi tập trung các doanh nghiệp để thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, có ranh giới địa lý xác định không có dân cư sinh sống và do Nhà nước quyết định thành lập". * Khái niệm cụm công nghiệp Hiện nay có nhiều cách hiểu sự hiểu không hoàn toàn giống nhau về Cụm công nghiệp. Khái niệm Cụm công nghiệp “Geographical clusters” hay “Industrial districts” xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 bởi Alpred Marshall, xuất phát từ việc nghiên cứu của ông về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở miền Bắc nước Anh. Theo Marshall, các CCN có ba lợi thế cơ bản từ sự tập trung; sự lan toả của thông tin; sự chuyên môn hoá và phân công lao động giữa các cơ sở với nhau và sự phát triển của thị trường lao động dạng có tay nghề cao. Khái niệm CCN theo cách tiếp cận của Michael Porter, CCN là sự tập trung về mặt địa lý của các công ty và tổ chức có liên quan trong một lĩnh vực cụ thể nào đó và bao gồm các ngành gắn kết với nhau. CCN tập trung các nhà cung cấp đầu vào, các khách hàng tiêu thụ sản phẩm, cũng như các nhà sản xuất các sản phẩm khác có liên quan. Các CCN cũng có thể bao gồm các tổ chức như trường đại học, viện nghiên cứu, trường đào tạo nghề và các hiệp hội thương mại. Theo OECD (Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế): Các CCN có thể được coi “là hệ thống sản xuất gồm có các hãng phụ thuộc lẫn nhau (các nhà cung cấp chuyên nghiệp), các tổ chức đào tạo, các tổ chức trung gian và khách hàng, liên kết với nhau trong một hệ thống sản xuất gia tăng giá trị”. Ở Việt Nam, từ khi có Quyết định 132/2000/QĐ- TTg ngày 24/11/2000
- về một số chính sách, khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn đến trước khi có Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009, CCN được hiểu và gọi tên rất khác nhau giữa các địa phương trong cả nước, nơi thì gọi là CCN làng nghề, nơi gọi là Cụm công nghiệp nông thôn, nơi gọi là Cụm công nghiệp vừa và nhỏ, Cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp làng nghề… Theo quan điểm của tỉnh Bắc Ninh, CCN là nơi tập trung các đơn vị chuyên sản xuất các sản phẩm công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quyết định của UBND tỉnh. Bắc Ninh còn sử dụng khái niệm “Cụm công nghiệp làng nghề” để nói đến các KCN nhỏ thuộc phạm vi quản lý của tỉnh. Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày19/8/2009 ban hành Quy chế quản lý CCN đã thống nhất tên gọi là CCN và định nghĩa như sau: "CCN là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; được đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập. Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 ha. Trường hợp cần thiết phải mở rộng cụm công nghiệp hiện có thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng không vượt quá 75 ha” [24, tr.2]. Theo Quyết định số 44/2010/QĐ-UBND ngày 10 tháng 9 năm 2010 của UBND Thành phố Hà Nội thì Cụm công nghiệp được hiểu: “Cụm công nghiệp (bao gồm cụm công nghiệp - cụm tiểu thủ công nghiệp) là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, có hàng rào tách biệt, không có dân cư sinh sống; có hệ thống kết cấu hạ tầng chung được xây dựng đồng bộ, có đầy đủ các điều kiện để sản xuất kinh doanh thuận lợi, an toàn và bền vững nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cá cá nhân, hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công
- nghiệp ở địa phương vào đầu tư sản xuất kinh doanh; do Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội quyết định thành lập. Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 ha” [50, tr.3]. Qua các khái niệm về CCN, cách hiểu về CCN có điểm giống nhau và thống nhất: CCN là tập trung về mặt địa lý các cơ sở sản xuất kinh doanh, các tổ chức trong một khu vực địa lý, có ranh giới riêng, không có dân cư sinh sống; CCN là sự liên kết giữa các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh doanh, các hộ gia đình sản xuất, các tổ chức... Tuy nhiên, quan niệm về CCN của Việt Nam có các điểm khác với quan niệm ở nước ngoài là: Thứ nhất, mục tiêu chủ yếu của thành lập, phát triển CCN ở nước ngoài là phát triển liên kết, nâng cao khả năng cạnh tranh, còn mục tiêu trực tiếp của CCN ở Việt Nam hiện nay là: thu hút, di dời các các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; sắp xếp làm tăng kết cấu hạ tầng thúc đẩy sản xuất kinh doanh và khắc phục ô nhiễm môi trường. Thứ hai, các thành viên tham gia CCN ở nước ngoài khá rộng rãi, bao gồm các nhà cung cấp, các cơ sở sản xuất, các tổ chức dịch vụ, các trường đại học và viện nghiên cứu có quan hệ với nhau trong chuỗi giá trị sản xuất; còn ở Việt Nam, CCN chỉ tập trung các cơ sở sản xuất - kinh doanh có liên hệ với nhau chủ yếu trong sử dụng chung kết cấu hạ tầng và trong xử lý môi trường. Thứ ba, trình độ và tính chất của mối liên kết kinh tế giữa các thành viên trong CCN nước ngoài cao hơn so với Việt Nam. Qua phân tích khái niệm về CCN nêu trên, tác giả nhận thấy khái niệm về CCN tại Quyết định số 44/2010/QĐ-UBND ngày 10 tháng 9 năm 2012 của UBND Thành phố Hà Nội đảm bảo được các nội dung: Khái quát đầy đủ cả cụm công nghiệp và cụm tiểu thủ công nghiệp; khẳng định phải có hệ thống kết cấu hạ tầng chung được xây dựng đồng bộ; phải có đầy đủ các điều kiện để sản xuất kinh doanh thuận lợi, an toàn và bền vững.
- Như vậy có thể nói rằng CCN là một dạng KCN nhưng có quy mô nhỏ hơn, mục tiêu chủ yếu thu hút đầu tư phát triển sản xuất tại các làng nghề, ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và do chính quyền địa phương phê duyệt, cấp phép và quản lý. Từ khái niệm KCN, CCN có thể hiểu: Phát triển các khu, cụm công nghiệp là hoạt động của Đảng, Nhà nước, đảng bộ, chính quyền địa phương bằng đường lối, chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm gia tăng số lượng, chất lượng, cơ cấu các khu, cụm công nghiệp, thu hút các nhà đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước, địa phương trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật. Phát triển khu, cụm công nghiệp được thể hiện trên 3 nội dung cơ bản là: Phát triển số lượng các khu, cụm công nghiệp; phát triển các khu, cụm công nghiệp về chất lượng và phát triển cơ cấu các khu, cụm công nghiệp theo yêu cầu của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, địa phương trong từng thời kỳ. 1.1.2. Đặc điểm khu công nghiệp, cụm công nghiệp thành phố Hà Nôị * Đặc điểm khu công nghiệp - Xét về mặt địa lý: KCN là phần lãnh thổ của đất nước, có diện tích tương đối lớn. Mỗi một khu công nghiệp có diện tích rộng hàng trăm đến vài trăm hécta. KCN thường cách xa khu dân cư và không cho phép dân cư sinh sống. - Về mặt kinh tế: Thứ nhất, KCN là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, là nơi tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp với sự tham gia đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các nguồn lực này đóng góp vào phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt nên tại đây thuận lợi cho việc sản xuất - kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu khi xây dựng KCN là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc
- làm, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ và đặc biệt là kiểm soát ô nhiễm môi trường. Thứ hai, KCN là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu phát triển của khoa học công nghệ, kinh nghiệm và trình độ tổ chức quản lý của quốc tế vào quá trình sản xuất. Thực tiễn cho thấy, việc tiếp nhận những thành tựu khoa học, công nghệ trong các KCN có nhiều ưu thế hơn hẳn so với các đơn vị sản xuất, kinh doanh ở ngoài KCN. Bằng cách này, các KCN đã góp phần tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao, tạo ra thế đứng mới cho nền kinh tế. Thứ ba, KCN là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi với hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, bền vững. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư có ý nghĩa quan trọng để thu hút đầu tư vào KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư triển khai nhanh dự án. Thứ tư, KCN có địa bàn rộng thường là vài chục đến vài trăm hécta và là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp. Do vậy, cùng với quá trình hoạt động của mình, KCN có thể kéo theo những hậu quả xã hội nhất định như: Để hình thành KCN, các địa phương đã phải thu hồi một diện tích đất khá lớn mà chủ yếu là đất nông nghiệp, chính điều đó đã dẫn đến một lượng lớn người lao động không có việc làm, nếu không có chính sách giải quyết việc làm tốt sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường. Mặt khác, do việc sử dụng nhiều lao động phổ thông nên các KCN đã thu hút lao động không chỉ của địa phương mà còn của mọi miền đến làm việc và ngụ cư, đối tượng này thường không có nhà ở và thường xuyên có sự biến động về số lượng nên rất khó quản lý và có thể gây sức ép lên hệ thống giao thông, giáo dục, y tế và nhà ở của địa phương. Hơn nữa, trong quá trình vận hành các KCN không thể tránh khỏi những vụ xung đột giữa người sử dụng lao động với người lao động, do tính chất lan truyền và do các doanh nghiệp ở gần nhau nên nếu không giải quyết khéo các xung đột này có thể gây bất ổn cho cả vùng. Thứ năm, KCN là môi trường tốt để đào tạo nguồn nhân lực, lao động được trực tiếp làm việc trong một môi trường có tính kỷ luật và yêu cầu tay
- nghề cao, đã rèn luyện cho lực lượng lao động tại các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài những kỹ năng và bản lĩnh làm việc thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. KCN là một mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới, nhưng chỉ mới xuất hiện ở nước ta kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển các KCN Việt Nam đã khẳng định là một lực lượng công nghiệp mạnh có đóng góp ngày càng lớn trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như: góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế. * Đặc điểm cụm công nghiệp Cụm công nghiệp cũng giống như khu công nghiệp là khu vực dành cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ không có dân cư sinh sống tuy nhiên xét về mặt quy mô cụm công nghiệp có diện tích nhỏ hơn khu công nghiệp: "Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 ha. Trường hợp cần thiết phải mở rộng cụm công nghiệp hiện có thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng không vượt quá 75 ha [24, tr.2]. Cụm công nghiệp do Ủy ban nhân dân tỉnh của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập nhằm mục đích chủ yếu di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất kinh doanh. * Phân biệt CCN với các KCN, KCX - Điểm giống nhau: Khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp có quan hệ mật thiết vì chúng đều là hình thức tổ chức sản xuất theo lãnh thổ và nói chung chúng giống về mục đích, nội dung hoạt động chỉ có khác nhau về mức độ, trình độ phát triển. - Điểm khác nhau: Về quản lý: KCN, KCX do Nhà nước quyết định thành lập và quản lý. CCN do chính quyền địa phương quyết định thành lập và quản lý và khác hoàn
- toàn với khái niệm KCX - chủ yếu liên quan đến vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu. Về quy mô: KCN có quy mô lớn, CCN có quy mô vừa và nhỏ, giới hạn trong địa phương một tỉnh, huyện, hoặc xã. Về trình độ sản xuất: KCN, KCX có trình độ sản xuất hiện đại; CCN là hình thức biểu hiện thấp của KCN, có trình độ sản xuất ở mức trung bình. 1.1.3. Vai trò của khu, cụm CN đối với phát triển kinh tế – xã hôi.̣ Việc phát triển các KCN, KCX và các CCN trong những năm qua thực sự là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy việc thành lập và phát triển các KCN, CCN là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung và mỗi địa phương có KCN, CCN nói riêng. * Góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH và đô thị hóa Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và đang vững bước đi lên. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm 2001-2010 duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước thời kỳ 2001-2005 bình quân mỗi năm tăng 7,51%. Giai đoạn 2005-2010 đã đạt được kết quả là: “ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,6 lần so với giai đoạn 2001-2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao; phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp… đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn