Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
lượt xem 8
download
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nhằm đánh giá một cách toàn diện, chuyên sâu về vai trò bảo vệ quyền bị can của VKSND thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các vụ án hình sự. Từ đó, chỉ ra những kết quả, tồn tại, hạn chế của Viện kiểm sát trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền bị can; đánh giá nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và đề ra các giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền bị can của VKSND trong điều tra vụ án hình sự ở nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ HẢI ĐĂNG QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ HẢI ĐĂNG QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH HÀ NỘI - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Hải Đăng i
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ......................................................................................................... Chương 1: Lý luận về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự ................ 1. Điều tra vụ án hình sự và quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự….. 2. Trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân đối với quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự…………………………………………………. Chương 2: Thực trạng quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội………… ............ … 1. Khái quát Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội2. Đặc điểm, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội................................................................................. ........................... ......... 3. Tình hình quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội............................. ......... ........ 4. Đánh giá chung về quyền của bị can trong hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội........... ...... Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội…...................................................................... ........................ ....... 1. Quan điểm bảo đảm quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự của VKSND cấp huyện……………………………………………………… ................... … 2. Giải pháp bảo đảm quyền bị can trong trong điều tra vụ án hình sự - từ thực tiễn Viện Kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. .............. KẾT LUẬN ...................................................................................................... DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... ii
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng THTT: Tiến hành tố tụng TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa NBC Người bào chữa NLC Người làm chứng CQĐT Cơ quan điều tra iii
- DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 1.1: Kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều 53 tra của VKSND quận Nam Từ Liêm giai đoạn T4/2014 – 2017 iv
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Bảo vệ quyền con người là một trong những yêu cầu và mục đích của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Chăm lo đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện là quan điểm cơ bản, xuyên suốt, được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bảo vệ quyền con người cần được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm về nhân quyền như hoạt động tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước, có sự tham gia của nhiều cơ quan, trong đó VKSND giữ vai trò rất quan trọng. Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự được thể hiện trên hai phương diện: Một là, đấu tranh chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, trong đó có các quyền của con người. Hai là, bảo đảm các quyền của con người (của người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị kết án) không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Trong những năm vừa qua, bằng công tác thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; VKSND đã có những đóng góp lớn trong việc bảo vệ quyền con người trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò bảo vệ quyền con người của VKSND trong tố tụng hình sự còn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Công tác 1
- THQCT và kiểm sát điều tra còn nhiều lỗ hổng, dẫn đến việc các cơ quan điều tra (CQĐT) ở một số nơi, trong một số thời điểm còn áp dụng các biện pháp trái pháp luật, bức cung, dùng nhục hình đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế đã nêu trên, trong đó nhiều nguyên nhân đã được làm rõ, trong khi có nhiều nguyên nhân còn chưa được nhận diện đầy đủ. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự của VKSND hiện nay có ý nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đây đồng thời là một yêu cầu cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh Luật tổ chức VKSND ban hành năm 2014 đã có hiệu lực pháp luật và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01/7/2016, trong đó nhấn mạnh vai trò bảo vệ quyền con người của VKSND trong tố tụng hình sự. Là một cán bộ Kiểm sát đang công tác trong ngành Kiểm sát ở địa phương – quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, trước tình hình trên, học viên quyết định chọn đề tài: “Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội” để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn tìm ra các giải pháp bảo đảm quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự của VKSND trên địa bàn quận Nam Từ Liêm nói riêng và ở nước ta nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nước ta, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Những công trình nghiên cứu về vấn đề này có thể được phân thành hai nhóm chính như sau: - Các nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung gồm các công trình tiêu biểu như: “Quyền con người trong thế giới hiện đại” - đề tài khoa học cấp nhà nước do GS Hoàng Văn Hảo và GS Phạm Ích Khiêm đồng chủ 2
- nhiệm; “Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người” do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS. TS. Vũ Công Giao, TS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2010, tái bản năm 2011, 2015; “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người” - Trung tâm nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002; “Bàn về quyền con người, quyền công dân” do Trần Ngọc Đường (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia HN, 2004… - Các nghiên cứu về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự gồm các công trình tiêu biểu như: “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” đề tài khoa học cấp Đại học Quốc Gia do GS. TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì thực hiện năm 2005; "Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam" sách chuyên khảo của TS. Trần Quang Tiệp, NXB Chiń h tri ̣ quốc gia năm 2004; “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2011; "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Huy Hoàng, bảo vệ tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2011; "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam" luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Hiền bảo vệ tại Viện nhà nước và pháp luật năm 2008; Những công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng lớn kiến thức, thông tin có liên quan đến đề tài. Cùng với những văn bản pháp quy và báo cáo tình hình công tác kiểm sát của Viện KSND quận Nam Từ Liêm, những công trình nghiên cứu trên là các tài liệu tham khảo chính khi thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung 3
- chuyên sâu nghiên cứu về vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự. Mặt khác, hầu hết các công trình nghiên cứu đã nêu trên chưa cập nhật những quy định mới về VKSND và về bảo vệ quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự trong thực tiễn. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Nhằm đánh giá một cách toàn diện, chuyên sâu về vai trò bảo vệ quyền bị can của VKSND thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các vụ án hình sự. Từ đó, chỉ ra những kết quả, tồn tại, hạn chế của Viện kiểm sát trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền bị can; đánh giá nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và đề ra các giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền bị can của VKSND trong điều tra vụ án hình sự ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục tiêu tổng quát nói trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về vai trò bảo vệ quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự của VKSND, chỉ ra cơ sở lý thuyết của hoạt động này, bao gồm các khái niệm, định nghĩa, đặc điểm, tính chất… - Phân tích chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong bảo vệ quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự. - Đánh giá thực trạng quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn Viện KSND quận Nam Từ Liêm trong 3 năm gần đây kể từ khi thành lập, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và phân tích nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền bị can trong điều tra vụ án hình 4
- sự của VKSND ở nước ta qua thực tiễn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - từ thực tiễn Viện Kiểm sát quận Nam Từ Liêm. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn quyền bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thông qua chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát bao gồm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và kiểm sát điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Về không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng quyền bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND ở quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn phân tích thực trạng quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự của VKSND quận Nam Từ Liêm trong 3 năm trở lại đây từ khi thành lập Quận. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người, quyền công dân. Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. 5
- 6. Ý nghĩa của Luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống, chuyên sâu trên khía cạnh lý luận và thực tiễn về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Luận văn có những đóng góp mới về khoa học thể hiện trên những điểm sau: - Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự; - Phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn VKSNS quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; - Luận văn phân tích những quan điểm bảo đảm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn VKSNS quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. - Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Lý luận về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự Chương 2: Thực trạng quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội 6
- Chương 1 LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1. Điều tra vụ án hình sự và quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự 1.1. Khái niệm, đặc điểm điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm điều tra vụ án hình sự Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: đình chỉ điều tra, chuyển toàn bộ tài liệu của vụ án cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để chức minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Thời điểm của giai đoạn này bắt đầu tư khi cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của cơ quan điều tra về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Toà án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động của CQĐT trong điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng điều tra là 7
- tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một cơ quan điều tra thực hiện. Trong cuốn Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, “Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án”; hoặc “Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”. [1]. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Đây chưa phải là định nghĩa hoạt động điều tra mà là định nghĩa của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Hay nói đúng hơn đó là định ĩa về hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra nên nó thiếu tính toàn diện, chưa nói lên được tính bản chất và nội hàm của loại hoạt động này. Quan điểm này chỉ thừa nhận Cơ quan điều tra là một chủ thể duy nhất có thẩm quyền được phép thực hiện các hoạt động điều tra. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) về thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra. Khoản 1 Điều 65 BLTTHS năm 2003 khi quy định thẩm quyền thu thập chứng cứ đã chỉ rõ: “Để thu thập chứng cứ, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”, hay tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định: “Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ 8
- chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.”. Như vậy có thể thấy quy định của BLTTHS về thẩm quyền thu thập chứng cứ là thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ba cơ quan này được tiến hành tất cả các hoạt động điều tra đã được quy định trong BLTTHS. Như vậy, ba cơ quan này theo chức năng và nhiệm vụ đã được phân định có quyền tiến hành tất cả các hoạt động điều tra. Theo tinh thần của điều luật nêu trên bình đẳng về thẩm quyền được tiến hành tất cà các hoạt động điều tra, thực hiện hoạt động điều tra chính vì vậy không phải là độc quyền của Cơ quan điều tra. Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý về “hoạt động điều tra” và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhưng khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều tra với các hoạt động khác của Cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra. Theo từ điển tiếng Việt, “điều tra là hoạt động tìm hiểu, xem xét để biết rõ sự thật”. [14]. Với ý nghĩa là một loại hoạt động nhận thức của con người, điều tra được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để nghiên cứu, tìm hiểu, thu thập thông tin, xác định mức độ kiến thức, hiểu biết về một vấn đề, lĩnh vực nào đó mà con người quan tâm. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì điều tra được 9
- hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự [16]. Điều tra do cơ quan Công an tiến hành có thể dưới hai hình thức: điều tra công khai do Cơ quan điều tra hoặc một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành một cách công khai theo quy định của luật tố tụng hình sự; điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng trinh sát tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi hình thức điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng mọi biện pháp điều tra do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm thu thập chứng cứ chứng minh làm rõ vụ án hình sự. So với khái niệm điều tra hình sự, khái niệm, điều tra vụ án hình sự có phạm vi hẹp hơn điều tra hình sự về không gian và thời gian. Hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình sự gồm các hoạt động cụ thể sau: Hỏi cung bị can; Lấy lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; Khám xét (khám người, khám chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc); Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; Khám nghiệm (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi); Xem xét dấu vết trên thân thể; Thực nghiệm điều tra; Trưng cầu giám định. Điều tra là hoạt động có mục đích của CQĐT khám phá sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong giai đoạn điều tra, các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp để chứng minh việc thực hiện tội phạm, xác định rõ nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội, động cơ, mục đích của tội phạm, lỗi của chủ thể cũng như nhân thân người phạm tội, hậu quả của 10
- tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra. 1.1.2. Đặc điểm điều tra vụ án hình sự Điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng phức tạp, phong phú và đa dạng như đã được phân tích ở phần trên. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động điều tra vụ án hình sự hàm chứa trong các đặc điểm nổi bật sau đây: [20]. - Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện công khai theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện chỉ được tiến hành các biện pháp điều tra với sự có mặt của những người mà luật quy định và ký vào biên bản các hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại...). Tính công khai ở đây là công khai tiến hành các thủ tục tố tụng điều tra, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải giữ bí mật. Việc giữ bí mật điều tra có ý nghĩa quan trọng, có tính nguyên tắc quyết định sự thành công hay thất bại của cuộc điều tra, khám phá sự thật khách quan của vụ án. - Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự. Để kịp thời ngăn chặn người phạm tội tiếp tục gây án hoặc gây cản trở cho việc thu thập chứng cứ vụ án, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; tiến hành các hoạt động điều tra khác liên quan đến quyền cơ bản của công dân như triệu tập để lấy lời khai những người có liên quan, hỏi cung bị can. Do đó, hoạt động điều tra thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, 11
- quyền con người đối với người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội. - Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt động buộc tội. Đây là giai đoạn quan trọng, cơ quan có thẩm quyền chứng minh hành vi phạm tội trong việc thực hiện tội phạm thông qua chứng cứ thu thập được, hoặc ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng thiếu chính xác và do vậy, có thể không đủ các chứng cứ để buộc tội 1.2. Khái niệm, nội dung quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự Trước khi bàn đến khái niệm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự cần tìm hiểu khái niệm quyền và quyền con người, quyền công dân. Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Về khái niệm quyền con người hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau. Một định nghĩa phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người. Một khái niệm khác của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc cho rằng: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Quyền con người được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân, Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể 12
- hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Theo Điều 28 Hiến pháp năm 2013 thì công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Bị can trong một vụ án hình sự trước hết là con người, là công dân có đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ được hiến pháp công nhận và bảo vệ, nhưng kể từ khi phát sinh sự kiện pháp lý và được điều chỉnh bằng các hoạt động tố tụng vì bị nghi ngờ phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì lúc này họ là bị can. Do đó bị can sẽ gặp các bất lợi vì bị hạn chế hoặc bị mất một phần hay toàn bộ các quyền công dân. Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Người đó sẽ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc 13
- tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Bị can chỉ được coi là có tội hay không có tội sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án được đưa ra. Vì vậy trong quá trình điều tra vụ án hình sự, bị can vẫn được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đảm bảo và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Khi bị buộc tội thì bị can cũng vẫn có những quyền được pháp luật trao cho được hưởng, được làm và được đòi hỏi. Vì là trong thời gian bị buộc tội nên bị can là những người tham gia tố tụng và chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng trong các quan hệ pháp luật giữa họ với cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác. Trong tố tụng hình sự chưa có một khái niệm chính thức nào về địa vị pháp lý của bị can. Nhưng dựa vào những điểm đã phân tích ở trên ta có thể thấy địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối với bị can để xác định sự thật. Bị can được pháp luật quy định cho các quyển tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm. Khái niệm bị can được quy định tại điều 60 BLTTHS 2015: “ Bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự”. Việc bổ sung bị can là pháp nhân là điểm mới của BLTTHS 2015 tương ứng với việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS năm 2015. Việc xác định thời điểm một người có tư cách bị can rất quan trọng bởi khi xác định một người có tư cách bị can cũng là lúc làm phát sinh tư cách tham gia tố tụng của người đó. Đồng thời làm căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của bị can, là căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 175 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 110 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 70 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 76 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 81 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 87 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 73 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 59 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 72 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 43 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 51 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 47 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 58 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 84 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn