Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ở Việt Nam
lượt xem 6
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự "Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ở Việt Nam" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã; Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã; Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ở Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THÙY DƯƠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THÙY DƯƠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ Ở VIỆT NAM Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH HÀ NỘI, 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Phạm Thùy Dương
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ ...... 7 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã .............................................................................................. 7 1.2. Nội dung và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ..................................................................... 14 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ.................................... 24 2.1. Quy định của pháp luật về THQCT trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ............................................................................................ 24 2.2. Hoạt động thực hành quyền công tố đối với các vụ án về động vật hoang dã của Viện kiểm sát nhân dân ............................................... 31 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THQCT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ .... 47 3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nhận thức pháp luật ......... 47 3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra ...................................... 49 3.3. Tăng cường hợp tác quốc tế ............................................................. 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐVHD : Động vật hoang dã KSĐT : Kiểm sát điều tra KSV : Kiểm sát viên THQCT : Thực hành quyền công tố VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng được biết đến như là một trong những quốc gia có truyền thống khai thác, nuôi trồng và sử dụng tài nguyên đa dạng sinh học trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nước ta đã trở thành một trong những trung tâm quan trọng, điểm nóng về buôn bán và sử dụng sản phẩm từ động, thực vật hoang dã ở Đông- Nam Á và là địa bàn trung chuyển lớn trong khu vực về buôn bán các sản phẩm từ động vật hoang dã. Ngoài ra, hàng nghìn loài thực vật hoang dã đang được khai thác và sử dụng làm dược liệu cùng với hàng chục nghìn tấn cây thuốc được sử dụng hàng năm. Bên cạnh các hoạt động buôn bán hợp pháp, buôn bán động thực vật hoang dã và sử dụng bất hợp pháp đã trở thành một vấn đề ảnh hưởng đến sự tồn tại của các quần thể tự nhiên của các loài. Hậu quả của việc buôn bán trái phép và sử dụng không bên vững các loài hoang dã trong những năm qua dẫn đến sự suy giảm quần thể của nhiều động, thực vật hoang dã, nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến đa dạng sinh học. Nhận thức được được tầm quan trọng của công tác bảo tồn đa dạng sinh học và những rủi ro tiềm ẩn từ việc buôn bán, sử dụng trái phép động vật hoang dã, từ năm 1994 Việt Nam đã tham gia Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã, nguy cấp (CITES). Đây là bản hiệp ước giữa các quốc gia thành viên về việc kiểm soát việc buôn bán, trao đổi các loài động thực vật hoang dã để tránh tình trạng khai thác quá mức dẫn đến tình trạng tuyệt chủng của các loài trong tự nhiên. Thực hiện cam kết và nghĩa vụ thành viên của Việt Nam, nhiều chính sách và pháp luật liên quan đến bảo tồn động vật hoang dã và đấu tranh, phòng, chống buôn bán trái phép động vật hoang dã đã được Việt Nam xây dựng và cụ thể hóa như trong Bộ luật Hình 1
- sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2015, Luật bảo vệ phát triển rừng (2004), Luật Thủy sản (2003), Luật Đa dạng sinh học (2008) và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” đặt ra yêu cầu “Bảo vệ nghiêm ngặt các loài động vật hoang dã, các giống cây trồng, cây dược liệu, vật nuôi có giá trị, loài quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng. Ngăn chặn sự xâm nhập, phát triển của sinh vật ngoại lai xâm hại. Tăng cường quản lý rủi ro từ sinh vật biến đổi gen” [3]; Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 20/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện 9 giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong nước và quốc tế liên quan đến ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm; Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 17/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ nhận định “tại một số địa phương hoạt động chế tác và bày bán các sản phẩm ĐVHD như: Ngà voi và sừng tê giác còn diễn biến phức tạp, thách thức nỗ lực thực thi pháp luật” [37]...và đặt ra yêu cầu phải rà soát, kiểm tra, xử lý nghiêm các hoạt động buôn bán ngà voi, sừng tê giác trái pháp luật;... Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều vụ án buôn bán, tàng trữ, vận chuyển động vật hoang dã đã được phát hiện nhưng không xử lý được hoặc chỉ xử lý được một phần nên chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm và bảo vệ hiệu quả các loại động vật hoang dã với nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng Hiến định thực hành quyền công tố đối với loại tội này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập cần có những giải pháp khoa học nhằm nâng cao chất lượng đối với nhóm tội phạm đặc trưng này. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ở Việt Nam” là cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nước ta hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu và bài viết của các nhà nghiên cứu liên quan đến vấn đề này mà tác giả đã tiếp cận và tham khảo có thể kể đến như: - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần các tội phạm), GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên), Nxb Tư pháp, năm 2018; - Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, TS. Phạm Mạnh Hùng (Chủ biên), Nxb Lao động, năm 2019; - Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2017; - Giáo trình Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Tập 2, Năm 2017; - Vũ Hải Đăng (2012), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy, cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ trong luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Đại học Quốc gia, Hà Nội; - Bùi Thị Hà (2015), Pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Đại học quốc gia Hà Nội; - Đào Quang Hiếu (2016), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; - Trần Thị Hải (2018), Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; - Bùi Đức Tuấn (2018), Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; - Tiến sĩ Nguyễn Đức Hạnh – Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2018), Những khó khăn, vướng mắc trong công tác truy tố các vụ án về động vật hoang dã, quý, hiếm – Tham luận tại Hội thảo nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật về động 3
- vật hoang dã, quý hiếm ở Việt Nam do Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội và Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đồng phối hợp tổ chức tại Hải Phòng; - Bài viết “Quản lý và xử lý vật chứng là động vật hoang dã trong các vụ án hình sự” của TS. Nguyễn Đức Hạnh, Tạp chí Tòa án số 23/2019; - Bài viết "Bàn về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã..." của TS. Phạm Minh Tuyên, Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh, Tạp chí Tòa án, tháng 9/2020; - Bài viết "Khắc phục những khó khăn, vướng mắc để đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại động vật hoang dã có hiệu quả" của TS. Trương Công Lý, Tạp chí Tòa án, tháng 8/2020; - Bài viết "Bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm nhìn từ góc độ pháp luật hình sự" của Th.S Lê Văn Sua, Tạp chí Môi trường & Xã hội, tháng 3/2020; - Sổ tay hướng dẫn Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án liên quan đến động vật hoang dã, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, NXB Hồng Đức phát hành năm 2020; - Các bài viết “Impacts of Wildlife trade and sustainable development in Vietnam” (Tác động của việc buôn bán động vật hoang dã và sự phát triển bền vững của Việt Nam); International cooperation and mutual legal assistance in criminal matters in handling with transnational wildlife trafficking crimes in Vietnam (Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự trong giải quyết các vụ án về buôn bán động vật hoang dã xuyên quốc gia ở Việt Nam) và “Legal framework for wildlife farming benefits species conservation and preventing wildlife crimes in Vietnam” (Giá trị của khung pháp luật trong việc gây nuôi động vật hoang dã đối với việc bảo tồn loài và phòng ngừa tội phạm về động vật hoang dã ở Việt Nam) của TS. Nguyễn Đức Hạnh và PGS.TS. Đinh Thị Mai đăng trên Tạp chí EDP Sciences - E3S Web of Conferences, số 157 (2020), 164 (2020) và số 175 (2020). 4
- Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều có tính lý luận và thực tiễn cao, nâng cao khả năng xử lý triệt để các vụ việc liên quan đến ĐVHD. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận về quyền công tố, THQCT và KSĐT vụ án hình sự, đặc biệt là điều tra vụ án về ĐVHD và thực tiễn công tác điều tra các vụ án liên quan đến ĐVHD, từ đó nêu ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSĐT các vụ án về ĐVHD trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về THQCT trong điều tra các vụ án về ĐVHD, quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT, đặc biệt là đối với các tội về ĐVHD. - Quy định Luật Hình sự Việt Nam liên quan đến ĐVHD. - Phân tích thực tiễn công tác THQCT và KSĐT các vụ án về ĐVHD ở Việt Nam hiện nay và rút ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác này. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác THQCT trong điều tra các vụ án về ĐVHD trong thời gian tới nhằm bảo vệ tốt hơn nữa pháp chế xã hội chủ nghĩa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT trong điều tra các vụ án về ĐVHD. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động THQCT trong điều tra vụ án về ĐVHD ở Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2019. 5
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng; chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp. Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình làm nghiên cứu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh, đối chiếu để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của VKSND khi THQCT đối với các vụ án về ĐVHD; góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, luận văn cũng là nguồn tư liệu tham khảo có ý nghĩa đối với nhà nghiên cứu, học viên và các cơ sở đào tạo luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã 1.1.1 Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố Để hiểu rõ được nội dung, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã, chúng ta cần nghiên cứu một số khái niệm cơ bản sau: Thứ nhất, khái niệm về quyền công tố và thực hành quyền công tố: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố và THQCT như là: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với người phạm tội” [51, tr.188]; là quyền nhà nước đưa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án để xét xử, vì nhà nước nhân danh xã hội duy trì mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của nhà nước phải đứng ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực [41]; là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm luật dân sự, luật kinh tế và luật hình sự. Và quyền công tố là quyền của nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó [19]; là việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa [41]. Tuy nhiên, dù có theo quan điểm nào thì các tác giả đều khẳng định: Quyền công tố là quyền lực công, quyền lực của nhà nước, xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra, các cơ quan nhà nước thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự, chứng minh hành vi phạm tội và tiến hành buộc tội trước tòa. Như vậy có thể hiểu Quyền công tố là quyền nhân danh lợi ích công để phát giác, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật ra trước Tòa án để xét xử, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. 7
- Ở nước ta, nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan THQCT. Nội dung này thể hiện rõ trong quy định của Hiến pháp, Luật và các Nghị quyết của Đảng ta từ năm 1960 tới nay. Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [29]. Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015 thì: Trách nhiệm THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thuộc về Viện kiểm sát. Điều 2 Luật tổ chức VKSND quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [30]. Như vậy, quyền công tố là quyền năng pháp lý của nhà nước được pháp luật giao cho một chủ thể duy nhất thực hiện, đó là VKSND. Do vậy, nếu quyền công tố là một quyền năng pháp lý mang tính Hiến định của Viện kiểm sát, là quyền năng pháp lý trao cho Viện kiểm sát đại diện quyền lực công để nhằm buộc tội, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, thì thực hành quyền công tố chính là những hoạt động của Viện kiểm sát nhằm thực hiện các quyền buộc tội này trong tố tụng hình sự. Theo từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “thực hành” được hiểu là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế”. Như vậy, nếu xét về nghĩa thì thuật ngữ “thực hành” thường được áp dụng trong trường hợp vận dụng một vấn đề nào đó từ lý thuyết vào thực tế, là quá trình chuyển biến tri thức thành hiện thực. Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Đức được nêu trong bài viết “Quyền công tố và tổ chức thực hiện quyền công tố trong Nhà nước pháp quyền” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 1, 2 năm 2012 thì “Thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó”. Tuy nhiên, có thể thấy quan điểm này chưa phản ánh thật sự chính xác nội hàm của THQCT cũng 8
- như chưa thể hiện đúng vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong việc chứng minh tội phạm vì quá chú trọng đến nhiệm vụ buộc tội, bảo vệ sự buộc tội. Theo quan điểm trình bày trong cuốn “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của các tác giả Lê Hữu Thể (Chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường do Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2005 thì cho rằng: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử”. Quan điểm này đã chỉ rõ hơn nghĩa của thuật ngữ “thực hành” nhưng chưa xác định chủ thể THQCT, và giới hạn phạm vi của THQCT chỉ thực hiện trong ba giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quan điểm này đã thu hẹp phạm vi THQCT bởi lẽ nếu THQCT chỉ tồn tại trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử thì cũng sẽ không giải thích được các hoạt động khác trước, trong giai đoạn khởi tố như hoạt động bắt, giữ… Một điểm chung giữa hai quan điểm nêu trên đó là đều thống nhất THQCT có các đặc điểm gồm: + THQCT do một chủ thể là cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện. + THQCT là hoạt động áp dụng pháp luật và đối tượng bị buộc tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định của Bộ luật hình sự. + THQCT bắt đầu khi phát hiện được nguồn tin về sự việc có dấu hiệu tội phạm và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật. + THQCT là việc áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Từ những phân tích trên tác giả cho rằng khái niệm THQCT có thể hiểu đó là: "hoạt động thực hiện chức năng Hiến định của Viện kiểm sát để buộc tội mang tính Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội, được bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho đến khi bản 9
- án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Như vậy, ngoài chủ thể Viện kiểm sát thì các cơ quan có thẩm quyền điều tra cũng có quyền buộc tội mang tính nhà nước nhưng không hề có quyền công tố và thực hành quyền công tố. 1.1.2. Khái niệm vụ án hình sự, điều tra vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự Vụ án hình sự có thể được hiểu là một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất hình sự được cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý và giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo “Giáo trình Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát” của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, năm 2017: “Điều tra vụ án hình sự là quá trình cơ quan có thẩm quyền áp dụng tổng hợp các biện pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, chứng minh tội phạm trước pháp luật, phục vụ công tác xử lý và góp phần phòng ngừa tội phạm”. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKSND tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Quá trình giải quyết vụ án hình sự chính là quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự qua các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau. Trong đó, thủ 10
- tục tố tụng hình sự được hiểu là trình tự, điều kiện, các bảo đảm chung, thống nhất và có tính bắt buộc phải tuân thủ theo luật định đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự cũng như đối với từng giai đoạn tố tụng, từng hành vi tố tụng cụ thể, đối với các quyết định tố tụng và đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tố tụng, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Giai đoạn là phần thời gian trong quá trình phát triển dài mang những đặc điểm riêng biệt nhằm phân biệt giữa các giai đoạn khác nhau. Theo đó, dựa vào những đặc điểm riêng biệt để phân ra các giai đoạn trong tố tụng hình sự. Nói cách khác giai đoạn tố tụng là các khâu, các phần việc khác nhau của quá trình tố tụng nhằm giải quyết một vụ án hoặc một vụ việc. Tùy vào tính chất, nhiệm vụ của mỗi hoạt động tố tụng, quá trình tố tụng có thể được chia thành các giai đoạn khác nhau. Các giai đoạn tố tụng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ở mỗi giai đoạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có những nhiệm vụ, quyền hạn hoặc nghĩa vụ nhất định. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hay nghĩa vụ của các chủ thể này trong mỗi giai đoạn tố tụng đều có ảnh hướng đến việc thực hiện nhiệm vụ chung của tố tụng. Đối chiếu với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì tố tụng hình sự Việt nam có thể chia thành bốn giai đoạn là giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử tương ứng với cách chia Chương hiện nay. Tuy nhiên cũng có thể ghép giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra và coi đây là giai đoạn điều tra theo nghĩa rộng bởi giai đoạn này chủ thể tiến hành tố tụng chính là cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, đều được áp dụng biện pháp điều tra nhằm tìm kiếm, phát hiện, ghi nhận, thu thập chứng cứ và đây là cách hiểu về giai đoạn điều tra mà sau đây luận văn sẽ sử dụng để tiếp cận. 11
- Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015, Kiểm sát viên đại diện cho VKS thực hành quyền công tố, vì vậy, KSV có nhiệm vụ, quyền hạn ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hiện hành cũng xác định rõ các giai đoạn THQCT gồm THQCT trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra, THQCT trong giai đoạn truy tố; và THCQT trong giai đoạn xét xử. Vì vậy, có thể thấy THQCT trong điều tra vụ án hình sự là một phần trong hoạt động thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoặc Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ra kết luận điều tra, đề nghị truy tố và quyết định đình chỉ điều tra. 1.1.3. Khái niệm tội phạm về động vật hoang dã Tội phạm về động vật hoang dã được hiểu là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do việc trực tiếp xâm phạm đến các loài động vật hoang dã như các hành vi săn, bắt, nuôi nhốt, giết, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép các cá thể, sản phẩm, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của các loài động vật có trong tự nhiên, sinh sống trong môi trường tự nhiên bao gồm các loài động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB theo quy định của Chính phủ hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; các loài động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB theo quy định của Chính phủ hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp hoặc các loài động vật rừng thông thường theo quy định của pháp luật và động vật hoang dã nguy cấp thuộc Phụ 12
- lục III Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp. Trong đó: + Cá thể là một cơ thể động vật còn sống hoặc đã chết. Cũng được coi là cá thể đối với cơ thể động vật đã chết mà thiếu một hoặc một số bộ phận cơ thể (ví dụ: cá thể tắc kè đã chết thiếu nội tạng hoặc cá thể hổ đã chết thiếu chân). + Bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống là những bộ phận thực hiện các chức năng chuyên biệt của cơ thể động vật, ngay khi tách rời những bộ phận này khỏi cơ thể sống của động vật thì động vật đó chết (ví dụ: đầu, tim, bộ da, bộ xương, buồng gan...). + Sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là các loại sản phẩm có nguồn gốc từ động vật (ví dụ: thịt, trứng, sữa, tinh dịch, phôi động vật, huyết, nội tạng, da, lông, xương, sừng, ngà, chân, móng...); động vật thủy sản đã qua sơ chế, chế biến ở dạng nguyên con; vật phẩm có thành phần từ các bộ phận của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm đã qua chế biến (ví dụ: cao nấu từ xương động vật hoang dã; túi xách, ví, dây thắt lưng làm từ da động vật hoang dã). Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án về động vật hoang dã đó là: "hoạt động thực hiện chức năng Hiến định của Viện kiểm sát để buộc tội mang tính Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự là tội phạm do hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bởi nó xâm hại đến các loài động vật hoang dã, được thực hiện bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho đến khi cơ quan có thẩm quyền điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề nghị Viện kiểm sát truy tố và được Viện kiểm sát thụ lý hoặc cho đến khi có quyết định đình chỉ vụ án trong giai đoạn điều tra”. 13
- 1.2. Nội dung và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã 1.2.1. Nội dung chính của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án về động vật hoang dã Nội dung hoạt động THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ thời điểm Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án đến khi có kết luận điều tra và chuyển hồ sơ tới Viện kiểm sát đề nghị truy tố và được Viện kiểm sát thụ lý hoặc kết thúc khi có quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền được thể hiện thông qua các nhiệm vụ quyền hạn gắn với một số các hoạt động đặc trưng cơ bản đối với loại tội này, cụ thể như sau: - Thực hành quyền công tố trong việc áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là biện pháp tố tụng được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thể hiện sự cưỡng chế mạnh mẽ của Nhà nước đối với người phạm tội, bảo đảm ngăn chặn các đối tượng này bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở hoạt động tố tụng. Biện pháp ngăn chặn bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh… Cũng như những vụ án hình sự khác, đối với các vụ án về động vật hoang dã thì hoạt động THQCT và kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của VKSND thể hiện dưới hai góc độ. Một là, Viện kiểm sát phê chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, hủy bỏ các quyết định áp dụng các biên pháp ngăn chặn không có căn cứ và trái pháp luật. Hai là, trong trường hợp cần thiết yêu cầu CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn nếu các cơ quan này không áp dụng thì Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn. 14
- - Thực hành quyền công tố trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can, kiểm sát việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố có nội dung thể hiện sau khi nhận được quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tài liệu kèm theo của CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát phải nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, tài liệu, kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp của quyết định này như biên bản khám nghiệm hiện trường, nơi phát hiện chuồng trại, nơi đóng hàng, ngụy trang trước khi vận chuyển, nơi nhốt, giữ động vật, giết động vật; đối với hành vi săn bắn kiểm tra biên bản thu giữ các phương tiện săn bắn như cung, nỏ, bẫy, súng… đảm bảo có căn cứ và đúng pháp luật. Trường hợp không có căn cứ và trái pháp luật thì yêu cầu hủy bỏ các quyết định này, nếu cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định hủy bỏ thì Viện kiểm sát sẽ trực tiếp hủy bỏ quyết định. Nếu thấy quyết định khởi tố có căn cứ và hợp pháp thì Viện kiểm sát gửi quyết định phân công kiểm sát viên THQCT và KSĐT, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can khi cơ quan điều tra khởi tố. Đối với các vụ án về động vật hoang dã, đối tượng phạm tội có thành phần đa dạng, phức tạp, bao gồm người Việt Nam, người nước ngoài. Có đối tượng hoạt động chuyên nghiệp, hoạt động có tổ chức theo tuyến, địa bàn nhưng cũng có đối tượng phạm tội, vi phạm pháp luật nhất thời do hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc do điều kiện tự nhiên thuận lợi sẵn có để thực hiện hành vi vi phạm. Nếu thấy có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa rõ căn cứ để khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ; Nếu thấy quyết định khởi tố không có căn cứ thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc tự mình hủy bỏ quyết định đó. Nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn có tội phạm khác chưa được khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố hoặc tự mình ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố. Nếu thấy quyết định thay 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 77 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 48 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 61 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn