intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Dự án 661 giai đoạn 1999 - 2008 tại tỉnh Hoà Bình

Chia sẻ: Tri Lễ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

24
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm tổng kết và đánh giá được kết quả trồng rừng phòng hộ, các biện pháp kỹ thuật, cơ chế chính sách, suất đầu tư, các mô hình lâm sinh đã áp dụng trong Dự án 661 giai đoạn 1999 - 2008 tại tỉnh Hoà Bình; phân tích các khoảng trống, sự thiếu hụt trong hướng dẫn kỹ thuật, suất đầu tư và việc áp dụng trong thực tiễn Dự án 661 trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Dự án 661 giai đoạn 1999 - 2008 tại tỉnh Hoà Bình

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ******** TRẦN THỊ NGA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRỒNG RỪNG PHÒNG HỘ ĐẦU NGUỒN DỰ ÁN 661 GIAI ĐOẠN 1999 - 2008 TẠI TỈNH HOÀ BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ******** TRẦN THỊ NGA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRỒNG RỪNG PHÒNG HỘ ĐẦU NGUỒN DỰ ÁN 661 GIAI ĐOẠN 1999 - 2008 TẠI TỈNH HOÀ BÌNH Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ ĐẠI HẢI HÀ NỘI - 2009
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng có vai trò rất to lớn trong việc cung cấp lâm sản, bảo tồn đa dạng sinh học, du lịch sinh thái và phòng hộ môi trường. Ngày nay, giá trị phòng hộ môi trường đã vượt xa giá trị cung cấp lâm sản truyền thống. Là một nước nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, với 3/4 diện tích là đồi núi và thường xuyên phải chịu những trận mưa, bão lớn thì rừng phòng hộ, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn có vai trò rất quan trọng đối với nước ta. Xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn cũng là giải pháp có hiệu quả để phòng chống nguy cơ sa mạc hoá đất vùng đồi núi, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho hàng chục triệu người, cung cấp thêm nhiều loại gỗ và lâm sản ngoài gỗ có giá trị phục vụ cuộc sống và phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Lưu vực sông Đà có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và môi trường của nước ta. Trên sông Đà đã xây dựng hồ thuỷ điện Hoà Bình vào năm 1979 và tháng 12/1994 hồ được chính thức đưa vào sử dụng. Hồ chứa xây dựng nhằm giải quyết những nhiệm vụ chính như: chống lũ cho Thủ đô Hà Nội và đồng bằng sông Hồng; phát điện; cung cấp nước tưới cho hạ lưu; giao thông vận tải đường thuỷ; thuỷ sản, cải tạo môi trường vùng sông Đà và phát triển du lịch. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vùng đầu nguồn sông Đà, ngày 11/12/1989 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 354-CT phê chuẩn quy hoạch vùng đất xây dựng hệ thống rừng phòng hộ sông Đà và thuỷ điện Hoà Bình, trong đó diện tích lưu vực tại Hòa Bình là 159.860 ha; tiếp đó ngày 15/6/1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 219 - CT phê duyệt dự án đầu tư xây dựng vùng kinh tế phòng hộ xung yếu ven hồ Hoà Bình. Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình phạm vi đất vùng dự án nằm trong địa phận các huyện: Đà Bắc, Tân Lạc, Kỳ Sơn, Mai Châu, thị xã Hoà Bình.
  4. 2 Do rừng phòng hộ đầu nguồn bị tàn phá mạnh nên sau nhiều năm đưa vào sử dụng, lòng hồ Hòa Bình đã bị bồi lắng rất nhiều, nguy cơ giảm tuổi thọ sử dụng của hồ là rất lớn. Bên cạnh đó lưu lượng nước ở lòng hồ cũng thay đổi khá mạnh, lũ lớn vào mùa mưa và thiếu nước vào mùa khô, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống người dân. Là một thủy điện lớn nhất quốc gia và nổi tiếng khu vực Đông Nam Á, khu vực phòng hộ thủy điện Hòa Bình được rất nhiều các Dự án phát triển lâm nghiệp trong nước và quốc tế quan tâm như dự án 661, Dự án 472 (trước đây là 747), Dự án RENFODA, Dự án Lâm nghiệp xã hội sông Đà,… với mục tiêu cao nhất là phát triển rừng phòng hộ, tăng độ che phủ của rừng trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống người dân địa phương. Dự án 661 tỉnh Hòa Bình được triển khai từ năm 1999 (năm 1998 là năm chuẩn bị) với mục tiêu bảo vệ diện tích rừng hiện có, tăng độ che phủ của rừng, góp phần đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thủy, sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống đồi núi trọc tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo,… trong đó mục tiêu quan trọng nhất của Dự án là xây dựng rừng phòng hộ cho khu vực phòng hộ Sông Đà. Sau 10 năm thực hiện (1999 - 2008) Dự án 661, trên toàn tỉnh Hoà Bình đã trồng được 20.260,46 ha rừng, trung bình đạt 2.026,046 ha/năm. Với những kết quả đó, Dự án 661 đã góp phần quan trọng trong việc nâng độ che phủ của rừng toàn tỉnh từ 38% (năm 1999) lên 45% (năm 2008). Kết quả và ý nghĩa mà Dự án 661 mang lại trong việc xây dựng và phát triển rừng trồng phòng hộ là rất lớn đối với tỉnh Hoà Bình. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu, đánh giá nào một cách toàn diện và hệ thống về vấn đề này, chủ yếu mới dừng lại đánh giá tình hình triển khai thực hiện kế hoạch. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài "Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Dự án 661 giai đoạn 1999 - 2008 tại tỉnh Hoà Bình"
  5. 3 đặt ra là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn to lớn nhằm tổng kết và đánh giá được kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Dự án 661 tại tỉnh Hoà Bình, rút ra những bài học kinh nghiệm cũng như đề xuất một số khuyến nghị cho việc phát triển mở rộng.
