Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
lượt xem 8
download
Mục đích cơ bản của luận văn này là trên cơ sở phân tích hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động tố tụng hành chính, luận văn đi sâu nghiên cứu, đánh giá hoạt động xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội; từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm hoàn hiện hệ thống pháp luật nói chung và công tác xét xử tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ……...…/……..…. ..…/….. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN TRUNG THÙY NGHIÊN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, NĂM 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ……...…/……..…. ..…/….. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN TRUNG THÙY NGHIÊN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Vũ Trọng Hách HÀ NỘI, NĂM 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung trong luận văn là trung thực, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác. Các kết quả, số liệu, báo cáo do tôi thu thập từ nhiều nguồn, có trích dẫn và ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Trong luận văn cũng sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn. Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về luận văn của mình. Hà Nội, ngày 26 tháng 07 năm 2018 Học viên Trần Trung Thùy Nghiên
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 7. Kết cấu của luận văn 5 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 6 1.1. Những khái niệm cơ bản về xét xử vụ án hành chính 6 1.1.1. Vụ án hành chính 6 1.1.2. Xét xử vụ án hành chính 8 1.2. Những quy định của pháp luật về xét xử vụ án hành chính 12 1.2.1 Chủ thể tham gia xét xử vụ án hành chính 12 1.2.2 Đối tượng của xét xử vụ án hành chính 14 1.2.3. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh 18 1.3 Vai trò của xét xử vụ án hành chính 20 1.4 Các yếu tố đảm bảo hoạt động xét xử vụ án hành chính 23 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 27 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 28 2.1. Đặc điểm kinh tế, chính trị trên địa bàn và Quá trình phát triển của Tòa Hành chính Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội 28 2.2 Tình hình xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017 30
- 2.2.1 Cơ sở pháp lý của xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội 30 2.2.2 Kết quả xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2013 tới năm 2017 32 2.2.3 Đánh giá kết quả xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017 34 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 53 CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM HOÀN THIỆ ỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 54 3.1. Phương hướng hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính 54 3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội 55 3.2.1. Tăng cường tính độc lập của Tòa án 55 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hành chính 57 3.2.3. Kiện toàn hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo hướng cải cách tư pháp 66 3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố tụng hành chính 75 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét xử, có quyền ra phán quyết về các tranh chấp theo quy định của pháp luật và các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cụ thể, Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Hiện nay hệ thống Tòa án nhân dân gồm 4 cấp: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương cùng Tòa án quân sự và các tòa án khác được thành lập theo luật định. Trong hoạt động của Tòa án nhân dân, xét xử án hành chính là lĩnh vực xét xử còn mới mẻ nhưng không kém phần quan trọng và cần thiết so với các xét xử khác. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường còn non trẻ của đất nước ta còn tồn tại không ít bất cập, hạn chế từ công tác điều hành của nhà nước gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Nhiều năm qua, xét xử vụ án hành chính có sự tăng dần về số vụ và tính chất phức tạp so với giai đoạn trước. Cũng bởi tính chất mới mẻ và phức tạp nên xét xử án hành chính hiện nay tồn tại không ít khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử cũng như thi hành án. Đặc biệt, trong một thời gian ngắn, xét xử vụ án hành chính ít nhiều chịu ảnh hưởng từ việc thay đổi mô hình tổ chức của Tòa án; thay đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý, làm phát sinh nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm mới đối với hệ thống Tòa án. Đặc biệt, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
- 2 trung ương luôn là cấp có tổng số vụ án hành chính được thụ lý cao nhất và tính chất phức tạp. Theo thống kê toàn quốc, từ khi Quốc hội ban hành Luật tố tụng hành chính, tổng số vụ án được thụ lý tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên cả nước đã lên tới hàng nghìn vụ trên năm, tăng hàng trăm vụ qua các năm. Trong đó, thực tiễn xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có thể được xem là một trọng điểm của công tác xét xử án hành chính của hệ thống Tòa án trên cả nước. Nguyên nhân do Thành phố Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam, là một trong hai đô thị có tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh nhất cả nước. Nền kinh tế càng phát triển thì các mẫu thuẫn trong xã hội càng gia tăng, không ngoại trong trừ lĩnh vực quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Trong những năm qua, số vụ án hành chính mà Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thụ lý đã tăng vượt bậc; nhiều năm số án năm sau tăng gấp hai, ba lần so với năm liền trước. Đối tượng của khiếu kiện ngày càng phức tạp, đa dạng, liên quan tới nhiều ngành, lĩnh vực quản lý hành chính. Mặc dù luôn nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng xét xử, nhưng thực tế xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội hiện nay còn gặp không ít vướng mắc, điển hình như: Qua một thời gian ngắn thực hiện các quy định của Luật tố tụng hành chính (2015) đã làm phát sinh một số khó khăn đối với tòa án trong các vấn đề xác định đối tượng khởi kiện, xác định người tham gia tố tụng; về thủ tục đối thoại; xác định căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính; xác định cơ chế đảm bảo thi hành bản án... Kéo theo đó, tồn tại tình trạng án hủy, sửa còn cao; thời gian xét xử kéo dài gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Mặt khác, hiểu biết về khiếu kiện hành chính của người dân cũng chưa được đầy đủ, gây khó khăn cho cơ quan xét xử trong việc thụ lý bản án, vv. Với thực trạng nêu trên, công tác xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoàn toàn có cơ sở trở thành căn cứ để phân tích và rút ra các bài học kinh nghiệm, là tài liệu để tham khảo và áp dụng, nhằm nâng cao chất lượng xét xử án hành chính tại các Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên phạm vi cả nước.
- 3 Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ năm 1996 tới nay, xét xử án hành chính ngày càng được quan tâm nghiên cứu sâu rộng. Tới nay, liên quan tới mảng đề tài này đã có rất nhiều tác phẩm và công trình nghiên cứu cá nhân có chất lượng, trở thành cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Trong số đó có thể nêu lên các tác phẩm: “Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta”, GS.TS Nguyễn Duy Gia (chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 1995; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”, PTS. Đinh Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”, TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2004; “Luật tố tụng hành chính”, Nxb Chính trị quốc gia, 2011; “Một số vấn đề lý luận và thực hiện trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Nguyễn Hồng Bách, năm 2006;“ Tòa hành chính – Thiết chế cơ bản bảo vệ quyền công dân”, Ngoài ra còn một số nghiên cứu khác đã được công bố rộng rãi trên sách báo, tạp chí và trong các báo cáo công tác xét xử hàng năm của Tòa hành chính. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về đề tài xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn chưa vẫn chưa được khai thác, nghiên cứu sâu sắc. Đặc biệt trong bối cảnh Hiến pháp (2013) và Luật tố tụng hành chính (2015) được sửa đổi, đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn; nhất là với công tác xét xử tại một đô thị lớn như thành phố Hà Nội. Vì vậy việc lựa chọn đề tài “Xét xử án hành chính - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” trên tinh thần kế thừa những nghiên cứu trước đó nhưng có hướng tiếp cận cụ thể, không trùng khớp với các công trình đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở phân tích hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động tố tụng
- 4 hành chính, luận văn đi sâu nghiên cứu, đánh giá hoạt động xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội; từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm hoàn hiện hệ thống pháp luật nói chung và công tác xét xử tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng. Cụ thể: - Luận văn tiến hành nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận cùng những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tố tụng hành chính làm căn cứ soi chiếu thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. - Tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2013 tới hết năm 2017, nêu lên những ưu điểm, hạn chế cùng nguyên nhân của thực trạng. - Trên cơ sở thực tiễn, luận văn rút ra những vấn đề cần được quan tâm nhằm góp phần hoàn thiện công tác xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng, Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên cả nước nói chung trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: Luận văn nghiên cứu công tác xét xử vụ án hành chính tại Tòa Hành chính thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. - Thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 5 năm: Từ năm 2013 tới hết năm 2017. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn đã được vận dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin
- 5 - Phương pháp quan sát thực tế; - Phương pháp nghiên cứu tài liệu; hồ sơ, bản án; - Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp số liệu; đánh giá, so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đã đề cập và hệ thống hóa các vấn đề lý luận trong hoạt động Xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, đặc biệt trong bối cảnh cải cách tư pháp theo nghị quyết 48/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW. Trên cơ sở thực tiễn, luận văn đã đưa ra các đề xuất, giải pháp hữu ích, góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử vụ án hành chính trên phạm vi cả nước nói chung và tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu khoa học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về xét xử vụ án hành chính Chương 2: Thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
- 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 1.1. Những khái niệm cơ bản về xét xử vụ án hành chính 1.1.1 Vụ án hành chính Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức được nhà nước ủy quyền quản lý trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều hành xã hội của nhà nước. Trong quá trình vận hành, hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng không tránh khỏi những xung đột, tranh chấp giữa các chủ thể, thường là các cơ quan quản lý hành chính và tổ chức, cá nhân. Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc cơ quan quản lý hành chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình, gây hậu quả ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị quản lý.Trong trường hợp đó, chủ thể bị quản lýcó quyền khiếu kiện vụ án hành chính tới Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy định tại Khoản 1, Điều 30, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đây chính là cơ sở pháp lý cao nhất để xác định quyền khiếu kiện vụ án hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Điều 115, Luật Tố tụng hành chính 2015 đã quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó. Như vậy, nguồn gốc của vụ án hành chính là khiếu kiện hành chính. Quyết định hành chính hay hành vi hành chính được cho là xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị quản lý, nhưng nếu không đượckhiếu kiện lên Tòa án thì không được coi là vụ án hành chính. Ngoài ra, để trở thành vụ án hành
- 7 chính, khiếu kiện hành chính đó còn cần được phía Tòa án xem xét, thụ lý giải quyết mới đảm bảo có điều kiện đủ làm phát sinh một vụ án hành chính. Theo Từ điển tiếng Việt, “thụ lý” là “tiếp nhận giải quyết vụ kiện”[18, tr. 961] . Trong tố tụng hành chính, việc thụ lý vụ án hành chính là căn cứ làm xuất hiện trách nhiệm giải quyết vụ án hành chính của Tòa án, là cơ sở giúp Tòa án có những nhận định ban đầu về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ việc có thể xảy ra [19, tr. 237] Có thể nói, khiếu kiện hành chính là nguồn gốc làm phát sinh trách nhiệm của Tòa án trong việc tiếp nhận và trả lời công khai, chính thức về việc khiếu kiện hành chính đó có được giải quyết tại Tòa án hay không. Trường hợp vụ việc đó được chấp nhận, Tòa án tiến hành thụ lý thì lúc này vụ án hành chính mới phát sinh, kéo theo đó là trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ án hành chính.Để tránh việc lạm dụng quyền khiếu kiện, đồng thời tạo cơ sở cần thiết để Tòa án có thể giải quyết vụ án hành chính theo đúng quy định của pháp luật, Tòa án có quyền xem xét tính hợp pháp của các yêu cầu khởi kiện và sự phù hợp của yêu cầu này với thẩm quyền của mình để quyết định thụ lý hay không thụ lý [19, tr.237]. Có thể nói, một vụ án hành chính không đương nhiên phát sinh khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện, mà nó còn phải thỏa mãn các điều kiện thụ lý theo quy định pháp luật và được Tòa án chấp nhận. Trên cơ sở phân tích về nguồn gốc và điều kiện phát sinh của vụ án hành chính nêu trên, có thể hiểu, “Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính được Tòa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà chủ thể khiếu kiện cho rằng việc thực hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đó gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.”
- 8 1.1.2. Xét xử vụ án hành chính 1.1.2.1. Khái niệm xét xử vụ án hành chính Theo từ điển tiếng Việt, “xét xử” là hoạt động đặc trưng, là chức năng của Tòa án, Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chắc năng xét xử. Trong giới luật học, có nhiều quan điểm lại cho rằng“xét xử”là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc.Xét xử là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do Tòa án thực hiện. Đây là một quyền thuộc nhóm quyền tư pháp, mang tính quyền lực nhà nước, do Tòa án thực hiện và cũng là quyền đặc thù của Tòa án. Tòa án thực hiện chức năng xét xử để giải quyết những vụ án thuộc nhiều lĩnh vực như hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính,... Mọi bản án do Tòa án tuyên đều phải qua hoạt động xét xử. Không ai bị buộc tội khi chưa qua xét xử của Tòa án. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 08 – NQ/TW (2002) về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp ban hành bởi Bộ chính trị tiếp tục nhấn mạnh vai trò Tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp, hoạt động xét xử của Tòa án là trọng tâm của hệ thống tư pháp. Hiểu chung nhất, “xét xử” là việc đưa ra các phán quyết dưới hình thức một bản án hoặc quyết định của Tòa án có thẩm quyền nhằm giải quyết các xung đột, tranh chấp hoặc những phát sinh trong các quan hệ pháp lý cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Do đó, có thể thấy xét xử là một hoạt động đặc biệt do Tòa án thực hiện nhằm giải quyết các vụ án trong đó có các vụ án hành chính. Từ sự phân tích hai khái niệm “vụ án hành chính” và “xét xử”nêu trên, có thể định nghĩa: “Xét xử vụ án hành chính là việc phán xét của Tòa án về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc do cơ quan quản lý hành chính nhà nước ban hành bị khiếu kiện trên
- 9 cơ sở luật Tố tụng hành chính”. Xét xử vụ án hành chính là cơ chế hữu hiệu trong kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhóm quyền tư pháp với nhóm quyền hành pháp, giúp đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Xét xử hành chính là mảng xét xử vẫn còn khá mới mẻtrong lịch sử tố tụng tư pháp Việt Nam, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn haytrong tương quan với các xét xử khác như hình sự, dân sự, kinh tế,…. Nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về xét xử án hành chính, trình tự thủ tục tố tụng giải quyếtvụ án này là nhu cầu cần thiết nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan trước những khả năng bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan quản lý hành chính nhà nước. 1.1.2.2. Đặc điểm xét xử vụ án hành chính ột mảng xét xử củ , tương đồng với các khác. Giống như xét xử dân sự, hình sự, hay kinh tế…, xét xử vụ án hành chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, dựa trên các quy định của pháp luật nhằm xem xét, đánh giá một vụ việcvà đưa ra phán xét về tính chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ viêc. Đồng thời, xét xử vụ án hành chính cũng tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng chung từ giai đoạn nhận hồ sơ, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, đưa ra xét xử và ra phối hợp thi hành án. . Tuy nhiên xét xử vụ án hành chính có những đặc điểm riêng xuất phát từ chủ thể và đối tượng của tranh chấp hành chính, bao gồm: Thứ nhất, về đối tượng xét xử của vụ án hành chính Xét xử vụ án hành chính là một mảng công tác đặc thù trong các xét xử của Tòa án hiện nay. Nếu các mảng xét xử khác như dân sự, hình sự, lao động, kinh tế chủ yếu hướng tới giải quyết các tranh chấp phát sinh về đời sống dân sự
- 10 thì xét xử hành chính hướng tới giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động quản lý và điều hành của các cơ quan nhà nước (khối công) với cá nhân, tổ chức. Đối tượng xét xử vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước. Các quyết định, hành vi này có tính chất mệnh lệnh – phục tùng, bắt buộc và áp đặt đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan. Để rõ hơn về tính đặc biệt của đối tượng xét xử trong xét xử vụ án hành chính, có thể làm một phép so sánh: Nếu như quan hệ nhân thân, tài sản, có thể được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên đương sự trên cơ sở bình đẳng; thì trong quan hệ quản lý hành chính xuất phát từ hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực đơn phương. Mà trong đó, quyết định hành chính, hành vi hành chính là phương tiện của quản lý hành chính nhà nước và cũng là đối tượng dễ gây phát sinh tranh chấp, được đưa ra xét xử. Thứ hai, về chủ thể trong vụ án hành chính Quan hệ quan giữa hai chủ thể có tranh chấp trong các khiếu kiện hành chính vốn không ngang bằng nhau khi một bên chủ yếu là công dân, là chủ thể cũng là đối tượng chịu sự quản lý nhà nước và một bên là cơ quan hành chính thực thi quyền lực công, là chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Do mối quan hệ đặc biệt này, trong tố tụng hành chính không có khái niệm “nguyên đơn”, “bị đơn”, mà là “người khởi kiện” và “người bị kiện”. Không những thế, ở nước ta, Tòa án trên thực tế cũng là đối tượng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước do bộ máy nhà nước được tổ chức theo các cấp địa phương. Chính vì vậy, có thể nói việc xét xử vụ án hành chính có tính phức tạp, đòi hỏi tính độc lập và chuyên môn hóa cao của của Tòa án cũng như trình độ, chuyên môn và bản lĩnh của thẩm phán. Để làm được điều này hệ thống pháp luật cần được nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa để có thể tăng cường tính độc lập của hệ thống Tòa án. Thứ ba, thành phần, cơ cấu phiên tòa, thủ tục xét xử vụ án hành chính khác với phiên tòa hình sự, dân sự. Nếu như tại trên thế giới, việc xét xử vụ án hành chính
- 11 thì ở . Tuy nhiên, việc Thứ tư, về thủ tục đối thoại Khác với tố tụng dân sự, trong tố tụng hành chính không có thủ tục “hòa giải” mà thay vào đó là thủ tục “đối thoại”. Vì tính chất mệnh lệnh – phục tùng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước và mối quan hệ không tương đồng giữa các chủ thể, quá trình xét xử vụ án hành chính không thể hướng tới thoả thuận hay đồng thuận giữa các bên, do đó không thể có thủ tục “hòa giải” – mang tính ngang bằng về địa vị giữa hai bên tranh chấp. Việc sử dụng từ “đối thoại” thay vì “hòa giải” cho thấy rõ sự khác biệt về vị thế trong mỗi quan hệ giữa các bên đương sự. Thứ năm, việc xét xử vụ án hành chính không làm mất hiệu lực của quyết định hành chính, hành vi hành chính hay bản án hành chính đã có hiệu lực thi hành trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp. của Thứ sáu, xét xử vụ c
- 12 1.2. Những quy định của pháp luật về xét xử vụ án hành chính 1.2.1 Chủ thể tham gia xét xử vụ án hành chính Quá trình xét xử vụ án hành chính có sự tham gia của nhiều đối tượng. Những người này tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật này. Họ có vị trí tố tụng khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau theo quy định của pháp luật tốt tụng hành chính. Căn cứ vào vị trí tố tụng, quyền và nghĩ vụ tố tụng, có thể phân chia chủ thể của quan hệ xét xử hành chính thành hai nhóm: chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng 1.2.1.1 Chủ thể tiến hành tố tụng Chủ thể tiến hành tố tụng là chủ thể được pháp luật cho phép trong phạm vi, thẩm quyền của mình, có toàn quyền áp dụng pháp luật, mà ở đây là pháp luật tố tụng hình hành chính để thực hiện mục đích tố tụng hành chính là giải quyết khiếu kiện của công dân, tổ chức, cơ quan đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, công chức. Chủ thể tiến hành tố tụng hành chính gồm: cơ quan tiến hành tố tụng hành chính và người tiến hành tố tụng hành chính. Cơ quan tiến hành tố tụng hành chính, gồm: - Tòa án nhân dân; - Viện Kiểm sát nhân dân. Những người tiến hành tố tụng, gồm: - Chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa án; - Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên; - Kiểm tra viên, Thẩm tra viên; - Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn). 1.2.1.2 Người tham gia tố tụng hành chính Người tham gia tố tụng là người tham gia vào việc giải quyết vụ án hành
- 13 chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết vụ án hành chính. Người tham gia tố tụng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, đặc biệt là trong quá trình xét xử vụ án hành chính. Những người tham gia tố tụng hành chính gồm: Đương sự Xác định các đối tượng là đương sự tham gia quá trình xét xử hành chính, Luật Tố tụng hành chính (2015) quy định: “Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Trong đó, người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính; người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện lên Tòa án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự đủ điều kiện tham xét xử án hành chính là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng hành chính hoặc có người đại diện hợp pháp theo quy định pháp luật. Một số chủ thể khác phát sinh trong các trường hợp cụ thể như: người đại diện của đương sự, áp dụng cho các trường hợp đương sự là người chưa thành niên hoặc có hạn chế về năng lực hành vi; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thường là các luật sư; trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý; người làm chứng là người biết các tình tiết liên quan tới nội dung vụ án được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng; người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm về lĩnh
- 14 vực cần giám định được các bên đương sự lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu để giám định; người phiên dịch, trong trường hợp người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. 1.2.2 Đối tượng của xét xử vụ án hành chính Đối tượng của xét xử vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử trido cơ quan hành chính nhà nước ban hành bị khiếu kiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Có thể hiểu, mục tiêu xét xử vụ án hành chính hướng đến là giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính do nội dung của các quyết định hành chính và hành vi hành chính gây ra. Do đó, khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính mà gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan thì họ có quyền đưa quyết định hành chính hay hành vi hành chính đó ra khiếu kiện tại Tòa án. Căn cứ Luật Tố tụng hành chính, đối tượng xét xử vụ án hành chính gồm quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc được quy định cụ thể như sau: Quyết định hành chính Quyết định hành chính bị khiếu kiện là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức, người có thẩm quyền ban hành, quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, không phải quyết định hành chính nào cũng có thể trở thành đối tượng khởi kiện trong tố tụng hành chính. Để trở thành đối tượng xét xử vụ án hành chính, quyết định hành chính phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- 15 Thứ nhất, về hình thức, quyết định hành chính phải thế hiện bằng văn bản. Hình thức văn bản của quyết định hành chính bị khởi kiện có thể được thể hiện dưới hình thức pháp lý hay không pháp lý (quyết định, công văn, kết luận, thông báo...). Theo khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính quy định: nếu văn bản có chứa nội dung "quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể" thì đều được coi là quyết định hành chính có thể bị khởi kiện. Quy định như vậy nhằm bảo đảm quyền khởi kiện, nhất là trong thực tiễn nước ta đang rất phổ biến các quyết định hành chính ẩn dưới hình thức các loại văn bản không mang tính pháp lý như công văn, kết luận, thông báo... Quy định này cũng phù hợp với các quy định tương ứng của luật tố tụng hành chính ở các nước phát triển. Thứ hai, về nội dung, quyết định đó phải là quyết định hành chính cá biệt gây xâm hại đến quyền và lợi ích của người khởi kiện. Nghĩa là quyết định đó phải có nội dung liên quan đến việc giải quyết một vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính nhà nước và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Đồng thời, quyết định hành chính bị khởi kiện phải làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Tuy nhiên, Điều 30 Luật Tố tụng hành chính cũng quy định các trường hợp loại trừ quyết định không phải là đối tượng xét xử vụ án hành chính, gồm: quyết định hành chính, thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng; Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Việc quy định những trường hợp loại trừ này nhằm mục đích bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì trật tự quản lý nội bộ của các cơ quan nhà nước.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 267 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 70 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 55 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn