Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Tòa án quân sự Việt Nam
lượt xem 8
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Lý luận chung về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các tòa án quân sự Việt Nam; Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Tòa án quân sự Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THÀNH PHƯƠNG TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN QUÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THÀNH PHƯƠNG TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN QUÂN SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Luận văn "Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Toà án quân sự Việt Nam" là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Công Nguyên. Tôi xin cam đoan số liệu, thông tin và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông tin và tài liệu trích dẫn trong luận văn được ghi rõ nguồn gốc. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thành Phương
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: ......................................................................................................... 9 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ............................................................. 9 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI.................................................. 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm và những dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi......................................................................................................... 9 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 9 1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi............ 10 1.1.3. Phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong những trường hợp đặc biệt.................................................................................................................. 29 1.2. Những quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong lịch sử lập pháp Việt Nam .................................................................................................. 39 CHƯƠNG 2: ....................................................................................................... 43 ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM .................. 43 NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TRONG CÁC TOÀ ÁN QUÂN SỰ VIỆT NAM . 43 2.1. Thực tiễn định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các Toà án quân sự Việt Nam ....................................................................................... 43 2.1.1. Tình hình thụ lý và xét xử vụ án trong các Toà án quân sự Việt Nam 46 2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các Toà án quân sự Việt Nam ...................................................................................... 50 2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các Toà án quân sự Việt Nam ....................... 55 2.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại các Toà án quân sự Việt Nam ............................................... 59 2.3.1. Những kết quả đạt được ....................................................................... 59 2.3.2. Những hạn chế vướng mắc về vấn đề định tội danh............................ 60
- 2.3.3. Những hạn chế, vướng mắc khi quyết định hình phạt ......................... 70 2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc ..................................... 72 Chương 3 ............................................................................................................. 74 CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ................. 74 PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ..... 74 3.1. Những yêu cầu về áp dụng đúng pháp luật hình sự tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các Toà án quân sự Việt Nam .......................................... 74 3.2. Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ................................................................................... 80 3.3. Một số yêu cầu, giải pháp khác ................................................................ 84 3.3.1. Yêu cầu trong công tác xét xử.............................................................. 84 3.3.2. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ............................................................ 87 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 92
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số liệu các vụ án xét xử về các tội xâm hại tình dục nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng trong các Toà án quân sự Việt Nam (2016-2020). Bảng 2.2: Độ tuổi của bị cáo trong các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi đã được xét xử tại các Toà án quân sự Việt Nam (giai đoạn 2016 – 2020). Bảng 2.3: Tổng hợp những hình phạt chính được áp dụng cho bị cáo phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các Toà án quân sự giai đoạn 2016 – 2020.
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lúc sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan". Người luôn căn dặn rằng trẻ em là tương lai của nước nhà, vì vậy, việc chăm sóc giáo dục, cũng như bảo vệ trẻ em phải là công việc được ưu tiên hằng đầu. Nhận thức rõ được tầm quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em, Đảng và Nhà nước ta đã thể chế hoá những tư tưởng ấy trong Hiến pháp và những văn bản pháp luật có liên quan. Cụ thể, khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013 đã quy định như sau: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em". Vì trẻ em chưa có sự phát triển toàn diện và đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, do đó cần phải được sự bảo vệ từ toàn xã hội. Văn bản pháp lý trực tiếp quy định về bảo vệ trẻ em là Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14/11/1979. Pháp lệnh này được nâng lên thành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 (được sửa đổi bổ sung năm 2004). Sau một thời gian thực hiện, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, tại kỳ họp thứ 11, ngày 5/4/2016, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em. Luật Trẻ em năm 2016 đã mở rộng phạm vi trẻ em được bảo vệ là trẻ em dưới 16 tuổi nói chung trong đó bao gồm cả trẻ em có quốc tịch Việt Nam và trẻ em là người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Luật cũng chỉ rõ 14 hành vi vi phạm quyền trẻ em bị nghiêm cấm, như: nghiêm cấm hành vi tước đoạt quyền sống của trẻ em; nghiêm cấm hành vi bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em... (Điều 10). Luật Trẻ em không chỉ
- 2 dừng lại ở việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục các em mà các vấn đề khác như bổn phận của các em, sự tham gia của các em về các vấn đề trẻ em, các cấp độ bảo vệ, chăm sóc thay thế cho trẻ, trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em… cũng được quy định khá cụ thể và toàn diện. Ngoài ra, một số văn bản luật khác cũng điều chỉnh những đến vấn đề bảo vệ trẻ em trong từng lĩnh vực cụ thể. Việt Nam đã tham gia và nội luật hóa nhiều quy định từ các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em. Trước hết là Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948. Tuyên ngôn “đòi hỏi sự tôn trọng nhân phẩm của con người, quyền tự do của mỗi người đồng thời đòi hỏi cả những nỗ lực liên tục ở mọi cấp độ để có thể hiện thực hóa việc hưởng các quyền con người trên phạm vi toàn cầu”, và trẻ em phải được hưởng lợi từ tất cả những bảo đảm quyền con người dành cho người lớn Tiếp theo là Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam phê chuẩn năm 1990, quy định trực tiếp các nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em như: nguyên tắc không phân biệt đối xử, bình đẳng về cơ hội, nguyên tắc lợi ích tốt nhất cho trẻ em và nguyên tắc quyền được sống, tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, Công ước đã quy định rất nhiều quyền cơ bản của trẻ em buộc các quốc gia thành viên phải tôn trọng. Một số công ước khác mà Việt Nam tham gia cũng khẳng định trẻ em là một đối tượng được bảo vệ như Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966, nêu rõ “Các trẻ em… phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo hộ” (Điều 24); Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 quy định “Thanh thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột về kinh tế và xã hội” (Điều 10); Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên năm 1985 (gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh) đã khẳng định “Áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên cần
- 3 chú trọng đến phúc lợi của người chưa thành niên và phải bảo đảm rằng, bất cứ việc xét xử nào đối với người chưa thành niên phạm tội phải luôn xem xét hoàn cảnh của người phạm tội cũng như hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội” (Mục 5 Phần 1 - Những quy định chung). Tuy nhiên, tình trạng gần đây thật đáng quan ngại. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, mỗi năm trung bình cả nước có hơn 1.200 trẻ em bị xâm hại tình dục (chiếm hơn 60% số vụ xâm hại trẻ em - trong đó có những vụ bạo hành thể chất, tinh thần khác đối với các em). Đáng báo động hơn là hầu hết các vụ việc đó lại do những người thân thiết, quen biết của đứa trẻ gây ra. Họ đã lợi dụng sự tin tưởng của phụ huynh và đặc biệt là sự non nớt cả về thể chất và tinh thần của đứa trẻ để làm những việc phi nhân tính, gây ra những ảnh hưởng vô cùng khủng khiếp đối với các em. Hàng năm, các vụ việc bị phát hiện, xử lý đã phần nào đem lại sự công bằng, giảm bớt những tổn thương cho các em và ổn định cho xã hội. Tuy nhiên, làm thế nào để những tổn thương đó không xảy ra với các em mới thực sự là điều tốt nhất. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, các Toà án quân sự đã xét xử một số vụ án xâm hại tình dục trẻ em, điển hình là những vụ án hiếp dâm trẻ em. Đây đều là những vụ án có tính chất phức tạp, hành vi của các bị cáo đều vô nhân tính, sẵn sàng chà đạp lên tâm hồn và thể xác của trẻ em, chỉ để thoả mãn dục vọng của bản thân. Hơn nữa, đa phần các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của các Toà án quân sự đều có bị cáo là quân nhân, là đối tượng thuộc quản lý của Bộ Quốc phòng. Vì vậy, những vụ án này đều được dư luận xã hội quan tâm, nên trong công tác xét xử cần phải nghiên cứu thật kĩ lưỡng, cẩn trọng và tỉ mỉ, để bản án có hiệu lực phải là bản án công minh, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và giữ uy tín của Quân đội, không làm mất đi hình ảnh tốt đẹp của Người lính cụ Hồ trong
- 4 mắt nhân dân. Đồng thời cũng phải đề cao tính răn đe, giáo dục trong toàn quân, để loại tội phạm này hạn chế đến mức thấp nhất, góp phần giữ vững kỉ luật Quân đội. Xuất phát từ tình hình thực tế cũng như yêu cầu nghiên cứu nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, tác giả sẽ chọn đề tài “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Toà án quân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học, nhằm góp phần hạn chế thấp nhất án bị huỷ, sửa với lỗi chủ quan của người tiến hành tố tụng. Qua đó nâng cao chất lượng xét xử và áp dụng pháp luật hình sự vào hoạt động thực tiễn công tác tư pháp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Do đề tài " Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Toà án quân sự Việt Nam” có nội dung nghiên cứu hẹp, chỉ tập trung vào một tội danh cụ thể thuộc phạm vi xét xử của các Toà án quân sự, nên tôi không phát hiện có một nghiên cứu nào về đề tài này được thực hiện tại nước ngoài. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Đối với tội hiếp dâm trẻ em (hiếp dâm người dưới 16 tuổi) nói riêng và các tội xâm phạm tình dục nói chung, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: - Đề tài “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” – luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Trần Thuý Quỳnh Trang (năm 2014); - Đề tài “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” – luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Lê Văn Hùng (năm 2014); - Đề tài “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Trà Vinh” – luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Lâm Thị Bé Ba (năm 2015);
- 5 - Đề tài “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau” – luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Chung Văn Kết (năm 2015); - Đề tài “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” – luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Lê Thị Mỹ Ly (năm 2018); - Đề tài “Định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh An Giang” – luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Lại Văn Giang (năm 2019); - Đề tài “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” – tác giả Nguyễn Quốc Việt (năm 2019); - Đề tài “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” - luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Nguyễn Thị Quỳnh My (năm 2019); - Sách “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự” (Phần các tội phạm, xuất bản năm 2013) của GS.TS Võ Khánh Vinh - Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Giám đốc Học viện khoa học xã hội; - Sách "Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015" (Phần các tội phạm Chương XIV, xuất bản năm 2018) của Ths. Đinh Văn Quế - nguyên Thành viên Hội đồng Thẩm phán, Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao; - Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm của Đại học Luật Hà Nội năm 2008. Các tài liệu trên đã cung cấp một cách cơ bản những kiến thức pháp lý về cấu thành tội phạm, định tội danh, những trường hợp phạm tội cụ thể cũng như hình phạt đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực với rất nhiều sự thay đổi, đi theo đó là một loạt những văn bản hướng dẫn mới; nên yêu cầu có một đề tài nghiên cứu khoa học về tội danh này là cấp thiết.
- 6 Vì chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào về đề tài “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Toà án quân sự Việt Nam”; nên coi đây là đề tài mới, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện nội dung các quy định pháp luật về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Chỉ ra những hạn chế trong thực tiễn xét xử làm bài học để nâng cao lý luận, kinh nghiệm trong việc định tội danh. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, góp phần nâng cao chất lượng xét xử đáp ứng tốt yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài sẽ xem xét giải quyết những vấn đề sau: Thứ nhất, khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong lịch sử lập pháp Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, phân tích tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015 về dấu hiệu pháp lý và các đặc điểm cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Thứ hai, phân tích thực tiễn xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại các Toà án quân sự, trong một số bản án điển hình. Thứ ba, chỉ ra một số hạn chế vướng mắc phát sinh trong quá trình xét xử và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm giải quyết những vướng mắc trên. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề: quan điểm khoa học, các quy định về “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; thực tiễn định tội danh của các Toà án
- 7 quân sự, nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong việc vận dụng pháp luật; đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp áp dụng đúng pháp luật đối ở nước ta hiện nay. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, đề tài nghiên cứu những vụ án xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thuộc thẩm quyền của các Toà án quân sự. Về thời gian, luận văn sử dụng số liệu thống kê trong 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về chính sách hình sự, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong xét xử các vụ án hình sự. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả có tham khảo những quan điểm, ý kiến đóng góp của thư kí, Thẩm phán thuộc các Toà án quân sự. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả kết hợp phương pháp tổng hợp, phân tích; phương pháp tìm hiểu, khảo sát thực tiễn thông qua số liệu thống kê; phương pháp tổng kết các kinh nghiệm, đọc các bản án và phương pháp trao đổi, thảo luận, tham khảo để nghiên cứu đề tài, viết luận văn. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 7.1. Ý nghĩa lý luận Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những thay đổi nhất định, thể hiện ở việc các điều luật nói chung và về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng. Luận văn
- 8 phần nào làm rõ hơn về những thay đổi đó, đồng thời góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu trong việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy chuyên ngành luật. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn dùng tham khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với những người tiến hành tố tụng, người bào chữa trong quá trình giải quyết các vụ án; góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hiếp dâm trong các Toà án quân sự. Luận văn cũng có thể sử dụng trong toàn quân với ý nghĩa là một chuyên đề giáo dục chính trị, bổ sung kiến thức pháp luật cho đội ngũ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp cũng như hạ sĩ quan chiến sĩ, góp phần nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật cũng như tính chấp hành kỉ luật trong nội bộ quân đội. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Chương 2: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong các Toà án quân sự Việt Nam. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
- 9 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI 1.1. Khái niệm, đặc điểm và những dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Về khái niệm người dưới 16 tuổi, Luật Trẻ em năm 2016 đã ghi nhận tại Điều 1 rằng “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Vậy người dưới 16 tuổi ở Việt Nam được coi là trẻ em, được pháp luật bảo đảm những quyền và nghĩa vụ theo Luật Trẻ em hiện hành. Về khái niệm giao cấu: “Giao cấu ... là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào”1. Mức độ xâm nhập trong hành vi giao cấu không có ý nghĩa về mặt định khung hình phạt, mà chỉ có ý nghĩa trong việc xác định hậu quả cũng như mức độ lỗi của người phạm tội, qua đó ảnh hưởng tới việc quyết định hình phạt cụ thể. Về hành vi hiếp dâm, Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội hiếp dâm như sau: Hiếp dâm là hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân”. Nạn nhân trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này được hiểu là người dưới 16 tuổi. Vậy, có thể định nghĩa về hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi như sau: “Tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện 1 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn xét xử xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi
- 10 một cách cố ý bằng cách thức dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ”. 1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi 1.1.2.1. Khách thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi Ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp, công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Tội hiếp dâm như trên đã phân tích thuộc nhóm “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”. Và quyền bất khả xâm phạm về tình dục là một quyền quan trọng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ cũng chính là khách thể của tội hiếp dâm. Đối với trường hợp nạn nhân là người dưới 16 tuổi, hành vi hiếp dâm không những xâm phạm đến thân thể, danh dự nhân phẩm của người bị hại, mà còn trực tiếp cũng như gián tiếp tác động đến sự phát triển, hoàn thiện cả về mặt thể chất lẫn tinh thần của nạn nhân. Vì vậy, pháp luật hình sự Việt Nam đã coi độ tuổi là một yếu tố tối quan trọng trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Nhóm người dưới 16 tuổi là nhóm người yếu thế, được pháp luật bảo vệ một cách đặc biệt, vậy nên hành vi phạm tội đối với nhóm người này, thường được nhìn nhận một cách thận trọng và xử lý mang tính nghiêm khắc, răn đe cao hơn. Vì lẽ đó, hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi đã được các nhà làm luật ghi nhận tại một điều khoản riêng, mà không coi là tình tiết tăng nặng của tội hiếp dâm. Điều này cũng thể hiện sự quan tâm, chăm sóc và bảo vệ của Đảng và Nhà nước ta đối với trẻ em.
- 11 Trước đây, cách tính tuổi cho bị can, bị cáo được ghi nhận tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo trong trường hợp không xác định được ngày tháng năm sinh chính xác. Tuy nhiên vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cách xác định tuổi cho người bị hại trong trường hợp không nhớ ngày tháng năm sinh. Theo nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng như các văn bản có liên quan đến việc xác định tuổi của bị cáo bao giờ cũng theo hướng có lợi cho bị cáo. Điều này là hợp lý, bởi nếu ta xác định theo hướng bất lợi cho bị cáo thì quyền lợi của người bị hại vẫn không đổi. Hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định tại Điều 417 về cách xác định độ tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi, cụ thể như sau: Cơ quan tiến hành tố tụng cần phải áp dụng mọi biện pháp để xác định chính xác ngày tháng năm sinh của họ thông qua những giấy tờ chứng cứ hợp pháp (giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, ...) được thu thập theo trình tự thủ tục của pháp luật. Trong trường hợp không thể thu thập được thì xác định theo nguyên tắc sau: “a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. b) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. c) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.”
- 12 Nếu không xác định được năm sinh thì phải giám định tuổi. Như vậy, Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung so với Thông tư 01 về cách xác định độ tuổi của bị can, bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi. Việc xác định tuổi của bị hại theo hướng bất lợi cho bị can, bị cáo. Với quy định như vậy, nhiều ý kiến cho rằng hướng dẫn tại Thông tư 01 là hợp lý hơn vì đảm bảo nguyên tắc áp dụng quy định pháp luật có lợi cho người phạm tội. Tuy nhiên Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã có hiệu lực và những quy định tại Thông tư 01 sẽ không được áp dụng nữa. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi Mặt khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi gồm những hành vi sau: - Dùng vũ lực: Là dùng sức mạnh về thể chất để họ không thể kháng cự được như vật ngã, đè, giữ tay, chân, bịt miệng, bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo, ... của nạn nhân để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân. Ở tội phạm này, hành vi dùng vũ lực nhằm ép buộc người bị hại giao cấu, quan hệ tình dục khác, vậy nên giới hạn của hành vi chính là làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp người phạm tội đã dùng vũ lực mạnh tới mức làm cho bị hại chấn thương nghiêm trọng nhưng chưa chết, và sau khi người phạm tội đã thoả mãn dục vọng, bị hại mới chết. Vậy trong trường hợp này hành vi dùng vũ lực đã cấu thành một tội phạm khác, vì vậy người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi và một tội phạm khác do hành vi dùng vũ lực dẫn đến hậu quả chết người gây ra. - Đe doạ dùng vũ lực: Là dùng lời nói, cử chỉ, động tác nhưng chưa tác động vào người nạn nhân, nhưng làm cho nạn nhân hiểu rằng nếu kẻ tấn công không
- 13 giao cấu được thì sẽ sử dụng vũ lực ngay tức khắc2. Ví dụ như dọa giết, đe dọa gây thương tích, ... với đối tượng là người dưới 16 tuổi, do đặc điểm về tâm lý còn chưa phát triển hoàn chỉnh, dễ tổn thương, nhút nhát hơn so với người trưởng thành nên hành vi đe doạ dùng vũ lực phần nhiều đều có hiệu quả cao. - Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được: tình tiết này đã được ghi nhận rõ ràng tại khoản 7 Điều 2 Nghị quyết Số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao. Theo đó, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là lợi dụng người bị hại không thể chống cự được (người bị hại là người khuyết tật, bị ngất, bị trói...) để hiếp dâm; hoặc người bị hại là người bị mất, hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi). - Dùng thủ đoạn khác: Là những trường hợp người phạm tội đe dọa, khủng bố tinh thần, làm cho nạn nhân khiếp sợ, dùng thuốc mê, thuốc kích dục, say rượu hay các chất kích thích khác làm cho nạn nhân hạn chế hoặc mất khả năng chống cự; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Đối với trường hợp nạn nhân là người dưới 16 tuổi, việc người phạm tội sử dụng những thủ đoạn này đạt hiệu quả rất cao, vì bản thân người dưới 16 tuổi chưa phát triển một cách hoàn thiện về tâm – sinh lý, cũng như chưa có được hiểu biết đầy đủ về xã hội, nên dễ bị các đối tượng xấu rủ rê lôi kéo sử dụng chất kích thích, kích dục để thực hiện hành vi quan hệ tình dục. 2 Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, Phần thứ hai, Các tội phạm Chương XIV, Đinh Văn Quế
- 14 - Giao cấu được định nghĩa là “hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào”. Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập. Việc định nghĩa ngắn gọn, rõ ràng về hành vi giao cấu chính là điểm mới, thể hiện sự tiến bộ của Nghị quyết 06. Trước đây chưa có văn bản cụ thể nào định nghĩa về hành vi giao cấu là gì. Chỉ có bản Tổng kết năm 1967 của Toà án Nhân dân Tối cao có nhắc đến hành vi giao cấu là hành vi “chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”. Bản thân định nghĩa này cũng đã tồn tại kẽ hở. Đó là tình tiết “cọ sát trực tiếp”, nếu người phạm tội sử dụng bao cao su khi thực hiện hành vi phạm tội, thì theo hướng dẫn tại Bản Tổng kết này sẽ không được coi là hành vi giao cấu vì không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa dương vật và bộ phận sinh dục của người phụ nữ (tiếp xúc qua lớp bao cao su nên không thể coi là trực tiếp được). Việc định nghĩa rõ hành vi giao cấu, phân biệt cụ thể với hành vi dâm ô và hành vi quan hệ tình dục khác đã thể hiện sự tiến bộ, là hướng dẫn rất cụ thể, đã tháo gỡ những vướng mắc trong vấn đề xác định hành vi khách quan đối với từng tội phạm cụ thể. Việc xác định mức độ xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ không có ý nghĩa trong việc định tội danh, mà chỉ có ý nghĩa trong vấn đề xác định mức độ lỗi và quyết định hình phạt. Riêng đối với nạn nhân là người dưới 10 tuổi thì không cần xác định mức độ xâm nhập. Theo quan điểm của tôi, quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý. Vì đối với nạn nhân là người dưới 10 tuổi, lúc này cơ quan sinh dục của các em chưa phát triển hoàn thiện, nên hành vi đưa cơ quan sinh dục nam xâm
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 73 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 123 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn