intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Nghiên cứu quy hoạch phát triển du lịch sinh thái Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên - Thường Xuân - Thanh Hóa

Chia sẻ: Tri Lễ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

43
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là khai thác tối đa những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn để phát triển du lịch sinh thái, giúp địa phương cung cấp các sản phẩm, dịch vụ du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo tồn tài nguyên môi trường; tạo nền tảng cho việc quản lý, đầu tư, xây dựng các dự án phát triển trong địa bàn quy hoạch.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lâm học: Nghiên cứu quy hoạch phát triển du lịch sinh thái Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên - Thường Xuân - Thanh Hóa

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Những thập kỷ gần đây, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế lớn, chiếm vị trí quan trọng ở nhiều quốc gia và trên quy mô toàn cầu. Phát triển du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng đang ngày càng nhận được sự quan tâm ở nhiều nước. Theo đánh giá của Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (The Pacific Asia Travel Association,PATA), du lịch sinh thái đang có chiều hướng phát triển và trở thành một bộ phận có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất về tỉ trọng trong ngành du lịch. Nơi nào còn giữ được sự cân bằng sinh thái thì nơi đó sẽ có tiềm năng phát triển tốt về du lịch sinh thái và thu hút được nguồn du khách lớn, lâu dài và ổn định. Ngoài việc đáp ứng các nhu cầu nghỉ ngơi, khám phá thế giới tự nhiên, mang lại lợi ích về kinh tế thiết thực, du lịch sinh thái còn có ý nghĩa giáo dục bảo vệ môi trường cho khách du lịch cũng như cộng đồng dân cư, góp phần bảo tồn và nâng cao các giá trị cảnh quan môi trường. Từ nhận thức đó, du lịch sinh thái đã được xác định là một trong những hướng phát triển du lịch chủ đạo của Du lịch Việt Nam trong Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020. Tỉnh Thanh Hoá là một địa phương giàu tiềm năng du lịch, không những chỉ có các di sản văn hoá quốc gia mà còn có một nguồn tài nguyên thiên nhiên và du lịch sinh thái phong phú. Hiện cả tỉnh có trên 85 nghìn ha rừng đặc dụng nằm ở hai Vườn quốc gia và ba Khu bảo tồn thiên nhiên.Tuy nhiên, việc khai thác những tiềm năng to lớn này còn nhiều hạn chế, có thể nói mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu phát triển và chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có, các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn. Vì thế, trước mắt du lịch chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên trước hết là chưa có những nghiên cứu khoa học, hạn chế về mặt lý luận lẫn kinh nghiệm tổ chức quản lý, thiêu sự phối kết hợp giữa các cơ quan, các
  2. 2 ngành các cấp trong việc xây dựng chính sách phát triển và quy hoạch du lịch sinh thái. Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên nằm trên địa bàn huyện Thường Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 65 km về phía Tây Nam. Xuân Liên nổi tiếng với khu hệ động thực vật rừng phong phú và đa dạng, với các kiểu rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới đặc trưng cho miền Bắc Việt Nam. Trong đó có nhiều loài động thực vật có trong sách đỏ Việt Nam và trên thế giới, điển hình như: Pơ mu (Fokienia hodginsii), Sa mu (Cunninghamia konishii), Bách xanh (Calocedrus macrolepis); Hổ (Tiger), Báo (Neofelis nebulosa), Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys).v.v... Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên cũng là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, các đỉnh núi cao, các hang động đẹp, thác nước, các di tích lịch sử, di tích tín ngưỡng như đền Chúa Thượng Ngàn, đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước, Miếu Cô.... Đặc biệt, trong phạm vi khu bảo tồn còn có 3.300 ha diện tích mặt nước hồ Cửa Đạt, có khí hậu quanh năm mát mẻ và các phong tục văn hoá đặc sắc của các đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là những nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có giá trị cao đối với phát triển các hoạt động du lịch sinh thái của khu vực này. Mặc dù có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái nhưng vào thời điểm hiện tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên chưa triển khai được bất kỳ hoạt động thực tế nào nhằm đưa du lịch sinh thái trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho mục đích bảo tồn. Nguyên nhân chính là do thiếu quy hoạch du lịch sinh thái trong quy hoạch tổng thể. Như vậy để khai thác hiệu quả các tiềm năng du lịch sinh thái ở khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên và đảm bảo sự phát triển bền vững của du lịch sinh thái trên quan điểm bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của địa phương, vấn đề “Nghiên cứu quy hoạch phát triển du lịch sinh thái Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên - Thường Xuân - Thanh Hóa” là rất cần thiết.
  3. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Du lịch sinh thái Du lịch sinh thái và các hình thức du lịch bền vững có nguồn gốc từ các phong trào môi trường của những năm 1970. Du lịch sinh thái bản thân nó không trở thành phổ biến như là một khái niệm du lịch cho đến cuối những năm 1980. Trong thời gian đó, nhu cầu nâng cao nhận thức môi trường và mong muốn đi du lịch đến các địa điểm tự nhiên trái ngược với các địa điểm du lịch được xây dựng phát triển mạnh mẽ. Kể từ đó, một số tổ chức chuyên về du lịch sinh thái đã phát triển và nhiều người đã trở thành chuyên gia về nó. Do sự phổ biến của du lịch có liên quan tới môi trường, các loại của các chuyến đi này đang được phân loại như du lịch sinh thái. Tuy nhiên, hầu hết trong số này là không thực sự là du lịch sinh thái do không chú trọng bảo tồn, giáo dục du lịch tác động thấp, sự tham gia của xã hội và văn hóa tại các địa điểm đến tham quan. Vì vậy, để được coi là du lịch sinh thái, một chuyến đi phải đáp ứng các nguyên tắc sau đây được quy định bởi Hiệp hội Du lịch sinh thái quốc tế: + Giảm thiểu tác động của việc thăm viếng các địa điểm du lịch + Xây dựng sự tôn trọng, nâng cao nhận thức môi trường và tập quán văn hóa. + Đảm bảo rằng du lịch cung cấp những kinh nghiệm tích cực cho cả du khách và người dân địa phương. + Cung cấp hỗ trợ tài chính trực tiếp cho khu bảo tồn. +Cung cấp trợ giúp tài chính, trao quyền và lợi ích khác cho nhân dân địa phương.
  4. 4 +Nâng cao nhận thức môi trường, xã hội của khách du lịch và của chính nước chủ nhà. Cơ hội cho du lịch sinh thái tồn tại ở nhiều địa điểm khác nhau trên toàn thế giới và hoạt động của nó có thể thay đổi rộng rãi. Ví dụ: Đảo Madagascar nổi tiếng với các hoạt động du lịch sinh thái vì đó là một điểm nóng đa dạng sinh học, nhưng cũng có một ưu tiên cao cho việc bảo tồn môi trường và cam kết giảm nghèo. Chính phủ đảo cam kết bảo tồn, du lịch sinh thái được cho phép với số lượng nhỏ, doanh thu du lịch dùng hỗ trợ trong việc giảm đói nghèo của đất nước và lập các quỹ giáo dục môi trường. Một nơi du lịch sinh thái nổi tiếng khác, ở Indonesia đó là Vườn quốc gia Komodo. Công viên được tạo thành từ 233 dặm vuông (603 sq km) đất được trải rộng trên một số hòn đảo và 469 dặm vuông (1.214 sq km) nước. Khu vực này được thành lập như một công viên quốc gia vào năm 1980 và được phổ biến cho du lịch sinh thái vì đa dạng sinh học độc đáo và quý hiếm của nó. Du lịch sinh thái cũng rất phổ biến ở Trung và Nam Mỹ. Các điểm đến bao gồm Bolivia, Brazil, Ecuador, Venezuela, Guatemala và Panama. Tại Guatemala mục tiêu chính của du lịch sinh thái sinh thái là giáo dục du khách về truyền thống văn hóa lịch sử của người Maya, Itza, bảo vệ các vùng đất trong dự trữ sinh quyển Maya và cung cấp thu nhập cho người dân của khu vực. Mặc dù sự phổ biến của du lịch sinh thái trong các ví dụ nêu trên, các nhà phê bình của du lịch sinh thái cũng trích dẫn rằng du lịch tới khu vực hoặc các hệ sinh thái nhạy cảm tăng mà không có quy hoạch và quản lý thực sự có thể gây hại cho hệ sinh thái bởi vì cơ sở hạ tầng cần thiết để duy trì du lịch như: đường giao thông có thể đóng góp vào suy thoái môi trường. Các nhà phê bình cũng cho biết du lịch sinh thái dễ tác động tiêu cực đến cộng đồng địa phương vì sự xuất hiện của du khách nước ngoài. (Amanda Briney, “An Overview of Ecotourism” [1] )
  5. 5 DLST có nhiều định nghĩa bởi các cá nhân và tổ chức hiệp hội du lịch: - Theo Cebllos – Lascurain, H, 1987 thì “DLST là du lịch vào những khu tự nhiên hầu như không bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, thưởng ngoạn, trân trọng khung cảnh và muôn thú hoang dã và các biểu thị văn hóa được khám phá trong các khu vực này”. - "Du lịch sinh thái là loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn bảo tồn khá tốt nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu" (Boo, 1991) - “DLST là du lịch tại các vùng còn chưa bị con ngươi làm biến đổi. Nó phải đóng góp vào BTTN và phúc lợi của dân địa phương” (L.Hens, 1998). - Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ,1998 “DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời tạo cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương” - “DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và định hướng về môi trường tự nhiên và nhân văn, được quản lí một cách bền vững và có lợi cho sinh thái” (Hiệp hội DLST Australia). - Đối với cá nhân, định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh là định nghĩa của Honey (1999) “DLST là du lịch tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường, nó trực tiếp đem lại nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyến khích tôn trọng các giá trị văn hóa và quyền con người”. Như vậy khái niệm, tính chất của DLST đã được nhiều cơ quan tổ chức, cá nhân trên thế giới nghiên cứu đưa ra và hiện nay DLST đang phát
  6. 6 triển mạnh mẽ toàn cầu, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong các loại hình du lịch. Sự tăng trưởng nhanh chóng của du lịch tự nhiên và du lịch sinh thái đến các khu BTTN đã kéo theo sự thay đổi chiến lược trong quản lý khu vực bảo tồn theo hướng phát triển tích hợp. Do đó các khu BTTN nên xem xét làm thế nào để có thể kiểm soát du lịch tự nhiên đến các khu vực quản lý và chuyển đổi nó trở thành du lịch sinh thái vì lợi ích của việc bảo tồn và sinh kế của người dân địa phương. 1.1.2. Khu bảo tồn thiên nhiên và quy hoạch du lịch sinh thái Từ năm 1982, Hoa Kỳ đã thành lập công viên quốc gia đầu tiên trên thế giới Yellow Stone; năm 1879 ở Úc, công viên quốc gia có lịch sử thành lập sớm thứ hai thế giới là Royal National được thành lập. Năm 1924 công viên quốc gia đầu tiên của Vương quốc Anh được ra quyết định thành lập; hiện nay ở nước Anh các công viên quốc gia được ra quyết định thành lập chiếm 9% diện tích đất tự nhiên. (Bùi Thị Hải Yến, 2009, Tài nguyên du lịch, [47]). Định nghĩa của IUCN khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học là mục tiêu cơ bản của khu BTTN: “Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức quản lý có hiệu quả khác” (IUCN 1994). Hệ thống phân hạng khu BTTN quốc tế của IUCN hiện hành được công bố năm 1994, trên cơ sở cập nhật Hệ thống phân hạng 1978. Hệ thống phân hạng 1994 có tất cả 6 phân hạng. Năm phân hạng đầu tiên chủ yếu dựa trên các phân hạng (I-V) của hệ thống phân hạng 1978. Việc xắp xếp một khu BTTN vào một phân hạng nhất định cần căn cứ vào mục tiêu quản lý chủ đạo của khu BTTN đó. Mối quan hệ giữa các mục tiêu quản lý và các phân hạng thể hiện ba Bảng 1.1:
  7. 7 Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa mục tiêu quản lý và các phân hạng KBTTN Mục tiêu quản lý Ia Ib II III IV V VI Nghiên cứu khoa học 1 3 2 2 2 2 3 Bảo vệ đời sống hoang dã 2 1 2 3 3 - 2 Bảo vệ đa dạng loài và gen 1 2 1 1 1 2 1 Gìn giữ các dịch vụ môi trường 2 1 1 - 1 2 1 Bảo vệ các đặc điểm tự nhiên và văn hóa - - 2 1 3 1 3 Du lịch và nghỉ dưỡng - 2 1 1 3 1 3 Giáo dục - - 2 2 2 2 3 Sử dụng bền vững tài nguyên của hệ sinh thái tự nhiên - 3 3 - 2 2 1 Gìn giữ các bản sắc văn hóa và truyền thống - - - - - 1 2 (Ghi chú: 1 = Mục tiêu chủ yếu; 2 = Mục tiêu thứ yếu; 3 = Mục tiêu tiềm năng; - = Không thể ứng dụng) Đề xuất tại Đại hội các vườn quốc gia thế giới lần thứ V của IUCN: “Du lịch trong và ngoài KBTTN khi được thiết kế thành một phương pháp bảo tồn: hỗ trợ, tăng cường nhận thức về các giá trị quan trọng của KBTTN như giá trị sinh thái, văn hóa, tinh thần, thẩm mỹ, giải trí và kinh tế; đồng thời tạo thu nhập phục vụ bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái và di sản văn hóa. Du lịch cũng nên đóng góp nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa và họ là những người tạo động lực hỗ trợ bảo vệ phong tục và giá trị truyền thống, bảo vệ và tôn trọng những khu vực linh thiêng cũng như kiến thức truyền thống”. DLST ngoài tác dụng tích cực của nó như một công cụ bảo tồn tại các KBTTN thì nó còn có tác động tiêu cực đối với môi trường. Ý tưởng giảm tác động tiêu cực của du khách tới KBTTN được thực hiện bằng cách quyết định sức chứa và giới hạn số lượng du khách bắt buộc. Đã có nhiều khái niệm về sức chứa tùy vào điều kiện và nơi khái niệm được áp dụng song nói chung
  8. 8 sức chứa là số đo về mức độ và loại hình sử dụng có thể được duy trì trong một khu vự và cộng đồng xung quanh trong giới hạn cho phép. Ceballos- Lascurain (1996) và Cifuentes (1992) giới thiệu những phương pháp đo sức chứa và những ví dụ về ứng dụng của chúng. Việc hạn chế số lượng du khách được coi là giải pháp đơn giản và trực tiếp nhằm giảm tác động của du lịch. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu và quản lý vốn quen với các lọa hình tác động của du khách (Stankey y McCool, 1972; Lindberg, 1997; Borrie, 1998) lập luận rằng không có mối quan hệ rõ ràng và chính xác nào giữa số lượng du khách và tác động, còn có nhiều yếu tố tác động đến hình thức và địa điểm du lịch. Hơn nữa, có thể áp dụng rất nhiều chiến lược và phương pháp giảm thiểu tác động (Marion y Farrell, 1998), trong đó vẫn có thể tăng số lượng du khách lên nhưng đồng thời vẫn đảm bảo giảm các tác động tiêu cực. Do đó, phương pháp hạn chế số lượng một cách đơn giản được áp dụng trong khuôn khổ phân tích sức chứa không còn được coi là phù hợp và chính xác nữa vì hiện nay có nhiều phương pháp cụ thể và nhạy cảm hơn. Có thể nói việc quan tâm tới “sức chứa” là rất quan trọng và sẽ tiếp tục phải chú ý tới giới hạn của nó trong du lịch nhằm làm giảm thiểu những tác động tiêu cực. Trên thực tế, như tên gọi của nó vẫn được hiểu trên thế giới, nó đã làm cho mọi người nhận thức được tầm quan trọng của việc giám sát những tác động của du lịch (Lindberg, McCool y Stankey, 1997). Do những khuyết điểm của phương pháp giới hạn số lượng du khách, biện pháp thiên về chất lượng được đưa ra. Phương pháp lâu đời nhất sử dụng khai niệm Mức độ thay đổi có thể chấp nhận – Limit of Acceptable Change, (LAC) và phương pháp này cho rằng phải có sự thay đổi kết quả của du lịch và mục tiêu chính của giám sát du khách là giữ cho mức độ ảnh hưởng nằm dưới mức cho phép. Phương pháp này và các phương pháp tương tự khác đã xác định những quy định, cách đo
  9. 9 ảnh hưởng và xác định những chiến lược quản lý các tác động tiêu cực.(Fundeso (2004), Manual of Ecotourism [14-26]). Quy hoạch du lịch sinh thái VQG của Canada phân chia được làm 5 phân khu: + Phân khu bảo tồn đặc biệt (special preservation) – Khu vực bao gồm những những loài động, thực vật quý hiếm hoặc đang có nguy cơ tuyệt chủng, việc ra vào khu vực này được kiểm soát nghiêm ngặt. + Phân khu hoang dã (wilderness) – Khu vực này chiếm 60-90% diện tích của vườn quốc gia và mục đích chủ yếu là để bảo tồn nguồn tài nguyên. Sự sử dụng chỉ được phân tán với số lượng tiện nghi hạn chế. +Phân khu môi trường thiên nhiên (Natural enviroment) – Khu vực này được coi như là vùng đệm giữa khu vực 2 (phân khu hoang dã) và khu vực 4 (phân khu giải trí), việc ra vào hạn chế đối với các động cơ gây tiếng ồn +Phân khu giải trí (Recreation) – Tiện nghi nghỉ qua đêm như bãi cắm trại…được tập trung ở khu vực này. +Phân khu dịch vụ vườn quốc gia (Park services) – Khu vực này tập trung nhiều dịch vụ nhưng chỉ chiếm diện tích nhỏ hơn 1% diện tích của vườn quốc gia. (Phạm Hồng Long, 7/2007, Đại học KHXH&NV, Đề cương DLST [15]) Như vậy DLST là một hình thức lý tưởng của chiến lược phát triển bền vững, trong đó tài nguyên thiên nhiên có thể được sử dụng như một yếu tố thu hút khách du lịch mà không gây tác hại tới thiên nhiên của khu vực. Do đó DLST sẽ là một công cụ quan trọng trong quản lý KBTTN. Tuy nhiên DLST phải được phát triển phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và có kiểm soát. Việc quy hoạch DLST các KBTTN cần được phân định rõ ràng các khu chức năng riêng biệt và ưu tiên các khu vực có hệ sinh thái nhạy cảm, dễ bị tổn thương do tác động của du lịch mang lại.
  10. 10 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Du lịch sinh thái Ở Việt Nam, hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển DLST ở Việt Nam” từ ngày 7 đến ngày 9/9/1999 đã đưa ra định nghĩa về DLST là: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. Ngoài những khái niệm và định nghĩa trên còn có một số định nghĩa mở rộng hơn về nội dung của DLST: “DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững” (Lê Huy Bá – 2000) Cho đến nay, khái niệm DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Mặc dù, những tranh luận vẫn còn đang diễn tiến nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất về DLST, nhưng đa số ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về DLST đều cho rằng DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lí theo hướng bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và văn hóa bản địa. DLST nói theo một định nghĩa nào chăng nữa thì nó phải hội đủ các yếu tố cần: (1) sự quan tâm tới thiên nhiên và môi trường; (2) trách nhiệm với xã
  11. 11 hội và cộng đồng..( Lê Huy Bá, 2003, Du lịch sinh thái, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh,[113-116]) Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức kỹ thuật không riêng gì với Việt Nam mà ở nhiều nước. Tiềm năng du lịch sinh thái to lớn của Việt Nam cũng như thị trường du lịch sinh thái trong nước chưa được khai thác có hiệu quả. Trong những năm qua mới chỉ tập trung chủ yếu vào công tác quy hoạch tổng thể phát triển du lịch mang tính định hướng chiến lược và đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng khách sạn du lịch. Công tác điều tra cơ bản, quy hoạch những vùng tiềm năng phục vụ cho mục đích phát triển du lịch sinh thái hầu như còn ở giai đoạn đầu. Một số tổ chức du lịch đã tổ chức một số tuyến du lịch mang dáng dấp du lịch sinh thái. Tuy nhiên các hoạt động này còn mang tính chất tự phát, quy mô nhỏ, sản phẩm và đối tượng phục vụ chưa rõ ràng. Đặc biệt đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường và công nghệ phục vụ phát triển loại hình du lịch sinh thái vẫn còn nhiều hạn chế. Công tác tổ chức huấn luyện nghiệp vụ phục vụ cho hoạt động du lịch sinh thái chưa được quan tâm... - Về tổ chức các loại hình du lịch sinh thái và thị trường du lịch sinh thái: Nước ta hiện nay mới chỉ tổ chức được một số hoạt động du lịch dựa vào việc khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: - Du lịch thăm quan, nghiên cứu ở một số khu bảo tồn thiên nhiên mà chủ yếu là các vườn quốc gia. - Du lịch thám hiểm, nghiên cứu vùng núi Phanxipăng (Lào Cai). - Du lịch tham quan miệt vườn, sông nước đồng bằng sông Cửu Long. - Tổ chức các cuộc hành trình bằng xe đạp, xe máy, ôtô cấp khu vực hoặc xuyên quốc gia để tham quan tìm hiểu cảnh quan thiên nhiên, con người Việt Nam.
  12. 12 Các hoạt động du lịch trên thực chất chỉ là du lịch dựa vào thiên nhiên mang màu sắc của du lịch sinh thái, vừa khám phá thiên nhiên vừa bảo vệ thiên nhiên với đầy đủ ý nghĩa trách nhiệm. Do việc nghiên cứu tạo cơ sở cho phát triển loại hình du lịch sinh thái cũng như việc quy hoạch, đầu tư các khu vực phục vụ tổ chức hoạt động du lịch sinh thái còn hạn chế nên đã ảnh hưởng đến việc xây dựng các chương trình du lịch mang tính chuyên đề hoặc tổng hợp có nội dung sinh thái có sức cạnh tranh. -Về tổ chức khai thác thị trường du lịch sinh thái: thị trường du lịch sinh thái trên phạm vi thế giới và trong nước hiện nay đang phát triển mạnh và là một xu hướng mới. Tuy nhiên, việc tổ chức nghiên cứu thị trường và những giải pháp phát triển du lịch sinh thái còn nhiều hạn chế. -Về đầu tư phát triển: việc phát triển du lịch sinh thái chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư xây dựng và kinh doanh các khu lưu trú, khách sạn ( Resort). Nhiều khu Resort, đặc biệt ở khu vực ven biển miền Trung, vùng núi được các chủ đầu tư, kinh doanh tự gắn " mác" du lịch sinh thái. Việc đầu tư và quản lý xây dựng chưa bảo đảm nguyên tắc, cơ sở khoa học của DLST, phù hợp với yêu cầu quy hoạch phát triển DLST dẫn đến tình trạng xây dựng tràn lan, làm huỷ hoại cảnh quan môi trường, trùng lặp hoặc thiếu sản phẩm du lịch đặc thù vùng, miền, công suất khai thác sử dụng thấp, giảm hiệu quả đầu tư. Mặt khác, nhận thức về du lịch sinh thái còn bất cập, thiếu cơ sở pháp luật để tổ chức đầu tư, phát triển và kinh doanh: tiêu chuẩn, quy phạm, phương pháp thiết kế quy hoạch đầu tư phát triển du lịch sinh thái chưa được ban hành; chưa tạo được hành lang pháp lý với những cơ chế phù hợp; cơ chế quản lý hệ sinh thái đặc trưng (vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên..) đáp ứng yêu cầu hoạt động DLST; việc khai thác tiềm năng sinh thái chưa gắn kết với quy hoạch du lịch sinh thái; sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý phát triển DLST chưa được chặt chẽ. Mâu thuẫn giữa sự tăng
  13. 13 trưởng khách và nhu cầu du lịch sinh thái với năng lực đáp ứng của các khu, điểm du lịch, kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường, sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà, bền vững chưa có giải pháp hiệu quả.(Lê Trọng Bình, 2007, Quy hoạch và kiến trúc du lịch sinh thái [9-10]) 1.2.2. Khu bảo tồn thiên nhiên và quy hoạch du lịch sinh thái Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn đã đưa ra các tiêu chí xác định ranh giới và khái niệm các khu bảo tồn thiên nhiên, nhằm triển khai hiệu quả chiến lược quản lý hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam giai đoạn 2005-2010: Các khu bảo tồn thiên nhiên trước tiên phải có các loài động thực vật hoặc các loài sống ở rạn san hô, có cảnh quan địa lý có giá trị về khoa học, giáo dục và có ít nhất 1 loài động thực vật đặc hữu hoặc trên 5 loài được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (ngoại trừ các khu bảo tồn biển, do Sách Đỏ Việt Nam không liệt kê các loài sống ở rạn san hô). Các khu bảo tồn phải có diện tích tối thiểu là 5.000ha nếu ở trên đất liền, 3.000ha nếu ở trên biển và 1.000ha nếu là đất ngập nước, có diện tích các hệ sinh thái tự nhiên có đa dạng sinh học chiếm ít nhất 70% và tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp cùng đất thổ cư so với diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên dưới 5%. Ngoài ra các khu bảo tồn thiên nhiên phải có điều kiện phát triển giáo dục môi trường và du lịch sinh thái mà không ảnh hưởng đến các mục tiêu bảo tồn. Việc thành lập khu bảo tồn thiên nhiên phải do Chính phủ, Bộ liên quan hoặc Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố ra quyết định. Các khu BTTN được xây dựng, phục hồi với các mục đích sau: - Nghiên cứu khoa học. - Bảo vệ các vùng hoang dã. - Bảo vệ sự đa dạng loài và gen.
  14. 14 - Duy trì các lợi ích về môi trường từ thiên nhiên. - Bảo vệ các cảnh quan đặc biệt về thiên nhiên và văn hoá. - Sử dụng cho du lịch và giải trí. - Giáo dục. - Sử dụng hợp lí các tài nguyên từ các hệ sinh thái tự nhiên. - Duy trì các biểu trưng văn hoá và truyền thống. Khu bảo tồn thiên nhiên là những khu được bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ dành cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và quan trắc môi trường. Các khu bảo tồn thiên nhiên này cho phép gìn giữ các quần thể của các loài cũng như các quá trình của hệ sinh thái không hoặc ít bị nhiễu loạn. - Theo Luật Đa dạng sinh học 2008 của Việt Nam, khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm các loại hình: * Vườn quốc gia; * Khu dự trữ thiên nhiên; * Khu bảo tồn loài - sinh cảnh; * Khu bảo vệ cảnh quan; Ở Việt Nam, vườn quốc gia Cúc Phương là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên được thành lập vào năm 1962. Đến năm 2008, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển. Đến năm 2009, Việt Nam đã có 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận, có 2 khu Di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long và Khu Phong Nha – Kẻ Bàng, có 2 khu RAMSAR, đó là khu Xuân Thuỷ (tỉnh Nam Định) và khu Bầu Sấu thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên.
  15. 15 Từ những năm đầu của thế kỷ XX, các nhà địa lý và kiến trúc người Pháp đã khảo sát và quy hoạch các đô thị và điểm nghỉ dưỡng ở nước ta. Năm 1930, khu nghỉ dưỡng Bạch Mã cũng đã được quy hoạch và xây dựng gồm đường ôtô trải nhựa, 139 biệt thự, cùng nhiều công trình cung cấp điện, nước… Khu nghỉ mát Tam Đảo cũng được người Pháp quy hoạch và xây dựng vào năm 1922. Quy hoạch của khu nghỉ dưỡng gồm các biệt thự, hệ thống cung cấp điện, nước, bể bơi, trung tâm dịch vụ và hệ thống đường ôtô dẫn lên khu nghỉ mát. Năm 1940, người Pháp còn tiến hành quy hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng Ba Vì với đường ôtô dẫn đến Code 600, bể bơi, vườn thực vật và 200 biệt thự. Từ năm 1940 đến năm 1993 không có thêm khu du lịch nào ở nước ta được quy hoạch, do nguyên nhân chiến tranh, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn…Từ năm 1994 đến nay, nhiều dự án quy hoạch phát triển du lịch tầm cỡ Quốc gia và của nhiều tỉnh, thành về các điểm khu du lịch đã hoàn thành và được Nhà nước và các địa phương phê duyệt. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, ở Việt Nam đã có một số đề tài khoa học, dự án đề cập đến các vấn đề nhằm phục vụ cho quy hoạch du lịch ở nước ta như: “Sơ đồ phát triển và phân bố ngành du lịch Việt Nam giai đoạn 1986-2000” (Chương trình 70-01, Đề tài 70-01-04.05), Tổng cục du lịch Việt Nam, 1986; “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam” do Vũ Tuấn Cảnh và cộng sự thực hiện, Viện nghiên cứu phát triển du lịch – Bộ VHTTTT&DL, 1991; “Dự án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch hồ Đại Lải – huyện Mê Linh, Hà Nội” do Vũ Tuấn Cảnh và cộng sự thực hiện, 1990; “Đánh giá và khai thác các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên huyện Ba Vì (Hà Tây) phục vụ mục đích du lịch”, Luận án PTS, Đặng Duy Lợi, 1993; “Cơ sở khoa học của việc xác định các tuyến điểm du lịch Nghệ An”, Nguyễn Thế Chinh, 1995, “Cơ sở khoa học cho việc xây dựng các tuyến điểm du lịch vùng
  16. 16 Trung Bộ”, Hồ Công Dũng, 1996… (Bùi Thị Hải Yến, 2007, Quy hoạch du lịch,[23-25]). Mặc dù có tiềm năng lớn, nhưng DLST ở các KBTTN Việt Nam đang ở giai đoạn bắt đầu phát triển và chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Một trong những nguyên nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển du lịch sinh thái ở các KBTTN Việt Nam là thiếu sự phối kết hợp giữa các cơ quan, các ngành, các cấp trong việc xây dựng các chính sách phát triển và quy hoạch du lịch sinh thái. Hiện tại, các hoạt động du lịch ở các KBTTN Việt Nam còn mang tính tự phát, chưa có sản phẩm và thị trường mục tiêu, chưa có sự đầu tư cho công việc xúc tiến và phát triển công nghệ phục vụ cho DLST (Lê Văn Lanh, 1999). Xét về nội dung và cách thực tổ chức thì hoạt động du lịch ở các VQG và KBTTN hiện nay thuộc loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên có định hướng DLST. Một số vườn quốc gia đã thành lập Ban du lịch hoặc Trung tâm DLST và giáo dục môi trường để điều hành hoạt động du lịch. Công tác nghiên cứu, quy hoạch và phát triển du lịch sinh thái đã được tiến hành ở một số VQG như Cúc Phương, Ba Bể, Ba Vì, Tam Đảo, Bạch Mã, Cát Tiên, Tràm Chim…Trước kia, việc đầu tư kinh phí cho cơ sở hạ tầng phát triển du lịch ở các VQG chủ yếu là từ Bộ NN&PTNN. Tại VQG Ba Vì nhiều công ty du lịch của tư nhân đã được hình thành và đã nhận được hàng trăm héc ta rừng để quản lý, bảo vệ, phục vụ cho việc phát triển du lịch. Do được đầu tư kinh phí và bảo vệ tốt nên sau một thời gian ngắn rừng đã phục hồi và phát triển tốt hơn các khu vực nằm ngoài khu du lịch. Để giới thiệu cho khách tham quan một cách hệ thống các tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là tài nguyên sinh vật, các VQG như Cúc Phương, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã, Cát Tiên đã xây dựng trung tâm du khách, trung tâm thông tin và các đường mòn thiên nhiên có các biển diễn giãi. Qua các hiện vật trưng bày là các tiêu bản động thực vật, các mô hình mô tả hệ sinh thái và nhiều thông tin, tài liệu trưng
  17. 17 bày trong trung tâm mà du khách đã thấy được sự đa dạng sinh học và ý nghĩa của việc thành lập VQG. Các vườn thực vật trong VQG bao gồm rất nhiều loài thực vật mà du khách có thể tham quan, học tập mà không cần phải tìm kiếm vất vả trong rừng sâu. Đây còn là nơi triển khai hoạt động giáo dục môi trường cho khách tham quan du lịch. Như vậy, việc quy hoạch du lịch sinh thái ở các KBTTN Việt Nam đang ở giai đoạn đầu phát triển, chưa có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chung cho vấn đề quy hoạch này. Các KBTTN cũng nắm bắt được xu hướng phát triển của du lịch sinh thái nên cũng tiến hành thực hiện quy hoạch du lịch sinh thái và đáp ứng phần nào nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên những quy hoạch đó còn mang tính chất tự phát, chưa thể hiện rõ bản chất của du lịch sinh thái, chủ yếu là du lịch dựa vào thiên nhiên, không giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho du khách và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương.
  18. 18 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu chung Khai thác tối đa những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn để phát triển du lịch sinh thái, giúp địa phương cung cấp các sản phẩm, dịch vụ du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo tồn tài nguyên môi trường; tạo nền tảng cho việc quản lý, đầu tư, xây dựng các dự án phát triển trong địa bàn quy hoạch. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Đánh giá được tiềm năng tài nguyên du lịch sinh thái trong khu vực. - Xác định được tính chất, chức năng, quy mô phát triển, tổ chức không gian các tuyến, điểm tham quan du lịch. - Phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật của khu quy hoạch đáp ứng các yêu cầu phát triển du lịch sinh thái. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: KBTTN Xuân Liên - Phạm vi nghiên cứu: + Diện tích quản lý của Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên và khu vực vùng đệm gồm 5 xã: Bát Mọt, Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân Cẩm,Vạn Xuân (với tổng diện tích là 66.484,16 ha). + Quy hoạch du lịch sinh thái KBTTN giai đoạn 2010 – 2020. 2.3. Nội dung nghiên cứu 2.3.1. Đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển du lịch - Đánh giá hiện trạng: + Hiện trạng điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. + Hiện trạng sử dụng đất.
  19. 19 + Hiện trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. + Hiện trạng quản lý các hoạt động dịch vụ du lịch. - Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch: + Tài nguyên du lịch tự nhiên. + Tài nguyên du lịch nhân văn. 2.3.2. Quy hoạch phát triển không gian du lịch - Một số chỉ tiêu dự báo cho khu vực: +Dự báo về thị trường khách du lịch. +Dự báo về khách sạn. +Dự báo về thu nhập từ du lịch. +Dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực du lịch. - Định hướng thị trường du lịch. - Định hướng các loại hình dịch vụ du lịch. - Định hướng về tổ chức quản lý du lịch. - Quy hoạch tuyến - điểm du lịch. 2.3.3. Quy hoạch hạ tầng du lịch - Hệ thống hạ tầng dịch vụ du lịch. - Hệ thống hạ tầng kỹ thuật. 2.3.4. Dự báo tác động môi trường và các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường 2.3.5. Các giải pháp thực hiện quy hoạch - Đề xuất lộ trình thực hiện quy hoạch. - Giải pháp tổ chức quản lý và thực hiện quy hoạch. - Giải pháp về cơ chế chính sách. - Giải pháp về vốn. - Giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực. - Giải pháp về thị trường, xúc tiến phát triển du lịch.
  20. 20 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Khảo sát thực địa, thu thập số liệu * Phương pháp kế thừa: các nguồn tài liệu có liện quan, các công trình nghiên cứu, các dự án phát triển du lịch sinh thái có nhiều ưu điểm đã được thực hiện trước đây: + Các số liệu thống kê về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, du lịch, văn hóa được thu thập tại Ban quản lý KBTTN Xuân Liên. + Các loại bản đồ ranh giới, vị trí, phân khu, hiện trạng sử dụng đất… của KBTTN Xuân Liên. + Dự án đầu tư bổ sung xây dựng KBTTN Xuân Liên giai đoạn 2006 – 2010. *Điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch tự nhiên: - Điều tra, đánh giá vị trí địa lý: kế thừa từ bản đồ ranh giới KBTTN và được đánh giá mức độ thuận lợi theo phương pháp của Đặng Duy Lợi (1995) căn cứ vào khoảng cách giữa điểm du lịch đối với nơi cung cấp nguồn khách chính (các trung tâm kinh tế, văn hóa, giao thông hoặc các trung tâm du lịch) và các điều kiện về giao thông (thời gian đi đường) theo làm 4 mức độ: + Rất thuận lợi (rất thích hợp): Khoảng cách từ 10 -100Km; thời gian đi không quá 3 giờ; có thể đến bằng 2-3 loại phương tiện thông dụng. + Khá thuận lợi (khá thích hợp): Khoảng cách từ 100 – 200Km; thời gian đi khoảng 2 -3 giờ; đi bằng 2-3 loại phương tiện giao thông. + Thuận lợi trung bình (thích hợp trung bình): Khoảng cách trên 200Km hoặc dưới 5Km; thời gian đi đường từ 4 -5 giờ; có thể đến bằng 1- 2 phương tiện thông thường. + Kém thuận lợi (kém thích hợp): Khoảng cách trên 300Km; thời gian đi đường trên 5 giờ; có thể đến bằng 1-2 phương tiện thông dụng. - Điều tra, đánh giá địa hình, địa mạo và địa chất:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0