Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar ở huyện Lăk - Đăk Lăk
lượt xem 4
download
MỤc tiêu của đề tài là phân tích được ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã đến quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng ở vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar; đề xuất mô hình quản lý tài nguyên rừng và sử dụng đất bền vững góp phần cải thiện đời sống người dân; đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế xã hội ở vùng đệm nhằm giảm áp lực đến rừng vùng đệm và vùng lõi của khu BTTN Nam Kar.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar ở huyện Lăk - Đăk Lăk
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN VIẾT QUANG NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG THUỘC VÙNG ĐỆM KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NAM KAR Ở HUYỆN LĂK – ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Tây, năm 2007
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN VIẾT QUANG NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG THUỘC VÙNG ĐỆM KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NAM KAR Ở HUYỆN LĂK – ĐĂK LĂK Chuyên ngành: LÂM HỌC Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS -TS: Trần Hữu Viên Hà Tây, năm 2007
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý báu mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Ngoài giá trị kinh tế, rừng còn có tác dụng cung cấp các loại dược liệu cho y học để phục vụ sức khỏe con người. Đặc biệt rừng còn có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế lũ lụt, ... Tài nguyên rừng là một loại tài nguyên có khả năng tái tạo nếu như nó nhận được những tác động hợp lý theo hướng có lợi của con người. Vùng miền núi và gò đồi chiếm 3/4 diện tích của cả nước, được mệnh danh là tấm lá chắn bảo vệ cho vùng đồng bằng và ổn định môi trường nói chung. Đây là khu vực cư ngụ của hầu hết các dân tộc thiểu số và cũng là nơi chiếm tỷ lệ nghèo đói cao nhất của cả nước. Đăk Lăk là tỉnh nằm trong khu vực Tây nguyên có địa hình đồi núi phức tạp và chia cắt mạnh. Huyện Lăk là nơi có vườn quốc gia Chư Yang Sin, Rừng văn hoá lịch sử môi trường Hồ Lăk, khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar là nơi có hệ động, thực vật đa dạng và phong phú chính vì vậy cần phải được quan tâm đúng mức. Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar được thành lập vào năm 1991 với tổng diện tích 24.555ha. Diện tích vùng lõi nằm trên địa bàn huyện Lăk tỉnh Đăk Lăk. Diện tích vùng đệm: có 05 Xã, thuộc huyện Lăk và huyện Krông Na tỉnh Đăk Lăk. Việc thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ các hệ sinh thái rừng theo đai độ cao, bảo tồn các nguồn gen động, thực vật quý hiếm. Khu hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú, có cả các loài thực vật nhiệt đới và ôn đới. Do đó nó còn có chức năng phòng hộ, điều tiết nguồn nước cho sông Mêkông. Tuy nhiên, trong vấn đề quản lý, bảo vệ rừng ở các khu rừng đặc dụng còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi khu vực này còn có nhiều cộng đồng dân cư với các dân tộc khác nhau như: M’nông, Êđê, Gia rai, Kinh, Thái, Tày. Sinh kế của người dân còn phụ thuộc nhiều vào rừng. Hậu quả là tài nguyên rừng ngày càng bị cạn kiệt, diện tích rừng tự nhiên có xu hướng không tăng. Vấn đề là làm thế nào để quản lý tài nguyên rừng (đặc biệt các vùng nhạy cảm dễ bị phá vỡ, vùng phòng hộ xung yếu) đồng thời nhằm góp phần vào ổn định đời sống của người dân và phát triển bền vững đất nước.
- 2 Hiện nay, Chính phủ có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, không những thực hiện việc cấp vốn cho việc trồng rừng mà còn ban hành Quyết định, Nghị định, hay văn bản nhằm hạn chế nạn phá rừng và di dân tự do. Tuy nhiên, cách tiếp cận trong quá trình thực hiện còn mạng nặng hình thức từ trên dội xuống, áp đặt (quản lý tập trung), sự tham gia của các bên trong việc quản lý tài nguyên rừng còn rất hạn chế. Cách nhìn nhận của cộng đồng địa phương, nhà nghiên cứu, các nhà quản lý và các cơ quan phát triển trong việc tiếp cận quản lý tài nguyên có sự tham gia vẫn còn sự khác biệt. Do vậy, để bảo vệ gìn giữ những giá trị tài nguyên rừng và động, thực vật quý hiếm trong vùng lõi khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar cần phải có những nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý tài nguyên rừng có sự tham gia ở vùng đệm, phục hồi nguồn tài nguyên rừng và nâng cao đời sống kinh tế cho dân trong vùng đệm là điều rất cần thiết. Để góp phần tìm ra những giải pháp quản lý tài nguyên rừng bền vững ở vùng đệm của các khu rừng đặc dụng nói chung và ở vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar nói riêng chúng tôi tiến hành đề tài : “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar ở huyện Lăk -Đăk Lăk”.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN HỆ THỐNG VÀ PTCĐ 1.1.1. Phương pháp luận tiếp cận hệ thống và các hình thức tham gia trong QLTN bền vững Trong những năm gần đây thực tế về quản lý tài nguyên rừng đặt ra cho chúng ta những cách nhìn mới. Làm thế nào để quản lý bền vững nguồn tài nguyên hiện có và phát triển mới nhằm không ngừng nâng cao độ che phủ của rừng, bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá. Chính vì vậy chúng ta phải có cách tiếp cận mới. * Tiếp cận hệ thống Gần đây, khái niệm về hệ thống được dùng phổ biến trong phát triển nông lâm nghiệp. Muốn hiểu rõ "tiếp cận hệ thống" thì cần tìm hiểu "hệ thống" và "tư duy hệ thống". Theo N.Jamieson hệ thống là cái gì đó có ít nhiều bộ phận liên hệ với nhau hay hệ thống là tập hợp những quan hệ tồn tại dai dẳng với thời gian, như vậy các thành tố trong hệ thống không tồn tại độc lập mà nó có mối quan hệ hữu cơ với nhau [32]. Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau, có quan hệ và tác động qua lại với nhau. Một hệ thống có thể xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc tính được liên kết tạo thành một chỉnh thể và nhờ đó đặc tính mới gọi là "tính trồi"émergence) của hệ thống [23], [34]. J.L.Lemoinge (1978) cho rằng: "hệ thống là một đối tượng vận động, có cấu trúc, có diễn biến so với những mục đích trong một môi trường nhất định". Khái niệm này nhấn mạnh đặc tính cần làm sáng tỏ của hệ thống là: cấu trúc, quan hệ, động thái và môi trường bao quanh [42]. Theo Đào Thế Tuấn (1988) quan điểm hệ thống là phương pháp nghiên cứu khoa học, là sự khám phá đặc điểm của hệ thống bằng cách nghiên cứu hệ thống bản chất và đặc tính của các mối tương tác qua lại giữa các thành tố [33]. Lý thuyết về hệ thống nhấn mạnh đến sự cần thiết của cách nhìn mọi sự việc và hiện tượng như một thể thống nhất, chứ không phải con số cộng đơn thuần của các hợp phần rời rạc, có sự tác động lẫn nhau giữa các thành phần trong quá trình vận động từ đầu vào đến đầu ra và có sự phân cấp thứ bậc. Như
- 4 vậy có thể thấy mọi hệ thống đều là một phần của hệ thống lớn hơn và đến lượt mình lại gồm nhiều hệ thống nhỏ hợp thành. Lý thuyết hệ thống ngày càng được ứng dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khoa học để phân tích và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Trong thời gian gần đây tiếp cận hệ thống đã được áp dụng và phát triển trong nghiên cứu nông lâm nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên [20], [32], [41]. Theo N. Jameison (1996), nếu chúng ta tách riêng từng bộ phận và nghiên cứu từng bộ phận một thì dù nghiên cứu tỷ mỹ đến đâu, đấy cũng chưa phải là tư duy hệ thống. Vấn đề chính là quan hệ mà không phải là bộ phận. Toàn bộ hệ thống hơn tổng số các bộ phận bởi vì hệ thống có tổ chức. Như vậy các tác giả đều thống nhất rằng vấn đề chính trong hệ thống là quan hệ của các thành tố. Ngoài những yếu tố bên trong, các yếu tố bên ngoài hệ của thống không nằm trong hệ thống nhưng có tác động tương tác với hệ thống gọi là yếu tố môi trường. Những yếu tố môi trường tác động lên hệ thống là yếu tố "đầu vào", còn những yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại của hệ thống là yếu tố "đầu ra" [20], [32], [34]. Trong thực tiễn nghiên cứu hệ thống có hai phương pháp cơ bản: thứ nhất nghiên cứu hoàn thiện hoặc cải tiến một hệ thống đã có sẵn. Điều đó có nghĩa là dùng phương pháp phân tích hệ thống nhằm tìm ra điểm "hẹp" hay chỗ "thắt lại" của hệ thống, đó là chỗ có ảnh hưởng không tốt, hạn chế đến hoạt động của hệ thống, cần được sửa chữa, khai thông để cho hệ thống hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn. Thứ hai nghiên cứu xây dựng hệ thống mới. Đây là phương pháp vĩ mô, đòi hỏi có sự tính toán, cân đối kỹ càng [30], [35]. Đề tài: “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng thuộc vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar ở huyện Lăk -Đăk Lăk” sẽ thực hiện phương pháp thứ nhất, nghĩa là dùng phương pháp tiếp cận hệ thống để tìm ra điểm "thắt lại" của hệ thống tức là tìm những yếu tố hạn chế ảnh hưởng đến hệ thống quản lý tài nguyên hiện tại, từ đó tác động tạo "tính chồi" thúc đẩy hệ thống phát triển với các mục tiêu, nguồn lực "đầu vào", cấu trúc hệ thống và yếu tố "đầu ra". Trong phát triển xã hội người ta nói nhiều đến thuật ngữ “Định chế” (institution) bao hàm một khái niệm rộng rãi. Một mặt nó diễn đạt các hệ thống
- 5 giá trị, luật lệ, qui tắc, qui chế, thành văn hay bất thành văn được các thành viên của một nhóm người nào đó tôn trọng và tuân thủ. 1.1.2.Vùng đệm, lý thuyết phát triển và QLR cộng đồng. Vùng đệm và vấn đề quản lý vùng đệm: Những năm gần đây, khái niệm vùng đệm (Buffer zone) của các Khu bảo tồn thiên nhiên bắt đầu được chú ý. Trước thực tế các khu bảo tồn thiên nhiên bị xuống cấp do bị tác động trên nhiều lĩnh vực. Trong quá trình hình thành hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam, suốt một thời gian dài, hệ thống vùng đệm chưa được quan tâm một cách đúng mức. Đến năm 1993 Bộ Lâm nghiệp mới có văn bản số 1586 LN/KL ngày 13/7/1993 qui định về quản lý và sử dụng các vùng đệm của vườn Quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Tuy nhiên cho đến năm 1999 vẫn chưa có quy chế quản lý vùng đệm, quy định rõ ranh giới, về trách nhiệm quản lý, về mối quan hệ giữa ban quản lý Khu bảo tồn do vậy hiện trạng hiện có các Khu bảo tồn thiên nhiên thường không thống nhất, không dựa trên những tiêu chí thống nhất và thiếu những thể chế quản lý rõ ràng [2]. Khái niệm về vùng đệm: Là khu vực có rừng hay không có rừng, nằm sát ranh giới khu bảo tồn thiên nhiên, có diện tích, ranh giới rõ ràng, thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương, các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn. Vùng đệm được thành lập nhằm nâng cao đời sống, văn hóa của nhân dân địa phương và lôi cuốn họ tham gia tích cực vào công tác bảo vệ khu bảo tồn [2]. Ranh giới của vùng đệm: Nên lấy ranh giới hành chính xã của các xã bao quanh khu bảo tồn. Đối với những xã có diện tích lớn hơn 10.000 ha thì chỉ có thể chọn những thôn cận kề với với khu bảo tồn [2]. Chức năng của khu vùng đệm: Có vai trò như một chiếc áo giáp bảo vệ cho vùng lõi (khu bảo tồn thiên nhiên). Muốn làm tốt vấn đề này chỉ có con đường hợp tác chặt chẽ với cộng đồng dân cư ở vùng đệm, có những chính sách phù hợp, lôi kéo họ tham gia các hoạt động bảo tồn, giải quyết những nhu cầu cấp bách của họ mà không gây nguy hại đến mục tiêu của khu bảo tồn [2]. Khái niệm về phát triển cộng đồng: Khái niệm về phát triển cộng đồng được bắt đầu vào thập kỷ 50 và đã trải qua nhiều giai đoạn. Năm 1970 Liên hiệp quốc đánh giá thập niên phát triển, kết quả cho thấy có nhiều tiến bộ rõ rệt
- 6 như sự thay đổi bộ mặt nông thôn nhưng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định mới chỉ tạo nên những vỏ xác của cơ sở hạ tầng, chưa đáp ứng nhu cầu người dân. Sự tham gia của người dân theo nghĩa đích thực, nghĩa là vào quá trình ra quyết định, phát huy sáng kiến còn rất hạn chế. Một bài học đáng ghi nhớ là sự thất bại tất yếu của cách làm ồ ạt theo phong trào, áp dặt từ trên xuống. Sau đó phương hướng cơ bản của phát triển cộng đồng nhấn mạnh đến sự tham gia của quần chúng, cần phải xây dựng các thiết chế xã hội là công cụ, môi trường cho sự tham gia đồng thời nhấn mạnh đến thay đổi nhận thức, hành vi, sự chuyển biến về tổ chức và năng lực cho cộng đồng [20]. Cũng theo tác giả nguyên tắc của phát triển cộng đồng là phải khơi dậy tính nội sinh (endogène) hay nội lực từ bên trong cộng đồng, sự hỗ trợ bên ngoài là cần thiết nhưng chỉ là chất xúc tác, mọi chương trình hành động phải do cộng đồng tự quyết [20]. Quản lý rừng cộng đồng: Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những loại hình quản lý rừng trên cơ sở tham gia và quyết định từ cộng đồng nhằm phát triển rừng bền vững. Điều quan trọng là hệ thống quản lý phải dựa trên tình hình cụ thể ở mỗi địa phương. Việc quản lý rừng dựa vào cộng đồng phải được áp dụng và kết hợp hài hoà với các thành phần liên quan khác (quản lý của Nhà nước, của tập thể hay của tư nhân) [39]. - Rừng cộng đồng là một kiểu quản lý rừng thích hợp cho những vùng có điều kiện như: + Vùng sâu vùng xa, cuộc sống người dân địa phương phần lớn phụ thuộc vào rừng. + Vùng cao với cơ sở hạ tầng thấp kém. Việc quản lý đất rừng cũng nên áp dụng một cách linh hoạt và thích hợp để phù hợp với nhu cầu và điều kiện cụ thể ở từng địa phương. + Có kiến thức bản địa và truyền thống tổ chức cộng đồng cao. + Có sự quan tâm của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên vì lợi ích chung và có thể được phát hoạ một cách rõ ràng. Cộng đồng thôn buôn đóng vai trò quan trọng trong sự khôi phục và bảo vệ rừng. Các tổ chức thôn buôn đã thực sự mang lại lợi ích cho cộng đồng của mình thông qua thực hiện một cách hiệu quả các luật lệ bảo vệ rừng ở thôn
- 7 buôn (Nguyễn Hải Nam và những người khác, 2000) [40]. Hơn nữa rừng thực sự có khả năng phục hồi trong một chu kỳ nương rẫy của dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy kinh nghiệm của đồng bào trong canh tác nương rẫy theo chu kỳ là rất quý báu, rừng và đất rừng được phục hồi tốt trước khi trở lại chu kỳ sau, đảm bảo tính ổn định trong hệ sinh thái canh tác nương rẫy, đất đai được sử dụng khép kín (Bảo Huy, 1998) [12]. 1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC Trong phát triển lâm nghiệp hiện nay, người ta bàn nhiều đến lâm nghiệp xã hội hay lâm nghiệp cộng đồng. Thuật ngữ đó được dùng cho bất cứ việc quản lý rừng nào. Trong lâm nghiệp xã hội người ta đặt nặng đến sự tham gia của các bên trong quản lý tài nguyên. Theo Diakite (1978) để đánh giá sự tham gia cần chú ý đến 4 khía cạnh: 1) Mức độ thông tin (information) tức mỗi cá nhân nhận biết được. 2) Mức độ thái độ (attitudes) hay tư duy tức là những gì thuộc về thái độ của mỗi cá nhân, cách thức mà cá nhân quyết định đối với các hành động chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi. 3) Các nguyện vọng (aspirations), tức những gì mà mỗi cá nhân mong muốn trong việc cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần của mình và gia đình mình. Xét ở tầm mức xã hội, nguyện vọng của một tổ chức có thể là thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ hay sứ mạng của họ. 4) Các hành vi tức là những gì mà mỗi cá nhân làm. Hành vi bị chi phối bởi thông tin mà các nhóm liên quan thu được, thái độ và nguyện vọng của họ [8]. Khi đề cập đến các cấp độ tham gia của cộng đồng trong quá trình hình thành các giải pháp trong quản lý tài nguyên Briggs (1989) phân chia thành 4 cấp theo mức độ tăng dần như sau: Cấp độ hợp đồng, tham vấn, hợp tác và tự giác. Cấp độ tự giác là một tiến trình phát triển cao nhất trong quá trình tham gia của tiến trình phát triển [8]. Các hệ thống quản lý rừng địa phương bao gồm có một số dạng: quản lý theo nương rẫy bỏ hóa, quản lý rừng tại môi trường miền núi, quản lý rừng trong môi trường bán khô hạn. Quản lý rừng gắn với nguồn nước thôn bản và quản lý các lùm cây thiêng liêng và các hệ tương tự. Các hệ thống quản lý rừng gắn với bên ngoài :
- 8 Ở Inđônexia trong những năm 1920 theo dưới sự cai trị của người Hà Lan, người ta cố gắng đưa vào Inđônexia những kế hoạch quản lý tài nguyên rừng công cộng chính quy theo khuôn khổ hệ thống marga. Đó là một pháp nhân địa phương đã được tạo lập tại một vài nơi ở đảo Sumatra, chịu trách nhiệm về điều hành sử dụng đất. Việc quản lý của marga gồm: 1) Điều hành sử dụng đất, như giao việc bảo vệ các khu rừng để sử dụng trong tương lai và sản xuất gỗ cho các làng cụ thể. 2) Kiểm tra việc phân bổ đất đai nương rẫy.3) Kiểm tra việc chăn thả đại gia súc.4) Kiểm tra việc khai thác rừng: bất cứ thành viên nào của marga đều có quyền dành một số cây để trích nhựa, trích dầu hoặc lấy mật ong bằng cách đánh dấu vào cây và phát quang xung quanh cây, người ngoài cuộc đều phải xin phép để thu hái những sản phẩm đó và thường phải trả một lệ phí cho hội đồng marga bằng một phần ba giá trị [10] . Ở Ấn Độ, những việc làm gần đây được tiến hành ở nhiều bang ở Ấn Độ, cùng với nhà tài trợ trong và ngoài nước đã xúc tiến các kế hoạch xây dựng lâm nghiệp xã hội thông qua kế hoạch quản lý tài nguyên công cộng, mục tiêu của từng cách thiết kế dự án có khác nhau và lẽ tất nhiên là những ảnh hưởng và lợi ích của chúng cũng vậy. Đặc trưng của những dự án thực hiện tại vùng đồi núi ấn Độ đã đưa ra các nhận xét: Diện tích rừng của Nhà nước đưa vào các dự án khá lớn, thường vào khoảng 1 ha cho mỗi hộ gia đình. Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc qui định và bảo vệ các ranh giới diện tích rừng chống lại việc sử dụng và xâm lấn từ bên ngoài. Phần lớn các qui tắc để sử dụng rừng đều do các nhóm trong thôn bản đưa ra và chúng rất khác nhau giữa các thôn bản.Việc thu hoạch lâm sản nói chung được kiểm tra bằng những qui tắc giản đơn về thời gian, công cụ được phép sử dụng, và số lượng thành viên hộ gia đình tham gia. Lệ phí nếu có, được thu dựa trên cơ sở hộ gia đình chứ không theo số lượng thu hoạch. Lệ phí thu được thường dùng để trả công cho người gác rừng. Phần lớn tại các thôn bản, tất cả các hộ đều có dạng sử dụng tài nguyên giống nhau và tất cả đều dùng tài nguyên sở hữu công cộng, tổ chức quản lý địa phương được hình thành theo nhóm sử dụng của dân làng chứ không dựa trên cấp hành chính thôn bản chính qui [10] . 1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC: Ở Việt Nam tư duy hệ thống và nghiên cứu có sự tham gia mới được quan tâm trong những năm gần đây.
- 9 Muốn quản lý tốt tài nguyên thiên nhiên thì không chỉ có các cơ quan Nhà nước vào cuộc mà phải có sự tham gia của nhiều bên. Đồng thời phải có hệ thống chính sách phát triển lâm nghiệp phù hợp, làm đòn bảy cho sự chuyển đổi cơ chế quản lý. Đầu tiên phải kể đến một số quyết định sau: Nghị định 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ về giao khoán rừng tự nhiên cho các tổ chức cá nhân và các tổ chức. Nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của đối tượng nhận khoán. Đồng thời nêu rõ thời gian giao khoán cho các đối tượng tối đa là 50 năm. Tuy nhiên theo Nghị định này thì việc giao khoán chỉ dừng lại ở các hộ gia đình và cá nhân, chưa gắn chặt quyền lợi của người dân vào rừng hơn nữa công tác xác định hiện trạng rừng trước khi giao là một vấn đề hết sức trở ngại nhưng rất quan trọng. Nghị định 163/1999/CP ngày 16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất là các tổ chức, hộ gia đình sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Theo nghị định này nội dung đã phân cấp rõ trách nhiệm của UBND các cấp trong giao đất và thành quả cuối cùng là cấp sổ đỏ và mở rộng đối tượng nhận khoán là các tổ chức. Để tăng cường vai trò của các cấp tham gia vào quản lý tài nguyên rừng Chính phủ đã ra văn bản quyết định 245/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện phân cấp quản lý và vai trò của các bên trong quản lý tài nguyên. Tuy nhiên theo quyết định này thì trên cùng một địa phương Sở nông nghiệp và PTNT và Sở Địa chính đều quản lý Nhà nước về đất lâm nghiệp ( khoản 2,4 điều 4 của QĐ 245). Mặc dù đã có những phân cấp nhưng chưa xác định rõ ràng, cụ thể về quyền hạn của các cấp. Quyết định 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về qui chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Quy chế này đã được sửa đổi bổ sung bằng quy chế mới tại quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng. Theo quyết định 178/2001/QĐ-TT ngày 12 tháng 11 năm 2001 qui định về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được các tổ chức Nhà nước khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. Quyết định nêu rõ nội dung được hưởng lợi khi giao rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất.
- 10 Quyết định số 49/2006/QĐ-UBND, ngày 06/11/2006 của UBND tỉnh Đăk Lăk về việc ban hành quy định mức hưởng lợi của hộ gia đình, cá nhân cộng đồng thôn, buôn được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp theo quyết định số: 178/2001/QĐ-TTg, ngày 12/11/2001. Quyết định 304/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ, cộng đồng trong buôn làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chổ ở các tỉnh Tây Nguyên. Nhìn chung các chính sách nêu trên tuy ra đời có muộn, mặc dù có những điều còn chồng chéo với một số văn bản của Bộ ngành liên quan nhưng đã thực sự làm cơ sở pháp lý để thực hiện việc quản lý tài nguyên có hiệu quả hơn. Theo Bảo Huy (1998), để đánh giá hiện trạng quản lý rừng và đất rừng làm cơ sở đề xuất sử dụng tài nguyên rừng bền vững ở Đăk Lăk. Tác giả đã thu thập, phân tích biến động tài nguyên rừng, biến động cấu trúc rừng và tính chất đất rừng sản xuất qua quá trình khai thác để đề xuất quản lý, sử dụng tài nguyên rừng, đất rừng phù hợp với quan điểm phát triển bền vững [12]. Theo Vũ Đăng Bút (1999), khẳng định vùng núi phía Bắc tại xã Lũng Pù, huyện Mèo Vạc, Hà Giang chỉ có giao đất giao rừng cho người dân khoanh nuôi bảo vệ, đồng thời lấy ngắn nuôi dài kết hợp với chăn nuôi tạo thu nhập để hỗ trợ cho phát triển lâm nghiệp thì rừng mới có khả năng giữ nước và giữ được rừng [1] . Theo Ngô Đức Hiệp (1999), nghiên cứu về các giải pháp nhằm quản lý rừng bền vững ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa ra 5 giải pháp trong quản lý như: 1) Qui hoạch rõ ràng và ổn định diện tích rừng và đất lâm nghiệp giành cho sản xuất trên đất phèn ĐBSCL. 2) Lập và tổ chức thực hiện phương án sản xuất kinh doanh rừng theo luân kỳ ổn định. 3) Thực hiện các biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng sản xuất trên đất phèn. 4) Đào kênh mương đắp bờ bao và làm trạm bơm nước 5) Xây dựng mô hình quản lý bền vững rừng sản xuất trên đất phèn. Tác giả còn khẳng định để xây dựng mô hình bền vững cần giao cho hộ gia đình đất rừng để các hộ kinh doanh kết hợp với sản xuất nông nghiệp làm tăng thu nhập [11] . Theo Nguyễn Bá Ngãi (2006), Lâm nghiệp cộng đồng là một sự can thiệp phát triển với các hình thức từ tư vấn cho nông dân trước khi thực hiện
- 11 dự án đến sự công nhận quyền kiểm tra và quản lý các nguồn tài nguyên rừng của địa phương. Nhà nước hình thành các vùng đệm cho các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên. Tại các vùng đệm cộng đồng địa phương được quyền tham gia tổ chức và quản lý nguồn tài nguyên của họ [19]. Theo Trần Hữu Viên (2005), Sự tham gia của người dân vào việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn xã, thôn bản đặc biệt là ở những vùng nông thôn miền núi là hết sức cần thiết. Chỉ có những người dân đã từng bao đời sống tại địa phương mới hiểu đầy đủ mảnh đất mà họ đang sinh sống, mới hiểu rõ hơn phải sử dụng mảnh đất của họ như thế nào để mang lại hiệu quả cao và đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của họ [36]. Nhìn chung các nghiên cứu trước đây đã tách rời việc nghiên cứu cấu trúc rừng và việc sử dụng bền vững tài nguyên rừng vùng đệm, các khu rừng đặc dụng. Tuy nhiên việc nghiên cứu về quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng liên quan giữa người dân sống gần rừng, chính quyền địa phương, các đơn vị quản lý rừng và các nhà khoa học chưa được thực hiện nhiều trong khu vực. Do đó, việc nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên rừng cho vùng đệm là việc làm thiết thực góp phần nâng cao đời sống kinh tế ổn định của người dân ở vùng đệm. Đặc biệt là nghiên cứu cho một vùng đệm cụ thể như ở Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar, huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk.
- 12 Chương 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu. Phân tích được ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã đến quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng ở vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar. Đề xuất mô hình quản lý tài nguyên rừng và sử dụng đất bền vững góp phần cải thiện đời sống người dân . Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế xã hội ở vùng đệm nhằm giảm áp lực đến rừng vùng đệm và vùng lõi của khu BTTN Nam Kar. 2.2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu. Vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar gồm 5 xã, nằm ở hai huyện Lăk và Krông Na. Để tập trung nguồn lực và phục vụ cho nghiên cứu, đồng thời mang tính đại diện cho vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên, đối với mô hình quản lý rừng chúng tôi chọn xã Đăk Nuê là xã đại diện để chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ tháng 6/2006- 7/2007 với các nội dung: nghiên cứu quá trình quản lí sử dụng tài nguyên rừng ở vùng đệm và đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế xã hội các xã vùng đệm ở huyện Lăk. Do điều kiện nghiên cứu có hạn nên các giải pháp được đề xuất chỉ dừng lại ở mức độ định hướng, tổng thể và đề xuất một số mô hình. 2.3. Nội dung nghiên cứu. 2.3.1. Hiện trạng khu vực nghiên cứu. - Hiện trạng khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar và vùng đệm. + Ví trí địa lý, ranh giới, diện tích, ranh giới hành chính. + Lược sử hình thành khu bảo tồn và các xã vùng đệm. + Địa hình, địa chất, thổ nhưỡng khí hậu thủy văn, tài nguyên rừng. - Hiện trạng sử dụng đất nông lâm nghiệp. + Về nông nghiệp + Về lâm nghiệp - Tài nguyên rừng trong vùng đệm. + Trạng thái rừng + Diện tích, trữ lượng theo trạng thái
- 13 - Tình hình kinh tế - xã hội của vùng đệm. + Về kinh tế : . Tìm hiểu các hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, cây công nghiệp, các ngành thủ công và dịch vụ. + Về xã hội: . Tìm hiểu dân số, dân tộc, truyền thống canh tác, tổ chức quản lý xã hội. . Nhu cầu của người dân liên quan đến tài nguyên rừng (thực vật) gỗ làm nhà, chất đốt. . Nhu cầu về đất đai để phát triển trồng rừng của cộng đồng. - Hiện trạng về môi trường : + Độ che phủ + Tài nguyên đất và những khu vực xói mòn qua biến động thiên tai + Nước (nước bề mặt và nước ngầm). 2.3.2. Tình hình quản lý rừng ở vùng đệm. - Hiện trạng tình hình quản lý rừng và ảnh hưởng của con người đến quản lý rừng ở vùng đệm. - Những thuận lợi – khó khăn - Những thách thức hiện tại và thời gian tới đến quản lý bảo vệ rừng. 2.3.3. Ảnh hưởng của ĐKTN-KTXH đến QLR bền vững vùng đệm. 2.3.4. Ảnh hưởng của một số chính sách của Nhà nước. 2.3.5.Đề xuất các giải pháp QLR bền vững ở vùng đệm. - Đề xuất mô hình thử nghiệm về quản lý tài nguyên rừng có sự tham gia và sử dụng đất bền vững. - Đề xuất một số giải pháp quản lý tài nguyên rừng có sự tham gia của người dân hướng tới quản lý rừng bền vững. Trên cơ sở những hiện trạng và tình hình quản lý rừng ở vùng đệm chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau : + Giải pháp về mặt kinh tế. + Giải pháp về xã hội. + Giải pháp về khoa học công nghệ. 2.4. Phương pháp nghiên cứu. 2.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu.
- 14 - Trong đề tài này chúng tôi kế thừa những tài liệu như: Chính sách giao đất khoán rừng, chính sách thuế lâm nghiệp, luật bảo vệ và phát triển rừng, chiến lược phát triển lâm nghiệp từ 2001-2010. - Những tài liệu đã có về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và nhân văn của vùng đệm, hiện trạng và lịch sử hình thành khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar và các xã vùng đệm. - Hiện trạng quản lý sử dụng tài nguyên rừng được thu thập tại các uỷ ban nhân dân xã, hạt kiểm lâm huyện, Phòng thống kê, phòng Tài nguyên – Môi trường, phòng kinh tế huyện và Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Kar. - Kế thừa việc phân chia trạng thái và trữ lượng theo các trạng thái rừng hiện có. 2.4.2. Phương pháp PRA và RRA. Để điều tra đánh giá kinh tế hộ gia đình và quy hoạch sử dụng đất chúng tôi tiến hánh áp dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân và đánh giá nhanh nông thôn: (PRA, RRA) như phỏng phấn 30 hộ, thảo luận 3 nhóm, đối tượng là đồng bào dân tộc buôn PaipiJơl và sử dụng các công cụ: Đi lát cắt, lược sử thôn buôn, lịch thời vụ, phỏng phấn, thảo luận nhóm... phương pháp họp dân bình xét cho điểm và xếp loại - Lao động: Thang điểm cao nhất 10 điểm ứng với hộ có 4 lao động trở lên, 7 điểm ứng với hộ có 3 lao động và 4 điểm ứng với hộ có dưới 3 lao động. - Diện tích: Điểm cao nhất 10 điểm ứng với hộ có diện tích canh tác lớn hơn 1,5 ha, điểm 7 ứng với hộ có diện tích từ 1 đến 1,5 ha và cuối cùng là điểm 4 ứng với hộ có diện tích canh tác dưới 1 ha. - Vốn đầu tư: Cao nhất 10 điểm ứng với hộ có vốn đầu tư hơn 15 triệu đồng, điểm 7 ứng với hộ có số vốn đầu tư từ 10-15 triệu đồng điểm 4 ứng với hộ có số vốn đầu tư dưới 10 triệu đồng. - Thu nhập: Điểm cao nhất 10 điểm ứng với hộ có thu nhập hơn 20 triệu đồng. Điểm 7 cho những hộ có thu nhập từ 15-20 triệu đồng. Điểm 4 cho những hộ có thu nhập dưới 12 triệu.
- 15 - Kiến thức: Được đánh giá thông qua kinh nghiệm sản xuất của người dân. Điểm 10 cho hộ có kinh nghiệm khá. Điểm 7 cho hộ có kinh nghiệm trung bình. Điểm 4 cho hộ có kinh nghiệm kém. Xếp loại : Sau khi tính tổng các điểm ở các tiêu chí trên cho từng hộ gia đình, chúng tôi tiến hành xếp loại các hộ theo 3 mức : Khá, trung bình, nghèo. Mức khá có tổng điểm từ 40 điểm trở lên. Mức trung bình có tổng điểm từ 25 điểm trở lên 35. Mức nghèo có tổng điểm từ nhỏ hơn 20. 2.4.3. Phương pháp cân đo. Để tính toán lượng gỗ, củi từ nhu cầu của con người, chúng tôi dùng phương pháp cùng với người dân thảo luận lập kế hoạch các nhu cầu sử dụng gỗ củi cho mỗi nhà của một số hộ dân, sau đó xác định khối lượng sử dụng trong một năm. 2.4.4. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế. Để đánh giá tác động của các hình thức quản lý sử dụng đất đến phát triển kinh tế xã hội. Đề tài dựa vào hệ thống các tiêu chí - Cơ cấu đất đai. - Cơ cấu lao động. - Cơ cấu đầu tư. - Cơ cấu thu nhập. - Kinh nghiệm sản xuất. Để lựa chọn cây trồng thích hợp cho khu vực, từ điểm đánh giá cho một số cây trồng vật nuôi của người dân theo phương pháp Matrix kết hợp với thực tiễn trong sản xuất từ đó rút ra những nhận định chung nhất cho một số cây trồng, vật nuôi phù hợp với thực tiễn sản xuất tại khu vực nghiên cứu. Để đánh giá hiệu quả kinh tế cho mỗi mô hình canh tác, chúng tôi sử dụng phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế thông qua các chỉ tiêu NPV, BCR, BPV, CPV, IRR. Đề tài chọn hai phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế đó là Phương pháp tĩnh và phương pháp động. + Phương pháp tĩnh:
- 16 Coi các yếu tố chi phí và kết quả là độc lập tương đối và không chịu tác động của yếu tố thời gian, mục tiêu đầu tư và biến động của giá trị đồng tiền. Tổng lợi nhuận P=TN-CP (2.1). + Phương pháp động: Xem xét chi phí và thu nhập trong mối quan hệ động với mục tiêu đầu tư, thời gian, giá trị đồng tiền . Các chỉ tiêu: Giá trị hiện tại lợi nhuận ròng NPV: NPV là hiệu số giữa giá trị thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt động sản xuất trong các mô hình khi đã tính chiết khấu để quy về thời điểm hiện tại. n Bt - Ct NPV = (2-2) t=0 (1+i)t Trong đó : NPV là giá trị hiện tại thu thập ròng (đồng). Bt là giá trị thu nhập ở năm t (đồng). Ct là giá trị chi phí ở năm t (đồng). i là tỉ lệ chiết khấu hay lãi suất ( i = 7%/năm). t là thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm). NPV dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình kinh tế hay các phương thức canh tác. NPV càng lớn thì hiệu quả càng cao. Tỷ lệ thu hồi nội bộ IRR: IRR là chỉ tiêu đánh giá khả khả năng thu hồi vốn đầu tư có kể đến yếu tố thời gian thông qua tính chiết khấu. IRR chính là tỷ lệ chiết khấu, tỷ lệ này làm cho NPV = 0 tức là khi n Bt - Ct = 0 thì i = IRR (2-3) t=0 (1+i)t Tỷ lệ thu nhập so với chi phí BCR: BCR là hệ số sinh lãi thực tế phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết mức thu nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất.
- 17 n Bt t=1 (1+i)t BPV BCR = = (2-4) n Ct CPV t=1 (1+i)t Trong đó: BCR là tỷ suất thu nhập và chi phí (đồng/ đồng). BPV là giá trị hiện tại của thu nhập (đồng). CPV là giá trị hiện tại của chi phí (đồng). Nếu mô hình nào hoặc phương thức canh tác nào đó BCR > 1 thì có hiệu quả kinh tế. BCR càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao, ngược lại BCR < 1 thì kinh doanh không có hiệu quả. Hiệu quả tổng hợp các PTCT tính theo công thức: f1 f (min) fn f (min) ECt = {( hoac ) ..... ( hoac )} : n Trong đó: f ( Max) f1 f ( m·) fn ECt : Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp. Nếu ECt = 1 thì PTCT có hiệu quả cao nhất F: Là các chỉ tiêu tham gia vào tính toán. N: Là số lượng các chỉ tiêu. 2.4.5.Phương pháp đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường. Những thông tin thu được qua điều tra, phỏng vấn về lĩnh vực xã hội và môi trường được tổng hợp đánh giá chỉ dừng lại ở mức độ định tính, mô phỏng chứ chưa đi sâu nghiên cứu phân tích đánh giá về định lượng. Đây cũng là điểm giới hạn của đề tài. 2.4.6.Phương pháp dự báo dân số, hộ gia đình trong tương lai. Để dự bao dân số và hộ gia đình trong tương lai chúng tôi áp dụng các công thức sau: Dự báo dân số PV Nt = No( 1 + )n (2-5) 100
- 18 Trong đó:Nt là dân số trong tương lai. No dân số hiện tại. P là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên. V là tỷ lệ tăng dân số cơ học. n số năm cần dự tính. Dự báo số hộ gia đình: Nt H t= *Ho (2-6) No Trong đó : Ht Là số hộ trong tương lai. Ho Là số hộ hiện tại. Nt là dân số trong tương lai. No dân số hiện tại.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu sinh trưởng và đánh giá hiệu quả rừng trồng keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculifomis) tại huyện M’Đrăk tỉnh Đăk Lăk
116 p | 449 | 145
-
Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Giải pháp Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Công ty Lâm nghiệp Đăk N’Tao huyện Đăk Song tỉnh Đăk Nông
147 p | 345 | 105
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thú Linh trưởng (Primates) tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin
94 p | 208 | 53
-
Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Đánh giá nhu cầu bảo tồn theo hướng đồng quản lý tại khu bảo tồn thiên nhiên NamKa tỉnh Đăk Lăk
93 p | 154 | 37
-
Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Ứng dụng AHP và GIS đánh giá xác định sự thích nghi của Thông hai lá (Pinus merkusii) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) tại huyện Cư Kuin tỉnh Đắk Lắk
88 p | 172 | 32
-
Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Xác định các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến phân bố, tái sinh tự nhiên loài Pơ Mu (Fokienia hodginsii (Dunn) A. Henry et Thomas) tại Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, tỉnh Đắk Lắk
102 p | 140 | 27
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xử lý thuốc nhuộm xanh methylen bằng bùn đỏ từ nhà máy Lumin Tân Rai Lâm Đồng
26 p | 160 | 17
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu biến tính mùn cưa làm vật liệu hấp phụ chất màu hữu cơ trong nước
26 p | 191 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Dược học: Xác định các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc thông qua hoạt động thực hành dược lâm sàng tại khoa Mũi xoang Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương
81 p | 66 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của tràn dịch màng phổi do lao tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Nguyên
73 p | 54 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Tình trạng thiếu Vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ suy dinh dưỡng thấp còi 6-36 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
82 p | 35 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 200 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu tình trạng kháng Insulin ở bệnh nhân suy tim điều trị tại Bệnh viện A Thái Nguyên
84 p | 43 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu tác dụng viên nén GANMO trong điều trị gan nhiễm mỡ trên lâm sàng
103 p | 24 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Đánh giá bước đầu về thành phần loài, cấu trúc và động thái tái sinh của các ô tiêu chuẩn định vị trong rừng lá rộng thường xanh vườn quốc gia Ba Bể, Bắc Cạn
109 p | 22 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn