Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kê biên quyền sử dụng đất trong trong thi hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
lượt xem 7
download
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về kê biên QSDĐ; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và việc thực tiễn thực hiện biện pháp cưỡng chế này trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và thực tiễn thực hiện kê biên QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả công tác kê biên QSDĐ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kê biên quyền sử dụng đất trong trong thi hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN TIẾN KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN TIẾN KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành : Luật Dân sƣ ̣ Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Biǹ h HÀ NỘI – 2015 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Văn Tiến 3
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH TỪ VIẾT TẮT LỜI NÓI ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KÊ BIÊN, XỬ LÝ 5 QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở pháp luật quy định 5 kê biên QSDĐ trong thi hành án dân sự 5 1.1.1. Khái niệm kê biên và kê biên QSDĐ trong thi hành án dân sự 5 1.1.1.1. Khái niệm kê biên 10 1.1.1.2. Khái niệm kê biên QSDĐ 1.1.2. Đặc điểm của kê biên QSDĐ trong thi hành án dân sự 12 1.1.2.1. Mang tính quyền lực của Nhà nước, người áp dụng biện 12 pháp kê biên là người được Nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước 1.1.2.2. Khi bị kê biên, QSDĐ của người sử dụng đất bị đặt vào tình 14 trạng bị hạn chế giao dịch 1.1.2.3. Đối tượng kê biên là một loại tài sản đặc biệt 14 1.1.2.4. Là biện pháp được áp dụng phổ biến để thi hành những 15 nghĩa vụ lớn. 1.1.2.5. Mục đích kê biên QSDĐ là để bán đấu giá thu tiền nhằm 15 đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án 1.1.2.6. Việc kê biên QSDĐ phải được thực hiện theo trình tự 16 chặt chẽ do pháp luật quy định 16 1.1.3. Ý nghĩa của kê biên QSDĐ trong thi hành án dân sự 1.1.3.1. Kê biên QSDĐ là biện pháp thi hành triệt để bản án, quyết 4
- định của Tòa án 16 1.1.3.2. Kê biên QSDĐ bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi 17 hành án 1.1.3.3. kê biên QSDĐ còn có tác dụng lớn trong việc răn đe, giáo 17 dục ý thức pháp luật cho mọi công dân 1.1.4. Cơ sở pháp luật quy định kê biên QSDĐ trong thi hành án 17 dân sự 1.1.4.1. Cơ sở lý luận pháp luật quy định kê biên QSDĐ trong thi 17 hành án dân sự 1.1.4.2. Cơ sở thực tiễn pháp luật quy định kê biên QSDĐ trong thi hành án dân sự 19 1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ trong thi hành án dân sự 19 1.2.1. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên QSDĐ 1.2.1.1. Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện pháp cưỡng 19 20 chế kê biên QSDĐ 1.2.1.2. Chỉ được kê biên QSDĐ tương ứng với nghĩa vụ thi hành 20 án 1.2.1.3. Không tổ chức cưỡng chế kê biên QSDĐ trong những 21 thời gian mà pháp luật quy định không được cưỡng chế thi hành án 1.2.1.4. Không tổ chức cưỡng chế kê biên QSDĐ thuộc tài sản 21 theo quy định của pháp luật không được kê biên 1.2.1.5. Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân 22 trong cưỡng chế kê biên QSDĐ 1.2.2. Thủ tục kê biên, xử lý QSDĐ 24 1.2.2.1. Lập hồ sơ, xác minh điều kiện thi hành án và ra quyết 24 5
- định cưỡng chế kê biên QSDĐ 1.2.2.2. Tổ chức cưỡng chế kê biên QSDĐ 26 1.2.2.3. Định giá QSDĐ 27 1.2.2.4. Bán đấu giá QSDĐ 27 29 1.2.2.5. Giao QSDĐ 30 1.2.3. Xử lý tài sản kê biên 30 1.2.3.1 Các khoản chi phí kê biên 31 1.2.3.2. Thanh toán các khoản ưu tiên 31 1.2.3.3. Thanh toán những khoản nộp ngân sách Nhà nước 1.2.3.4. Thanh toán các khoản còn lại 32 Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KÊ BIÊN, XỬ LÝ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN 34 SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 2.1. Tình hình thi hành án dân sự, cƣỡng chế thi hành án dân sự và những yếu tố ảnh hƣởng tới việc áp dụng biện pháp kê biên 34 QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.1.1. Tình hình thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân 34 sự trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.1.1.1. Tình hình thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Thái 34 Nguyên 2.1.1.2. Tình hình áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân 39 sự trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc áp dụng biện pháp kê 42 biên, QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.1.2.1. Công tác quản lý đất đai 42 2.1.2.2. Ý thức pháp luật của người dân 46 2.1.2.3. Sự phối, kết hợp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân trong 47 6
- công tác thi hành án dân sự 2.2. Kết quả, vƣớng mắc, hạn chế và nguyên nhân của vƣớng mắc, hạn chế trong việc áp dụng biện pháp kê biên, xử lý QSDĐ 58 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.1. Kết quả của việc áp dụng biện pháp kê biên, xử lý QSDĐ 58 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.2. Những vướng mắc và hạn chế trong việc áp dụng biện pháp 60 kê biên, xử lý QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.2.1. Những vướng mắc và hạn chế trong việc xác minh điều kiện 60 thi hành án 2.2.2.2. Những vướng mắc và hạn chế trong việc tổ chức cưỡng 61 chế 2.2.2.3. Những vướng mắc và hạn chế trong việc định giá QSDĐ 62 2.2.2.4. Những vướng mắc và hạn chế trong việc bán đấu giá QSDĐ 63 2.2.2.5. Những vướng mắc và hạn chế trong việc thanh toán tiền 65 bán đấu giá QSDĐ để thi hành án 2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế trong việc áp 68 dụng biện pháp cưỡng chế kê biên QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 68 2.2.3.1. Công tác quản lý đất đai còn nhiều bất cập 68 2.2.3.2. Trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân chưa cao 69 2.2.3.3. Đội ngũ chấp hành viên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ 2.2.3.4. Sự phối, kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân với 70 cơ quan thi hành án dân sự trong cưỡng chế kê biên QSDĐ còn chưa được tốt 2.2.3.5. Các quy định của pháp luật về thủ tục cưỡng chế kê biên 71 QSDĐ còn chưa cụ thể và chưa hợp lý 7
- Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP CƢỠNG CHỄ KÊ BIÊN, 73 XỬ LÝ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 73 3.1. Các yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp kê biên QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 73 3.1.1. Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp 74 3.1.2. Yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 74 3.1.2.1 Đối với việc phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 3.1.2.2. Tăng thu ngân sách Nhà nước của tỉnh Thái Nguyên 75 3.1.2.3. Yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự 75 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp 76 kê biên, xử lý QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 3.2.1. Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật 76 83 3.2.2. Các giải pháp về thực hiện pháp luật 83 3.2.2.1. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 83 3.2.2.2. Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân 84 3.2.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên 85 3.2.2.4. Tăng cường công tác quản lý đất đai KẾT LUẬN 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 PHỤ LỤC 8
- LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, nay đã qua 5 kỳ Đại hội đều kế thừa và phát huy tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, công nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện [HP]. Với chính sách đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, lấy đổi mới kinh tế trước tiên sau đó dần dần từng bước đổi mới về chính trị. Trong quá trình phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chính vì lẽ đó trong các quan hệ pháp luật dân sự tăng lên một cách nhanh chóng, đi cùng với đổi mới là sự tăng lên của các vụ, việc tranh chấp dân sự, kéo theo sự tăng lên của của các việc THADS. Để thi hành triệt để các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, các cơ quan THADS phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó có biện pháp cưỡng chế kê biên QSDĐ nhằm giải quyết rứt điểm những bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án. Kê biên QSDĐ là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp của các ngành các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì 1
- buổi cưỡng chế kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước. Hơn nữa trong thực tế khi cơ quan thi hành án khi áp dụng các biện pháp để cưỡng chế THADS trên thực tế thì quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế kê biên QSDĐ còn thiếu, còn nhiều bất cấp và nằm giải giác gây khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Ngoài ra, hiện nay công tác THADS là một trong những vấn đề nổi cộm trong xã hội, có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo. Vì vậy cơ quan THADS được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, con người nhằm giải quyết một số lượng án lớn tồn đọng trong nhiều năm gây bức xúc cho nhân dân, xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu biện pháp Kê biên QSDĐ trong THADS qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả của công tác THADS. Do đó tôi lựa chọn đề tài kê biên quyền sử dụng đất trong trong thi hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách hành chính và cải cách tư pháp đã có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến vấn đề cưỡng chế THADS nói chung và kê biên QSDĐ nói riêng đã được công bố. Cụ thể có luận văn về: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu năm 2011. Về tạp chí khoa học có: “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề THADS năm 2010; “Về kê biên, xử lý tài sản” của TS. Nguyễn Thanh Thủy và ThS Lê Thị Kim Dung trong cuốn: “ Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự” nhà xuất bản Tư pháp năm 2010; “Vấn đề cưỡng chế đối với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về THADS của Tạp chí dân chủ 2
- và pháp luật tháng 5 năm 2012; “Những điểm mới về cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS tháng 5 năm 2015. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các vấn đề về kê biên QSDĐ trong THADS theo pháp luật Việt Nam. Luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề liên quan đến kê biên QSDĐ trong THADS theo pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về kê biên QSDĐ; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và việc thực tiễn thực hiện biện pháp cưỡng chế này trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và thực tiễn thực hiện kê biên QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả công tác kê biên QSDĐ. Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về kê biên QSDĐ, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về kê biên QSDĐ, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và thực tiễn thực hiện các quy định này trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên do giới hạn của luận văn thạc sỹ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên QSDĐ như khái niệm, đặc điểm kê biên QSDĐ, ý nghĩa kê biên QSDĐ; các quy định của Luật THADS về kê biên QSDĐ và thực tiễn thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 3
- 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh... để thực hiện đề tài. 6. Những điểm mới về khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về những vấn đề liên quan đến kê biên QSDĐ. Những điểm mới về khoa học của luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau: - Hoàn thiện khái niệm, ý nghĩa kê biên QSDĐ; chỉ rõ đặc điểm kê biên QSDĐ. - Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật THADS Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ. - Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật THADS Việt Nam hiện hành về kê biên QSDĐ và thực tiễn thực hiện trên địa bản tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật THADS Việt Nam về kê biên QSDĐ. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kê biên QSDĐ trong THADS. Chương 2: Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên QSDĐ trong THADS trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên QSDĐ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 4
- Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở pháp luật quy định kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm kê biên và kê biên QSDĐ trong THADS 1.1.1.1 Khái niệm kê biên Trong lịch sử hình thành, phát triển của loài người đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Giai đoạn chưa có Nhà nước đó là thời kỳ Công xã nguyên thủy Con người sống từng bầy đàn, xã hội chưa phân chia thành giai cấp, việc quản lý xã hội bằng uy tín, tự giác trong xã hội. Các quan hệ xã hội được giải quyết bằng cách noi gương, giải thích, thuyết phục các thành viên trong xã hội tự nguyện thực hiện, việc cưỡng chế trong giai đoạn này không đặt ra. Đến giai đoạn xuất hiện Nhà nước ( Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ) đồng thời xuất hiện các giai cấp trong xã hội, các quan hệ xã hội ngày càng nhiều, các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội gia tăng. Giai cấp thống trị xây dựng nên Bộ máy nhà nước, trước tiên để bảo vệ cho lợi ích của gia cấp mình, đồng thời để quản lý xã hội đi theo một mục tiêu nhất định. Đến giai đoạn này nhiều quan hệ xã hội không thể giải quyết bằng biện pháp giáo dục, thuyết phục mà phải giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để duy trì trật tự xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy Nhà nước xuất hiện thì cưỡng chế cũng xuất hiện để Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế nhằm quản lý, điều hành đất nước và bảo vệ Nhà nước đó. Theo từ điển Chữ nôm Tập 1 thì cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo ý trí mình [40, trg.381]; chế là kìm giữ, nén lại, tạo ra [40, trg.256]. Vậy cưỡng chế là một từ được ghép bởi hai từ cưỡng và từ chế để tạo thành từ cưỡng chế. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: " Cưỡng chế là dùng quyền lực Nhà nước bắt phải tuân theo" [38, tr. 226]. Nhưng Theo cuốn từ điển Tiếng việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 làm rõ hơn khái niệm cưỡng chế là thêm hai từ pháp luật: " Cưỡng chế là dùng quyền lực Nhà nước bắt phải tuân theo 5
- pháp luật" [39, trg.309]. Trong tiếng Anh cưỡng chế là Coerce, có nghĩa là buộc ai phải làm cái gì [37, trg.284]. Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định, theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộc mọi người phải tuân theo luật, lệ ... đã đặt ra. Cưỡng chế gằn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước Pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật tự xã hội [15, trg.194]. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế, những biện pháp cưỡng chế này được Nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án. Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế hành chính được UBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản, khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức ... [29]. Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định tại Khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự như: quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, kê biên tài sản ... [26]. Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được Nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác ... [25]. Ngoài ra cơ quan THADS cũng được Nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản …[ 27 ]. 6
- Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án [16, trg.215]. Theo Tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên trung cấp định nghĩa cưỡng chế THADS là biện pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án. Biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết định trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án [17, trg.420]. Qua hai định nghĩa trên chúng ta thấy cưỡng chế THADS đều có những đặc điểm chung đó là chủ thể thực hiện phải là Chấp hành viên là người trực tiếp ra quyết định cưỡng chế; người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án; người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Qua đó biện pháp cưỡng chế là phương thức, cách thức dùng quyền lực nhà nước buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội bị xâm hại. Biện pháp cưỡng chế THADS cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trao quyền áp dụng trong trường hợp khi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà các đương sự không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án và chỉ do Chấp hành viện thực hiện. Do đó Biện pháp cưỡng chế THADS được hiểu là biện pháp cưỡng chế THADS dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án [15, trg.195]. 7
- Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án. Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình phạt tử hình. Ngược lại cưỡng chế THADS căn cứ cưỡng chế chủ yếu là các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế và lao động liên quan đến nghĩa vụ tài sản hoặc những hành vi. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên thực hiện, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá 10 ngày, hết thời hạn trên người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, mặc dù có điều kiện thi hành án thì lúc này Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp cưỡng chế thi hành án mà không cần áp dụng thời gian tự nguyện thi hành án. Kê biên là một động từ ghép bởi hai từ kê và biên. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: “ Kê là viết ra theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo “[ 38, trg.466], “ Biên viết lên trang giấy” [38, trg.159].. Hiện nay kê biên được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, 8
- chuyển đổi, định đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi kê biên một tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn chế, họ không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt... tài sản bị kê biên đó. Mặt khác tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên. Theo cuốn Từ điển luật học kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm việc thi hành án hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định [36, trg.243]. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở nghĩa hẹp trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý Nhà nước có một số cơ quan Nhà nước được Nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản đó là cơ quan điều tra của Công an, tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý hành chính và cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ. Tuy nhiên trong lĩnh vực THADS thì không hoàn toàn đúng theo nghĩa trên theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì kê biên được hiểu là một trong số các biện pháp cưỡng chế THADS, khi Chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Ở đây yếu tố không tự nguyện thi hành án không đồng nghĩa với việc, người phải thi hành án vi phạm pháp luật thi hành án, bởi vì nhiều trường hợp người phải thi hành án rất muốn bán được tài sản để trả nợ nhưng không thể bán được vì yếu tố khách quan. Vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản, đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong hoạt động THADS kê biên được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế THADS. Công tác THADS nói riêng và công tác thi hành án nói chung là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài 9
- sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí, tiền phạt và quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính và toà án, quyết định của tòa án giải quyết pháp sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định của tòa án) [28]. Việc cưỡng chế chỉ đặt ra khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình. Khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái niệm các biện pháp cưỡng chế. Kê biên tài sản tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Cũng giống như cưỡng chế, kê biên tài sản Nhà nước cũng trao cho các cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra công an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp … trong đó có Chấp hành viên cơ quan THADS. Sự khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ thể áp dụng kê biên và mục đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn thi hành án là do Chấp hành viên. Về mục đích kê biên của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm việc thi hành án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự. Nhưng mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả tiền cho khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ. 1.1.1.2 Khái niệm kê biên QSDĐ Kê biên QSDĐ là một trong 6 biện pháp cưỡng chế thi hành án. Biện pháp cưỡng chế kê biên QSDĐ áp dụng đối với người phải thi hành án có nghĩa vụ về tài sản ( tiền ) đối với người được thi hành án. Nghĩa là biện pháp cưỡng chế kê biên QSDĐ không được áp dụng đối với hành vi của người phải thi hành án. 10
- Biện pháp cưỡng chế kê biên QSDĐ trong THADS cần được phân biệt với việc kê biên QSDĐ của cơ quan điều tra và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa án như kê biên tài sản đang tranh chấp nếu trong quá trình giải quyết án có căn cứ cho thấy có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Biện pháp kê biên của cơ quan điều tra và của tòa án nhằm mục đích ngăn chặn bị cáo và đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản để tránh trách nhiệm nghĩa vụ tài sản về sau của bị cáo và đương sự đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Còn cưỡng chế biện pháp kê biên QSDĐ của cơ quan THADS ngoài mục đích ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản mà còn có mục đích là căn cứ pháp lý để xử lý tài sản của người phải thi án để thanh toán tiền cho người được thi hành án, trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình mà bản án, quyết định của tòa án đã xác định. Cũng như kê biên tài sản, kê biên QSDĐ phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người phải thi hành án phải có nghĩa vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi hành án phải có tài sản để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Tài sản bị kê biên có thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải thi hành án, tài sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản lý, sử dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện, nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản [15, trg.211]. Ngoài ra kê biên QSDĐ cần phải lưu ý một số điểm được quy định tại Mục 8 Luật THADS [28] như: - Trước khi kê biên QSDĐ phải thông báo với Phòng đăng ký QSDĐ biết. Đồng thời Chấp hành viên yêu cầu Phòng đăng ký QSDĐ cung cấp thông tin về QSDĐ bị kê biên để làm cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật. - Chấp hành viên chỉ được kê biên QSDĐ của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp về đất đai. 11
- - Khi kê biên QSDĐ, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về QSDĐ phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan THADS. - Trường hợp kê biên QSDĐ có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành viên kê biên cả QSDĐ và tài sản gắn liền với đất. Trường hợp tài sản gắn liền với đất không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành viên chỉ kê biên QSDĐ và thông báo cho người có tài sản gắn liền với đất biết để tháo dỡ, di rời. Kê biên QSDĐ là một trong nhiều biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong THADS như: kê biên hoa lợi, kê biên phương tiện giao thông, kê biên vốn góp, kê biên tài sản là đồ vật đang bị khóa hay đóng gói ...Tuy nhiên kê biên QSDĐ hiện nay là một trong những biện pháp kê biên thực hiện phổ biến, nhưng khó khăn và phức tạp nhất trong các biện pháp kê biên, cưỡng chế THADS. Tóm lại: Kê biên QSDĐ là một biện pháp cưỡng chế THADS, do Chấp hành viên thực hiện quyền lực Nhà nước để kê biên QSDĐ của người phải thi hành án buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tiền theo bản án, quyết định của tòa án, trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án. 1.1.2. Đặc điểm của kê biên QSDĐ trong THADS 1.1.2.1. Mang tính quyền lực của Nhà nước, người áp dụng biện pháp kê biên là người được Nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước Ở bất cứ một Nhà nước nào trên thế giới đều có Bộ máy Nhà nước được phân chia thành ba phân nhánh quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để thực hiện quyền lực Nhà nước, các cơ quan Nhà nước được lập ra để thực hiện quyền lực Nhà nước. Hệ thống cơ quan THADS được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương bao gồm: Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư Pháp, cấp tỉnh có Cục THADS tỉnh, cấp huyện có Chi cục THADS huyện. Ngoài ra còn có cơ quan THADS trong Quân đội đó là Cục thi hành án thuộc Bộ quốc phòng, Phòng thi hành án thuộc Quân khu. Hệ thống cơ quan THADS này thuộc phân nhánh 12
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 175 | 46
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 239 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn