Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
lượt xem 4
download
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế độ đại diện giữa vợ và chồng; phân tích làm rõ những vấn đề lý luận của quan hệ đại diện giữa vợ và chồng; nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thực tiễn và phát hiện những vướng mắc, bất cập trong khi áp dụng pháp luật; từ những nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng ở nước ta để tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong vấn đề này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠNH ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠNH ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌc Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên HÀ NỘI - 2012 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ 7 VÀ CHỒNG 1.1. Khái niệm chung về đại diện và đại diện giữa vợ và chồng 7 1.1.1. Khái niệm chung về đại diện 7 1.1.2. Bản chất và các đặc điểm pháp lý về đại diện giữa vợ và chồng 12 1.1.2.1. Khái niệm chung về đại diện giữa vợ và chồng 12 1.1.2.2. Đặc điểm chung của đại diện giữa vợ và chồng trong tương 15 quan với đại diện 1.2. Sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quan hệ 26 đại diện giữa vợ và chồng. 1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 26 1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến nay 28 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUAN 32 HỆ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về đại diện theo pháp luật 32 giữa vợ và chồng và thực tiễn áp dụng 2.1.1. Đại diện giữa vợ chồng khi một bên vợ, chồng bị mất năng 32 lực hành vi dân sự 3
- 2.1.1.1. Điều kiện để xác định đại diện theo pháp luật giữa vợ và 32 chồng mà một bên mất năng lực hành vi dân sự 2.1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc chồng với tư cách là người 40 đại diện cho chồng hoặc vợ của mình bị mất năng lực hành vi dân sự 2.1.2. Đại diện giữa vợ chồng trong trường hợp vợ, chồng bị hạn 45 chế năng lực hành vi dân sự 2.1.2.1. Điều kiện để xác định đại diện theo pháp luật giữa vợ và 45 chồng mà một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự 2.1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc chồng trong trường hợp 51 chồng hoặc vợ của mình bị hạn chế năng lực hành vi dân sự 2.2. Thực trạng pháp luật hiện hành về đại diện theo ủy quyền 57 giữa vợ và chồng 2.2.1. Căn cứ pháp lý của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ 57 và chồng 2.2.1.1. Chủ thể đại diện trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng 57 2.2.1.2. Phạm vi đại diện trong đại diện theo ủy quyền giữa vợ 60 và chồng 2.2.1.3. Hình thức văn bản ủy quyền của đại diện giữa vợ và chồng 61 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng với tư cách là người đại 65 diện theo ủy quyền 2.2.2.1. Vợ, chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao 65 dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc chung tài sản để đầu tư kinh doanh 2.2.2.2. Vợ, chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao 74 dịch liên quan đến tài sản riêng của một bên vợ, chồng 4
- Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 78 PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG 3.1. Nhu cầu khách quan và phương hướng hoàn thiện pháp luật 78 về đại diện giữa vợ và chồng 3.1.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về đại 78 diện giữa vợ và chồng 3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ 86 và chồng 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện của pháp 91 luật về đại diện giữa vợ và chồng KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cũng như các nước khác, tại Việt Nam đại diện là một chế định pháp luật, được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm hỗ trợ việc thực hiện năng lực chủ thể trong các quan hệ pháp luật nói chung và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, của những người bị hạn chế, mất hoặc không có năng lực hành vi dân sự nói riêng. Đại diện không những bảo vệ cho cá nhân mà còn liên quan đến pháp nhân. Trên cơ sở quyền bình đẳng nam - nữ, quyền tự do của công dân, đảm bảo các quyền và lợi ích của những chủ thể pháp luật ngay cả khi họ không thể trực tiếp tham gia được các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động…và các quan hệ xã hội khác. Xuất phát từ nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong luật dân sự trong khuôn khổ pháp luật mà các cá nhân có thể tự do thỏa thuận giúp đỡ nhau và thỏa mãn lợi ích của nhau. Theo đó quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ, vợ chồng đều có quyền đại diện cho nhau và đại diện cho gia đình theo pháp luật và theo ủy quyền. Người vợ trong gia đình có quyền đại diện trong các quan hệ hôn nhân và gia đình không bị phân biệt với người chồng. Việc vợ, chồng đại diện cho nhau và cho gia đình trong các giao dịch dân sự ngày càng phổ biến, đa dạng trong các hoạt động kinh doanh, mua bán, trao đổi, cho vay, bảo lãnh…liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, hoặc có thể liên quan đến tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung của gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng thì việc đặt ra vấn đề đại diện là vô cùng cần thiết, như vậy tránh việc các giao lưu dân sự giữa vợ chồng với người thứ ba bị gián đoạn, hạn chế, tránh sự kìm hãm sự phát triển chung của xã hội. 6
- Xuất phát từ thực tiễn, các giao lưu dân sự và thương mại của vợ, chồng ngày càng đa dạng, việc vợ, chồng tự do tham gia kinh doanh ngày càng nhiều, đặc biệt việc vợ, chồng đưa tài sản chung vào giao lưu dân sự ngày càng sôi động và phức tạp. Vì vậy việc đại diện sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trong gia đình và ngoài xã hội nhất là việc đảm bảo được quyền, lợi ích của người thứ ba trong giao dịch dân sự. Việc nghiên cứu vấn đề đại diện giữa vợ và chồng là vô cùng cần thiết, vì hành vi đại diện của vợ, chồng cho nhau trong các quan hệ dân sự không những để thực hiện chức năng của gia đình mà còn là thực hiện các quyền năng dân sự do pháp luật quy định. Việc đại diện cho nhau giữa vợ và chồng liên quan mật thiết đến lợi ích của vợ chồng trong các giao dịch dân sự và liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều này được chứng minh trước thực tế hiện nay có ngày càng nhiều những tranh chấp liên quan đến một bên vợ hoặc chồng đại diện cho nhau thực hiện các giao dịch dân sự nhưng đã vượt quá phạm vi đại diện hoặc có hành vi lừa dối trong các văn bản ủy quyền giữa vợ và chồng… khiến cho các giao dịch không được thực hiện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích một bên vợ hoặc chồng, của vợ chồng và gia đình hoặc bên thứ ba. Trước bối cảnh hội nhập quốc tế về các vấn đề hôn nhân và gia đình, dân sự… có yếu tố nước ngoài, cùng với việc Nhà nước ta đang đặt ra chương trình sửa đổi các văn bản pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật liên quan khác, việc nghiên đề tài này để có những luận cứ khoa học sửa đổi pháp luật là cần thiết. Chính bởi vậy việc nghiên cứu đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật hiện hành là một việc làm có tính cấp thiết, đáp ứng được yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định đại diện giữa vợ và chồng là một vấn đề không cũ nhưng trên thực tế có rất ít công trình nghiên cứu thấu đáo và đầy đủ. Vấn đề này được 7
- nhắc đến như một nội dung nhỏ trong các bài báo, hay các công trình nghiên cứu khác về quan hệ của vợ chồng như: Nguyễn Ngọc Điện: Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình, tập II: "Các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng", Nhà xuất bản Trẻ, 2004, đã khái quát lên những vấn đề chung nhất về đại diện giữa vợ và chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Cũng về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng thì có những thắc mắc có liên quan có trong mục tư vấn pháp luật của các báo và tạp chí như Nguyễn Minh Hằng: "Đại diện theo ủy quyền từ pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5, 2005; hay trên các diễn đàn pháp luật: diendanphapluat.vn như "thay đổi cổ đông công ty giữa vợ và chồng"… nhằm để giải quyết các vấn đề trong thực tế xảy ra của các vụ việc hay giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản của vợ chồng, đến phạm vi đại diện giữa vợ và chồng, vượt quá phạm vi đại diện của vợ chồng… Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự của Viện Đại học Mở Hà Nội… còn mang tính giới thiệu và phân tích hạn chế. Tất cả các nội dung bàn về đại diện giữa vợ chồng đều chỉ là những giải thích trong các vụ việc cụ thể mà chưa có sự khái quát, hơn nữa nó được nằm rải rác ở nhiều báo, tạp chí khác nhau gây khó khăn cho việc thực hiện cũng như áp dụng pháp luật. Như vậy đề tài đại diện giữa vợ và chồng chưa được đề cập đến một cách toàn diện và đầy đủ trong một công trình chuyên khảo nào ở nước ta, hơn thế nữa trước thực tế các vụ việc cũng như tranh chấp liên quan đến đại diện giữa vợ và chồng ngày càng nhiều và phức tạp, cộng với khả năng đáp ứng giải quyết của các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình còn hạn chế, nhiều cách hiểu khác nhau trong một quy định pháp luật. Bởi vậy việc nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống và toàn diện là việc cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Bên cạnh đó việc nghiên cứu vấn đề đại diện của một số nước như Nhật Bản, Pháp, Đức thấy được vấn đề đại diện của các nước này thật sự cụ thể và rõ ràng, đặc biệt về đại diện của vợ chồng trong đời sống 8
- xã hội. Có được sự hoàn thiện này theo chúng tôi là do xuất phát từ chế định sở hữu trong pháp luật của các nước này đi từ sở hữu cá nhân một cách minh bạch, tôn trọng. Trong khi đó ở Việt Nam lại ngược lại đi từ chế độ sở hữu tập thể, nhà nước, toàn dân dẫn đến sự nhập nhằng, thiếu rõ ràng trong các chế độ sở hữu ở nước ta, đặc biệt sở hữu cá nhân cũng mới được công nhận tại Việt Nam. Chính vì vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề đại diện của vợ chồng ở Việt Nam liên quan đến tài sản chung, riêng của vợ chồng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của "Đại diện giữa vợ chồng theo pháp luật hiện hành" là: - Những vấn đề chung về đại diện trong các quy định của pháp luật dân sự. - Những vấn đề chung về đại diện giữa vợ chồng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. - Thực tiễn áp dụng pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong thực tế và những vấn đề đặt ra. Phạm vi nghiên cứu: Do đề tài là về đại diện giữa vợ chồng theo pháp luật hiện hành nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu đề cập đến những vấn đề đại diện của vợ và chồng trong các giao dịch dân sự ở Việt Nam hiện nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích + Nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế độ đại diện giữa vợ và chồng. Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận của quan hệ đại diện giữa vợ và chồng. + Nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thực tiễn và phát hiện những vướng mắc, bất cập trong khi áp dụng pháp luật. 9
- + Từ những nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng ở nước ta để tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong vấn đề này. - Nhiệm vụ + Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật hiện hành về đại diện giữa vợ và chồng. + Đánh giá thực trạng của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng. + Đề xuất giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ đại diện giữa vợ và chồng. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phương pháp cụ thể là: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp lịch sử, thống kê, lôgic… 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài - Về lý luận làm rõ và có hệ thống hơn cơ sở lý luận của chế định đại diện giữa vợ và chồng. - Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng, đề xuất những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam. - Là công trình khoa học có hệ thống, là tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học cho cán bộ thực hiện pháp luật. 10
- 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đại diện giữa vợ và chồng. Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về quan hệ đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng. 11
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN VÀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG 1.1.1. Khái niệm chung về đại diện Thông thường , khi tham gia giao dich ̣ dân sự hoă ̣c các giao dich ̣ khác , các chủ thể sẽ tự mình xác lập thực hiện giao dịch . Tuy nhiên , chủ thể của quan hê ̣ pháp luâ ̣t rấ t đa da ̣ng , mỗi loa ̣i chủ thể có những đă ̣c điể m khác nhau và bất cứ ch ủ thể nào của quan hệ pháp luật dân sự cũng đều có sự liên quan đến quan hệ đại diện . Với mỗi cá nhân , không phải lúc nào cá nhân cũng trực tiế p tham gia giao dich ̣ dân sự . Đối với người chưa thành niên , người bi ̣ha ̣n chế năng lực hành vi dân sự , người bi ̣mấ t năng lực hành vi dân sự… thì người đa ̣i diê ̣n theo pháp luâ ̣t của những người này là sự đảm bảo cầ n thiế t để cho viê ̣c xác lâ ̣p, thực hiê ̣n giao dich ̣ dân sự của người đươ ̣c đa ̣i diê ̣n phù hơ ̣p với quy đinh ̣ của pháp luật . Đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà quyền lợi có tính chất cộng đồng (hô ̣ gia điǹ h , tổ hơ ̣p tác , pháp nhân ) thì chế định đại diê ̣n là yế u tố không thể thiế u để các chủ thể này tham gia vào giao dich ̣ dân sự bởi suy cho cùng thì viê ̣c tham gia giao dich ̣ dân sự vẫn phải thông qua hành vi của con người với sự nhận thức , làm chủ được hành vi của họ . Vâ ̣y đa ̣i diê ̣n là gì ? Đại diện theo cách hiểu thông thường từ trước tới nay là một hành động, một việc làm của một người mà không nhân danh mình, không nhân danh chính người thực hiện công việc, hành động đó. Các hành vi của một cá nhân hay tổ chức không nhân danh mình đang diễn ra hàng ngày trong xã hội hiện đại như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Bởi vì, trên thực tế cũng như hoàn cảnh xã hội thì không phải lúc nào bản thân mỗi cá nhân cũng có khả 12
- năng và điều kiện để thực hiện một hay một số hành vi nhất định để thực hiện một công việc nào đó. Theo cuốn Từ điển tiếng Việt thì "Đại diện là sự thay mặt (cho cá nhân, tập thể) ví dụ: đại diện cho nhà trai phát biểu trước nhà gái trong lễ ăn hỏi, đại diện cho anh em bè bạn đến chúc mừng trong một dịp nào đó; hay còn có nghĩa là người, tổ chức thay mặt ví dụ như: cơ quan cử đại diện ở nước ngoài" [35, tr. 279]. Theo cuố n Từ điển Luật học , thì đại diện là "việc một người, một cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện" [36, tr. 225]. Ta thấy rằng, trong quan hệ pháp luật về đại diện thì chủ thể của quan hệ pháp luật này để thực hiện những quan hệ giao dịch nhất định là một người (người đại diện), một tập thể (ban đại diện) hoặc một cơ quan (cơ quan đại diện) được ủy quyền nhân danh chủ thể khác trong quan hệ giao dịch. Quyền đại diện có thể là quyền năng đương nhiên, phát sinh từ việc thực hiện chức năng trong hoàn cảnh hoạt động cụ thể (chẳng hạn nhân viên bán hàng là đại diện của cửa hàng, của công ty trong quan hệ với khách hàng). Quyền đại diện có thể được căn cứ theo luật hoặc các thể thức hành chính nhà nước (chẳng hạn những quy định về người giám hộ). Quyền đại diện cũng có thể căn cứ vào quyền năng được ủy quyền (chẳng hạn đại sứ thay mặt quốc gia trong quan hệ đối ngoại). Hoạt động của đại diện trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của chủ thể được đại diện. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện, người đại diện không được thực hiện các quan hệ thuộc phạm vi chức năng đại diện vì mục đích cá nhân hoặc vì các mục đích khác với quyền lợi của chủ thể được đại diện. Cụ thể hơn thì đại diện được quy định: "Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện" [22, Khoản 1, Điều 139]. 13
- Như vậy, trong các định nghĩa này đã nêu rõ được về mặt chủ thể của quan hệ pháp luật đại diện sẽ có người đại diện và người được đại diện cùng với bên thứ ba khi người đại diện thực hiện các hành vi trong giao dịch. Người đại diện có thể là cá nhân cũng có thể là tập thể được nhân danh các chủ thể trong giao dịch để thực hiện các hành vi nhất định theo quy định của pháp luật hay nói đúng hơn là trong nội dung được uỷ quyền. Và như vậy trong hoàn cảnh này đây là đại diện theo sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, được pháp luật cho phép. Các chủ thể có thể đương nhiên phát sinh quyền đại diện cũng có thể thỏa thuận và trong một số trường hợp thì quyền đại diện sẽ là bắt buộc theo quy định của pháp luật. Hoạt động đại diện làm chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể được đại diện trong giao dịch dân sự và chỉ trong phạm vi ủy quyền hoặc theo quy định của pháp luật với mục đích vì lợi ích của người được đại diện, phát sinh tư cách chủ thể của người đại diện trong giao dịch dân sự với một bên chủ thể còn lại của giao dịch. Người đại diện trong giao dịch dân sự còn có thể là người có thẩm quyền, là người mà pháp luật dân sự cho phép đối với chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự mà quyền lợi có tính chất cộng đồng như: pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các tổ chức này do tính chất của chủ thể đều hoạt động thông qua hành vi của người có thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó. Đại diện có ý nghĩa rất lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội và trong nhiều mối quan hệ, tuy nhiên, giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ đề cập tới đại diện trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình chứ không đề cập đến các lĩnh vực khác như đại diện trong hành chính, ngoại giao… Như vậy đại diện có thể được tiếp cận với các ý nghĩa sau: - Là một tiểu chế định pháp luật dân sự - hôn nhân và gia đình. Chế định pháp luật về đại diện ở đây có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là tổng thể các quy phạm pháp luật dân sự và hôn nhân và gia đình điều chỉnh nhóm quan hệ về đại diện giữa những chủ thế pháp luật nhất định, cụ thể. Các 14
- cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ đại diện bắt buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật về đại diện. Các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự về đại diện cũng như vợ và chồng đại diện cho nhau khi tham gia giao dịch dân sự, hôn nhân và gia đình. Các quy phạm pháp luật này nằm trong Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh quan hệ đại diện giữa vợ và chồng. - Đại diện còn được tiếp cận là một quan hệ pháp luật dân sự - hôn nhân và gia đình Qua việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự khẳng định đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự. Các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự trong trường hợp này bao gồm: Chủ thể của quan hệ pháp luật này gồm có người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba nhưng khi xác lập quan hệ đại diện này là vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người được tiếp nhận, thụ hưởng các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện theo đúng thẩm quyền đại diện. Khách thể của quan hệ đại diện là hành vi tức các quyền và nghĩa vụ mà các bên hướng tới đầu tiên và trực tiếp dưới dạng hành động hoặc không hành động. Có những hành vi được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể có những hành vi không thể hiện dưới dạng vật chất thì khi đó việc vật chất hóa là cần thiết. Suy cho cùng thì việc trực tiếp hay thực hiện đại diện đều nhằm hướng tới một lợi ích vật chất nhất định. Nội dung của quan hệ đại diện chính là các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia giao dịch, nhiều khi các quyền và nghĩa vụ này đan xen vào nhau và rất phức tạp. Tuy nhiên, trong từng quan hệ nhỏ thì phân tích quyền và nghĩa vụ rất rõ ràng, quyền của người này chỉ được đáp ứng khi bên kia thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó. 15
- Qua đây ta có thể nhận thấy cơ sở và mục đích của đại diện hướng tới trong các quan hệ giao dịch dân sự chính là các lợi ích nào đó. Đại diện cũng cần có những cơ sở nhất định để hình thành và phát triển dựa trên những nguyên tắc nhất định đó là: - Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng đảm bảo quyền dân sự, đảm bảo quyền tự do của công dân, đảm bảo các quyền và lợi ích của họ ngay cả khi họ không thể trực tiếp tham gia được các giao dịch dân sự, kinh tế và các quan hệ ngoài xã hội. Đại diện theo đó tồn tại và phát triển để đảm bảo quyền dân sự của chủ thế quan hệ pháp luật được thực hiện đầy đủ, không bị gián đoạn bởi các yếu tố khách quan, bất khả kháng. - Xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của pháp luật dân sự. Trong khuôn khổ pháp luật các cá nhân có thể tự do thỏa thuận giúp đỡ nhau và thỏa mãn lợi ích của nhau. Các chủ thể tham gia quan hệ đại diện hoàn toàn độc lập với nhau về tư cách pháp lý. Các chủ thể có quyền thể hiện ý chí của mình trong việc có thực hiện hay không việc đại diện. Tuy nhiên đại diện không thể làm thay cho người được đại diện các công việc mang tính sinh hoạt đời thường như ăn, uống…mà các công việc này buộc phải có tính chất pháp lý như giao kết hợp đồng, vay tiền…Tính độc lập của chủ thể thể hiện rõ ở việc chủ thể có quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia vào quan hệ đại diện. Tự do ý chí của cá nhân trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch. Ở đây khẳng định và làm rõ thêm tính độc lập của các chủ thể trong quan hệ đại diện. Các chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí của mình đối với việc xác lập hay không xác lập quan hệ đại diện. tuy nhiên sự tự do ý chí này sẽ bị hạn chế trong những trường hợp nhất định khi pháp luật buộc những người có liên quan phải thực hiện quan hệ đại diện. Hơn nữa sự tự do này cũng không thể tùy tiện mà buộc phải tuân theo quy định của pháp luật. - Xuất phát từ nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự: Năng lực chịu trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia quan hệ đại diện đảm bảo việc thực 16
- hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình, và sẽ phải tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện không đúng và không đầy đủ các nghĩa vụ đó. Không những vậy năng lực chịu trách nhiệm dân sự của mỗi chủ thể này còn được bảo đảm bằng các biện pháp để các chủ thể khi tham gia quan hệ đại diện thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của mình. Đó chính là các biện pháp bảo vệ quyền chủ thể và các hình thức trách nhiệm đối với việc không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ đại diện. Quan hệ đại diện được thể hiện qua một số hình thức pháp lý cơ bản của quan hệ dân sự. Người đại diện và người được đại diện có thể giao kết hợp đồng đại diện bằng miệng đối với các loại giao dịch mà đối tượng giao dịch pháp luật không bắt buộc phải lập thành văn bản. Nhưng trước yêu cầu của xã hội cũng như tính chất của giao dịch thì hiện nay các loại giao dịch này chủ yếu được lập thành văn bản và văn bản được đảm bảo bằng chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tăng thêm giá trị pháp lý của loại văn bản này. Như vậy, ta đã xem xét khái niệm đại diện dưới nhiều góc độ, tuy nhiên trong luận văn này sẽ giới hạn xem xét vấn đề đại diện trong lĩnh vực dân sự, thương mại hay nói cách khác đó là các giao lưu dân sự có sự góp mặt của đại diện. 1.1.2. Bản chất và các đặc điểm pháp lý về đại diện giữa vợ và chồng 1.1.2.1. Khái niệm chung về đại diện giữa vợ và chồng (Trong luận văn này khái niệm vợ chồng được dùng để chỉ những cặp vợ chồng kết hôn theo đúng các quy định của pháp luật hôn và nhân gia đình) Quan hệ vợ chồng là một quan hệ đặc biệt nhưng lại phổ biến trong đời sống xã hội mỗi quốc gia. Quan hệ này là một sự liên kết đặc biệt giữa một người đàn ông và một người đàn bà, sự liên kết này không phụ thuộc vào tính toán vật chất, mà được dựa trên cơ sở tình yêu thương, quí trọng, bình 17
- đẳng và tự nguyện giữa hai người, hai cá thể khác giới cùng muốn chung tay xây dựng một gia đình. Gia đình chính kết quả của việc vợ và chồng xây dựng nên với những mục đích của nó đó là xây dựng mối quan hệ bền vững trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Vợ và chồng cùng nhau tạo dựng và thực hiện các chức năng của gia đình đảm bảo thỏa mãn nhu cầu tinh thần và vật chất của đôi bên: kinh tế, sinh đẻ và giáo dục con cái. Tuy nhiên việc kết hôn này phải được pháp luật thừa nhận tức việc kết hôn này không vi phạm các quy định mà pháp luật cấm. Khi hai người đã được công nhận là vợ chồng sẽ phát sinh một quan hệ đặc biệt cả về mặt tình cảm, luật pháp và xã hội. Ý chí của hai người nhiều khi sẽ là một trong một số quan hệ pháp luật nhất định, quyết định của người này phải có sự thống nhất của người kia và ngược lại, tài sản cũng có thể được xác định là tài sản chung. Hai người sẽ thay đổi địa vị pháp lý trong một số trường hợp, đặc biệt nhân thân của vợ và chồng sẽ bị thay đổi. Để thực hiện các chức năng của gia đình thì vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người… Mặc dù mang trong quan hệ vợ chồng tính chất đặc biệt này nhưng bên cạnh đó hai người vẫn là hai cá thể riêng biệt, vẫn có những quan hệ mang tính cá nhân tồn tại bên cạnh đời sống vợ chồng nên tính chất phức tạp càng nâng cao. Khi hai người có quan hệ vợ chồng thì phát sinh những quan hệ mới nhưng không hẳn chấm dứt các quan hệ cũ, bởi vậy pháp luật không thể không quan tâm, tôn trọng những quan hệ đặc biệt này. Trong các chức năng của gia đình đặc biệt là chức năng phát triển kinh tế luôn được cả vợ và chồng quan tâm và đó chính là thước đo cho thấy thái độ xây dựng và gìn giữ trong gia đình của vợ và chồng. Việc phát triển kinh tế luôn đi kèm với sử dụng và gìn giữ nó. Bên cạnh đó với thiên chức của người phụ nữ thì việc không phát triển được kinh tế mà thay vào đó là quản lý và sử dụng hợp lý, chi tiêu tiết kiệm cũng như lao động trong gia đình 18
- được đánh giá ngang bằng với việc phát triển kinh tế của người đàn ông trong gia đình. Để thực hiện tốt các chức năng trong gia đình thì tham gia vào các giao dịch dân sự là tất yếu trong mỗi gia đình. Chính bởi vậy vợ hoặc chồng luôn là người thay mặt gia đình để trực tiếp thực hiện các giao dịch thường ngày duy trì sinh hoạt gia đình. Những giao dịch hàng ngày liên quan đến tài sản chung của cả vợ và chồng nhưng trên thực tế thường do một bên vợ, chồng tham gia đại diện gia đình và trong trường hợp này việc đại diện là đương nhiên. Do tính chất của các giao dịch thường là nhỏ liên quan trực tiếp đến việc duy trì sinh hoạt hàng ngày của gia đình, vì vậy pháp luật không đề cập đến. Như vậy, trong các giao dịch dân sự có tính chất quan trọng, liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn và các giao dịch khác mà theo quy định của pháp luật chỉ có thể được xác lập với sự đồng ý của vợ hoặc chồng thì khi ấy vợ hoặc chồng tham gia giao dịch sẽ là là đại diện cho nhau. Việc xác định ý chí của vợ hoặc chồng trong việc đại diện cho nhau ngoài việc đồng ý của vợ hoặc chồng, vì lợi ích của phía bên kia thì còn một loại lợi ích đặc trưng nữa mà chỉ tồn tại trong đời sống vợ chồng đó là lợi ích của các con và của gia đình. Các giao dịch dân sự thường được cả hai vợ chồng đảm nhiệm thay nhau một cách linh hoạt nhưng chỉ có các giao dịch quan trọng theo quy định của pháp luật mới cần sự thể hiện ý chí của cả vợ và chồng. Trong các loại giao dịch này thì vợ chồng được phép ủy quyền cho nhau và việc ủy quyền nhất thiết phải được thể hiện dưới hình thức văn bản Ta có thể định nghĩa đại diện giữa vợ và chồng như sau: Đại diện giữa vợ và chồng là việc một bên vợ hoặc chồng nhân danh cả hai người để tham gia các quan hệ ngoài xã hội (như thực hiện những giao dịch dân sự, kinh tế…) theo quy định của pháp luật hoặc pháp luật quy định cần phải có sự thỏa thuận của vợ chồng nhưng người còn lại không trực tiếp tham gia được nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và gia đình và bên thứ ba trong giao dịch. 19
- 1.1.2.2. Đặc điểm chung của đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với đại diện Thứ nhất, tư cách chủ thể trong đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với đại diện nói chung: Trong đại diện nói chung thì người đại diện được thực hiện các công việc không nhân danh mình, có nghĩa là mọi hành động của người đại diện trong khi thực hiện các giao dịch dân sự đều làm thay, làm hộ người được đại diện. Người được đại diện lúc này có thể có mặt hay không có mặt khi giao dịch diễn ra nhưng về mặt pháp lý thì người được đại diện lúc này không được phép thực hiện bất cứ một hành vi pháp lý cụ thể nào nhân danh mình, và lúc này ý chí của người được đại diện cũng không được đề cập đến. Vì khi đó người đại diện sẽ chính là chủ thể trong giao dịch mà không cần đến người được đại diện nữa. Trong đại diện theo ủy quyền thì người đại diện của người được ủy quyền sẽ thực hiện mọi quyền năng của người được đại diện trong phạm vi đã ký kết hợp đồng ủy quyền nhưng bản chất thì hợp đồng hay giao dịch được ký giữa người được đại diện với bên thứ ba chứ không phải của người đại diện. Người đại diện theo ủy quyền có quyền thể hiện ý chí chủ thể của mình là muốn hay không muốn làm người đại diện. Tức trong điều kiện nhất định thì chủ thể này có quyền từ chối nhận đại diện. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được thực hiện những công việc theo ủy quyền. Cũng như vậy đối với đại diện theo pháp luật thì người đại diện cũng thực hiện thay tư cách chủ thể của người được đại diện nhưng tư cách chủ thể bị hạn chế hơn. Nếu rơi vào các điều kiện pháp luật quy định thì họ không có quyền chối từ tư cách đại diện của mình. Và khi đó người đại diện sẽ bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Người đại diện có toàn quyền quyết định thay cho người được đại diện trong mọi giao dịch liên quan đến người được đại diện. Như vậy đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền trong pháp luật dân sự đều là sự làm thay, làm hộ người khác, tuy nhiên có sự phân biệt rõ ràng về tư 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn