intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp

Chia sẻ: Trương Tiên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

97
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp. So sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam với một số nước. Đề xuất những khuyến nghị ban đầu từ nghiên cứu so sánh nhằm hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp

Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập<br /> doanh nghiệp<br /> Nguyễn Thi ̣Phương Thảo<br /> Khoa Luật<br /> Luận văn ThS. ngành: Luâ ̣t kinh tế ; Mã số: 60 38 50<br /> Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Như Phát<br /> Năm bảo vệ: 2010<br /> Abstract. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu so sánh pháp luật<br /> về thành lập doanh nghiệp. So sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam<br /> với một số nước. Đề xuất những khuyến nghị ban đầu từ nghiên c ứu so sánh nhằm<br /> hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.<br /> Keywords. Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Doanh nghiệp<br /> <br /> Content<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu<br /> Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2005 và tiếp theo đó là các Nghị định, Thông tư<br /> hướng dẫn được ban hành đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật thành lập doanh<br /> nghiệp. Những quy định cụ thể và tương đối phù hợp đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp<br /> trong nước thành lập, phát huy nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và bước đầu tạo môi<br /> trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài.<br /> Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như những văn bản<br /> hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập trước sự phát triển mạnh mẽ của đời<br /> sống kinh tế - xã hội, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức<br /> Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11 tháng 01 năm 2007. Pháp luật Việt Nam về kinh doanh<br /> nói chung và về thành lập doanh nghiệp nói riêng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,<br /> không những phải đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa đường lối, chủ chương, chính sách phát triển<br /> kinh tế của Đảng và Nhà nước, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh của quốc gia,<br /> mà còn phải phù hợp với pháp luật kinh doanh của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, pháp luật về<br /> thành lập doanh nghiệp của Việt Nam cần được so sánh, đối chiếu với pháp luật thành lập<br /> doanh nghiệp của các nước để nhìn nhận rõ hơn những thành tựu đã đạt được cũng như<br /> những hạn chế và tham khảo, học hỏi để từng bước hoàn thiện pháp luật kinh doanh của Việt<br /> Nam.<br /> Vì vậy, nghiên cứu Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là<br /> rất cấp thiết.<br /> 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài<br /> Từ trước đến nay đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận khoa học<br /> được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc các diễn đàn<br /> khoa học đề cập đến so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp ở những cấp độ và phạm vi<br /> <br /> khác nhau, như: Dự án VIE/97/016 so sánh về luật doanh nghiệp của 4 nước: Singapore,<br /> Malaysia, Philipine và Thái Lan của Nguyễn Toàn Phan và John Bentley; "Hình thức pháp lý<br /> doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh" của TS Nguyễn Am Hiểu; “Sự<br /> thay đổi trong luật công ty Đức và so sánh với pháp luật công ty Việt Nam” và "Uớc mơ nửa<br /> triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh"<br /> của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; “Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ luật công ty của<br /> Nhật và Luật doanh nghiệp của Việt Nam” của Th.s Nguyễn Đức Lam… Nhưng có thể thấy,<br /> hầu hết những công trình khoa học hoặc bài viết đó hoặc là nghiên cứu so sánh chung về luật<br /> doanh nghiệp, hoặc là nghiên cứu so sánh một lĩnh vực cụ thể nào đó của luật doanh nghiệp<br /> chứ chưa có công trình nào nghiên cứu so sánh riêng về pháp luật thành lập doanh nghiệp giữa<br /> Việt Nam và các nước khác.<br /> Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là một đề tài hoàn toàn<br /> mới và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn trong khoa học pháp lý của Việt Nam hiện nay.<br /> 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu<br /> Mục đích nghiên cứu: so sánh pháp luật về thành lâp doanh nghiệp của Việt Nam với một<br /> số nước nhằm làm rõ sự tương đồng, khác biệt và rút ra những giá trị có thể tham khảo, học hỏi<br /> góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.<br /> Nhiệm vụ nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu so sánh pháp<br /> luật về thành lập doanh nghiệp; so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam với một<br /> số nước; đề xuất những khuyến nghị ban đầu qua việc nghiên cứu so sánh nhằm hoàn thiện pháp<br /> luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.<br /> 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu<br /> Đối tượng nghiên cứu: pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và của một<br /> số nước được chọn lựa so sánh.<br /> Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật về việc thành lập mới một số loại hình doanh<br /> nghiệp là: doanh nghiệp tư nhân, hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần<br /> (tương ứng với các loại hình doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 của<br /> Việt Nam); không nghiên cứu việc thành lập các loại hình doanh nghiệp khác (như doanh<br /> nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...) cũng như việc chuyển đổi loại<br /> hình doanh nghiệp, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn<br /> phòng đại diện của doanh nghiệp.<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu<br /> Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là phương pháp hệ<br /> thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic, đối chiếu so sánh.<br /> 6. Đóng góp khoa học của Đề tài<br /> Góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, học<br /> tập về pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và một số nước trên thế giới, góp phần<br /> làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.<br /> 7. Kết cấu Luận văn<br /> Ngoài phần Mở đầu, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu<br /> gồm 3 chương:<br /> Chương 1: Một số vấn đề chung về nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh<br /> nghiệp<br /> Chương 2: So sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp<br /> Chương 3: Một số khuyến nghị ban đầu từ nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập<br /> doanh nghiệp<br /> <br /> Chương 1<br /> MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU SO SÁNH<br /> PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP<br /> 1.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp<br /> 1.1.1. Nhận dạng đối tượng nghiên cứu - pháp luật về thành lập doanh nghiệp<br /> Pháp luật về thành lập doanh nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước<br /> ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo thực hiện, điều chỉnh về các loại hình doanh nghiệp<br /> được phép thành lập, điều kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục thành lập doanh nghiệp. Pháp luật về<br /> thành lập doanh nghiệp là một chế định có vị trí quan trọng của pháp luật kinh doanh, là cơ<br /> sở để xây dựng các chế định khác như đầu tư, cạnh tranh, hợp đồng; tranh chấp thương mại...<br /> Hầu như các nước đều có pháp luật về thành lập doanh nghiệp, trong đó quy định về các<br /> loại hình doanh nghiệp đuợc thành lập, điều kiện thành lập, hồ sơ, trình tự, thủ tục thành lập<br /> doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa pháp lý, về<br /> ngôn ngữ... pháp luật về thành lập doanh nghiệp của mỗi nước lại có những điểm khác biệt nhất<br /> định, như: pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước xuất hiện rất sớm có nước ra đời<br /> muộn; có nước khá ổn định - có nước thường xuyên thay đổ; có nước quy định chung ở một<br /> luật - có nước lại quy định riêng ở nhiều luật tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp; có<br /> nước quy định về thành lập doanh nghiệp ở luật, có nước lại quy định cả ở những văn bản dưới<br /> luật; đặc biệt ở một số nước liên bang, pháp luật về thành lập doanh nghiệp được quy định tại<br /> luật liên bang, sau đó tại các tiểu bang lại có những quy định riêng.<br /> 1.1.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu so sánh<br /> Chỉ lựa chọn so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của một số nước dựa trên một số<br /> tiêu chí nhất định, như: những nước có quan hệ hợp tác kinh tế truyền thống, lâu dài: Mỹ, Anh,<br /> Nhật Bản, Pháp…; những nước có điểm tương đồng về đường lối chính sách kinh tế với Việt<br /> Nam như Trung Quốc; những nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Singapore,<br /> Malaysia, Philippines….<br /> Chỉ nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của 4 loại hình cơ bản là:<br /> doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần (trong phạm vi<br /> đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005) không nghiên cứu việc thành lập các loại<br /> hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước<br /> ngoài...; chỉ so sánh thành lập mới doanh nghiệp (không so sánh về thay đổi nội dung đăng ký<br /> kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện).<br /> 1.2. Nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh<br /> nghiệp của nước ta hiện nay<br /> 1.2.1. Nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước ta<br /> hiện nay<br /> Hoạt động so sánh pháp luật giúp hiểu biết sâu sắc hơn về đời sống xã hội, văn hóa của các<br /> dân tộc trên thế giới nói chung và hệ thống pháp luật cũng như nền khoa học pháp lý của mỗi quốc<br /> gia nói riêng.<br /> Việc so sánh, đối chiếu pháp luật thành lập doanh nghiệp sẽ giúp cho các chuyên gia<br /> pháp lý nhìn nhận một cách khách quan hơn về đặc điểm, thực trạng của hệ thống pháp luật<br /> thành lập doanh nghiệp của quốc gia, rút ra những kinh nghiệm bổ ích để học hỏi và qua đó<br /> đưa ra các chuẩn mực pháp luật quốc gia, tìm kiếm, xây dựng mô hình pháp luật lý tưởng,<br /> phù hợp để hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước nhà.<br /> 1.2.2. Thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước<br /> ta hiện nay<br /> Hoạt động nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập doanh nghiệp của nước ta đã bước<br /> đầu được chú trọng, chẳng hạn như việc khảo sát mô hình doanh nghiệp của các nước (trong<br /> đó có nghiên cứu cách thức thành lập doanh nghiệp) để tham khảo khi xây dựng luật doanh<br /> <br /> nghiệp, tuy nhiên, công việc này chưa hệ thống, chưa thường xuyên, mới chỉ chú trọng trong<br /> những thời điểm cụ thể, trước những yêu cầu cụ thể.<br /> Nguyên nhân của thực trạng trên là do nghiên cứu so sánh là một lĩnh vực mới và khó,<br /> các cơ sở đảm bảo cho việc nghiên cứu so sánh như kinh phí khảo sát, việc đi sang nước<br /> ngoài học tập, nghiên cứu, việc dịch tài liệu của nước ngoài… còn thiếu và khó khăn hoặc<br /> chưa được đầu tư đúng mức.<br /> Kết luận chương 1<br /> Để nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp giữa Việt Nam và một số nước<br /> trước hết phải nhận dạng đối tượng so sánh và giới hạn phạm vi so sánh. Không thể so sánh<br /> những nội dung không thuộc pháp luật thành lập doanh nghiệp và cũng không thể so sánh với<br /> pháp luật của những nước không có mối liên hệ gì với Việt Nam hoặc nếu có so sánh cũng<br /> không phục vụ cho mục đích tìm hiểu, tham khảo, học hỏi. Do đó, cần xác định nội hàm của<br /> khái niệm pháp luật thành lập doanh nghiệp, khẳng định pháp luật thành lập doanh nghiệp<br /> của các nước có sự tương đồng và khác biệt và dựa trên những tiêu chí nhất định, lựa chọn<br /> pháp luật của một số nước, giới hạn một số lĩnh vực cụ thể để so sánh.<br /> Bên cạnh đó, xem xét nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập<br /> doanh nghiệp hiện nay ở nước ta sẽ cung cấp một cái nhìn khách quan, toàn diện về tầm quan<br /> trọng, những thuận lợi, khó khăn, sự kế thừa, phát triển của công trình nghiên cứu. Đây chính<br /> là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để lựa chọn phương pháp, xác định những nội dung<br /> trọng tâm cần nghiên cứu và đảm bảo cho việc nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập<br /> doanh nghiệp được đúng hướng, mang lại những kết quả có giá trị.<br /> Chương 2<br /> SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP<br /> 2.1. So sánh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập<br /> 2.1.1. So sánh về loại hình doanh nghiệp tư nhân<br /> Đây là hình thức kinh doanh lâu đời và thường được sử dụng cho những cá nhân muốn<br /> tiến hành các hoạt động kinh doanh riêng lẻ, cá thể dưới hình thức chủ sở hữu duy nhất. Pháp<br /> luật Mỹ gọi hình thức này là cá thể kinh doanh (sole proprietorship hoặc individual<br /> proprietorship), các cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có thể tiến hành các hoạt động<br /> kinh doanh nhân danh tên của họ hoặc tên gọi thương mại mà không cần phải làm thủ tục xin<br /> phép.<br /> Theo luật Malaysia và Singapore, doanh nghiệp tư nhân là hình thức kinh doanh do một<br /> người có thể là thể nhân hoặc pháp nhân thành lập, có toàn quyền quản lý, điều hành hoạt<br /> động kinh doanh, chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của doanh nghiệp. Theo luật<br /> Malaysia và luật Singapore, một công ty có thể trở thành chủ sở hữu một doanh nghiệp tư<br /> nhân. Điều này không được thừa nhận trong luật của Thái Lan và Philippines. Ở Thái Lan và<br /> Philippines, hình thức này chỉ có thể do thể nhân thành lập.