intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

12
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài "Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh" là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật đối với lao động chưa thành niên; phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HUỲNH HẢI SƠN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2024
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HUỲNH HẢI SƠN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TUẤN KHANH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2024
  3. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian qua, được sự chỉ bảo, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất, bản thân tôi đã học xong chương trình và thực hiện luận văn với đề tài “Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Qua quá trình học và thực hiện Luận văn tốt nghiệp, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy, Cô giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ, tạo điều kiện để bản thân tôi hoàn thành chương trình học. Đặc biệt xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Khanh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng 08 năm 2024 Tác giả Luận văn Phạm Huỳnh Hải Sơn
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là luận văn nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Khanh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ. Các luận điểm, dẫn chứng, số liệu được sử dụng và đề cập đến trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ đề tài, công trình nghiên cứu nào khác. TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng 08 năm 2024 Tác giả Luận văn Phạm Huỳnh Hải Sơn
  5. MỤC LỤC Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: ..................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: .......................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: ...................................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................................ 6 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: ........................................................... 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: .................................................................... 8 7. Cơ cấu của luận văn: ...................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN .................................................................................. 9 1.1. Quan niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về lao động chưa thành niên: ................... 9 1.2. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, hình thức, nội dung thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên: ............................................................................................................... 36 1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên: ..... 49 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................................... 53 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................... 55 2.1. Khái quát về tình hình lao động và nhu cầu sử dụng lao động chưa thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh: .................................................................................................. 55 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh:................................................................................................................................ 57 2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện pháp luật lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh: ................................................................................................. 80 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................................... 84 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................................................................... 85 3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh: ................................................................................................................... 85 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh: ........................................................................... 86 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................................. 102
  6. KẾT LUẬN....................................................................................................................... 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 105
  7. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: Nhằm đảm bảo đủ nguồn nhân lực lao động cho hoạt động kinh doanh sản xuất cũng như nhu cầu đảm bảo cuộc sống của lao động chưa thành niên, theo quy định của pháp luật Việt Nam, người đủ từ 15 tuổi trở lên có thể tham gia vào hầu hết các quan hệ lao động mà pháp luật không cấm, có quyền tham gia vào quan hệ lao động cũng như là một yếu tố trong quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ lao động với người sử dụng lao động, người lao động chưa thành niên luôn ở vị trí yếu thế, phụ thuộc, phải chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động và quyền lợi của họ dễ bị người sử dụng lao động xâm phạm. Do vậy, bên cạnh việc đảm bảo việc làm, thu nhập của người lao động chưa thành niên, pháp luật lao động còn dành những quy định riêng dành cho đối tượng này nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi và sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của người lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua quá trình thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước thực hiện và bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên trong mối quan hệ pháp luật lao động. Trong những năm gần đây nước ta đã có những thành tựu đáng kể trong việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên. Công tác quản lý lao động chưa thành niên có nhiều chuyển biến tích cực, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng và sử dụng chưa lao động thành niên ở các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất được tiến hành định kỳ và có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất giữa các cơ quan nhà nước, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được chú trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý thức 1
  8. pháp luật của cả người sử dụng lao động chưa thành niên và người lao động chưa thành niên không ngừng được cải thiện và nâng cao. Nhưng trên thực tế tình trạng vi phạm pháp luật đối với lao động chưa thành niên và đặc biệt là việc bóc lột lao động nhỏ tuổi vẫn đang diễn ra phổ biến và là một vấn đề hết sức lo ngại. Vẫn còn tình trạng người sử dụng lao động chậm chi trả hoặc nợ tiền lương, bảo hiểm xã hội của người lao động chưa thành niên, bắt ép người lao động chưa thành niên làm thêm giờ trái quy định của pháp luật, sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc không phù hợp với sức khỏe và độ tuổi của họ. Điều này chứng tỏ việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên còn nhiều tồn tại, hạn chế. Do vậy, việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên là cần thiết và phù hợp với xu hướng của quốc tế trong việc đảm bảo quyền con người mà đặc biệt là những người chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý. Với những lý do nêu trên tôi chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành Phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Vấn đề quyền con người nói chung và quyền của người chưa thành niên, trong đó có người lao động chưa thành niên nói riêng trong thời gian qua đã nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế cũng như nhiều quốc gia và đã được nhiều tổ chức, cá nhân nghiên cứu ở các phạm vi khác nhau. Hiện nay, đã có rất nhiều bài báo, bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu đề cập đến vấn đề này dưới một góc độ khác nhau, có kể đến một số bài báo, bài viết, công trình nghiên cứu nổi bật sau: Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật của tác giả Bùi Thị Mỹ Viện - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016 với tên đề tài là “Pháp luật 2
  9. Việt Nam về sử dụng lao động chưa thành niên”. Đề tài nghiên cứu các quy định pháp luật, làm rõ thực trạng về sử dụng lao động chưa thành niên ở nước ta. Đồng thời, so sánh, đối chiếu với quy định quốc tế (chủ yếu là các công ước và Khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế ILO và quy định của một số nước trên thế giới) để từ đó phát hiện ra những lỗ hổng trong quy định pháp luật nước ta nhằm đưa ra một số kiến nghị, giải pháp phù hợp, đảm bảo sự phát triển bền vững vì người lao động, vì con người mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Nhàn - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội năm 2016 với tên đề tài “Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay”. Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động chưa thành niên và pháp luật về lao động chưa thành niên, sau đó nêu ra và phân tích cụ thể các quy định của pháp luật lao động về việc làm, đào tạo nghề, giao kết hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất, bảo hiểm xã hội, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về lao động chưa thành niên, giải quyết tranh chấp lao động đối với người lao động chưa thành niên, làm rõ thực trạng thực hiện các quy định này ở Việt Nam, nêu ra những kết quả đạt được và những bất cập hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên. Từ đó đưa ra định hướng, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên cũng như các giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2020 với tên đề tài “Pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên ở Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về lao động chưa thành niên và pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên, bên cạnh đó đề tài 3
  10. đưa ra và phân tích một số các quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong Công ước Quốc tế và của một số nước trên thế giới để nêu lên những gợi mở và kinh nghiệm về pháp luật bảo vệ lao động chưa thành niên cho Việt Nam. Đề tài cũng đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành các biện pháp bảo vệ lao động chưa thành niên ở Việt Nam, nêu ra những kết quả đạt được và những bất cập, hạn chế còn tồn tại. Từ đó đề tài phân tích những yêu cầu đặt ra đối với với việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên. Bài viết về vấn đề “Sử dụng lao động là người chưa thành niên” của Luật sư Phan Thị Tuyết - Văn phòng Luật sư Hoàn Kiếm đăng trên Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ngày 28/03/2021. Trong bài viết người viết có đề cập đến các nội dung bao gồm các vấn đề liên quan đến sử dụng lao động là người chưa thành niên, việc giao kết hợp đồng lao động để sử dụng người chưa đủ 15 tuổi làm việc và các nguyên tắc chung khi sử dụng lao động là người chưa thành niên. Bài viết của tác giả Hồng Anh có tiêu đề “Sử dụng lao động chưa thành niên không có sự đồng ý của cha mẹ sẽ bị phạt đến 25 triệu đồng” đăng trên báo Lao động và xã hội Online ngày 21/01/2022. Bài viết đề cập đến Nghị định số 12/2022/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 17/01/2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó có quy định về mức phạt đối với người sử dụng lao động khi vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng người lao động chưa thành niên. Bài viết của tác giả Lê Anh với nhan đề “Góc nhìn đại biểu: Giải quyết vấn đề lạm dụng sức lao động trẻ em cần sự tham gia chủ động, tích cực của xã hội” đăng trên Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam ngày 07/04/2021. 4
  11. Nội dung của bài viết đề cập đến việc lạm dụng sức lao động của trẻ em. Lạm dụng sức lao động trẻ em hiện đang là vấn đề gây nhức nhối trên khắp toàn cầu. Vấn đề này là hồi chuông báo động đối với toàn xã hội bởi thực trạng này đã và đang gây ra những hệ lụy về cả thể chất, lẫn tinh thần; ảnh hưởng đến sự an toàn của trẻ em. Ngoài ra, bài viết còn nêu ra một số ý kiến và nhận định của các Đại biểu Quốc hội về vấn đề này. Bài viết có nhan đề “Giảm thiểu lao động trẻ em: cần hành động thiết thực” của tác giả Nguyễn Thị Nga - Phó Cục trưởng Cục Trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Trong bài viết, tác giả đã nêu ra những sự nỗ lực, cố gắng, những kết quả đã đạt được của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây về giảm thiểu và bảo vệ quyền của lao động trẻ em. Bên cạnh đó, tác giả cũng nhấn mạnh để giảm thiểu và bảo vệ lao động trẻ em cần phải có sự giúp sức, chung tay của cả xã hội. Cuối cùng, tác giả nêu lên những nhiệm vụ trọng tâm trong tương lai cần được thực hiện để giảm thiểu và bảo vệ lao động trẻ em. Tóm lại, đến nay đã nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau về vấn đề người lao động chưa thành niên hay lao động trẻ em nhưng các công trình này mang tính toàn diện đầy đủ chưa cao, nhiều vấn đề còn bỏ ngõ chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những nghiên cứu chuyên đề, hoặc chỉ tạm dừng ở một phạm vi một địa phương. Do vậy, đề tài “Thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu về người lao động chưa thành niên dưới góc độ pháp luật một cách tương đối toàn diện và có hệ thống. Các công trình khoa học có liên quan đều có mục đích, phạm vi nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và phương pháp tiếp cận khác đều là nguồn tài liệu tham khảo quý giá đối với tác giả của luận văn. 5
  12. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: 3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật đối với lao động chưa thành niên; phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đưa ra quan điểm và các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những việc sau: + Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật đối với người lao động chưa thành niên. + Đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh; chỉ ra những ưu điểm, kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập cần được khắc phục. + Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên và bảo đảm thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên trong Bộ luật Lao động năm 2019, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm tình hình lao động chưa 6
  13. thành niên và việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: 4.2.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Luận văn không nghiên cứu tất cả các quy định pháp luật về lao động mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật dành riêng cho người lao động chưa thành niên. 4.2.2. Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành Phố Hồ Chí Minh. 4.2.3. Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành Phố Hồ Chí Minh từ năm 2019 đến năm 2023. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: 5.1. Phương pháp luận: Để đạt được mục đích nghiên cứu và giải quyết tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn lấy phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin cũng như của lý luận chung về Nhà nước và pháp luật làm cơ sở phương pháp luận. Đồng thời luận văn cũng bám sát chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ người lao động chưa thành niên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành. Bắt đầu từ việc xác định mục tiêu nghiên cứu cũng như để nắm rõ và phân tích những nội dung cần nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp như thu thập số liệu, thu thập thông tin, tổng hợp, quan sát. Sau đó để đi sâu vào đề tài tác giả dùng các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh để hoàn thành luận văn. 7
  14. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở bậc cao học, đại học chuyên ngành luật lao động, vì mục đích và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai con em chúng ta. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu này giúp rà soát và đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động về lao động chưa thành niên từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó thấy được những kết quả đạt được cũng như những điểm còn tồn tại, hạn chế góp phần xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên. 7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật đối với lao động chưa thành niên. Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. 8
  15. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. Quan niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về lao động chưa thành niên: 1.1.1. Quan niệm về lao động chưa thành niên: Khái niệm “trẻ em”: Ở nước ta, trong tất cả các bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và cho đến Hiến pháp hiện hành năm 2013, quyền trẻ em đều được ghi nhận một cách trang trọng và được quy định một cách cụ thể, rõ ràng. Nhiều bộ luật và luật đã được nghiên cứu, xây dựng, ban hành để thể chế, cụ thể hóa những quy định về quyền của trẻ em, trong đó có Luật Trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018. Ngay tại Điều 1 của Luật Trẻ em năm 2016, sửa đổi bổ sung năm 2018 đã có quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Thông qua khái niệm này có thể hiểu là tất cả trẻ em dưới 16 tuổi, không phân biệt là công dân Việt Nam hay người có quốc tịch, người không có quốc tịch ở lãnh thổ Việt Nam đều nhận được sự bảo vệ, chăm sóc và giáo dục như nhau. Từ đó, có thể nhận thấy một điều rằng hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những sự điều chỉnh, bổ sung để trở nên phù hợp hơn, hài hòa hơn với hệ thống pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Khái niệm “vị thành niên”: Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến khái niệm vị thành niên và chưa có một khái niệm chung, mang tính thống nhất dành cho khái niệm vị thành niên. Độ tuổi chưa thành niên theo như quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được xác định là độ tuổi 10-19 tuổi. Thanh niên trẻ là lứa tuổi từ 14-19 tuổi. 9
  16. Xét về mặt xã hội, vị thành niên là người chưa đến độ tuổi được pháp luật coi là đủ khả năng để sử dụng quyền, thực hiện nghĩa vụ và tự chịu trách nhiệm cho các hành vi mà mình thực hiện. Ở nước ta, vị thành niên được xác định là lứa tuổi từ 10 đến 19 tuổi. Thanh niên là từ 19 đến 24 tuổi. Trẻ em là người dưới 16 tuổi. Còn xét về mặt luật pháp vị thành niên là người dưới 18 tuổi. Khái niệm “người chưa thành niên”: Trong Công ước Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 đã có quy định: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Công ước đã công nhận các quyền trẻ em cũng như yêu cầu các quốc gia trên thế giới phải dành sự tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền trẻ em nhằm hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn nữa dành cho trẻ em. Ở nước ta, độ tuổi của người chưa thành niên được quy định rõ ràng và thống nhất từ Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự cho đến Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Lao động và một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều xác định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và đối với từng ngành luật cụ thể thì sẽ có quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên. Nói một cách khái quát khái niệm người chưa thành niên có thể được hiểu như sau: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một công dân, chưa có sự phát triển đầy đủ, toàn diện cả về mặt thể lực lẫn mặt trí lực, có khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật ở các vai trò chủ thể khác nhau như quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật lao động,… Khái niệm “lao động chưa thành niên”: 10
  17. Pháp luật quốc tế, trong đó chủ yếu là các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), chỉ sử dụng thuật ngữ “lao động trẻ em” mà không sử dụng thuật ngữ “người lao động chưa thành niên”. Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (năm 1999), của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tại Điều 2 đưa ra khái niệm về trẻ em là người dưới 18 tuổi. Ở Việt Nam, trong Bộ luật Lao động năm 2019 có quy định: “Lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi”, bao gồm: người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi và người chưa đủ 13 tuổi. Quy định này cho thấy sự hài hòa, phù hợp và thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong việc xác định độ tuổi, năng lực chủ thể và trách nhiệm của chủ thể, từ đó có thể giúp xác định phạm vi công việc mà người lao động chưa thành niên có thể tham gia, điều kiện đảm bảo và phương hướng, cách thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động chưa thành niên trong các mối quan hệ lao động. Tóm lại, chúng ta có thể hiểu lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, có khả năng tham gia vào các quan hệ lao động, làm việc theo hợp đồng lao động đã được ký kết với người sử dụng lao động, được trả lương theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng đã được ký kết và chịu sự quản lý điều hành của người sử dụng lao động. 1.1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên: Thứ nhất, lao động chưa thành niên là những người có độ tuổi dưới 18 tuổi. Ở lứa tuổi này, nhóm đối tượng lao động đặc biệt này tuy đã có những sự phát triển vượt bậc về mặt thể chất nhưng lại chưa có được sự ổn định về mặt tâm sinh lý. Tâm sinh lý phức tạp của người lao động ở lứa tuổi này là một vấn đề đáng lo ngại khi họ bắt đầu mở rộng việc sinh hoạt, giao tiếp với xã hội, không phải chịu sự quản lý chặt chẽ từ gia đình. Nếu không có sự uốn nắn, giáo 11
  18. dục kịp thời, người lao động chưa thành niên với tâm sinh lý phức tạp, chưa ổn định của mình sẽ rất dễ gây ra những tác động tiêu cực đến khả năng tìm kiếm việc làm, năng suất lao động, thậm chí là sự hình thành về tính cách sau này. Thứ hai, người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức độ cao hơn so với người lao động thành niên. Điều này xuất phát từ sự chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất, tinh thần của người lao động chưa thành niên nên khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật lao động, pháp luật sẽ bảo vệ họ theo hướng ưu tiên hơn trong việc được hưởng một số quyền ngang bằng hoặc hơn những quyền, lợi ích mà pháp luật quy định dành cho người lao động thành niên. Hơn nữa, pháp luật cũng có các quy định đặc biệt nhằm bảo vệ lao động chưa thành niên khỏi những hình thức lạm dụng, bóc lột sức lao động, hạn chế họ tham gia vào các công việc nguy hiểm, có hại cho sức khỏe hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của họ. Thứ ba, người lao động chưa thành niên là người có sự hạn chế năng lực hành vi khi giao kết hợp đồng lao động. Tại Điều 20, 21 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định: người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuồi khi tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Người chưa đủ sáu tuổi khi tham gia giao dịch dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Yêu cầu về người đại diện dành cho người chưa thành niên trong pháp luật dân sự cũng tương tự như trong pháp luật lao động. Theo đó, người lao động chưa thành niên khi giao kết hợp đồng lao động cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật. 1.1.3. Quan niệm pháp luật về lao động chưa thành niên: Những quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên đã được ghi nhận một cách rõ ràng, cụ thể cả ở trong pháp luật quốc gia lẫn pháp luật quốc tế. Xét một cách khái quát nhất, sự điều chỉnh của pháp luật về lao động chưa 12
  19. thành niên là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp luật nói chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và được đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến người lao động chưa thành niên. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với lao động chưa thành niên giúp xác định chính xác địa vị pháp lý của lao động chưa thành niên. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều ngành luật khác nhau, có đối tượng điều chỉnh là các nhóm quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Người lao động chưa thành niên với tư cách là một chủ thể pháp luật, các quan hệ xã hội về người lao động chưa thành niên cũng là một trong những đối tượng điều chỉnh thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật nước ta. Các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm: Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Hình sự,… đều bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động chưa thành niên theo một phương pháp và đặc thù riêng biệt theo ngành luật của mình. Bất cứ một ngành luật nào cũng coi trẻ em nói chung và người chưa thành niên nói riêng là một chủ thể pháp luật đặc biệt và có những quy định dành riêng cho người lao động chưa thành niên. 1.1.4. Đặc điểm pháp luật về lao động chưa thành niên: Thứ nhất, độ tuổi tối thiểu để người lao động chưa thành niên tham gia vào quan hệ pháp luật lao động là 13 tuổi. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ người lao động chưa thành niên dưới 13 tuổi được chấp nhận tham gia các hoạt động lao động nhẹ nhàng, không gây nguy hiểm cho sức khỏe, được quản lý bởi các quy định cụ thể. Thứ hai, giới hạn giờ làm việc dành cho người lao động chưa thành niên. Theo quy định của Bộ luật lao động, người lao động chưa thành niên không được làm việc quá 8 giờ mỗi ngày và 40 giờ mỗi tuần. Ngoài ra, người lao động chưa thành niên cũng được quyền nghỉ ngơi đầy đủ thời gian sau mỗi ca làm 13
  20. việc và ít nhất là 12 tiếng liên tục giữa các ca làm việc. Thời gian nghỉ ngơi sau khi tham gia lao động giúp lao động chưa thành niên hồi phục, tái tạo sức lao động và có thời gian tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi, giải trí. Thứ ba, các loại công việc mà người lao động chưa thành niên được phép tham gia lao động. Luật lao động cũng quy định một danh sách các công việc mà trẻ em dưới 18 tuổi được phép tham gia, và các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại hoặc có tác động xấu đến sức khỏe và phát triển của trẻ em đều bị cấm. 1.1.5. Nội dung pháp luật về lao động chưa thành niên: 1.1.5.1. Quyền và nghĩa vụ của người lao động chưa thành niên: Quyền và nghĩa vụ của người lao động chưa thành niên gắn liền với tư cách chủ thể của họ trong quan hệ lao động. Vì là quyền và nghĩa vụ pháp lý nên nó chỉ xuất hiện trong những điều kiện, bối cảnh pháp lý nhất định, không phải là những quyền có tính tự nhiên, tất yếu, chẳng hạn người lao động chưa thành niên có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, quyền được hưởng lương,… Tuy nhiên, để thực hiện được những quyền trên thì phải có sự xuất hiện những sự kiện pháp lý tương ứng và người lao động chưa thành niên phải thực hiện những trách nhiệm, nghĩa vụ nhất định: Để có quyền lựa chọn việc làm thì phải có sự kiện tuyển dụng của người sử dụng lao động và người lao động phải đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng; Để có quyền hưởng lương thì người lao động phải làm việc và thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng… Nói cách khác, quyền và nghĩa vụ chủ thể có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Vì vậy, không thể nhận thức quyền là cái được còn nghĩa vụ là cái mất mà trong quyền có trách nhiệm và trong nghĩa vụ có lợi ích. Bộ luật Lao động năm 2019 đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ của người lao động chưa thành niên tại Điều 5 và cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ này trong từng chương tương ứng của Bộ luật. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2