  6. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Đánh giá dự án Ngày nay, “Dự án” đã được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Dự án có nhiều quy mô khác nhau, có những dự án tầm cỡ quốc tế, quốc gia, có những dự án của doanh nghiệp và có cả những dự án của cá nhân hay hộ gia đình [7]. - Theo Cleland và King (1975): Dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố nhân lực và trí lực trong một thời gian nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể. Vấn đề quan trọng được đặt ra là dự án phải có mục tiêu nhất định và quá trình thực hiện dự án phải hướng tới các mục tiêu đó. - Theo Clipdap: Dự án là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một vấn đề hay hoàn thiện một trạng thái đặc biệt nào đó. Nội dung được nhấn mạnh ở đây là các hoạt động có tính định hướng của dự án để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó. - Theo tài liệu hội thảo PIMES [15] đã đưa ra hai khái niệm: + Dự án là quá trình gồm các hoạt động đã được lập kế hoạch nhằm đạt được những thay đổi mong muốn hoặc đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó. + Dự án là quá trình phát triển có kế hoạch, được thiết kế nhằm đạt được mục tiêu cụ thể với khoản ngân sách xác định trong thời gian xác định. Thông thường thì trong vòng 3 năm hoặc 5 năm sau khi kết thúc dự án thì các Bộ hay Công ty độc lập sẽ tiến hành đánh giá dự án. Tâm điểm là đánh giá tác động và tính bền vững của dự án so với mục tiêu ban đầu. Trong sổ tay hướng dẫn Giám sát đánh giá của Ngân hàng thế giới cũng đã đưa ra nhiều khái niệm và phương pháp đánh giá tác động cho các dự án. Tuy nhiên, tất cả
  7. 5 chỉ mang tính khái quát chung chung do đó việc áp dụng các lý thuyết và hướng dẫn này cũng cần phải linh hoạt [60]. Trong quá trình thực hiện dự án, hoạt động đánh giá có thể được tiến hành vào những giai đoạn quan trọng, thường gọi là đánh giá giai đoạn (Gittinger 1982). Có nhiều tác giả cho rằng, điều quan trọng là phải tiến hành đánh giá có sự tham gia của các bên có liên quan mà quan trọng nhất là người hưởng lợi từ dự án [55]. Theo tài liệu nghiên cứu của các tác giả trên thế giới như Jim Woodhill, Lisa Robins, Joachim Theis, Heather. M. Grady [dẫn theo 16] đã phân chia thành hai loại đánh giá: Đánh giá mục tiêu và đánh giá tiến trình. Đánh giá mục tiêu là xem xét liệu dự án có đạt được mục tiêu đã định hay không, nó tập trung vào phân tích các chỉ số đo đạc hiệu quả thu được. Đánh giá tiến trình là mở rộng diện đánh giá hơn so với loại đánh giá trên, sử dụng tri thức và hiểu biết của nhiều người để xem xét nhiều vấn đề của dự án. Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở đánh giá hiệu quả dự án trong đó có hiệu lực thực thi. Từ sau năm 1990 các hoạt động đánh giá được thực hiện đã bao gồm cả đánh giá tác động dự án, tức là xem xét các hoạt động của dự án đó có bền vững sau khi dự án kết thúc không (John et al, 2000). Hiện nay, việc đánh giá tác động được coi như bắt buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá, bao gồm tất cả các thay đổi về sinh thái, văn hoá - xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem lại bởi các hoạt động của một chương trình, dự án. FAO (1979) đã xuất bản tài liệu “Phân tích các dự án Lâm nghiệp” do Hans M - Gregersen và Amoldo H. Contresal biên soạn. Đây là tài liệu giảng dạy dùng cho các địa phương mà tổ chức FAO có đầu tư dự án trồng rừng và phát triển lâm nghiệp; tài liệu này tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện
  8. 6 đánh giá hiệu quả các dự án lâm nghiệp ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. FAO [49] nhấn mạnh việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường khi đưa ra các báo cáo tham luận về lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng. Cũng theo FAO [52], một dự án đầu tư trong lâm nghiệp dù có đạt được hiệu quả tài chính cao (NPV, IRR, B/C...) nhưng chưa đạt được hiệu quả xã hội (giải quyết việc làm tạo thêm thu nhập cho cộng đồng,...) và hiệu quả môi trường (ô nhiễm, xói mòn đất,...) thì không được coi là một dự án bền vững. 1.1.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng Để có cơ sở khoa học cho việc xây dựng và quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn thì việc tìm hiểu nguyên nhân xói mòn và hiện tượng xói mòn của đất vùng đầu nguồn rất được quan tâm. Nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu ảnh hưởng của kích thước hạt mưa, cường độ mưa, phân bố mưa tới xói mòn đất như công trình nghiên cứu của Hudson HW (1971), Zakharop P.X (1981). Ảnh hưởng của các yếu tố độ dốc, chiều dài dốc, loại đất, lớp thực bì cũng được quan tâm nghiên cứu và công bố rộng rãi trong nhiều công trình khoa học của các tác giả như Smith D.D và Wischmeier W.H (1957), Ching J.G (1978), Giacomin (1992). Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn đất và dòng chảy được nhà bác học Volni người Đức thực hiện trong thời kỳ 1877 đến 1885 (Hudson N, 1981 [11]). Những ô thí nghiệm được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: Thực bì, loại đất, độ dốc mặt đất, lượng mưa tới dòng chảy và xói mòn đất. Trong công trình này Volni cũng nghiên cứu ảnh hưởng của loại đất và độ dốc mặt đất tới dòng chảy và xói mòn đất. Tuy nhiên, phần lớn các kết luận chưa được định lượng rõ ràng. Bằng thí nghiệm trong phòng, Ellison (theo Hudson N, 1981 [11]) thấy rằng các loại đất khác nhau có biểu hiện khác nhau trong các pha xói mòn đất
  9. 7 do nước. Ellison là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của lớp phủ thực vật trong việc hạn chế xói mòn đất và vai trò cực kỳ quan trọng của hạt mưa rơi đối với xói mòn. Phát hiện của Ellison đã mở ra một phương hướng mới trong nghiên cứu xói mòn đất, đã làm thay đổi quan điểm nghiên cứu về xói mòn và khẳng định khả năng bảo vệ đất của lớp thảm thực vật. Kết quả quan trọng của nghiên cứu xói mòn và khả năng bảo vệ đất, bằng các kết quả nghiên cứu thực nghiệm các nhà nghiên cứu đã xây dựng được phương trình mất đất ở trường Đại học Tổng hợp Pardiu (Mỹ) vào cuối năm 1950 (Hudson N, 1981 [11]). Sau đó phương trình này được W. H, Wischmeier hoàn chỉnh dần (W. H, Wischmeier, 1978 [61]). Phương trình mất đất làm sáng tỏ vai trò của từng nhân tố ảnh hưởng tới xói mòn. Nó còn có tác dụng định hướng cho nhiều nghiên cứu sau này nhằm xác định quy luật xói mòn và nghiên cứu các mô hình canh tác bền vững ở các khu vực có điều kiện địa lý khác nhau. Việc nghiên cứu định lượng ảnh hưởng của các yếu tố tới xói mòn đất lần đầu tiên được V.A. Sing (1940) đưa ra khi tìm cách xác định ảnh hưởng của chiều dài sườn dốc (L) và độ dốc (S) đến hoạt động của xói mòn. Sau đó Smith D.D (1941) đã xác định lượng đất xói mòn cho phép và lần đầu tiên đã đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố cây trồng (C), cũng như việc áp dụng các biện pháp bảo vệ đất (P) ở các mức độ khác nhau đến xói mòn đất bằng các công trình nhân tạo. Tiếp đó, nhiều phương trình dự báo xói mòn đã được nghiên cứu và công bố, trong đó phương trình của Wischmeier W.H - Smith D.D đã được thừa nhận và ứng dụng rộng rãi. Lượng nước mưa giữ lại trên tán là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng giữ nước, từ đó ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ của rừng. Các công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lượng nước mưa giữ lại trên tán lá rừng lá kim ôn đới chiếm tới 20 - 40% (Vương Lễ Tiên và Lý Á Quang, 1991 [41].
  10. 8 Những nghiên cứu về tỷ lệ lượng mưa ngăn giữ bởi tán rừng ở các kiểu thảm thực vật rừng tương ứng với các đới khí hậu khác nhau ở Trung Quốc cho thấy, phạm vi biến động của tỷ lệ lượng mưa bị ngăn giữ lại trong khoảng 11,4 - 34,3%, hệ số biến động 6,68 - 55,05%, trong đó tỷ lệ lượng nước mưa giữ lại trên tán rừng lá kim thường xanh á nhiệt đới, trên núi cao ở miền Tây là lớn nhất, của rừng hỗn giao cây lá rộng thường xanh với cây lá rộng rụng lá á nhiệt đới, miền núi là nhỏ nhất (Vu Chí Dân - Christohp Peisert - Dư Tân Hiểu (2001) [5]. Lượng nước mưa lọt tán đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu. Tuy nhiên, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu đảm bảo được độ tin cậy cần thiết khi đưa ra số liệu về thành phần cân bằng nước này (Bruijnzeel L A, 1990a, 1990b) [44], [45]. Nhìn chung, thành quả nghiên cứu lượng nước mưa lọt tán còn rất khiêm tốn, mới đưa ra một số thông tin ban đầu như: tỷ lệ phần trăm lượng nước mưa lọt tán so với tổng lượng mưa của các loại rừng thường đạt từ 75% trở lên, phụ thuộc vào cấu trúc tán lá, chỉ số diện tích lá, đặc điểm mưa và nhân tố gió; năng lượng nước mưa lọt qua tán ở rừng cây gỗ thường lớn hơn năng lượng của mưa ngoài nơi trống; hàm lượng chất dinh dưỡng khoáng trong thành phần của nước mưa lọt tán cao hơn so với nước mưa ngoài nơi trống (Jordan và C. F Herrea 1981) [54]. Vật rơi rụng có khả năng ngăn giữ nước tương đối lớn, nên có tác dụng bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật (Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên, 2001) [6]. Ngoài ra, do vật rơi rụng có những lỗ hổng lớn và nhiều hơn so với đất, nên lượng nước ngăn giữ lại dễ dàng bốc hơi đi. Những nghiên cứu của Black và Kelliher (1998) (dẫn theo Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên, 2001) [6] cho thấy rằng, lượng nước bốc hơi từ vật rơi rụng của các kiểu rừng khác nhau chiếm khoảng 3 - 21% tổng lượng nước bốc hơi trên mặt đất rừng.
  11. 9 Nhìn chung, đất rừng tự nhiên có khả năng thấm nước cao và ít khi xuất hiện dòng chảy bề mặt (Doulass 1997 [46]; Pritchett, 1979 [dẫn theo 57]). Tuy nhiên, khi rừng bị chặt hạ trở nên thưa thớt và độ dốc mặt đất lớn, có thể tạo ra nhiều lượng nước chảy trên bề mặt (Ruxton B P, 1967 [58]; Imeson A C và Vis, 1982 [53]). Cấu trúc rừng có ý nghĩa rất lớn, nó quyết định đến khả năng phòng hộ của rừng. Việc nghiên cứu cấu trúc rừng nhằm tìm ra những cấu trúc hợp lý, có khả năng phòng hộ cao là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ. Công trình nghiên cứu của Moltranov A.A (1960, 1973) và Matveev P.N. (1973) là những công trình lớn đề cập tới cấu trúc rừng phòng hộ đầu nguồn nước. Với trang thiết bị tạo mưa nhân tạo, các tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố cấu trúc tới khả năng điều tiết nước, bảo vệ đất của rừng như: cấu trúc tổ thành loài, cấu trúc tuổi, cấu trúc tầng thứ và độ tàn che. Những nghiên cứu này đã đặt cơ sở cho việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như việc xác định các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động vào rừng ôn đới. Tuy vậy, do cấu trúc của rừng ôn đới không có lớp thảm tươi cây bụi dày như ở nước ta nên các tác giả chưa chú ý nhiều đến vai trò của tầng mặt đất, ngoài ra cấu trúc tầng thứ cũng chưa được các tác giả nghiên cứu sâu. Những thiếu xót này đã được Lui Wenyao và các cộng sự (1992) bổ sung khi nghiên cứu ở tỉnh Yunnan, Trung Quốc. 1.1.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng hộ Ở Liên Xô và Trung Quốc thường dùng công thức để xác định diện tích A * K1  P * K 2 rừng chống xói mòn ở đất dốc là: F = với F là diện tích rừng h bảo vệ dốc (ha), A là diện tích bậc thang mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phòng chống xói mòn (ha), P là diện tích đồng cỏ mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phòng chống (ha); K1 là độ dày tầng nước mặt lớn nhất của dòng
  12. 10 nước mặt sản sinh ra trên mỗi ha ruộng bậc thang (mm/phút); K2 là độ dầy tầng nước mặt lớn nhất của dòng nước mặt sản sinh ra trên mỗi ha đồng cỏ (mm/phút) và h là sức hút nước của đất rừng (mm/phút) [dẫn theo 42]. Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, một số nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, trồng bổ sung, bảo vệ ngăn ngừa các tác động xấu tới rừng. Tại Malaysia đã xây dựng rừng nhiều tầng với việc sử dụng 2 loài cây trồng khác nhau; Nhật Bản cũng đã tạo rừng nhiều tầng bằng cách khai thác rừng theo băng rộng 4-5 m và sau đó trồng mới vào các băng rừng đã chặt. Biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ ven biển cũng được quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu của V.A Lômitcôsku (1809), Dokuchaep (1982), X. A Timiriazep (1983, 1909, 1911) đều cho rằng trên các hoang mạc muốn cải thiện tiểu khí hậu và cải tạo đất phải trồng rừng phòng hộ thành hệ thống đai theo mạng lưới ô vuông, có kết cấu kín, có hỗn giao nhiều tầng. Ở Trung Quốc và các nước Trung Đông, miền Đông và Tây Châu Phi thì Phi lao được coi là loài cây chủ đạo trồng trên các vùng cát thành các hệ thống đai có chiều rộng ít nhất 100 - 200 m. Sau đai rừng Phi lao là các đai rừng hỗn giao hoặc thuần loài của Bạch đàn, Keo, Thông nhựa, phía trong cùng sau các đai rừng dùng để canh tác nông nghiệp. 1.1.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm sút nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe doạ thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ và dần dần biến thái thành
  13. 11 các hình thức quản lý khác nhau như lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái Lan, Philippin,...) [dẫn theo 38]. Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng như: Các nhà lâm học Đức (G.L.Hartig - 1840; Heyer - 1883; Hundeshagen - 1926) [59] đã đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi; Các nhà lâm học Pháp (Gournand - 1922) và Thuỵ Sỹ (H.Biolley - 1922) đã đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác chọn khác tuổi,... Vào cuối thế kỷ XX, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng thì con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị suy giảm nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất rừng mỗi năm khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn 100 năm nữa rừng nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những thảm hoạ khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường [50]. Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng gia Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ được đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng [56]. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Đánh giá dự án Theo Vũ Nhâm bất kỳ một dự án nào khi đi vào hoạt động để đạt được mục tiêu của mình một cách hiệu quả, cần đáp ứng được yêu cầu cơ bản của dự án như sau: tính khoa học; tính thực tiễn; tính pháp lý và tính thống nhất [9]. Theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang [16] dự án được hiểu như một
  14. 12 kế hoạch can thiệp để giúp cộng đồng dân cư hoặc cá nhân cải thiện điều kiện sống trên một địa bàn nhất định. Ở Việt Nam, các dự án đầu tư cho phát triển rừng đã được tiến hành cách đây trên nửa thế kỷ nhưng chỉ vài chục năm gần đây mới được thực hiện trên quy mô lớn. Thời kỳ đầu chúng ta mới chỉ chú trọng đến hiệu quả kinh tế còn hiệu quả về xã hội và môi trường sinh thái hầu như chưa được quan tâm đến. Phạm Xuân Thịnh [43], Đàm Đình Hùng [10] đã đề cập đến một số tác động của dự án về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, đúc kết các kinh nghiệm, rút ra những mặt làm được và những mặt còn tồn tại làm cơ sở định hướng phát triển ở giai đoạn hậu dự án và cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, các báo cáo mới chỉ mô tả các hoạt động của dự án, còn đánh giá tác động của dự án mang nhiều tính chất định tính cảm quan hơn là các số liệu định lượng. Lại Thị Nhu (2004) khi nghiên cứu “Đánh giá tác động của dự án trồng rừng nguyên liệu ván dăm giai đoạn 1999 - 2003 của Công ty Lâm nghiệp Thái Nguyên” [22] đã đánh giá về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, quá trình đánh giá có sử dụng các chỉ tiêu chỉ báo, có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau dự án. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở những tác động tích cực mà chưa đi sâu phân tích những tác động tiêu cực của dự án. Dự án “Đánh giá tác động môi trường Lâm nghiệp Việt Nam qua một số mô hình liên kết quản lý rừng cộng đồng tại Yên Bái và Hà Giang” cũng đã có các nghiên cứu đánh giá chính sách Lâm nghiệp thông qua các mô hình liên kết quản lý rừng tại hai tỉnh miền núi phía Bắc và cũng có những kết luận và kiến nghị để có thể duy trì các thành công của dự án: (i) rà soát lại các quỹ đất rừng do Lâm nghiệp quản lý (ii) rà soát lại các hợp đồng khoán QLBV, khoanh nuôi và trồng rừng do các đơn vị kinh doanh quản lý (iii) kết hợp chặt chẽ chức năng phòng hộ với chức năng sản xuất (iv) có chính sách cho người
  15. 13 hưởng lợi từ khi được giao đất giao rừng hay khoán BVR và trồng rừng (v) phát triển thị trường lâm sản địa phương (vi) xây dựng quỹ bảo vệ và tái tạo rừng của thôn bản (vii) khẳng định vị trí pháp lý của cộng đồng thôn bản để quản lý sử dụng rừng như những chủ thể khác [1]. 1.2.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng Nghiên cứu về xói mòn đất là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn. Ở nước ta vấn đề này được nhiều tác giả rất quan tâm. Theo Nguyễn Quang Mỹ (1984) [19] thì vấn đề xói mòn đất đã bắt đầu được quan tâm ở nước ta từ trước những năm 1954, bước đầu mới chỉ là những biện pháp chống xói mòn sơ khai như làm ruộng bậc thang, xây kè cống. Trong những năm 1980, các công trình nghiên cứu đã tập trung vào xói mòn đất và khả năng giữ nước của một số thảm cây trồng nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là ở các tỉnh vùng Tây Nguyên. Trong thời gian này nhiều khu nghiên cứu quan trắc định vị đã được xây dựng kiên cố bằng gạch và xi măng, gỗ, kim loại,... Hàng loạt công trình mang nhiều sắc thái và đi vào định lượng như công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ, Quách Cao Yêm, Hoàng Xuân Cơ (1984) [19]. Những công trình nghiên cứu này đã làm rõ ảnh hưởng của nhân tố địa hình tới xói mòn, vai trò chống xói mòn của một số thảm thực vật nông nghiệp, đã chú ý tới độ che phủ gắn liền với các giai đoạn phát triển của cây trồng, định hướng cho việc xây dựng các giải pháp phòng chống xói mòn trên sườn dốc. Tuy nhiên, khả năng giữ nước của các thảm thực vật còn ít được chú ý (Phạm Văn Điển, 2004) [8]. Trong công trình nghiên cứu xói mòn đất ở Thanh Hoà (Vĩnh Phúc), Nguyễn Quang Mỹ và Đào Đình Bắc (1985) [dẫn theo 20] đã đưa ra một số nhận xét về đặc điểm xói mòn đất ở Việt Nam như sau: quá trình xói mòn đất ở Việt Nam hiện tượng xói mòn theo bề mặt gây tác hại to lớn hơn cả, tiếp
  16. 14 sau là xói mòn theo dòng, còn xói mòn do gió chỉ hoạt động ở một số nơi có điều kiện thích hợp như ở Tây Nguyên và giải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung. Việc chống xói mòn ở Việt Nam phải mang đặc điểm riêng của miền nhiệt đới ẩm, chứ không thể theo khuôn mẫu của các nước Âu, Mỹ; cường độ xói mòn đất ở Việt Nam rất mạnh (150 - 200 tấn/ha/năm), song các biện pháp chống xói mòn còn rất thô sơ và chưa được triển khai rộng rãi. Nhận định này của tác giả có lẽ hơi phiến diện, vì lượng đất xói mòn 150 - 200 tấn/ha/năm chỉ xảy ra ở một số nơi có độ dốc lớn, đất có kết cấu không tốt, nghèo mùn, thảm thực vật trơ trụi, chứ không thể là lượng đất xói mòn bình quân ở nước ta. Đối với đất vùng đầu nguồn tỉnh Hoà Bình, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc sử dụng hợp lý đất dốc và những biện pháp bảo vệ nó. Tiêu biểu như nghiên cứu về: Canh tác trên đất dốc của Ngô Đình Quế - Đinh Văn Quang (1998); Nghiên cứu tính chất rừng bảo vệ đất của Nguyễn Hải Tuất, Vương Văn Quỳnh và Hà Quang Khải; Quan điểm chung được các nhà nghiên cứu xác định là trong điều kiện địa hình dốc, khả năng bảo vệ đất của rừng chủ yếu là khả năng chống lại xói mòn đất. Nghiên cứu của Phạm Văn Sơn (1994) [36] cho thấy, bình quân mỗi năm lòng hồ thủy điện Hòa Bình bị bồi lắng bình quân từ 0,3 - 0,5 m. Bồi lắng ở sông Đà sẽ làm cho hồ chứa nước Hòa Bình bị giảm tuổi thọ từ 250 năm theo thiết kế xuống chỉ còn 50 - 100 năm. Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Nghiên cứu của Võ Minh Châu (1993 - dẫn theo Vương Văn Quỳnh, 1999 [25]) cho thấy sự suy giảm diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn Mọ từ 23.971 ha xuống còn 6.000 ha đã làm cho lượng nước hồ Kẻ Gỗ giảm đi đáng kể từ 340 triệu m3 xuống còn 60 triệu m3 nước, do đó không đảm bảo nước cho sản xuất nông nghiệp trên diện tích 6 nghìn ha.
  17. 15 Các nghiên cứu của Bùi Ngạnh và Nguyễn Danh Mô (1977) [20]; Bùi Ngạnh và Nguyễn Ngọc Đích (1985) [21] cho thấy sự thay đổi dòng chảy mặt ở một số dạng rừng khác nhau, trên cơ sở đó các tác giả đã đề xuất những mô hình bố trí các đai rừng giữ nước trên sườn dốc. Năm 1981, Lê Đăng Giảng và Nguyễn Thị Hoài Thu (1981) [9] đã tổng kết kết quả nghiên cứu về khả năng giữ nước, điều tiết dòng chảy của rừng thứ sinh hỗn giao lá rộng tại núi Tiên, Hữu Lũng, Lạng Sơn. Các tác giả đã đề nghị việc xây dựng và thiết kế rừng phòng hộ ở các triền sông phải phát huy được khả năng giữ nước cao nhất của nó trong những thời điểm lượng mưa mùa tập trung cao. Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) [12], Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1997) [18] cho thấy vai trò điều tiết nước, chống xói mòn đất của rừng rất lớn: lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,75 - 11,6% tùy thuộc vào từng loại rừng; lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và các dạng khác từ 88,2% - 92,5% tổng lượng nước mưa; lượng nước tạo thành dòng chảy bề mặt ở những nơi có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả năng hình thành lũ và lũ quét. Một thành quả được thể hiện rõ nét qua công trình nghiên cứu này là việc xác định cấu trúc hợp lý của thảm thực vật rừng chống xói mòn đất. Hai tác giả đã xây dựng được bảng tra hệ số thảm thực vật (hệ số C) tương ứng với đặc điểm và cấu trúc của một số thảm rừng. Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế và Vũ Tấn Phương (2002) [34] đã đưa ra dẫn liệu lưu lượng dòng chảy tại nơi có rừng thấp hơn từ 2,5 đến 27 lần so với khu vực canh tác nông nghiệp, rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn rừng trồng trong việc giảm dòng chảy mặt; dòng chảy kiệt ở nơi có rừng cao hơn ở nơi không có rừng. 1.2.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng hộ Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004) thì rừng phòng hộ đầu nguồn phải được xây dựng thành rừng tập trung, liền vùng, nhiều tầng. Tại điều 28 quyết định 186/TTg ngày 14/8/2006 của thủ tướng chính phủ về việc
  18. 16 ban hành Quy chế quản lí rừng quy định: Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn phải đạt được độ tàn che từ 0,6 trở lên để rừng có khả năng duy trì, điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, giảm xói mòn. Đây là những cơ sở khoa học và pháp lý quan trọng cho việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn nước ta. Theo Nguyễn Anh Dũng (2006) thì ở nước ta hiện nay có 2 giải pháp kỹ thuật chủ yếu để phục hồi và phát triển rừng, đó là trồng rừng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung. Vấn đề khoanh nuôi phục hồi rừng ở nước ta đã được đặt ra từ rất sớm, vào khoảng những năm 1950 sau khi miền Bắc được giải phóng, vấn đề này được đề cập đến trong thuật ngữ “khoanh núi nuôi rừng”. Tuy nhiên, vì nhiều lí do mà trong một thời gian rất dài sau đó người ta chỉ chú ý đến khai thác rừng tự nhiên là chính. Mãi đến những năm 1990, cái được gọi là “khoanh núi nuôi rừng” mới được định hình và phát triển theo cụm thuật ngữ “phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh”. Điều này được thể hiện trong 2 quy phạm ngành QPN 14-92 và QPN 21-98. Trồng rừng phòng hộ là giải pháp duy nhất để khôi phục rừng trên những vùng đất trống, đồi núi trọc, đất rừng đã bị thoái hoá. Trong đó việc lựa chọn loài cây trồng là một khâu rất được chú ý vì nó góp phần quyết định đến khả năng phòng hộ của rừng. Sau nhiều năm tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn, một danh sách gồm 34 loài cây trồng rừng phòng hộ đã được đề xuất cho trồng rừng phòng hộ trên cả nước. Hoàng Liên Sơn và các cộng tác viên (2005) [39] đã tổng kết và đưa ra danh sách 50 loài cây chia làm 4 nhóm chính được sử dụng cho trồng rừng phòng hộ trong Dự án 661 trên phạm vi toàn quốc. Võ Đại Hải, Nguyễn Xuân Quát và Đào Công Khanh (1997) đã nghiên cứu xác định chủng loại cây bản địa phục vụ cho trồng rừng phòng hộ ở một số vùng trọng điểm. Trên cơ sở tiêu chuẩn cây bản địa đưa vào trồng rừng phòng hộ là phải phù hợp với tiểu vùng sinh thái, kết hợp được với nhau, có
  19. 17 tác dụng phù trợ lẫn nhau, điều tiết nguồn nước, chống xói mòn, giữ đất, sống lâu năm, tán lá dày, rậm và thường xanh, bộ rễ phát triển sâu,... các tác giả đã đưa ra mô hình trồng rừng phòng hộ dự tuyển cho 7 vùng sinh thái lâm nghiệp trên cả nước. Trong đó, vùng Tây Bắc có 2 mô hình là: + Thông 3 lá + Táo mèo: 1 hàng (3 x 2m) + 1 hàng (3 x 2m). + Long não + Trẩu ta: Rạch 1 hàng (9 x 2m) + băng 2 hàng (3 x 2m). Võ Đại Hải (2000) [13] trong khi nghiên cứu những giải pháp cho quản lý và xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn ở Tây Nguyên đã đưa ra một số mô hình phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn khá thành công là các mô hình tại Kbang - Sơ Pai tiểu vùng Kon Hà Nừng; mô hình trên quốc lộ 22 gần huyện Kông - Plông miền Đông Kon Tum; mô hình ở Tỉnh Lộ 674 Phú Thiệu - Kông cho vùng Đông Nam Pleiku; mô hình gần quốc lộ 20 vùng hồ Thuỷ Tiên - Đà Lạt. Đây đều là các đối tượng rừng sau khai thác kiệt và rừng phục hồi sau nương rẫy. Sau khi áp dụng khoanh nuôi có trồng bổ sung các đối tượng rừng trên đều phục hồi tốt. Việc nghiên cứu và xác định cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ làm cơ sở cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ có chất lượng cao cũng được quan tâm. Năm 1996, Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải đã công bố công trình “Kết quả bước đầu nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn nước”, trong đó các tác giả đã đánh giá được năng lực phòng hộ của một số dạng cấu trúc thảm thực vật rừng về mặt chống xói mòn và điều tiết nguồn nước. Trên cơ sở đó đề xuất những mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn có cấu trúc hợp lý. Theo Hoàng Liên Sơn và các cộng sự (2005) [37] cho biết Dự án 661 giai đoạn 1998 - 2004 đã xây dựng được khá nhiều mô hình rừng trồng phòng hộ đầu nguồn. Kết quả tổng hợp số liệu báo cáo của các tỉnh có trồng rừng
  20. 18 phòng hộ đầu nguồn cho thấy các mô hình khá đa dạng, tổng số có tới 188 mô hình trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, mật độ trồng rừng rất khác nhau tuỳ thuộc vào từng loài cây và kỹ thuật áp dụng trong mỗi mô hình. Căn cứ vào các loài cây trồng rừng phòng hộ đầu nguồn có thể chia các mô hình trồng rừng phòng hộ đầu nguồn thành 4 nhóm chính là cây bản địa trồng hỗn giao với nhau và cây bản địa hỗn giao với cây phù trợ; các loài Thông trồng thuần loài và Thông trồng hỗn giao với các loài cây khác; các loài Keo trồng thuần loài và Keo trồng hỗn giao với các loài cây khác; các loài Tre, luồng trồng thuần loài. Trong những năm gần đây, các mô hình này đa dạng và được phát triển rộng hơn ở nhiều tỉnh. Ngoài ra, rừng tre luồng có khả năng chống xói mòn tốt do lá rụng nhiều và khó phân huỷ, rễ cây nhiều chủ yếu phân bố ở bề mặt đất nên che phủ đất tốt. 1.2.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ Việc tổ chức quản lý rừng phòng hộ đã được quy định cụ thể trong nhiều các văn bản pháp quy của Nhà nước như Quy chế quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất là rừng tự nhiên ban hành theo Quyết định số 08/2001/ QĐ-TTg ngày 11/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ [29]; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 [28]; Quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo Quyết định số 186/2006/ QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ [30]; Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng [23],... theo đó việc tổ chức, quản lý rừng phòng hộ nước ta có thể tóm tắt như sau: Rừng phòng hộ nói chung và rừng phòng hộ đầu nguồn nói riêng được Nhà nước thống nhất quản lý và xác lập thành hệ thống các khu rừng phòng hộ quốc gia do Bộ NN & PTNT trực tiếp quản lý. Trong khung tổ chức quản lý của Bộ NN & PTNT có 2 Cục liên quan đến quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn là: 1) Cục Lâm nghiệp - chịu trách nhiệm về các hoạt động phục hồi,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2