<br /> Có thể thấy một số điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và một số nước trong<br /> quan niệm về loại hình doanh nghiệp này. Nếu như Mỹ coi đây là hình thức kinh doanh của cá<br /> nhân và có thể hoặc không cần phải đăng ký kinh doanh thì các nước như Việt Nam và<br /> Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philippines lại coi đây là một loại hình doanh nghiệp và phải<br /> tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, chủ thể của<br /> loại hình kinh doanh này cũng được chia thành hai trường phái: đối với pháp luật của các nước<br /> Mỹ, Việt Nam, Thái Lan và Philippines thì chỉ quy định cho cá nhân, còn đối với pháp luật của<br /> Singapore và Malaysia có thể do thể nhân thành lập. Tuy vậy, về bản chất, loại hình doanh<br /> nghiệp này có những đặc điểm chung mà pháp luật các nước đều thừa nhận là chủ doanh nghiệp<br /> có thể toàn quyền định đoạt công việc kinh doanh của mình, được hưởng toàn bộ lợi nhuận thu<br /> được và phải mang toàn bộ tài sản để chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.<br /> <br /> 2.1.2. So sánh về loại hình công ty hợp danh<br /> Anh là một nước có truyền thống pháp luật lâu đời về hợp danh. Hợp danh của Anh được<br /> chia làm hai loại là Hợp danh thông thường (hay đầy đủ) (The full partnership) và Hợp danh<br /> TNHH (The limited partnership).<br /> Theo quan niệm của các nhà làm luật Mỹ thì “hợp danh là một sự liên kết tự nguyện của ít<br /> nhất hai người trở lên nhằm thực hiện công việc kinh doanh như những người đồng sở hữu, vì mục<br /> tiêu lợi nhuận”.<br /> Theo luật Singapore, hợp danh là thoả thuận giữa những người tiến hành kinh doanh<br /> nhằm thu lợi. Số lượng thành viên tối thiểu của hợp danh theo luật Singapore là 2 và tối đa là<br /> 20. Philippines và Thái Lan quy định về hợp danh hữu hạn còn Singapore và Malaysia thì<br /> không có loại hình hợp danh hữu hạn.<br /> Pháp luật Việt Nam cũng giống pháp luật các nước khi quy định hợp danh được thành<br /> lập vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận, phải do ít nhất hai người trở lên thành lập và là chủ sở<br /> hữu chung. Tuy nhiên, nếu như các nhà làm luật Mỹ, Anh, Singapore quan niệm hợp danh là<br /> một sự liên kết, tức là chỉ cần chứng minh giữa hai người có sự liên kết với nhau để kinh<br /> doanh như hai chủ sở hữu vì mục tiêu lợi nhuận thì đó là hợp danh thì theo luật Việt Nam<br /> hợp danh là một công ty.<br /> Về thủ tục thành lập hợp danh, các nước quan niệm hợp danh chỉ là sự liên kết thì<br /> không nhất thiết phải tiến hành các thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (trừ<br /> loại hợp danh hữu hạn). Còn những nước xác định hợp danh là công ty thì chỉ được công<br /> nhận là hợp danh khi đã trải qua những thủ tục pháp lý thành lập công ty.<br /> Pháp luật của nhiều nước quan niệm rằng hợp danh có tư cách pháp nhân (luật<br /> Philippine, Việt Nam), nhiều nước lại cho rằng hợp danh không có tư cách pháp nhân (pháp<br /> luật Singapore và Malaysia) hoặc xem xét tư cách pháp nhân của hợp danh thông qua việc nó<br /> có được đăng ký trước cơ quan nhà nước hay không vì ở nước đó hợp danh có thể đăng ký<br /> hoặc không đăng ký, nhưng chỉ khi đăng ký thì mới có tư cách pháp nhân (pháp luật Thái<br /> Lan).<br /> Ngoài ra, việc phân chia hay không phân chia hợp danh thành hai loại thông thường và<br /> hữu hạn cũng tạo nên sự khác biệt giữa pháp luật các nước về vấn đề hợp danh.<br /> 2.1.3. So sánh về loại hình công ty cổ phần<br /> Ở Pháp, công ty cổ phần, hay còn gọi là công ty vô danh (Société Anonyme –SA) được<br /> ra đời khá sớm. Ngoài SA, Pháp còn có loại hình công ty cổ phần đơn giản (Société par<br /> actions simplifiée – SAS). Ở Nhật Bản, công ty cổ phần được gọi là Kabushiki-Kaisha (KK).<br /> Loại hình công ty cổ phần của Trung Quốc được quy định tại Điều 79 Luật công ty Trung<br /> Quốc 2005. Pháp luật Mỹ quy định hai loại hình công ty cổ phần: công ty cổ phần công cộng<br /> hay công ty chứng khoán (Public stock companies) và công ty cổ phần tư nhân (Private stock<br /> companies). Tương tự như luật Mỹ, Luật Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia cũng<br /> chia công ty cổ phần thành hai loại. Luật Philippines gọi là Ordinary Corporation và Close<br /> Corporation còn luật Singapore, Thái Lan, Malaysia gọi là Public Limited Company và<br /> Private Limited Company. Công ty cổ phần của Việt Nam được quy định tại Điều 77 Luật<br /> Doanh nghiệp 2005.<br /> Về bản chất của công ty cổ phần, pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước không<br /> có sự khác biệt khi quan niệm đây là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn với đặc điểm<br /> quan trọng là có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của cá nhân, các thành viên chỉ<br /> chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà họ góp vào công<br /> ty; vốn cơ bản của công ty được chia thành các cổ phần, trong quá trình hoạt động, công ty cổ<br /> phần được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công khai huy động vốn trong<br /> công chúng.<br /> Sự khác nhau là trong quy định về số lượng thành viên, cách thức góp vốn, cơ chế quản<br /> lý điều hành công ty cổ phần. Nhật Bản quy định tối thiểu phải có 7 thành viên, Trung Quốc tối<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2