intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

34
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ VĨNH HÀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, NĂM 2021 1
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ VĨNH HÀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHÙNG NGỌC TẤN HÀ NỘI, NĂM 2021 2
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành Luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, sự quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy giáo, Cô giáo, Cơ quan, đồng nghiệp và bạn bè. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Học viện khoa học xã hội; các Thầy giáo, Cô giáo đã nhiệt tình giảng dậy, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, đặc biệt là Tiến sỹ Phùng Ngọc Tấn, người đã trực tiếp hướng dẫn và định hướng về kiến thức nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm trong suốt quá trình hoàn thiện Luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy đã tạo điều kiện về thời gian, công việc để tôi hoàn thành chương trình khóa học và đã cung cấp số liệu thực tế để giúp tôi hoàn thành Luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập và hoàn thành Luận văn. Trân trọng! Tác giả Luận văn Lê Thị Vĩnh Hà 3
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn được sử dụng trong Luận văn đều trung thực, chính xác và đảm bảo độ tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Tác giả Luận văn Lê Thị Vĩnh Hà 4
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ…………………………………………………….………….7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự…7 1.2. Nguyên tắc trong hoạt động thi hành án dân sự ………………...…………14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự…………19 Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ……………27 2.1. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự……..…..27 2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở quận Cầu Giấy……....38 2.2.1. Khái quát về quận Cầu giấy và cơ quan thi hành án dân sự quận Cầu Giấy..38 2.2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở quận Cầu Giấy…...41 2.2.3. Đánh giá nhận xét chung hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy...51 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………………………………….……..………57 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự…57 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự………58 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự….………58 3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các tổ chức, cá nhân..62 3.2.3. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự…………………….……64 3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự……..66 3.2.5. Hoàn thiện chế độ, chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự; ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những vi phạm trong hoạt động thi hành án dân sự………………………………………………………………69 KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….……….……76 5
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHV Chấp hành viên HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận tổ quốc THA Thi hành án THADS Thi hành án dân sự THAHS Thi hành án hình sự UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa 6
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tổng số việc thụ lý, ủy thác thi hành án qua các năm (từ năm 2016 đến năm 2020) Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc, tỷ lệ đạt được qua các năm (từ năm 2016 đến năm 2020) Bảng 2.3. Tổng số tiền thụ lý, ủy thác thi hành án qua các năm (từ năm 2016 đến năm 2020) Bảng 2.4. Kết quả thi hành án về tiền, tỷ lệ đạt được qua các năm (từ năm 2016 đến năm 2020) 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật ra thi hành để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy mà hoạt động thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp và quá trình thực thi công lý trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đối với công tác Thi hành án nói chung, công tác Thi hành án dân sự nói riêng, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ trương, định hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự thể hiện trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước đây, nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội đã lần lượt ban hành ba Pháp lệnh về thi hành án dân sự, đó là Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Đặc biệt, ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật thi hành án dân sự năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 đã cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và 1
  9. hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. Sau 05 năm thực hiện, các quy định của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã phát huy hiệu quả, tác động tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước nói chung và kết quả công tác thi hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy Nghị định số 62/2015/NĐ-CP cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập. Ngày 17/3/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho những thay đổi căn bản về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, sau gần 6 năm triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nói chung cũng như cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nói riêng vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, thì việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự các cấp là một yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nói riêng là một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” để làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Qua việc lựa chọn đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp nhỏ bé về mặt lý luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện nay. 2
  10. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự đến thời điểm hiện nay, tác giả được biết một số công trình nghiên cứu và xin kể tên một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: - Đề tài “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” là đề tài cấp Nhà nước - Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Đình Lộc, năm 2000. Đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng; - Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án Việt Nam” là đề tài cấp Nhà nước - Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Đình Lộc, năm 2005. - Đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” là luận án tiến sĩ Luật học do Nguyễn Thanh Thủy thực hiện năm 2008. Đề tài đã nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, làm rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng của thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá toàn diện mức độ hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân sự và nêu lên các yêu cầu, quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự; - Đề tài “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” là luận án tiến sĩ Luật học do Nguyễn Quang Thái thực hiện năm 2008. Đề tài đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng và xác định phương hướng, giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự; - Chuyên đề “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện nay” do Lê Hùng Cường thực hiện năm 2017. Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. 3
  11. Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án dân sự; Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau hoặc đã đề cập đến vấn đề mang tính tổng thể hoặc về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, hoặc về một giai đoạn trong hoạt động tổ chức thi hành án của các cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn một Chi cục thi hành án dân sự tại một địa phương cụ thể khi đang thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự. Do vậy, phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thực trạng về tổ chức bộ máy và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy (trong đó tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân); luận văn đề xuất quan điểm, các phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Chi cục Thi hành án quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, tác giả sẽ tập trung thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau: - Phân tích những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. - Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, tìm ra những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. - Đề xuất các phương hướng, giải pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói chung và Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố 4
  12. Hà Nội nói riêng đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội dưới góc độ của Luật Hiến pháp và Luật hành chính. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn cơ quan thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, trực thuộc Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, dựa trên cơ sở các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, do hạn chế trong khâu tìm số liệu nên tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Thời gian nghiên cứu và khảo sát của tác giả trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin; đồng thời dựa trên những quan điểm, chủ trương của Đảng và các chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đảm bảo tính khách quan, tính khoa học và tính thực tiễn cấp thiết của đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong Luận văn là: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài. 5
  13. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; chỉ ra những tồn tại, hạn chế; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và và hoạt động thi hành án dân sự nói chung và Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, cán bộ, công chức thi hành án dân sự trong quá trình hoạt động thực tiễn hoặc góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn trong hoạt động thi hành án dân sự cho quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội và một số địa phương khác. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội Chương 3. Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội 6
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm về thi hành án dân sự Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án dân sự. Xét về mặt thuật ngữ, thi hành án dân sự là một cụm từ ghép bao gồm hai vế “thi hành án” và “dân sự”. Theo Từ điển Luật học thì “thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật” [62, tr.464]. Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, thi hành án là hoạt động thiên về lĩnh vực tư pháp, là giai đoạn “hậu tố tụng”, là giai đoạn/khâu tiếp nối quá trình tố tụng để hiện thực hóa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, do đó, hoạt động thi hành án thường được quy định trong các luật về tố tụng. Do là hoạt động tư pháp nên thi hành án là đối tượng bị kiểm sát. Như vậy, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp của cơ quan Nhà nước, do cơ quan thi hành án dân sự mà đại diện là Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 1, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Thi hành án dân sự là thi hành những bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh 7
  15. tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại. Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo kháng nghị như: bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần; nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. 1.1.2. Khái niệm về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự Trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng, phạm vi nghiên cứu có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về “Tổ chức”, cụ thể là: Theo lý thuyết quản trị công, để hình thành tổ chức phải có từ hai người trở lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động của họ được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Quản trị công nhấn mạnh đến hai yếu tố là chủ thể và nguyên tắc hoạt động của tổ chức (sự kết hợp có ý thức của các chủ thể) khi nhận thức về khái niệm tổ chức. Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt với thể nhân (con người) là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức. Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Quan niệm về tổ chức theo Khoa học tổ chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật học, Quản trị công ở chỗ đều xác định tổ chức thuộc về con người, là của con người trong xã hội; vì là tổ chức của con 8
  16. người, có các hoạt động chung do vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều kiện quan trọng, không thể thiếu của tổ chức. Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước” định nghĩa: “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức, có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu chung (của tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ chức nhà nước có nhiều điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó nhấn mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối một cách có ý thức). Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức thể hiện ở ý nói về phạm vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu, nguồn lực của tổ chức đó. Các yếu tố này là những điều kiện của tổ chức. Trên phương diện ngôn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu, mục đích… có thể sử dụng các thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công ty, hội… thay thế thuật ngữ tổ chức. Theo Đại từ điển Tiếng Việt [38, tr.1662], “tổ chức” là “sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung”, “tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì mục tiêu chung”. Theo từ điển Tiếng Việt và thực tế cho thấy trong từng hoàn cảnh cụ thể mà “tổ chức” có thể được hiểu và thực hiện ở nghĩa danh từ “tổ chức” hoặc động từ “tổ chức”, hay nói cách khác tùy vào mỗi công việc, ngành nghề, lĩnh vực… có nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ chức”. Tổ chức bao gồm hai nội dung cơ bản là tổ chức cơ cấu và tổ chức quá trình. Với thực tế như vậy, cần có tư duy biện chứng, kế thừa, không cứng nhắc, máy móc, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu về khái niệm “Tổ chức”. Từ các khái niệm “tổ chức” trên đây, có thể đưa ra khái niệm tổ chức cơ quan thi hành án dân sự là: “Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự là việc sắp xếp, bố trí các bộ phận cấu thành cơ quan thi hành án dân sự nhằm bảo đảm cho mỗi bộ phận 9
  17. và cả hệ thống tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự đạt được hiệu suất tổng thể, phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ quyền hạn được giao”. 1.1.3. Khái niệm hoạt động thi hành án dân sự Để làm sáng tỏ khái niệm hoạt động thi hành án dân sự, cần làm rõ khái niệm về hoạt động. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, hoạt động là “làm những việc khác nhau với mục đích nhất định; là vận động, vận hành để thực hiện các chức năng nào hoặc tác động nào đó” [38, tr. 827]. Trong đời sống hằng ngày, hoạt động thường được hiểu là quá trình vận động, cử động của cá nhân hoặc tổ chức nhằm đạt mục đích nào đó, hoạt động là thực hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể hoặc tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục đích chung trong lĩnh vực nhất định. Theo Từ điển Luật học, hoạt động thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [62, tr. 119]. Theo đó, giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, nhằm hiện thực hóa các quyết định của Tòa án trên thực tế. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động thi hành án dân sự như sau: Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp của Nhà nước, do cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại được thi hành theo đúng quy định của pháp luật. 1.1.4. Đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự Hoạt động thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động phức tạp, quyết định trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của các bên có liên quan, đảm bảo tính thực thi của các bản án, 10
  18. quyết định. Vì vậy, có thể khái quát một số đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự như sau: Thứ nhất, hoạt động THADS liên quan đến quyền lực nhà nước, nó bao gồm hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của chủ thể không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của chính người có nghĩa vụ thi hành án. Do đó, như đã phân tích, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong THADS là sự “lưỡng tính” giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy nhiên, khác với THAHS, THADS không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc công nhận (phán quyết của trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn dùng các biện pháp cứng nhắc của quyền lực nhà nước. Thứ hai, hoạt động THADS là hoạt động có mục đích để thực hiện lợi ích của người được thi hành án. Hoạt động THADS không chỉ nhằm mục đích giữ vững kỷ cương, phép nước và giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước là đối tượng được thi hành án. Đồng thời hoạt động THADS còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định THADS. Thứ ba, hoạt động THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật dân sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được THADS được tôn trọng. Do đó, trong quá trình THADS, cơ quan THADS luôn bảo đảm quyền tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực hiện hay không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến THA mà cơ quan THADS không được can thiệp. Thứ tư, hoạt động THADS có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử. Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy tín, trình độ 11
  19. chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất vụ án dân sự đa dạng, phức tạp. Trong khi đó qui định của pháp luật về nội dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ, thiếu sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng, không có tính khả thi ở thực tế. Cơ quan THADS, Chấp hành viên (CHV) không chỉ làm cho các bản án hoặc phán quyết được tôn trọng mà còn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án, quyết định của Toà án mà họ đang thi hành và họ có quyền kiến nghị với người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, hoạt động THADS chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những bản án, quyết định của Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục những thiếu sót để nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi của bản án, quyết định của Tòa án. Thứ năm, hoạt động THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phương thuần túy như thi hành án hình sự. Hoạt động THADS có thể có sự hợp tác của các chủ thể khác, điều này có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các bản án đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Mặt khác, hoạt động THADS chỉ do cơ quan thi hành án thực hiện khi có sự yêu cầu của người được thi hành bản án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định như các khoản thi hành theo khoản 1, Điều 36 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 [48]. Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể thi hành án còn có nghĩa vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau để cho bản án được thực hiện một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà không cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt động thi hành án cũng chỉ là thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho các đương sự liên quan đến phán quyết. 1.1.5. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự Hoạt động THADS có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng và hoạt động tố tụng nói chung. Đó là giai đoạn cuối cùng của hoạt động 12
  20. tố tụng, hoạt động THADS bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, thể hiện ở các khía cạnh sau. Một là, hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được thực hiện trong thực tế. Mọi bản án, quyết định của toà án và quyết định của cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện trong thực tế. Nếu không có “giai đoạn” thi hành án, rất khó trông chờ vào sự tự nguyện chấp hành của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là đối với chủ thể bắt buộc phải thi hành án. Việc THADS được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước sẽ bảo đảm tính hiệu lực cho bản án, quyết định của tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện. Hai là, hoạt động THADS bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc bản án, quyết định của Tòa án và quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền được thi hành trong thực tế đồng nghĩa với việc quyền và lợi ích của các chủ thể được thi hành án (THA) được bảo đảm, các chủ thể chấp hành thi hành án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Thông qua việc thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản theo bản án, quyết định của tòa án đối với chủ thể phải THA góp phần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong xã hội. Ba là, hoạt động THADS tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Hoạt động THADS được thực hiện bởi các chủ thể được Nhà nước trao quyền, thông qua hoạt động của cơ quan THADS được tổ chức từ trung ương đến địa phương và cơ quan thi hành án thuộc Bộ quốc phòng mà đảm bảo việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, quản lý về mặt tổ chức, nhân sự, hoạt động trong thi hành án dân sự góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2