Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
lượt xem 5
download
Mục đích của đề tài này là nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn thông qua các quy định pháp luật và thực tiễn của Việt Nam về bảo hộ sáng chế có liên quan đến cân bằng lợi ích, đặt trong mối tương quan với pháp luật và thực tiễn trên thế giới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN BẢY CÂN BẰNG LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN BẢY CÂN BẰNG LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh Hà nội - 2009
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU 5 CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ VÀ CÂN BẰNG LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ 1.1. Khái quát về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng 5 chế 1.2. Vai trò của hệ thống bảo hộ sáng chế 8 1.2.1. Thúc đẩy đổi mới 8 1.2.2. Thúc đẩy công bố các công nghệ mới 9 1.2.3. Hạn chế việc bảo hộ các giải pháp kỹ thuật dưới dạng bí mật 9 1.2.4. Thúc đẩy cạnh tranh 10 1.2.5. Khuyến khích đầu tư của tư nhân vào hoạt động nghiên cứu và phát 10 triển 1.2.6. Công nhận quyền tư hữu tài sản trí tuệ 11 1.3. Những tác động tiêu cực có thể nảy sinh từ hệ thống bảo hộ 11 sáng chế 1.3.1. Bảo hộ sáng chế có thể làm tăng chi phí tiếp cận công nghệ 11 đối với các nước đang phát triển 1.3.2. Bảo hộ sáng chế có thể làm ảnh hưởng tiêu cực tới nghiên cứu khoa 12 học cơ bản 1.3.3. Bảo hộ sáng chế có thể làm giảm cơ hội tiếp cận sản phẩm được bảo 12 1
- hộ sáng chế 1.4. Cân bằng lợi ích - yêu cầu then chốt trong bảo hộ quyền sở hữu công 13 nghiệp đối với sáng chế 1.5. Sự hình thành và phát triển cơ chế cân bằng lợi ích trong bảo hộ sáng 16 chế trên thế giới và ở Việt Nam 1.5.1. Trên thế giới 16 1.5.1.1. Trong quy định về đối tượng và điều kiện bảo hộ 19 1.5.1.2. Trong quy định về thời hạn bảo hộ sáng chế 23 1.5.1.3. Trong quy định về thủ tục xác lập quyền 26 1.5.1.4. Trong quy định về phạm vi quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu sáng 26 chế 1.5.1.5. Trong các quy định về bảo vệ quyền đối với sáng chế 39 1.5.2. Ở Việt Nam 40 1.5.2.1. Giai đoạn 1981 - 1988 40 1.5.2.2. Giai đoạn 1989 - 1994 41 1.5.2.3. Giai đoạn 1995 đến nay 42 Chương 2: CÂN BẰNG LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ 43 HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ TRONG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM 2.1. Cân bằng lợi ích trong các quy định về đối tượng không được bảo hộ 43 là sáng chế 2.1.1. Phát minh, các lý thuyết khoa học và phương pháp toán học 44 2.1.2. Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán bệnh và chữa bệnh cho người 44 và động vật 2.1.3. Các giải pháp kỹ thuật trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có 45 hại cho quốc phòng, an ninh 2.1.4. Các giải pháp kỹ thuật dưới dạng "sử dụng" 45 2
- 2.2. Cân bằng lợi ích trong quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế 47 2.2.1. Tính mới của sáng chế 47 2.2.2. Trình độ sáng tạo của sáng chế 49 2.3. Cân bằng lợi ích trong các quy định về thời hạn bảo hộ và hủy bỏ 49 hiệu lực của bằng độc quyền 2.3.1. Thời hạn bảo hộ sáng chế 49 2.3.2. Hủy bỏ hiệu lực bằng độc quyền 51 2.4. Cân bằng lợi ích trong các quy định về xác lập quyền sở hữu công 51 nghiệp đối với sáng chế 2.4.1. Trong các quy định về quyền nộp đơn đăng ký sáng chế 51 2.4.2. Trong quy định về bộc lộ sáng chế trong đơn đăng ký sáng chế 52 2.4.3. Trong quy định về công bố đơn và yêu cầu thẩm định nội dung đơn 54 đăng ký sáng chế 2.5. Cân bằng lợi ích trong các quy định về nội dung quyền sở hữu công 57 nghiệp đối với sáng chế 2.5.1. Trong các quy định về nội dung quyền của chủ sở hữu sáng chế 57 2.5.1.1. Quyền sử dụng và cho phép người khác sử dụng sáng chế 58 2.5.1.2. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế 61 2.5.1.3. Quyền tạm thời của chủ sở hữu sáng chế 70 2.5.2. Trong các quy định về nghĩa vụ của chủ sở hữu sáng chế 70 2.6. Cân bằng lợi ích trong các quy định về bảo vệ quyền sở hữu công 71 nghiệp đối với sáng chế Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÂN BẰNG 73 LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 3
- 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về cân bằng lợi ích trong bảo hộ 73 quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 3.1.1. Trong việc xác định các đối tượng không được bảo hộ là sáng chế 73 3.1.2. Trong việc xác định người có quyền nộp đơn đăng ký sáng chế 75 3.1.3. Trong việc bộc lộ sáng chế trong đơn đăng ký sáng chế 76 3.1.4. Trong việc thực hiện quyền có ý kiến của người thứ ba 77 3.1.5. Trong việc công bố đơn đăng ký sáng chế 77 3.1.6. Trong việc thẩm định đơn đăng ký sáng chế 78 3.1.7. Trong việc khai thác các hạn chế quyền của chủ sở hữu đối với sáng 79 chế 3.1.8. Trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế 80 3.2. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của cơ 82 chế cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở Việt Nam 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật 82 3.2.2. Nâng cao hiệu quả của cơ chế cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở 84 hữu công nghiệp đối với sáng chế KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói riêng (sau đây gọi tắt là bảo hộ sáng chế) có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triền kinh tế - xã hội. Bảo hộ sáng chế tạo động lực cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Chế độ bảo hộ sáng chế khuyến khích hoạt động sáng tạo bằng cách dành cho chủ sở hữu độc quyền trong một thời hạn nhất định để khai thác sáng chế và đổi lại chủ sở hữu sáng chế phải bộc lộ sáng chế của mình khi nộp đơn đăng ký. Với độc quyền có điều kiện này, chủ sở hữu sáng chế có cơ hội khai thác sáng chế để thu hồi vốn đầu tư, thu lợi nhuận một cách hợp lý và tái đầu tư cho việc tạo ra các thành quả sáng tạo mới. Tuy nhiên, độc quyền dù dưới bất hình thức nào, có điều kiện hay không có điều kiện, nếu bị lạm dụng có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên thứ ba. Mục đích của Luật Sở hữu trí tuệ nói chung và luật bảo hộ sáng chế nói riêng là tạo động lực cho hoạt động sáng tạo và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, nhưng để bảo đảm được mục đích này thì việc xây dựng và thực hiện các quy định theo đó cân bằng được lợi ích giữa chủ sở hữu và lợi ích của các bên thứ ba có ý nghĩa quan trọng. Nhận thức được ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề bảo đảm lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong quá trình bảo hộ sáng chế, tác giả chọn đề tài "Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu khác nhau liên quan đến vấn đề cân bằng lợi ích trong việc bảo hộ sáng chế. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hóa có sự tác động mạnh mẽ đến lợi ích của người dân ở các nước 5
- đang phát triển và chậm phát triển, vấn đề bảo đảm quyền tiếp cận của người dân đến các thành quả khoa học, công nghệ cũng như khả năng phát triển nền công nghệ ở các nước đang phát triển đã làm nảy sinh những tranh cãi kịch liệt về phạm vi bảo hộ sáng chế, về sự cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu sáng chế với lợi ích của xã hội. Có thể kể đến nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới như: "The international intellectual property system: Commentarry and Materials" - Hệ thống sở hữu trí tuệ thế giới: Bình luận và Tài liệu (của Frederick Abbort, Thomas Cottier và Francis Gurry, Nxb Kluwer Law International, Hà Lan, 1999), "Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế" (Kamil Idris, WIPO, 2001), "Manual on Good Practices in Puclic-Health-Sensitive Policy Measures and Patent Law" (Third World Network, 2003), "The Political Economy of Intellectual Property Law" (William M. Landes và Richard A. Posner, The AEI Press, Wahsington DC, 2004), "Patent Law - Balancing Profit Maximization and Public Access to Technology" (Andrew Backerman - Rodau, Suffolk University Law School, U.S.A, 2002), "Keeping science open - the effects of intellectual property policy on the conduct of science" (Royal Society, London, UK, 2003) v.v... Trong các công trình nghiên cứu ở trên, các tác giả đã nghiên cứu tương đối rộng về vấn đề cân bằng lợi ích ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm mối quan hệ giữa chủ sở hữu sáng chế với công chúng nói chung, mối quan hệ giữa chủ sở hữu sáng chế với các chủ thể sáng tạo khác và mối quan hệ về lợi ích giữa các nước phát triển và đang phát triển trong quá trình bảo hộ sáng chế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế mạnh mẽ trong những thập niên gần đây. Tuy vậy, trong các nghiên cứu của các tác giả là người nước ngoài, chưa có bất kỳ sự đề cập nào đến hệ thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến vấn đề cân bằng lợi ích trong quá trình bảo hộ sáng chế. Ở Việt Nam, có thể nói đến thời điểm này chưa có nghiên cứu nào tập trung đề cập sâu tới vấn đề cân bằng lợi ích trong việc bảo hộ sáng chế. Có chăng chỉ tồn tại một số bài báo, bài trình bày tại các hội thảo về vấn đề bảo 6
- hộ sở hữu trí tuệ hoặc bảo hộ sáng chế nhưng cũng không đề cập toàn diện và trực tiếp đến vấn đề này. Có thể nói, chưa có đề tài độc lập nào nghiên cứu về vấn đề cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của đề tài này là nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn thông qua các quy định pháp luật và thực tiễn của Việt Nam về bảo hộ sáng chế có liên quan đến cân bằng lợi ích, đặt trong mối tương quan với pháp luật và thực tiễn trên thế giới. Từ đó, đề tài dự kiến đề xuất những sửa đổi pháp luật cũng như những hoạt động thực tế cần phải tiến hành để vừa bảo đảm thoả đáng lợi ích của chủ sở hữu sáng chế đồng thời bảo vệ được lợi ích chính đáng của các bên thứ ba, đặc biệt liên quan đến vấn đề bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và khả năng phát triển của nền khoa học, công nghệ trong nước. Với mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Khái quát hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế và cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trên thế giới; - Phân tích các khía cạnh cân bằng lợi ích liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trong hệ thống pháp luật của Việt Nam; - Phân tích thực tiễn áp dụng cơ chế và các quy định pháp luật mang tính cân bằng lợi ích trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở Việt Nam, từ đó đề xuất hoàn thiện pháp luật. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với 7
- sáng chế trên cơ sở các quy định pháp luật quốc tế (chủ yếu là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - Hiệp định TRIPS, một Hiệp định quy định các chuẩn mực tối thiểu về bảo hộ sở hữu trí tuệ mà hiện nay trên 150 thành viên phải tuân thủ), luật pháp quốc gia của một số nước và của Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập thông tin, thống kê, phân tích, so sánh v.v... cũng được sử dụng nhằm tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận cho việc cân bằng lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong xã hội. Từ đó, kết quả nghiên cứu này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế và thực tiễn áp dụng hệ thống này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế và cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế Chương 2: Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trong trong các quy định pháp luật của Việt Nam Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định về cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 8
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ VÀ CÂN BẰNG LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ Sáng chế, một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, là một khái niệm đã tồn tại từ lâu. Năm 1474, nước Cộng hòa Venice đã ban hành văn bản thường được coi như đạo luật đầu tiên đối với việc bảo hộ sáng chế trên thế giới. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới quy định một loại độc quyền của một cá nhân mà độc quyền này lại hạn chế lợi ích của công chúng. Vào thế kỷ 16, dưới triều đại Tudor, nước Anh đã có hệ thống bằng độc quyền sáng chế, theo đó Đạo luật về đặc quyền năm 1642 là luật thành văn đầu tiên quy định việc cấp đặc quyền đối với sáng chế trong một thời hạn nhất định. Nửa sau thế kỷ 18 là thời hoàng kim của thương mại và công nghiệp tại nhiều quốc gia trên thế giới và cũng là thời kỳ của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, đổi mới khoa học và cách mạng chính trị. Trong thời kỳ này, một số quốc gia đã thiết lập hệ thống bằng độc quyền sáng chế đầu tiên của họ. Ví dụ, luật về bằng độc quyền sáng chế đầu tiên của Pháp quy định về bảo hộ quyền của nhà sáng chế đã được ban hành năm 1791. Ở Hoa Kỳ, Hiến pháp năm 1787 đã có quy định về bằng độc quyền sáng chế. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, pháp luật về bảo hộ sáng chế trên thế giới đã có những thay đổi nhất định. Tuy nhiên, những nguyên tắc cơ bản nhất của hệ thống bảo hộ sáng chế dường như vẫn ổn định từ khi hệ thống này được thiết lập. Theo đó, độc quyền sáng chế là độc quyền được cấp cho nhà sáng chế đối với một sản phẩm hoặc quy trình nhất định. Bằng độc quyền sáng chế dành cho nhà sáng chế sự bảo hộ trong một thời hạn nhất định. Theo 9
- chuẩn mực hiện hành trên thế giới thì thời hạn này là 20 năm tính từ ngày nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế. Đổi lại, nhà sáng chế phải bộc lộ đầy đủ sáng chế đó. Chủ sở hữu sáng chế có quyền quyết định ai sẽ là người được hoặc không được sử dụng sáng chế đã được cấp bằng của mình. Chủ sở hữu sáng chế cũng có thể chuyển nhượng quyền sở hữu đối với sáng chế của mình cho người khác. Khi kết thúc thời hạn bảo hộ đối với một sáng chế cụ thể nào đó, bất kỳ người nào cũng có thể sử dụng sáng chế đó. Nguồn gốc lịch sử của luật sáng chế gợi ra một số thuyết giải thích cho việc bảo hộ sáng chế [5]. Những thuyết đó bao gồm: - Thuyết phần thưởng, theo đó, các nhà sáng chế cần được thưởng cho việc tạo ra các sáng chế hữu ích và Nhà nước phải có hệ thống luật pháp để bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của phần thưởng này; - Thuyết khuyến khích, theo đó, một cơ chế trong đó nhà sáng chế được khen thưởng sẽ tạo ra sự khích lệ cho việc tạo ra các sáng chế mới và nghiên cứu và phát triển; - Thuyết hợp đồng hoặc bộc lộ, theo đó, đổi lại việc được bảo hộ, các nhà sáng chế sẽ được khuyến khích bộc lộ sáng chế của họ để các sáng chế đó sẽ được sung công sau thời gian được bảo hộ độc quyền; - Thuyết luật tự nhiên, theo đó, các cá nhân có quyền sở hữu đối với ý tưởng (đã trở thành giải pháp) của họ. Gần đây, do ảnh hưởng của các cuộc đàm phán vượt ra ngoài khuôn khổ của hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của Tổ chức Thương mại Thế giới, thuyết báo hiệu đã được đưa ra, theo đó, chế độ bảo hộ sáng chế báo hiệu một môi trường đầu tư có thể chấp nhận được, đặc biệt là đối với đầu tư nước ngoài. Pháp luật quốc tế và quốc gia về sáng chế đều quy định để được cấp bằng độc quyền sáng chế, đơn yêu cầu cấp bằng phải được nộp cho cơ quan 10
- sở hữu trí tuệ quốc gia hoặc khu vực. Hầu hết các nước quy định nguyên tắc nộp đơn đầu tiên được áp dụng, theo đó đối với cùng một sáng chế, người nào nộp đơn đầu tiên sẽ được cấp bằng độc quyền nếu đối tượng liên quan đáp ứng điều kiện bảo hộ và đáp ứng các thủ tục liên quan. Một số ít nước áp dụng nguyên tắc "sáng chế đầu tiên" như một ngoại lệ, chủ yếu để giải quyết tranh chấp, trong khi đó vẫn áp dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên là cơ bản (ví dụ Hoa Kỳ). Để cấp bằng độc quyền, cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia hoặc khu vực sẽ thẩm định nội dung đơn để khẳng định sáng chế đáp ứng điều kiện bảo hộ. Hầu hết luật của các nước quy định để được cấp bằng độc quyền, sáng chế phải có tính mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo theo nghĩa sáng chế đó không hiển nhiên đối với người có kỹ năng trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng và sáng chế đó phải có khả năng áp dụng công nghiệp. Một điều kiện quan trọng khác là sáng chế đó không thuộc phạm vi các đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa là sáng chế. Theo tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong Hiệp định TRIPS và các thành viên (trên 150 nước) đều phải tuân thủ, thời hạn của bằng độc quyền sáng chế tối thiểu là 20 năm tính từ ngày nộp đơn. Pháp luật của các nước cũng đều quy định nghĩa vụ nộp phí duy trì hiệu lực hàng năm đối với bằng độc quyền sáng chế. Trong thời gian sáng chế được bảo hộ, chủ sở hữu sáng chế có quyền ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế của mình cũng như có quyền cho phép người khác sử dụng sáng chế theo hợp đồng, chuyển nhượng quyền sở hữu và yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế của mình. Để cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu sáng chế và lợi ích chung của xã hội cũng như các chủ thể cùng tham gia vào hoạt động sáng tạo, đổi mới, pháp luật sáng chế của các nước đều quy định những ngoại lệ (hoặc gọi là hạn chế) đối với quyền của chủ sở hữu sáng chế. Theo đó, chủ sở hữu sáng chế không 11
- có quyền ngăn cấm người thứ ba thực hiện một số hành vi như sử dụng sáng chế nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lưu thông sản phẩm được bảo hộ do chủ sở hữu sáng chế hoặc người được chủ sở hữu sáng chế cho phép đưa ra thị trường. Trong một số trường hợp nhất định, nhà nước có quyền nhân danh mình hoặc cho phép các bên thứ ba sử dụng sáng chế mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế nhằm giải quyết tình trạng khẩn cấp quốc gia, bảo vệ sức khoẻ nhân dân v.v... 1.2. VAI TRÕ CỦA HỆ THỐNG BẢO HỘ SÁNG CHẾ Cố Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã có một câu nói nổi tiếng "Hệ thống bằng độc quyền sáng chế đổ thêm dầu lợi ích vào ngọn lửa thiên tài". Câu nói này đã thể hiện được gần như toàn bộ ý nghĩa, vai trò của hệ thống bảo hộ sáng chế. "Dầu lợi ích" - động cơ lợi nhuận - là chất xúc tác cho sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế. Hệ thống bảo hộ sáng chế có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội như thúc đẩy đổi mới, thúc đẩy tạo ra các công nghệ mới, thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân vào hoạt động nghiên cứu triển khai v.v... 1.2.1. Thúc đẩy đổi mới Vai trò hiển nhiên nhất của hệ thống bảo hộ sáng chế là thúc đẩy đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra những sản phẩm mới. Doanh nghiệp sẽ không thành công nếu tập trung đầu tư cho phát triển công nghệ nhưng bất kể người nào cũng có thể tự do sử dụng công nghệ đó. Hệ thống bảo hộ sáng chế sẽ giảm bớt rủi ro đến từ những hành vi "ăn cắp" công nghệ đó và nhờ vậy khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đưa ra các quyết định đầu tư cho phát triển công nghệ mới. Hệ thống bảo hộ sáng chế cũng thúc đẩy nhiều người cùng tham gia vào quá trình sáng tạo vì hệ thống này tạo ra sân chơi bình đẳng cho các nhà sáng chế cá nhân và các doanh nghiệp lớn, kể cả các doanh nghiệp đa quốc 12
- gia. Nếu không có sự bảo hộ sáng chế thì thị trường sẽ được quyết định bởi vị thế thị trường của doanh nghiệp và các rào cản về kinh tế. Các công ty đa quốc gia sẽ có lợi trong những trường hợp này do họ có nguồn lực lớn và có thể đầu tư đáng kể để đánh bóng tên tuổi, quảng cáo sản phẩm. Ngoài ra, vị thế thị trường (độc quyền) của họ cũng sẽ tạo ra những rào cản chống lại các thương nhân đơn lẻ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.2.2. Thúc đẩy công bố các công nghệ mới Một lợi ích to lớn của hệ thống bảo hộ sáng chế đối với xã hội là việc bộc lộ các công nghệ mới cho công chúng. Theo quy định của các hệ thống pháp luật sáng chế của các nước trên thế giới, đơn sáng chế hoặc bằng độc quyền sáng chế và toàn bộ các tài liệu liên quan sẽ được công bố sau những thời hạn nhất định (trừ sáng chế mật). Do vậy, tất cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận các giải pháp công nghệ được đề cập trong các đơn hoặc bằng độc quyền sáng chế đó. Mặc dù trong thời hạn sáng chế được bảo hộ thì các bên thứ ba không được sử dụng sáng chế đó (nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế) thì việc có được thông tin về sáng chế đó cũng vô cùng hữu ích đối với những người khác, chẳng hạn đối với những nhà sáng chế trong cùng lĩnh vực (tránh nghiên cứu trùng lặp). Thông tin này sẽ là cơ sở cho các sáng tạo, cải tiến tiếp theo và những cải tiến như vậy có thể được cấp bằng độc quyền sáng chế và do vậy đây là một động lực to lớn để thúc đẩy đầu tư cho nghiên cứu và phát triển. 1.2.3. Hạn chế việc bảo hộ các giải pháp kỹ thuật dƣới dạng bí mật Nếu không có luật sáng chế thì xu hướng là các thành quả sáng tạo thường được giữ bí mật để tránh bị sao chép. Tuy nhiên, luật bảo hộ bí mật thương mại có những hạn chế nhất định, ví dụ không chống lại được các hành vi phân tích ngược để có được bí mật thương mại. Hơn nữa, bí mật thương mại cũng không được bảo hộ độc quyền vì nếu người thứ ba độc lập tạo ra thông tin giống như bí mật thương mại đang được bảo hộ và họ lại bộc lộ 13
- công khai thông tin đó thì vô hình chung bí mật thương mại này đã trở thành công khai. Do vậy, hệ thống sáng chế mang lại hình thức bảo hộ ưa thích hơn cho các nhà sáng chế. 1.2.4. Thúc đẩy cạnh tranh Thông tin sáng chế được bộc lộ tạo ra những bản đồ cho hoạt động sáng tạo xung quanh sáng chế được cấp bằng hoặc cho việc phát triển các công nghệ thay thế có hiệu quả như sáng chế được cấp bằng. Cuộc đua sáng chế sẽ tạo ra cho thị trường hàng loạt các sản phẩm thay thế để xã hội có thể lựa chọn. Cuộc đua này cũng sẽ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng nhờ sức ép giảm giá và giảm thiểu vị thế thị trường (độc quyền) của bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào. Ngoài ra, hệ thống sáng chế còn là động lực thúc đẩy các chủ sở hữu sáng chế tiếp tục hoàn thiện và cải tiến các sản phẩm của họ và nhờ đó sản phẩm của họ luôn có được tính cạnh tranh trên thị trường. Tóm lại, hệ thống bảo hộ sáng chế mang lại lợi ích cho xã hội ở cả việc thúc đẩy giảm giá và thúc đẩy liên tục tạo ra các công nghệ và sản phẩm mới. 1.2.5. Khuyến khích đầu tƣ của tƣ nhân vào hoạt động nghiên cứu và phát triển Khả năng có được phần thưởng là độc quyền được cấp cho các sáng tạo mới có ý nghĩa như một cục nam châm để thu hút đầu tư vốn từ khu vực tư nhân. Các nhà đầu tư luôn tìm kiếm sự đầu tư vào các doanh nghiệp có khả năng mang lại lợi nhuận trên khoản đầu tư đó. Tiềm năng kinh tế mang lại từ độc quyền sáng chế khuyến khích việc đầu tư vốn cho cả lĩnh vực nghiên cứu triển khai và sản xuất và thương mại các công nghệ mới. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì các nhà sáng chế cá nhân thường không có đủ các nguồn lực để đưa các công nghệ có tiềm năng của họ ra thị trường. Do đó, mối liên kết điển hình của các nhà sáng tạo với các nhà cung cấp vốn có thể tạo điều kiện để biến các công nghệ từ phòng thí nghiệm trở thành những sản phẩm có thể bán trên thị trường. 14
- Một nguồn đầu tư lớn khác cho hoạt động nghiên cứu triển khai là từ chính phủ. Tuy nhiên, đầu tư từ khu vực tư nhân thường có hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư của chính phủ do các quyết định đầu tư của tư nhân thường có định hướng thị trường và do đó các quyết định này thường được đưa ra một cách nhanh chóng. Do vậy, có thể nói hệ thống sáng chế là một chất xúc tác vô cùng quan trọng để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào việc tạo ra ngày càng nhiều công nghệ mới và sản phẩm mới. 1.2.6. Công nhận quyền tƣ hữu tài sản trí tuệ Luật sáng chế công nhận và coi quyền sở hữu trí tuệ là quyền tài sản (tài sản vô hình). Điều này cho phép coi quyền đối với sáng chế là một tài sản có giá trị giống như bất kỳ loại tài sản nào khác và do đó nó cũng có thể được chuyển giao, để thừa kế v.v... Điều này cũng đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh tế hiện nay khi tài sản trí tuệ được sử dụng làm đối tượng cho một quan hệ bảo đảm về tài chính (thế chấp, cầm cố). 1.3. NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CÓ THỂ NẢY SINH TỪ HỆ THỐNG BẢO HỘ SÁNG CHẾ Mặc dù hệ thống bảo hộ sáng chế có rất nhiều lợi ích như nêu ở trên nhưng hệ thống này cũng có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi, đặc biệt là khi hệ thống đó không được xây dựng và kiểm soát một cách có hiệu quả để cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan. 1.3.1. Bảo hộ sáng chế có thể làm tăng chi phí tiếp cận công nghệ đối với các nƣớc đang phát triển Các nước đang phát triển thường phát triển nền công nghệ của mình dựa vào việc nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển. Hệ thống bảo hộ sáng chế mạnh có thể tác động tiêu cực tới mục tiêu phát triển thị trường công nghệ của các nước đang phát triển. Việc cấp độc quyền sáng chế sẽ cho phép các chủ sở hữu sáng chế thu được những nguồn lợi lớn từ việc cho phép 15
- người khác sử dụng công nghệ của họ. Điều này dẫn tới các doanh nghiệp của các nước đang phát triển phải mua công nghệ với giá cao, làm tăng giá thành sản phẩm và do đó sức cạnh tranh đương nhiên bị giảm sút. 1.3.2. Bảo hộ sáng chế có thể làm ảnh hƣởng tiêu cực tới nghiên cứu khoa học cơ bản Theo pháp luật về sáng chế ở hầu hết các nước trên thế giới, việc bộc lộ sớm một sáng chế có thể ảnh hưởng đến khả năng được bảo hộ của sáng chế đó (bị mất tính mới và không còn khả năng được cấp bằng độc quyền). Quy định này sẽ khuyến khích việc giữ bí mật thông tin (cho đến khi nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền và có thể là lâu hơn) và do đó sự phát triển trong một số lĩnh vực khoa học có thể bị ảnh hưởng bất lợi do việc chia sẻ thông tin và kiến thức có ý nghĩa quan trọng trong một số lĩnh vực khoa học công nghệ liên quan đến con người (như dược phẩm, y tế, nông nghiệp v.v...). Ngoài ra, tồn tại mâu thuẫn nhất định giữa nhu cầu công bố càng sớm càng tốt trong hoạt động nghiên cứu cơ bản trong khi đó việc công bố trong hoạt động bảo hộ sáng chế lại phải tuân thủ những quy định ngặt nghèo để tránh làm cho sáng chế mất tính mới. 1.3.3. Bảo hộ sáng chế có thể làm giảm cơ hội tiếp cận sản phẩm đƣợc bảo hộ sáng chế Bảo hộ sáng chế nhằm mang lại cơ hội thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cho chủ sở hữu sáng chế. Với độc quyền được cấp, chủ sở hữu sáng chế có thể nâng giá bán sản phẩm nhờ vị thế thị trường độc quyền (hợp pháp) của mình và do đó người tiêu dùng có thể bị hạn chế cơ hội tiếp cận sản phẩm đó. Đặc biệt, trong những trường hợp sáng chế là thuốc chữa bệnh, điều này có thể ảnh hưởng tới cả vấn đề chăm sóc sức khoẻ cộng đồng của cả một quốc gia. Do vậy, hệ thống pháp luật cần có những sự điều chỉnh để hạn chế những tiêu cực nêu trên có thể nảy sinh. 16
- 1.4. CÂN BẰNG LỢI ÍCH - YÊU CẦU THEN CHỐT TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ Bản chất công - tư và việc cân bằng lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội là mối quan tâm thường trực của nhiều xã hội. Từ hơn hai nghìn năm trước ở phương Tây, các học giả, các triết gia và các chính trị gia đã tranh cãi kịch liệt với nhau về vấn đề quyền cá nhân và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ những quyền này trong bối cảnh thúc đẩy lợi ích chung. Plato đã có lập luận chống lại tư hữu tài sản. Ông ta cho rằng điều đó sẽ làm hủy hoại nhân cách do con người bị tiêm nhiễm thói tham lam. Trong khi đó, Aristotle là người ủng hộ mạnh mẽ quyền tư hữu tài sản lại cho rằng điều này sẽ đề cao lòng tự trọng và khẳng định tư cách cá nhân của mỗi con người [9]. Hơn nữa, điều đó sẽ cho phép con người sử dụng các tài sản một cách có hiệu quả nhất. Khi nói đến vấn đề cân bằng lợi ích, chúng ta cần đề cập tới những khái niệm cơ bản là tài sản riêng và tài sản công. Tài sản riêng là những tài sản mà có sự cạnh tranh (đối đầu) đối với chúng và chủ sở hữu tài sản này có thể ngăn cấm người khác sử dụng. Tài sản riêng thường có thể được mua bán trên thị trường. Nếu có thể thỏa thuận được giá cả cho một tài sản (hàng hóa) cụ thể trên thị trường (ví dụ như một chiếc bánh) thì quyền sở hữu hàng hóa đó có thể được chuyển giao. Tiếp theo, nếu hàng hóa đó được sử dụng (ví dụ người mua đã ăn chiếc bánh) thì những người khác đương nhiên không được ăn miếng bánh đó nữa. Trong khi đó, tài sản công là những tài sản mà việc sử dụng chúng không chống lại việc sử dụng của những người khác và không ai có thể ngăn cấm những người khác sử dụng những tài sản này. Đèn tín hiệu giao thông, các biển hiệu đường phố, các hệ thống cống rãnh v.v... là những ví dụ cụ thể của tài sản chung. Ai là người cung cấp tài sản công không phải là yếu tố cần quan tâm khi xác định tài sản đó là tài sản công hay tài sản riêng. Ví dụ, nhà nước cung 17
- cấp tài sản công (ví dụ, đèn tín hiệu giao thông) và nhà nước cũng có thể cung cấp tài sản riêng (ví dụ, nhà cửa và dịch vụ y tế). Tương tự, khu vực tư nhân cũng có thể cung cấp tài sản công như các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc đèn tín hiệu giao thông. Ví dụ về đèn tín hiệu giao thông chứng minh cho chúng ta thấy cách mà một tài sản riêng (bóng đèn tiết kiệm điện được cấp bằng độc quyền sáng chế, điện năng được sản xuất, các cột điện được lắp đặt bởi các doanh nghiệp) trở thành tài sản công do chúng được tạo ra để cho tất cả mọi người đều có thể sử dụng. Đương nhiên, để tạo ra những tài sản công như vậy thì cần đến chi phí. Chi phí này có thể do xã hội nói chung chi trả (như trong trường hợp hệ thống đèn tín hiệu giao thông thì chi phí lấy từ nguồn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiền thuế do người dân đóng) nhưng việc sử dụng chúng lại thuộc về tất cả những người tham gia giao thông trên những con đường có hệ thống đèn tín hiệu giao thông đó. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để có được các tài sản riêng để từ đó có được các tài sản công. Câu trả lời ở một khía cạnh nào đó là phải tạo điều kiện khuyến khích phát triển tài sản riêng theo nghĩa có được tài sản riêng thì sẽ có được nguồn (chi phí, hay nói cách khác là nguồn ngân sách từ thu thuế) để phát triển nguồn tài sản công. Tuy nhiên, vậy thì cần phải phát triển tài sản riêng như thế nào và làm sao để sự phát triển, bảo vệ tài sản riêng không triệt tiêu được lợi ích chung? Câu trả lời một phần gắn với hệ thống bảo hộ sáng chế. Hệ thống bảo hộ sáng chế không chỉ phải giải quyết mối quan hệ lợi ích công - tư (xã hội và chủ sở hữu sáng chế) mà còn phải giải quyết cả mối quan hệ lợi ích tư - tư (chủ sở hữu sáng chế và những chủ thể hoạt động sáng tạo khác). Một trong những mục tiêu của hệ thống bảo hộ sáng chế là thúc đẩy lợi ích dài hạn của công chúng thông qua việc dành độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế trong một thời hạn nhất định. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ, sáng chế đó sẽ thuộc về công cộng và bất kỳ người nào cũng có thể sử dụng mà 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn