intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của phụ nữ khi ly hôn theo theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

35
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận cũng như phân tích thực trạng pháp luật hiện hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của phụ nữ khi ly hôn theo theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM THỊ THƠM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Hà Nội, năm 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM THỊ THƠM QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8380102 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG Hà Nội, năm 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Quyền của phụ nữ khi ly hôn theo theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu do tôi viết dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Hương. Các trích dẫn và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và rõ ràng. Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018 Tác giả Phạm Thị Thơm
  4. LỜI CẢM ƠN Học viên cảm ơn Ban giám hiệu Học viện Hành chính Quốc gia, khoa cơ bản và toàn thể các thầy giáo cô giáo của Học viện đã tận tình giảng dạy hướng dẫn nghiên cứu khoa học và tạo điều kiện giúp đỡ học viên hoàn thành chương trình học tập tại trường. Đặc biệt, học viên xin trân trọng cảm ơn Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ học viên trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thành Luận văn này. Học viên xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Tòa Án Nhân Dân thành phố Hà Nội, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao đã tạo điều kiện và giúp đỡ cho học viên trong quá trình thu thập thông tin và số liệu để thực hiện Luận văn này. Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng luận văn sẽ không thể chánh khỏi một vài thiếu sót. Học viên mong được sự tham gia, bổ sung đóng góp ý kiến của các cô giáo, thầy giáo và các đồng chí đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018 Tác giả Phạm Thị Thơm
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. BLDS: Bộ luật dân sự 2. BLLĐ: Bộ luật lao động 3. HN & GĐ: Hôn nhân và gia đình 4. QSDĐ: Quyền sử dụng đất 5. LĐN: Lao động nữ 6. TANDTC: Tòa án Nhân Dân tối cao 7. TTDS: Tố tụng dân sự 8. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN ........................................................................................ 8 1.1. Ly hôn .....................................................................................................................8 1.2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn .............................................................................15 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn .................................................................................................................................26 Chương 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN ................ 35 THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 35 2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi ly hôn ....................35 2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi ly hôn ............................................................................................................................45 2.3. Nhận xét chung về quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay .................................................................................................................................54 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 70 3.1. Quan điểm hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn .......................................70 3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn .........................................73 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 101
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học, xã hội học, luật học nghiên cứu, là một hình thái đặc biệt của quan hệ con người, nó không những phản ánh chế độ xã hội mà còn thể hiện sự tiến bộ, văn minh của xã hội đó. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào nhỏ nhất của xã hội trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. Đời sống hôn nhân của vợ chồng vô cùng phong phú và đa dạng, ở đó không những chỉ phát sinh quan hệ nhân thân mà còn tồn tại quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn là mặt trái của kết hôn, việc giải quyết ly hôn và hậu quả của nó luôn mang đến những hệ lụy nhất định. Vấn đề được các bên quan tâm và thường xảy ra tranh chấp khi ly hôn chính là giải quyết quyền lợi của vợ chồng. Dưới sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, tính chất mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy, các quy định điều chỉnh quyền lợi của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan tâm và xây dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất của pháp luật hôn nhân và gia đình. Trong xã hội hiện đại, để bảo đảm đời sống chung của gia đình và lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên trong gia đình, vợ chồng có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Khi tình cảm vợ chồng rạn nứt, đổ vỡ, vợ chồng có quyền tự thỏa thuận việc chia tài sản chung, quyền nhân thân và một số quyền khác của họ, nhưng khi họ không thỏa thuận được thì việc vận dụng những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình để giải quyết quyền của vợ chồng, đặc biệt là quyền của người phụ nữ khi ly hôn là điều cần thiết để bảo đảm quyền và lợi ích cho các bên. 1
  8. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình mà Đảng và Nhà nước ta luôn luôn dành sự quan tâm to lớn đối với vấn đề HN&GĐ. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một phần gọi là chế định ly hôn, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Phụ nữ là các đối tượng đặc biệt cần sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt nên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã ghi nhận quyền của phụ nữ như một nguyên tắc cơ bản mang tính chất dẫn đường xuyên suốt toàn bộ luật. Chế định ly hôn cũng không nằm ngoài nguyên tắc cơ bản này. Do những đặc thù của việc ly hôn nên việc đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với xu hướng thời đại. Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ HN&GĐ cũng bị tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước hàng năm số lượng các vụ án về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết trên 165.000 vụ việc (số liệu thống kê của TANDTC báo cáo cho thấy năm 2014 Tòa án cả nước thụ lý 165.032 vụ án, năm 2015 thụ lý 181.939 vụ), chủ yếu là ly hôn và tranh chấp tài sản mà phần thiệt chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Tới nay Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và một hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án ly hôn. Điều này được thể hiện ở các quy định pháp luật HN&GĐ, các công ước quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, việc bảo vệ quyền lợi của người vợ và con trong các vụ án ly hôn liên quan đến vấn đề tài sản còn nhiều vướng mắc và bất cập. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng 2
  9. của phụ nữ, trong đó bao gồm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do nêu trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Quyền của phụ nữ khi ly hôn theo Pháp luật Việt Nam hiện nay " làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau đề cập trực tiếp hoặc có liên quan tới vấn đề quyền của phụ nữ khi ly hôn như sau: Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như: - Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận án Tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004 [6]. Luận văn đề cập chủ yêu đến chế độ tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung hợp nhất cả trong quá trình hôn nhân và trường hợp chia tài sản vợ chồng khi ly hôn, từ đó đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chế định tài sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân gia đình năm 2000. - "Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học Luật Hà Nội [23]. Trong luận văn đề cập đến vấn đề bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của phụ nữ theo luật hôn nhân gia đình năm 2000, trong đó có nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn về những quyền nhân thân, quyền tài sản, quyền làm mẹ.. của phụ nữ. - Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sĩ luật học của Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2008 [11]. Luận văn đã đề cập 3
  10. đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam về hôn nhân gia đình năm 2000. - Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp của Lê Thu Lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008 [19]. Khóa luận tốt nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức khái quát những vấn đề lý luận về các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. - Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, của Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 [38]. Đã luận bàn về các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn. - Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp, của Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007 [25]. Khóa luận đề cập đến quyền lợi của con – người bị động, yếu thế trong quan hệ ly hôn. - Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội của Lê Thu Trang, 2012 [40]. - Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn (2014), Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội của Đinh Thị Minh Mẫn [21], cũng đã đề cập được một phần nội dung quyền tài sản của người vợ khi ly hôn. - Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học viện khoa học xã hội; Nguyễn Thị Hạnh (2012) [9]. Tác giả Đinh Thị Hạnh đã nêu ra được những vấn đề lý luận về pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng tại tỉnh Bình Định. 4
  11. - Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học viện khoa học xã hội của Nguyễn Thanh Mai (2012) [20], đã nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận cũng như phân tích thực trạng pháp luật hiện hành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa sơ sở lý luận về quyền của phụ nữ khi ly hôn thông qua việc làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung cũng như các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm. - Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn chế và đưa ra được nguyên nhân có nhữngưu điểm và hạn chế đó. - Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: - Các quan điểm khoa học liên quan đến quyền của phụ nữ khi ly hôn. - Các chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền của phụ nữ khi ly hôn. - Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Các quy định về bảo đảm quyền của phụ nữ trong quan hệ nhân thân, trong quan hệ tài sản, trong việc thực hiện quyền của cha mẹ đối với con khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay. 5
  12. - Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam - Về thời gian: Từ khi có Hiến pháp 2013 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lenin; Các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền bình đẳng giới, về quyền bình đẳng vợ chồng và quyền của phụ nữ khi ly hôn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp quy nạp: Dùng để phân tích luận giải các các khái niệm đặc điểm và quá trình thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn. - Phương pháp lịch sử: được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu quyền của người phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến quyền của người phụ nữ khi ly hôn và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. - Phương pháp so sánh: được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật một số nước khác quy định về quyền của người phụ nữ khi ly hôn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con người về quyền của phụ nữ khi ly hôn; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền và đảm bảo quyền của phụ nữ khi ly hôn. 6
  13. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên ngành luật và không chuyên ngành luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người đang trực tiếp làm công tác giải quyết án HN&GĐ tại TAND nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của phụ nữ khi ly hôn Chương 2: Thực trạng quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn theo ở Việt Nam hiện nay 7
  14. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN 1.1. Ly hôn 1.1.1. Khái niệm Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân nói chung, ly hôn nói riêng là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, tự do và tự nguyện của đôi nam nữ, điều này được thể hiện trong việc kết hôn cũng như ly hôn. Có thể nói, quyền tự do ly hôn xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội. Ở chế độ XHCN là chế độ duy nhất xây dựng một nền dân chủ thực sự mà trong đó quyền lợi của tất cả mọi người thuộc các tầng lớp khác nhau đều được đảm bảo. Ly hôn chính là sự giải phóng cho vợ chồng khi bản chất cuộc hôn nhân không tồn tại trên thực tế và Nhà nước cho phép họ ly hôn. Điều này không những đem lại lợi ích cho cả vợ chồng mà còn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước và xã hội. Chấm dứt hôn nhân bằng cách ly hôn là một biện pháp được thừa nhận từ rất sớm trong luật Việt Nam. Tại Bộ Quốc triều hình luật Ðiều 308 có ghi: Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng), thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn 1 năm. Vì việc quan phải đi xa, thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại ngăn cản người khác lấy vợ mình, thì phải tội biếm. Thực ra, điều luật được viết không tốt lắm, nhưng thực tiễn ly hôn vẫn được ghi nhận. Việc ly hôn cũng được thừa nhận tại Bộ luật Giai Long Ðiều 108 (thuận tình ly hôn). Trong thời kỳ thuộc địa, chế định ly hôn được xây dựng dựa theo khuôn mẫu Pháp (Dân Luật giản yếu thiên thứ VI, BLDS (Bộ luật Dân sự) Bắc Ðiều 116 đến 150; BLDS Trung Ðiều 115 đến 147). Sau Cách mạng 8
  15. Tháng Tám 1945, ly hôn được thừa nhận như là một trong những biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự kìm hãm của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến. Có một thời kỳ ngắn, người làm luật miền Nam cấm ly hôn vì lý do tôn giáo (Luật gia đình năm 1959 Ðiều 55); nhưng quy định cấm này có tuổi thọ không dài lắm. Nói chung, chế định ly hôn được liên tục hoàn thiện trong luật Việt Nam hiện đại. Lúc đầu, chế định ly hôn được phát triển dựa trên tư tưởng giải phóng phụ nữ nhưng dần dần, việc quan tâm hoàn thiện chế định này được thôi thúc nhiều hơn bởi yêu cầu bảo đảm sự phát triển lành mạnh của con trong môi trường gia đình không hạnh phúc và đổ vỡ do những mâu thuẫn không thể điều hòa giữa cha và mẹ. Cần lưu ý rằng trong luật cổ, việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong lúc cả vợ và chồng đều còn sống có thể đạt được không chỉ bằng con đường ly hôn mà còn bằng cách rẫy vợ. Biện pháp rẫy vợ cho phép người chồng, trong những trường hợp được luật dự kiến, đuổi người vợ ra khỏi nhà và chấm dứt quan hệ hôn nhân mà không cần tiến hành các thủ tục tư pháp. Trong thời kỳ thuộc địa, việc rẫy vợ bị cấm ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ sau khi có các Bộ luật dân sự Bắc (Ðiều 116) và Trung (Ðiều 115) [5] ; trong khi đó, do Bộ dân luật giản yếu không có quy định rõ ràng, các Tòa án Nam Kỳ không có thái độ nhất quán ở điểm này. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ly hôn được xem như một trong những biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự kềm hãm của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến. Văn bản đầu tiên có những quy tắc pháp lý mới về ly hôn là Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950, một văn bản rất ngắn gọn và không có đầy đủ các quy tắc cần thiết, nhưng thể hiện được chủ trương của người làm luật xoá bỏ hệ thống pháp lý về ly hôn dựa trên quan niệm bất bình đẳng giữa nam và nữ (Sắc lệnh thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do một bên mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do không hợp tính tình (Điều 2), cũng như do có sự thuận tình giữa vợ và chồng về việc chấm dứt 9
  16. cuộc sống chung (Điều 3). Nói chung, các trường hợp ly hôn trong Sắc lệnh được dự kiến trên cơ sở tham khảo ). Đến năm 1959, người làm luật bắt đầu xây dựng chế độ ly hôn mới dựa trên tư tưởng chủ đạo theo đó, việc ly hôn được cho phép một khi “tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Điều 26). Trong chế độ ly hôn mới đó, các trường hợp ly hôn được phân loại tùy theo yêu cầu ly hôn xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng hay của một trong hai người, chứ không căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các sự kiện được coi là nguyên nhân của sự tan vỡ quan hệ vợ chồng, như trước. Trong thời kỳ đất nước chia đôi, người làm luật miền Nam có lúc cấm ly hôn vì lý do tôn giáo (Điều 55 Luật Gia đình năm 1959) nhưng quy định cấm này có tuổi thọ không dài lắm. Từ năm 1964 cho đến khi hệ thống luật của chế độ Sài Gòn bị huỷ bỏ, việc ly hôn ở miền Nam được chi phối bởi các quy tắc được xây dựng từ sự pha trộn giữa luật thời kỳ thuộc địa và luật của Pháp, nghĩa là vẫn đặc biệt chú trọng việc bảo vệ các quyền lợi của người chồng. Sau khi đất nước thống nhất, pháp luật về ly hôn được tiếp tục hoàn thiện trên cơ sở quan niệm ly hôn được xây dựng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Lúc đầu, chế định ly hôn được phát triển dựa trên tư tưởng giải phóng phụ nữ; dần dần, việc quan tâm hoàn thiện chế định này được thôi thúc nhiều hơn bởi yêu cầu bảo đảm sự phát triển lành mạnh của con trong môi trường gia đình không hạnh phúc và đổ vỡ do những mâu thuẫn không thể điều hoà giữa cha và mẹ. Yêu cầu đó được khẳng định rõ nét trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và được củng cố trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và hiện tại là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nhìn nhận một cách tổng quát, ly hôn trong luật Việt Nam hiện đại được ghi nhận như một biện pháp bảo đảm tự do cá nhân (của vợ và của chồng) trong quan hệ gia đình, đồng thời bảo đảm sự dung hoà giữa các lợi ích trở nên trái ngược do sự 10
  17. quay lưng của vợ chồng đối với nhau, trong đó có cả (và nhất là) lợi ích của con cái sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa các đương sự. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ngay trong lúc cả vợ và chồng đều còn sống. Ðây là biện pháp cuối cùng mà luật cho phép thực hiện trong trường hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà không thể được khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Nguyên nhân của sự khủng hoảng khá đa dạng: bất đồng ý kiến kéo dài, đối nghịch về quan niệm sống, thần tượng sụp đổ, ngoại tình... Nhưng tất cả các trường hợp ly hôn đều có chung một đặc điểm: vợ hoặc chồng hoặc cả hai không muốn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân và muốn được tự do. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thì Tòa án quyết định cho ly hôn. Ly hôn là việc chấm dứt hôn nhân, là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc một bên chồng và có giá trị pháp lý khi được Tòa án có thẩm quyền công nhận. Đây có thể coi là biện pháp cuối cùng để chấm dứt tình trạng hôn nhân không thể cứu vãn được "Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [35]. 1.1.2. Các trường hợp ly hôn và căn cứ ly hôn 1.1.2.1. Các trường hợp ly hôn Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam thì có hai thủ tục giải quyết ly hôn là: Thủ tục giải quyết việc dân sự (yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn) và thủ tục giải quyết vụ án dân sự (ly hôn đơn phương theo yêu cầu của một bên vợ/chồng). Từ đó, có thể thấy có hai trường hợp ly hôn là ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương: - Ly hôn thuận tình: Là trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của cả hai vợ chồng; trong đó vợ, chồng thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết cả ba vấn đề: Quan hệ hôn nhân, quan hệ tài sản và quan hệ nuôi con. 11
  18. - Ly hôn đơn phương: Là trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng. Vấn đề thời hiệu không áp dụng đối với quan hệ pháp luật HN&GĐ. Vì vậy, trong mọi khoảng thời gian của thời kỳ hôn nhân (tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật), vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng đều có quyền yêu cầu ly hôn (trừ trường hợp chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi). 1.1.2.2. Căn cứ ly hôn Căn cứ ly hôn là những tình tiết được quy định trong pháp luật, chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó thì Tòa án mới được xử cho ly hôn. Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý để Tòa án dựa vào đó giải quyết ly hôn. hôn. Theo Điều 55 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hai căn cứ để ly hôn: - Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn 12
  19. Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng. Theo Điều 55: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”[35]. Như vậy, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm “thật sự tự nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội. Đồng thời, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly hôn. - Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, 13
  20. chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. 3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia”[35]. Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào một trong ba căn cứ sau đây: Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết” (theo từ điển tiếng Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích….”[33]. Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2