Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích tác động của đào tạo nghề đối với người nông dân tại thành phố Tây Ninh
lượt xem 5
download
Phân tích đánh giá tác động của chương trình đào tạo nghề đã ảnh hưởng như thế nào đến người nông dân được đào tạo nghề tại thành phố Tây Ninh. Do thời gian không cho phép nên tác giả muốn hạn chế đối tượng nên chỉ lấy đối tượng là người nông dân học nghề ở các lớp do Hội Nông dân Thành phố quản lý và qua đó đưa ra một số giải pháp để sử dụng hiệu quả nhất chính sách đào tạo nghề, giúp cho người nông dân tăng được thu nhập và ổn định cuộc sống.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích tác động của đào tạo nghề đối với người nông dân tại thành phố Tây Ninh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------------------ HUỲNH THỊ ÁI NHI PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI NÔNG DÂN TẠI THÀNH PHỐ TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------------------ HUỲNH THỊ ÁI NHI PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI NÔNG DÂN TẠI THÀNH PHỐ TÂY NINH Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 60340402 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Trọng Hoài TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên Tôi xin cảm ơn Thành Ủy Thành phố Tây Ninh, Ủy Ban Nhân Dân Thành phố đã tạo điều kiện cho Tôi được tham gia Chương trình Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công do Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo. Xin cảm ơn quý Thầy, Cô Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu trong thời gian Tôi theo học tại Trường. Xin chân thành gởi lời cảm ơn đến Thầy PGS. TS Nguyễn Trọng Hoài, người đã cho Tôi nhiều kiến thức quý báu và hướng dẫn khoa học của luận văn, Thầy đã tận tình hướng dẫn, định hướng và góp ý giúp cho Tôi hoàn thành luận văn này. Sau cùng, Tôi xin chân thành cảm ơn đến những người bạn, những đồng nghiệp và những người thân đã tận tình hỗ trợ, góp ý và và động viên Tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Xin gởi lời cảm ơn chân thành nhất đến tất cả mọi người! HUỲNH THỊ ÁI NHI
- LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, kết quả do trực tiếp tác giả thu thập, thống kê và xử lý. Các nguồn dữ liệu khác được tác giả sử dụng trong luận văn đều có ghi nguồn trích dẫn và xuất xứ. Thành phố Tây Ninh, ngày 31 tháng 3 năm 2015 Người thực hiện luận văn HUỲNH THỊ ÁI NHI
- 1 TÓM TẮT Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một chủ trương đúng đắn, đã tạo ra cơ hội và điều kiện thuận lợi cho học nghề và cải thiện thu nhập của người lao động khu vực nông thôn trong thời gian qua. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá sự tác động của chính sách đào tạo nghề đến người nông dân tại 03 xã nông thôn Bình Minh, Thạnh Tân, Tân Bình,thuộc Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh bằng phương pháp định tính. Đề tài thực hiện điều tra trực tiếp 5 là cán bộ phòng Lao động thương binh-xã hội, Hội nông dân thành phố, 3 là cán bộ công tác tại Hội nông dân của 3 xã nông thôn; 10 người nông dân đã tham gia học nghề. Sử dụng thông tin điều tra đó để phân tích các mục tiêu đề ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thu nhập; chất lượng cuộc sống của người lao động sau khi tham gia học nghề có nhiều thay đổi. Các yếu tố từ phía người nông dân như trình độ học vấn, thu nhập, sự am hiểu Đề án 1956 và nhận thức lợi ích từ học nghề có ảnh hưởng đến học nghề của người lao động. Các yếu tố như chương trình, nội dung dạy nghề; tuyên truyền, định hướng nghề; đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên;điều tra nhu cầu học nghề; cơ sở vật chất cũng có tác động đến học nghề của người nông dân tại Thành phố Tây Ninh.
- 2 CHƯƠNG I-GIỚI THIỆU 1.1-Lý do chọn đề tài: Việt Nam là một quốc gia có bản chất của nền kinh tế là kinh tế nông nghiệp. Nông nghiệp tuy giảm dần vai trò đóng góp vào GDP quốc gia, nhưng vẫn là nguồn sống chính của hơn một nửa dân số đất nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, năm 2013 nông nghiệp đóng góp 19,3% GDP, năm 2014 đóng góp 18,12% GDP. Tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp thấp so các ngành khác. Ngoài những điểm mạnh mang tính truyền thống như khả năng tự bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và có lợi thế cạnh tranh đối với một số loại cây trồng chính, ngành nông nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế hoặc khó khăn cần được nhận thức rõ. Tuy nhiên, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW, của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X). Các nguồn lực đều được ưu tiên cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có nguồn nhân lực giữ vị trí then chốt, quyết định cho sự thành bại của công cuộc đổi mới này. Để có một nền kinh tế phát triển thì không thể nào chỉ chú ý đến việc làm sao phát triển được nông nghiệp và cũng không được phụ thuộc vào nó mà cần phải thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, thách thức lớn nhất đối với sự phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta hiện nay là việc chuyển lao động ra khỏi nông nghiệp để tăng năng suất lao động và tăng thu nhập của nông dân. Mà để làm được điều này thì phát triển phi nông nghiệp đây là một bước trung gian để đi từ nông nghiệp sang công nghiệp hiện đại. Thành phố Tây Ninh là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội của Tỉnh, có địa bàn mang tính chất nữa nông thôn, nữa thành thị, gồm 07 phường, 03 xã. Diện tích đất tự nhiên 14,000.81 ha, trong đó: diện tích đất sản xuất nông nghiệp 9.333,84 ha chiếm hơn 66,7%, diện tích gieo trồng hàng năm được mở rộng, năng suất nhiều
- 3 cây trồng chính được nâng lên. Theo Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Quyết định 1956 của Hội nông dân thành phố Tây Ninh, tính đến thời điểm tháng 1 năm 2014: dân số của Thành phố Tây Ninh hơn 130.073 người với 89.706 lao động trong độ tuổi lao động, chiếm tỷ lệ hơn 68% dân số, trong đó có việc làm 60.472 lao động chiếm 46,5%, số lao động có nhu cầu học nghề của 03 xã là 1.216 lao động chiếm gần 1%. Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Hiện trên địa bàn thành phố còn nhiều lao động nông thôn chưa được đào tạonghề hoặc được đào tạo nhưng không phát huy được hiệu quả nghề được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn yếu kém. Sự yếu kém này đã dẫn đến còn một bộ phận sản xuất nông nghiệp trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn còn chưa được đào tạo,khai thác đúng, cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao động rất thấp. Khi so sánh với các hoạt động nông nghiệp, hoạt động phi nông nghiệp có thể tạo thêm nhiều việc làm và tạo thu nhập cao hơn cho dân cư nông thôn. Thu nhập phi nông nghiệp cũng có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực vào các hoạt động nông nghiệp khi thất bại thị trường thể hiện trong nông nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng và bảo hiểm. Tuy nhiên, sự tăng trưởng và tầm quan trọng của thu nhập phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn không nên bị cô lập đối với hoạt động nông nghiệp bởi vì cả hai lĩnh vực được liên kết thông qua đầu tư, sản xuất, nguồn nhân lực và các quyết định chi tiêu trong nền kinh tế nông thôn; cả hai lĩnh vực là một phần của chiến lược sinh kế phức tạp của các hộ gia đình nông thôn.
- 4 Chính từ những nhận định trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Nội vụ đã tham mưu Thủ tướng ban hànhQuyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Quan điểm của đề án là bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn; chuyển mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ đào tạo theo năng lực sẵn có của cơ sở đào tạo sang đào tạo theo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và yêu cầu củ a thị trường lao động ; gắn đào tạo nghề với chiến lược , quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước , từng vùng , từng ngành , từng địa phương . Đề án đã làm thay đổi nhận thức của người dân về học nghề và dạy nghề, thay đổi kỹ năng sản xuất giúp cho người lao động đạt năng suất cao hơn... Song vẫn còn tồn tại một số những hạn chế như: chưa bám sát vào quy hoạch, chương trình đề án tái cơ cấu nông nghiệp; nguồn lực còn bị phân tán; chưa gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; mới chỉ tập trung dạy các nghề cũ; thiếu sự gắn kết với các doanh nghiệp; công tác quản lý còn chồng chéo chưa rõ ràng; cơ chế chính sách còn có nhiều bất cập; nội dung chương trình, phương thức tổ chức, cơ chế hỗ trợ người học chưa phù hợp...khiến người nông dân chưa thật sự mặn mà với chính sách đào tạo nghề. Do vậy, để xem xét chính sách đào tạo nghề của Đảng và Nhà nước có thật sự thay đổi thu nhập và đời sống của người nông dân ở khu vực nông thôn tại thành phố Tây Ninh hay không? Tác giả thực hiện nghiên cứu “Phân tích tác động của đào tạo nghề đối với người nông dân tại thành phố Tây Ninh”. Qua đó, đưa ra những kiến nghị cho các nhà chính sách và đơn vị đào tạo nghề tại địa phương cải thiện chính sách, phương thức đào tạo cho phù hợp có thể giải quyết việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống cho người nông dân ở khu vực nông thôn tại Thành phố Tây Ninh. 1.2-Mục tiêu nghiên cứu: -Mục tiêu tổng quát: Phân tích đánh giá tác động của chương trình đào tạo nghề đã ảnh hưởng như thế nào đến người nông dân được đào tạo nghề tại thành
- 5 phố Tây Ninh. Do thời gian không cho phép nên tác giả muốn hạn chế đối tượng nên chỉ lấy đối tượng là người nông dân học nghề ở các lớp do Hội Nông dân Thành phố quản lý và qua đó đưa ra một số giải pháp để sử dụng hiệu quả nhất chính sách đào tạo nghề, giúp cho người nông dân tăng được thu nhập và ổn định cuộc sống. 1.3-Câu hỏi nghiên cứu: -Các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc hưởng ứng của người nông dân đối với chính sách đào tạo nghề? -Những giải pháp nào nâng cao tác động tích cực của chính sách đào tạo nghề đối với người nông dân? 1.4-Kết cấu: Luận văn được chia thành 5 chương như sau: Chương I: Giới thiệu Trình bày khái quát về tình hình, thực trạng công tác đào tạo nghề hiện nay tại Thành phố Tây Ninh và lý do chọn đề tài luận văn. Chương II: Tổng quan Trình bày cơ sở lý thuyết: Về phân tích chính sách; Về nghề và đào tạo nghề cho lao động nông thôn; Về sinh kế bền vững của người nông dân;Sự đa dạng hoá thu nhập nông thôn;Về vai trò, ý nghĩa của đào tạo nghề đối với người nông dân; Một số qui định liên quan đến công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” và một số kinh nghiệm trong đào tạo nguồn nhân lựcở các nước bạn gần Việt Nam. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho Thành phố Tây Ninh trong công tác đào tạo nghề và xây dựng mô hình lý thuyết cho nghiên cứu. Chương III: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu Trình bày những yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia của người nông dân đối với chính sách đào tạo nghề. Trình bày thiết kế phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu.
- 6 Trình bày việc thực hiện các bước nghiên cứu định tính. Chương IV: Phân tích tác động chính sách đào tạo nghề Thực hiện các bước phân tích và đưa ra kết quả nghiên cứu, thông qua việc đánh giá các phiếu khảo sát chuyên gia, học viên tham gia đào tạo nghề. ChươngV: Kết luận và kiến nghị Trình bày tóm tắt những kết quả chính của nghiên cứu, mục tiêu của chính sách, từ đó gợi ý giải pháp nâng cao công tác đào tạo nghề tại Thành phố Tây Ninh, và hàm ý nghiên cứu cho các nhà quản lý cũng như những hạn chế của nghiên cứu để định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo.
- 7 CHƯƠNG II-TỔNG QUAN 2.1.Lý thuyết 2.1.1 Phân tích chính sách: Phân tích chính sách là một ngành học về giải quyết vấn đề, dựa vào những phương pháp và kết quả nghiên cứu quan trọng của khoa học xã hội, những nghề nghiệp xã hội, và triết lý chính trị. Có một số cách định nghĩa thuật ngữ phân tích chính sách. Định nghĩa được sử dụng trong cuốn sách này là: phân tích chính sách là một quy trình điều tra có tính đa ngành được thiết kế nhằm tạo ra, đánh giá một cách phê phán, và truyền đạt thông tin giúp ích cho việc hiểu và cải thiện chính sách. Phân tích chính sách có phần mang tính mô tả vì nó dựa vào các môn khoa học xã hội để đưa ra và biện minh cho những lời khẳng định về những nguyên nhân và kết quả của các chính sách. Tuy nhiên nó cũng mang tính chuẩn tắc. Để đánh giá những lời khẳng định về độ thỏa dụng kỳ vọng và giá trị đạo đức của các chính sách, phân tích chính sách dựa vào kinh tế học, phân tích ra quyết định, đạo đức học và những ngành triết lý chính trị và xã hội khác. Khía cạnh chuẩn tắc này của phân tích chính sách là cần thiết bởi vì nó liên quan tới sự chọn lựa những kết quả mong muốn (mục đích) và những phương hướng hành động được ưa thích hơn (phương tiện), vốn là một quy trình dựa vào lập luận về đạo đức. Sự chọn lựa những mục đích và phương tiện đòi hỏi những sự đánh đổi liên tục giữa các giá trị cạnh tranh với nhau như tính công bằng, hiệu quả, an ninh, tự do, và nền dân chủ. 2.1.2Nghề và đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Nghề là một tập hợp lao động do sự phân công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất hay do nhu cầu xã hội. Có thể nói nghề chính là phương tiện để con người sinh sống. Nghề biến đổi một cách mạnh mẽ và gắn chặt với xu hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- 8 Dạy nghề (theo Luật dạy nghề năm 2006) là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để họ có thể tìm được việc làm và tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học. Luật cũng qui định có ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và về hình thức của hoạt động dạy nghề bao gồm cả dạy chính qui và dạy nghề thường xuyên. Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao động và tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Lao động nông thôn là những người dân không phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống ở vùng nông thôn, có đội tuổi từ 15 trở lên, hoạt động sản xuất ở nông thôn. Trong đó bao gồm những người đủ các yếu tố về thể chất, tâm sinh lý trong độ tuổi lao động theo qui định của Luật lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có khả năng tham gia sản xuất, trong một thời gian nhất định họ hoàn thanh công việc với kết quả đạt được một cách tốt nhất Lao động qua đào tạo nghề là những người hoàn thành ít nhất một chương trình đào tạo của một nghề tại một cơ sở dạy nghề (gồm cả các cơ sở sản xuất kinh doanh) và được cấp văn bằng chứng chỉ nghề hoặc được thừa nhận theo các qui định hiện hành. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó cho người lao động ở khu vực nông thôn, từ đó tạo ra năng lực cho người lao động đó có thể thực hiện thành công nghề đã được đào tạo. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề và tạo điều kiện thuận lợi để lao động nông thôn tham gia học nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của họ. 2.1.3 Sinh kế bền vững của người nông dân: Khái niệm sinh kế được giải thích như sau: "Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (dự trữ, nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận) và các hoạt động cần có để bảo đảm phương tiện sinh sống: sinh kế'chỉ bền vững khi nó có thể đương đầu với và phục
- 9 hồi sau các cú sốc, duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản, và cung cấp các cơ hội sinh kế' bền vững cho các thế' hệ kế' tiếp; và đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế' khác ở cấp độ địa phương hoặc toàn cầu, trong ngắn hạn và dài hạn." (Chambers & Conway, 1991, p.6). Theo khung phân tích sinh kế xác định có 5 nhóm tài sản, hay còn được hiểu là “vốn” mà sinh kế dựa vào. Các tài sản này bao gồm tài sản (hoặc là vốn) con người, tự nhiên, vật chất, tài chính và xã hội. Cần gia tăng khả năng tiếp cận của người nông dân đến các tài sản sinh kế này bằng cách giúp họ có khả năng sở hữu hay sử dụng hiệu quả các vốn sinh kế này hay được hiểu là hỗ trợ sinh kế và giảm nghèo cho họ. Tài sản con người (vốn con người) thể hiện kỹ năng, sự hiểu biết, kiến thức, khả năng của lao động và tình trạng sức khỏe tốt giúp cho con người có khả năng theo đuổi các chiến lược sinh kế khác nhau và đạt được mục tiêu sinh kế của họ. Ở cấp độ hộ gia đình, tài sản con người bao gồm số lượng và chất lượng của lao động. Số lượng và chất lượng của lao động biến động theo quy mô hộ gia đình, kỹ năng, tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần, năng lực lãnh đạo, v.v. Tài sản con người có thể được diễn giải băng các chỉ báo về giáo dục, kiến thức bản địa, số lượng lao động, kỹ năng của lao động, tuổi thọ, số trẻ em suy dinh dưỡng, v.v. Vốn con người là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tích luỹ trong mỗi con người nhờ quá trình học tập, rèn luyện và lao động. Nguồn vốn này được khai thác sử dụng trong quá trình người lao động tham gia vào sản xuất và được phản ánh qua qua năng xuất lao động và hiệu quả công việc của họ. Cùng với vốn hữu hình nó tạo ra tài sản của nền kinh tế, nhưng vốn con người là phần cấu thành quan trọng nhất trong đó, góp phần vào tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế của mỗi nước. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Con người được coi là một ''tài nguyên đặc biệt'', một nguồn lực của sự phát triển
- 10 kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta khẳng định đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong hoạt động đầu tư, tính hiệu quả của các dự án đầu tư phụ thuộc vào thời điểm đầu tư, nếu lựa chọn đúng thì hiệu quả cao và đầu tư sai thì hiệu quả thấp hay thất bại. Vốn con người được tích luỹ thông qua quá trình đầu tư theo thời gian, tuy nhiên lượng vốn này cao hay thấp còn phụ thuộc vào thời điểm đầu tư vào giáo dục của một con người. Nếu lao động nông thôn được đào tạo sớm, đúng tuổi khi đó họ nhận được kỹ năng, kiến thức nghề nghiệp lúc trẻ, tức là đầu tư đúng thời điểm và việc tích luỹ vốn tốt nhất, tích luỹ được nhiều kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,…. Chính nhờ những điều đó mà lao động nông thôn sẽ tự tạo việc làm cho mình, tăng năng suất và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, mà điều quan trọng hơn là họ biết cải tiến kỹ thuật và quản lý hiệu quả hơn. Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Yếu tố con người, vốn con người đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nhờ có nền tảng đào tạo nghề, người lao động nâng cao được kiến thức và kỹ năng nghề của mình, qua đó nâng cao năng xuất lao động, tăng thu nhập; góp phần bảo đam an sinh xã hội. Ở khu vực nông thôn Việt Nam, hoạt động nghề nghiệp chủ yếu vẫn là nông nghiệp. Vì vậy số lao động nông nghiệp của hộ chiếm số lượng nhiều nhất, trung bình 1,89 lao động/hộ cho các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi. Lao động làm công làm thuê cho người khác và làm việc phi nông nghiệp chỉ ở mức trung bình 1,37 người. Số lao động phi nông nghiệp chỉ chiếm 14,4% tổng lao động của hộ gia đình (0,47 lao động so với 3,27 lao động). Điều này cho thấy các hoạt động nông nghiệp vẫn có vai trò chủ đạo ở khu vực nông thôn và sự đa dạng hóa các hoạt động sinh kế, nhất là các hoạt động phi nông nghiệp vẫn còn hạn chế.
- 11 Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với đô thị hóa một diện tích đáng kể đất nông nghiệp đã và sẽ được chuyển thành đất xây dựng nhà ở, khu công nghiệp. Từ đó, sẽ thúc đẩy gia tăng số lượng những người lao động phi nông nghiệp. Đào tạo nghề cho nhóm đối tượng này là một vấn đề cấp thiết. Theo thống kê của Tổng Cục dạy nghề, tính từ năm 2010 đến hết tháng 6/2013 đã hỗ trợ dạy nghề theo chính sách của Đề án được 1.294.608 người. Trong đó 78,9% có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ với năng suất thu nhập cao hơn, 44,1% có việc làm nông nghiệp, 23,5% được doanh nghiệp tuyển dụng… Người học nghề nông nghiệp đã tiếp thu được kiến thức, kỹ năng cơ bản để hành nghề trồng trọt, chăn nuôi, góp phần nâng cao chất lượng và giảm chi phí sản xuất, thu nhập. Việt Nam là một nước đang phát triển và đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% lao động nông nghiệp, nông thôn, trong đó đa phần có kỹ năng nghề rất thấp; sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính truyền thống. Điều này cho thấy để bắt kịp trình độ của thế giới, Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều để tạo ra sự bứt phá mạnh mẽ, trong đó quan trọng nhất là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn. Việt Nam là nước có lực lượng lao động đông và trẻ nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo lại thấp. Do chất lượng của lao động còn hạn chế nên năng suất lao động thấp hơn nhiều các nước trong khu vực, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh chung của nền kinh tế, đặc biệt là về xuất khẩu lao động. Để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ mục tiêu phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã quyết định đổi mới toàn diện hệ thống dạy nghề gồm từ đổi mới công tác quản lý đến nội dung, chương trình và các điều kiện đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất của các cơ sở, trung tâm dạy nghề... Việc dạy nghề cho lao động nông thônsẽ giúp cho hàng nghìn hộ gia đình thoát nghèo. Qua đào tạo, dù là nghề nông nghiệp hay phi nông nghiệp, sau khi hoàn thành chương trình tại các lớp đào tạo nghề, cũng sẽ giúp phần lớn người lao
- 12 động phát huy được nghề ngay tại địa phương hoặc mạnh dạn đầu tư vào mô hình chăn nuôi sản xuất của mình để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ những nhận định trên, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là biện pháp quan trọng để nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới.Định hướng cho hoạt động của Đề án 1956 trong thời gian tới, các địa phương cần bảo đảm các nghề nông nghiệp phải phù hợp với quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch sản xuất nông nghiệp và yêu cầu tái cấu trúc ngành nông nghiệp; các nghề phi nông nghiệp phải xuất phát từ quy hoạch sản xuất công nghiệp, dịch vụ, quy hoạch phát triển tiểu thủ công nghiệp, nhu cầu sử dụng lao động theo vị trí làm việc của doanh nghiệp. Chỉ tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn khi xác định được nơi làm việc và mức thu nhập với việc làm có được sau khi học nghề. 2.1.4 Đa dạng hoá thu nhập của người nông dân: Trong nông nghiệp, đa dạng hoá có nghĩa là tăng chủng loại sản phẩm nông nghiệp hoặc dịch vụ do nông dân làm ra. Trong nhiều năm, đa dạng hoá đã là một chiến lược truyền thống của các nông hộ để đối phó với các rủi ro và duy trì an toàn lương thực (Ahmad và Isvilanonda, 2003). Nó thuần tuý chỉ là sự phản ứng của các nông dân sản xuất tự cung tự cấp để giảm các rủi ro do các yếu tố mùa vụ, thời tiết, sinh học và khí hậu gây ra. Từ đầu thập niên 1960, đa dạng hoá sản xuất ra khỏi các mặt hàng lương thực đã tăng nhanh và càng được thúc đẩy bởi sự phát triển nhanh của khoa học nông nghiệp, cơ sở hạ tầng được cải thiện, thay đổi nhu cầu về dạng lương thực, và tự do thương mại. Trong một nền nông nghiệp hiện đại, đa dạng hoá là sự đáp ứng của nông dân đối với các cơ hội mới của thị trường dựa vào tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật, bao gồm việc chuyển từ các cây trồng có giá trị thấp sang các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao hơn, và từ sản xuất các cây trồng truyền thống sang sản xuất hàng hoá chăn nuôi, lâm nghiệp, và thuỷ sản hoặc sang các hoạt động tạo thu nhập phi nông nghiệp (IFPRI and JBIC 2003).
- 13 Một định nghĩa đa dạng hóa thu nhập, có lẽ gần gũi nhất với ý nghĩa ban đầu của từ, đó là sự gia tăng số lượng các nguồn thu nhập hay sự cân bằng giữa các nguồn thu nhập khác nhau. Như vậy, một hộ gia đình với hai nguồn thu nhập sẽ đa dạng hơn so với một hộ gia đình chỉ với một nguồn thu nhập, và một hộ gia đình có hai nguồn thu nhập, mỗi nửa góp phần trong tổng số, sẽ đa dạng hơn so với một hộ gia đình với hai nguồn, mà một trong hai đóng góp 90% tổng số (Theo Joshi et al 2002;. Ersado 2003). “Đa dạng hoá là thương mại hóa nông nghiệp. Nó không nhất thiết liên quan đến sự gia tăng số lượng hoặc cân đối các nguồn thu nhập. Ví dụ, một nông dân có thể di chuyển từ sản xuất ngũ cốc khác nhau, củ và các loại rau tiêu thụ riêng để chuyên một hoặc một vài cây trồng khác. Đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp thường có ngụ ý là sự đa dạng hơn trong nguồn thu nhập (định nghĩa đầu tiên), nhưng điều này không phải là luôn luôn như vậy. Ví dụ, nếu một hộ gia đình làm tăng tỷ lệ thu nhập từ các nguồn phi nông nghiệp từ 30% đến 75%, điều này thể hiện đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp nhưng không phải là sự đa dạng hoá thu nhập về số lượng và cân đối của các nguồn nhu nhập. Tỷ lệ thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp thường tương quan với tổng thu nhập, Định nghĩa này của đa dạng hóa thu nhập có liên quan đến các khái niệm của sự chuyển dịch cơ cấu ở cấp quốc gia, được định nghĩa là sự suy giảm lâu dài trong sự đóng góp tỷ lệ phần trăm của ngành nông nghiệp đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và việc làm trong nền kinh tế đang phát triển. Cuối cùng, đa dạng hóa thu nhập có thể được xem như quá trình chuyển đổi từ sản xuất cây trồng có giá trị thấp sang các cây trồng có giá trị cao, chăn nuôi, và các hoạt động phi nông nghiệp. “Cây trồng có giá trị cao” thường được xác định theo giá trị trên một đơn vị trọng lượng, là loại cây trồng tạo ra lợi nhuận kinh tế cao trên một đơn vị lao động, đất đai. Định nghĩa này tập trung vào đa dạng hóa như một nguồn tăng trưởng thu nhập và một phương tiện tiềm năng để giảm nghèo. Trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, vai trò của phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn bao gồm công nghiệp và dịch vụ là rất quan trọng. Sự phát
- 14 triển đó có tác dụng tạo việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn; phát triển thị trường nông thôn, tăng giá trị gia tăng cho nông nghiệp. Khu vực kinh tế phi nông là cầu nối giữa nông nghiệp hàng hóa (thường đứng trong sự mâu thuẫn giữa tăng năng suất và giảm giá) và sinh kế tạo ra trong công nghiệp và dịch vụ đô thị. Hơn một nửa thu nhập ở nông thôn là từ phi nông nghiệp nên nó là cái thang để từ không có việc làm đến có việc làm thường xuyên trong kinh tế nông thôn. Theo tính toán của Bộ NN&PTNT, hiện nay cả nước có khoảng hơn 25 triệu lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 55,7% tổng lao động của cả nước, và mỗi năm có thêm khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động. Như vậy, theo mục tiêu, mỗi năm sẽ có khoảng 2 triệu lao động nông thôn cần được đào tạo nghề để chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Vấn đề đào tạo nghề và tạo việc làm cho nông dân có vai trò hết sức quan trọng để từ ng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân vừa bảo đảm an sinh xã hội vừa góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. Sau khi được đào tạo nghề, lao động nông thôn nhờ học được kiến thức mới, trong sản xuất nông nghiệp, nhiều gia đình đã biết áp dụng tiến bộ kỹ thuật nên năng suất cây trồng, vật nuôi, cao hơn trước. Số lao động được học nghề ngày càng gia tăng, qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Qua đó, đã giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động nông thôn , tạo ra cơ hội cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chính vì vậy, các cấp lãnh đạo cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp về tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, làm rõ mục đích, ý nghĩa dạy nghề cho lao động nông thôn góp phần nâng cao chất lượng lao động nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động; kiện toàn cơ cấu tổ chức, phân rõ trách nhiệm vào bảo đảm nguồn lực để tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn, làm tốt công tác phân luồng trung học cơ sở, trung học phổ thông tham
- 15 gia học nghề, hoàn thiện Quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; tăng cường vai trò cơ sở, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và chương trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng và nhân rộng các mô hình dạy nghề có hiệu quả, gắn với doanh nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh… 2.1.5 Vai trò của đào tạo nghề đối với nâng cao thu nhập người nông dân: Vai trò của đào tạo nghề đối với đảm bảo an sinh xã hội xuất phát từ khía cạnh lợi ích cá nhân của con người. Như vậy đầu tư cho đào tạo nghề chính là sự đầu tư cho từng cá nhân, dưới giác độ xã hội tạo ra chất lượng nguồn nhân lực với các “tầng” khác nhau (trình độ cao, trình độ phổ quát, đại trà) và do đó, mang lại không chỉ lợi ích kinh tế quốc dân mà còn thực hiện đảm bảo an sinh xã hội quốc gia. Có thể thấy, đào tạo nghề thực chất là trang bị cho mỗi cá nhân một trình độ và kỹ năng nhất định, qua đó mang lại cho họ việc làm và thu nhập. Người có chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng nghề tốt, cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và ít có nguy cơ thất nghiệp; tỷ lệ thất nghiệp của những người qua đào tạo nghề thấp hơn nhiều so với lao động phổ thông, thậm chí còn thấp hơn cả tỷ lệ thất nghiệp của những người tốt nghiệp đại học. Đây chính là động lực để người lao động đầu tư vào đào tạo nghề. Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đã nêu rõ: “Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thể giới;… lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5-2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội được đảm bảo…thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư…”. Đây là một định hướng rất rõ ràng về phát triển kinh tế- xã hội đất nước, trong đó khẳng định vai trò của đào tạo nghề đối với việc đảm bảo an sinh xã hội. Mục tiêu tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề là tiền đề, là điều kiện và cơ hội để người lao động có được công ăn, việc làm tử tế, có thu nhập ổn định. Khi người lao động có kỹ năng nghề thì họ có cơ hội tốt hơn tham gia vào thị trường lao động và như vậy, làm tăng tỷ lệ người lao động có việc làm; điều này
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn