intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:150

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua việc tìm kiếm, phát hiện những điểm yếu kém của pháp luật Việt Nam về tự do hợp đồng, trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc tự do hợp đồng trên thế giới. Đề tài đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc này với tư cách là nguyên tắc cơ bản nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ HỒNG VÂN Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Hµ néi - 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ HỒNG VÂN Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam Mã số : 6.01.05 luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Đăng Huệ Hµ néi - 2005
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử. Ngay từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hoá thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản. Tuy nhiên, để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đồng thời đảm bảo về mặt pháp lý cho các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng thì cần thiết phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc ký kết hợp đồng, đặc biệt là nguyên tắc tự do hợp đồng. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của nguyên tắc tự do hợp đồng, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, học viên đã lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ, với các lý do cơ bản sau: Thứ nhất: Nguyên tắc tự do hợp đồng là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong việc thiết lập các quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Có thể nói, nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì chế định hợp đồng càng được coi trọng và càng được hoàn thiện hơn. Điều này xuất phát từ việc pháp luật hiện đại thừa nhận quyền bình đẳng của con người trước pháp luật và quyền tự do cá nhân. Ngày nay, nhất là trong nền kinh tế hội nhập - nơi mà mọi dịch vụ, hàng hóa phải được tự do chuyển dịch trong thị trường thì phần lớn các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng hợp đồng. Vai trò, vị trí của chế định hợp đồng và việc tuân thủ nguyên tắc tự do hợp đồng vì thế ngày càng được khẳng định trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 1
  4. Thứ hai: Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện nay còn nhiều khiếm khuyết, cản trở việc hình thành các giao lưu kinh tế - thương mại. Hoạt động kinh tế - thương mại là một trong những lĩnh vực không thể thiếu của đời sống kinh tế - xã hội. Các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hoạt động này là nền tảng của các quan hệ xã hội khác tồn tại trong xã hội. Để duy trì và phát triển các quan hệ này thì Nhà nước phải tạo lập cho nó khung pháp lý ổn định và hoàn thiện. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng nói chung, nguyên tắc tự do hợp đồng nói riêng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn có những hạn chế nhất định. Do vậy, chúng ta cần thiết phải đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nguyên tắc này cho phù hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. Như vậy, có thể khẳng định rằng việc nghiên cứu đề tài: “ Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” có ý nghĩa to lớn, không chỉ về mặt lý luận mà còn cả về thực tiễn áp dụng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp luật về hợp đồng là một chế định quan trọng. Nó là “xương sống” của pháp luật dân sự, pháp luật kinh doanh nên trong BLDS năm 1995 đã có hẳn một phần (phần thứ 3 -nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự) để quy định về vấn đề này. Thực tế, Pháp luật về hợp đồng đã được nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, hầu như ở tất cả các khía cạnh liên quan đến hợp đồng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, như: Khái niệm, đặc điểm, trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu… Ngoài các sách chuyên khảo còn có rất nhiều bài viết của các nhà luật học bàn về các vấn đề liên quan trong các tài liệu, các báo và tạp chí chuyên ngành như: “Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của TS. Dương Đăng Huệ; “Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay” của TS.Nguyễn 2
  5. Am Hiểu; “Bàn thêm về hoàn thiện pháp luật kinh tế ở Việt Nam” của TS.Lê Hồng Hạnh; “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự” của TS. Đinh Văn Thanh… Như vậy, có thể khẳng định rằng, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề hợp đồng từ nhiều góc độ khác nhau nhưng hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu là không trùng lặp và có ý ‎‎nghĩa cả về mặt lý luận lẫn về thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1 Mục đích: Thông qua việc tìm kiếm, phát hiện những điểm yếu kém của pháp luật Việt Nam về tự do hợp đồng, trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc tự do hợp đồng trên thế giới, Đề tài đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc này với tư cách là nguyên tắc cơ bản nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận văn có nhiệm vụ:  Phân tích nội dung và tầm quan trọng của nguyên tắc tự do hợp đồng  Nghiên cứu nguyên tắc tự do hợp đồng qua các thời kỳ khác nhau, đánh giá thực trạng của nguyên tắc tự do hợp đồng ở Việt Nam  Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. 3.3. Phạm vi Chế định hợp đồng là một chế định pháp lý rất phức tạp, liên quan nhiều vấn đề khác nhau như: chủ thể ký kết, căn cứ ký kết, các nguyên tắc ký kết, 3
  6. nội dung và hình thức hợp đồng... Tuy nhiên, Đề tài luận văn không có tham vọng nghiên cứu toàn bộ chế định hợp đồng, toàn bộ các nguyên tắc mà chỉ đi sâu nghiên cứu một nguyên tắc quan trọng, đó là nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn, các tài liệu tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật và các sách tham khảo có liên quan,... Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,... 5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn  Luận văn đã phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của nguyên tắc tự do hợp đồng.  Luận văn xác định được vị trí then chốt của nguyên tắc tự do hợp đồng trong mối quan hệ với các nguyên tắc khác (nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thiện chí và trung thực).  Luận văn trình bày nguyên tắc tự do hợp đồng qua các thời kỳ khác nhau một cách khoa học và có hệ thống.  Luận văn bám sát kịp thời Bộ luật dân sự mới năm 2005, qua đó phân tích những điểm mới, tiến bộ và một số điểm hạn chế cần khắc phục khi quy định về hợp đồng và nguyên tắc tự do hợp đồng.  Luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định về tự do hợp đồng ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 4
  7.  Luận văn giải quyết những bức xúc trong việc tìm kiếm các quy định mới về hợp đồng và nguyên tắc tự do hợp đồng trong Bộ luật dân sự mới năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006).  Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam khi quy định về nguyên tắc tự do hợp đồng và sự cần thiết phải hoàn thiện nguyên tắc này trước yêu cầu của thực tiễn.  Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu lý luận, làm đề tài tham khảo giảng dạy và học tập cho giáo viên và sinh viên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được dự kiến với kết cấu 3 chương như sau: Chương 1: Các vấn đề l‎ý luận cơ bản về nguyên tắc tự do hợp đồng Chương 2: Tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc tự do hợp đồng ở Việt Nam trong thời gian tới 5
  8. Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ L‎Ý LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC TỰ DO HỢP ĐỒNG 1.1. HỢP ĐỒNG - HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA QUAN HỆ HÀNG HOÁ - TIỀN TỆ Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội có hai hình thức kinh tế: Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Kinh tế tự nhiên là hình thức sản xuất mà sản phẩm lao động chỉ dùng để thỏa mãn nhu cầu của con người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Đối lập với hình thức kinh tế này là kinh tế hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là sản xuất xã hội trong đó mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất biểu hiện qua thị trường, qua việc trao đổi sản phẩm và dịch vụ. Hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của con người và thông qua việc trao đổi, con người có thể thỏa mãn những nhu cầu trên. Quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã làm xuất hiện tiền tệ. Tiền làm thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị như các hàng hóa khác. Giá trị của mỗi hàng hóa được biểu hiện bằng một số tiền nhất định là giá cả. Mặc dù giá cả của hàng hóa thường thay đổi biến động nhưng tổng số gía cả thì luôn bằng tổng số giá trị của hàng hóa. Do vậy, việc trao đổi hàng hóa và tiền tệ là một bộ phận của nền sản xuất hàng hóa, một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Quá trình trao đổi đó sẽ làm phát sinh, chấm dứt quyền tài sản của chủ thể hay nói cách khác quan hệ hàng hóa – tiền tệ (quan hệ tài sản) là quan hệ giữa người với người gắn liền với một tài sản nhất định. Quan hệ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các 6
  9. bên thiết lập với nhau những quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng và là một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình thành bởi tài sản (vốn là hiện thân của các lợi ích vật chất) không thể tự tìm đến nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ thể. Trong bộ Tư bản, C.Mác viết: “Tự chúng, hàng hóa không thể đi tới thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó quan hệ như những hàng hóa thì những người giữ hàng hóa phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó…mối quan hệ ý chí đó, mà hình thức của nó là bản giao kèo dù có được củng cố thêm bằng pháp luật hay không cũng vậy - là mối quan hệ ý chí phản ảnh mối quan hệ kinh tế”. Như vậy, ngay từ thuở sơ khai trong lịch sử phát triển của mình, hợp đồng đã được coi là “bản giao kèo” được thiết lập trên cơ sở tự do ý chí của các chủ thể trong quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hóa. Sự hình thành nhà nước đồng thời kéo theo sự xuất hiện của pháp luật. Khi được pháp luật điều chỉnh, các quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật và “bản giao kèo” trở thành hình thức pháp lý của nó. Về tên gọi, “bản giao kèo” được gọi là khế ước hay hợp đồng. Có thể khẳng định rằng điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa cũng chính là những điều kiện ra đời của hợp đồng hay nói cách khác trao đổi sản phẩm hàng hóa dẫn đến sự ra đời của hợp đồng. Hợp đồng là hình thức pháp lý của quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Ví dụ: Nhu cầu trao đổi sản phẩm sẽ dẫn đến việc thiết lập hợp đồng mua bán; nhu cầu về đất đai sẽ dẫn đến việc thiết lập các hợp đồng như hợp đồng chuyển nhượng đất, hợp đồng thuê đất… Nếu việc giao kết hợp đồng không phát sinh lợi nhuận, không hàm chứa lợi ích vật chất trong đó mà chỉ chứa đựng 7
  10. lợi ích tinh thần thì các chủ thể có thể thiết lập hợp đồng cho mượn, hợp đồng tặng cho tài sản… Hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh thì phần lớn các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng hợp đồng, chính vì thế chế định Hợp đồng càng được tôn trọng và hoàn thiện hơn. Kinh tế thị trường là nền kinh tế của sự giao lưu năng động của hàng hóa - dịch vụ giữa người sản xuất và tiêu dùng. Hình thức pháp l‎ý thích hợp và có hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hóa, dịch vụ đó chính là Hợp đồng. Thực tiễn của nền kinh tế thị truờng trên thế giới từ xưa đến nay đều khẳng định vai trò của hợp đồng. Nó luôn giữ vai trò quan trọng bởi lẽ khi mọi hàng hóa, dịch vụ được tự do chuyển dịch trên thị trường thì sự tự do thể hiện ý chí của các bên cũng phải được tôn trọng trên cơ sở các quy định của pháp luật. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng và ở mỗi nước, tùy theo độ tương hợp mà các khía cạnh của hợp đồng sẽ được chú trọng tới ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả những khái niệm cũng như nhận định về hợp đồng ở hầu hết các quốc gia đều phản ánh một quan niệm thống nhất về bản chất của hợp đồng. Đó chính là sự gắn kết chặt chẽ của hai yếu tố: * Yếu tố thứ nhất: Sự thỏa thuận (Đây là yếu tố thể hiện sự thống nhất trong việc bày tỏ ý chí của các bên, theo đó, nội dung và các vấn đề khác của hợp đồng được hình thành) * Yếu tố thứ hai: Mục đích của sự thỏa thuận (Mục đích của việc thiết lập các quan hệ hợp đồng là nhằm làm phát sinh một hậu quả pháp lý mà các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng hướng tới. Tất nhiên, hậu quả pháp lý đó phải hợp pháp. Với quan niệm này thì mọi quan hệ đảm bảo các yếu tố trên ‎về bản chất đã được coi là quan hệ hợp đồng, không phụ thuộc vào chủ thể tham gia hay hình thức thể hiện. 8
  11. Tóm lại, Hợp đồng là một trong những sản phẩm lâu đời nhất liên quan đến giao lưu dân sự. Ngay từ khi sự trao đổi hàng hóa xuất hiện trong xã hội loài người thì hợp đồng đã đóng vai trò là chuẩn mực, định hướng cách xử sự cho các bên tham gia quan hệ nhằm đảm bảo cho sự vận động của quan hệ hàng hóa - tiền tệ diễn ra nhanh chóng và hiệu qủa. 1.2. VỊ TRÍ CỦA NGUYÊN TẮC TỰ DO HỢP ĐỒNG TRONG VIỆC THIẾT LẬP CÁC QUAN HỆ HÀNG HÓA - TIỀN TỆ 1.2.1. Các nguyên tắc k‎ý kết hợp đồng và vị trí của nguyên tắc tự do hợp đồng 1.2.1.1. Các nguyên tắc ký kết hợp đồng Xét dưới góc độ ngôn ngữ học Việt Nam thì nguyên tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”(Từ điển Tiếng Việt) Xét dưới góc độ khoa học pháp lý thì nguyên tắc là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong hệ thống pháp luật thể hiện tập trung những yêu cầu và đòi hỏi của Nhà nước trong việc điều chỉnh pháp luật đối với nhóm quan hệ xã hội nào đó. Việc thực hiện các nguyên tắc mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả mọi người, mọi cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội có liên quan. Có thể nói, Hợp đồng là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật của bất cứ Quốc gia nào. Tuy có nhiều điểm khác nhau về lịch sử phát triển, về một số quy định cụ thể liên quan đến chủ thể tham gia hợp đồng, cách phân loại, song về lý luận, chế định hợp đồng có rất nhiều điểm tương đồng. Và, sự tương đồng đó bắt nguồn từ chính bản chất của hợp đồng là một công cụ đảm bảo sự bình đẳng, tự nguyện của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Để hợp đồng thực hiện được tốt vai trò của mình trong các quan hệ pháp luật thì đòi hỏi chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản cho nó. 9
  12. Để các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại thực hiện có hiệu quả trên thực tế thì đòi hỏi các chủ thể pháp luật phải thiết lập các quan hệ hợp đồng (giao kết hợp đồng) theo những nguyên tắc và trình tự nhất định. Giao kết hợp đồng là việc các chủ thể bày tỏ ý chí bằng cách trao đổi ý kiến với nhau về những nội dung, điều kiện của hợp đồng để đi đến sự thỏa thuận trong việc cùng nhau xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ qua lại của các bên trong quan hệ hợp đồng. Các hành vi giao dịch trong giao kết hợp đồng bao gồm: Đề nghị giao kết hợp đồng (được quy định tại điều 396-BLDS 1995 và điều 51-Luật thương mại 1997); Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (được quy định tại điều 403-BLDS 1995 và điều 51/2- Luật thương mại 1997); Thời điểm giao kết hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng (được quy định tại điều 403,404-BLDS 1995, điều 55 và 56-Luật thương mại 1997, điều 11- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989). Tóm lại, Khi tiến hành giao kết hợp đồng, các chủ thể pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, bao gồm: nguyên tắc tự do, bình đẳng, hợp tác, thiện chí và trung thực. a. Nguyên tắc tự do Thuyết tự do y chí trong giao kết hợp đồng xuất hiện từ thế kỷ thứ XVIII và nằm trong hệ thống các quan điểm của nền triết học ánh sáng. Một số người cho rằng quan điểm này là của Kant, nhà triết học người Đức đưa ra. Thuyết tự do ý chí trong giao kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm cho rằng ý chí của con người là tối thượng và tự chủ. Chỉ các hành vi xuất phát từ ý chí của một người mới có hiệu lực ràng buộc đối với người đó. Một người chỉ bị ràng buộc khi người đó muốn như vậy và ràng buộc theo cách mà người đó muốn. Tuy nhiên, mỗi bên tham gia hợp đồng nhằm thỏa mãn những lợi ích riêng của mình trong phạm vi phù hợp với lợi ích chung. 10
  13. Khi bàn về vấn đề tự do ý chí, C.Mac đã chỉ ra rằng: Không thể bàn về lý luận, đạo đức và pháp quyền mà lại không đề cặp đến tự do ý chí, đến quan hệ giữa tất yếu và tự do. Để tạo cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, pháp luật cho phép mọi chủ thể được quyền “ tự do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng nào, nếu họ muốn, mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng y chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tự do ý chí của chủ thể trong việc xác lập quan hệ hợp đồng bao gồm các yếu tố: Tự do đề nghị giao kết, tự do chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của phía bên kia, tự do thỏa thuận các điều khoản cơ bản của hợp đồng như đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán,… Ngay từ thời kỳ La Mã cổ đại, hợp đồng đã là một trong những nội dung quan trọng nhất của pháp luật về nghĩa vụ. Và, “nó đã trở thành cơ sở nền tảng cho sựphát triển của khoa học pháp lý trong nhiều hệ thống luật sau này” [41, tr.8] . Trong pháp luật La Mã, hợp đồng được coi là hình thức thể hiện của các giao dịch song phương mà việc xác lập chúng có thể trực tiếp làm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Như vậy,“với tư cách như là một cơ sở làm phát sinh nghĩa vụ, hợp đồng chỉ có thể có nếu các bên ký hợp đồng có chủ ý xác lập” [28, tr.77] Xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng, pháp luật La Mã ghi nhận ý chí đã thỏa thuận (convention) của các bên là một trong các điều kiện để một hợp đồng có hiệu lực. Có thể thấy rằng, trong lịch sử lập pháp, khái niệm về hợp đồng đã được hình thành từ rất sớm và dường như đã khái quát được toàn bộ bản chất của hợp đồng cho đến nay (sự thỏa thuận và thống nhất ‎ý chí của chủ thể khi tham gia giao dịch). Các hệ thống pháp 11
  14. luật hiện đại sau này cũng có nhiều khái niệm khác nhau về hợp đồng song tựu trung lại vẫn khó xa rời khái niệm nguyên gốc về hợp đồng từ thời La Mã cổ đại. Bộ luật Napoleon của Pháp là một trong những Bộ luật lớn và được coi là Bộ luật kinh điển nhất về dân luật. Cho đến nay, hầu hết các Bộ luật dân sự của các nước trong hệ thống luật Romanh – Giecmanh đều chịu ảnh hưởng hoặc tham chiếu đến Bộ luật này. Khái niệm về hợp đồng trong Bộ luật Napoleon được quy định tại điều 1101, theo đó: “ Hợp đồng là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc nào đó”. Theo quy định của Bộ luật dân sự Nhật Bản, hợp đồng được hiểu là: “Một loại giao dịch dân sự thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên. Mục đích của hợp đồng thông thường làm phát sinh nghĩa vụ” (Bình luận khoa học BLDS Nhật Bản - Bộ tư pháp - Viện NCKHPL). Qua đây, chúng ta có thể thấy pháp luật Nhật Bản cũng coi tự do ý chí là một nguyên tắc trong giao kết hợp đồng. Tự do giao kết ở đây bao gồm tự do đề nghị và chấp nhận giao kết; tự do xác định nội dung của hợp đồng và tự do hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, muốn cho các quan hệ về nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng thì các nghĩa vụ đó phải hợp pháp, không trái đạo đức xã hội, trật tự công cộng và điều cấm của pháp luật. Với bản chất nguyên thủy của hợp đồng, vấn đề tự do y chí đã được đề cao trong Bộ luật dân sự Philipin. Theo quy định tại Điều 1305 - Bộ luật dân sự Philipin thì hợp đồng được hiểu là “sự thống nhất ý chí giữa hai bên, theo đó, mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ sở tôn trọng bên kia để đưa một cái gì đó hoặc trả cho một dịch vụ nào đó”. Có thể thấy, “sự ưng thuận giữa các bên”- tự do ý chí của chủ thể (Điều 1318-Bộ luật dân sự Philipin) là yếu tố quan trọng, không thể thiếu khi giao kết hợp đồng. Nó là 12
  15. một trong ba điều kiện cơ bản để xác định hợp đồng đó có hiệu lực hay không. Tại Điều 1378- Bộ luật dân sự của Quy- bec cũng định nghĩa hợp đồng là:“một thỏa thuận của ý chí bởi một hoặc nhiều người để ràng buộc nghĩa vụ với một hoặc nhiều người khác nhằm thực hiện một công việc”. Theo quy định của pháp luật Quy- bec thì ý chí của các bên trong hợp đồng rất được đề cao, cùng với nguyên nhân và mục đích của hợp đồng, các yếu tố này được coi là bản chất vốn có của một hợp đồng. Theo đó, sự “ưng thuận giữa những người có năng lực tham gia giao kết là căn cứ duy nhất để một hợp đồng được hình thành trừ trường hợp pháp luật hoặc các bên trong hợp đồng yêu cầu hợp đồng cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định theo mẫu của một thỏa thuận nghiêm túc” (Điều 1385 - Bộ luật dân sự Quy- bec). Hợp đồng dân sự theo quy định của BLDS Việt Nam được hiểu là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 394 - BLDS 1995) và tiếp tục được khẳng định tại Điều 388 của Bộ luật dân sự năm 2005. Trên cơ sở các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy vấn đề tự do hợp đồng đã được khẳng định khá rõ nét trong các quan niệm, khái niệm về hợp đồng ở hệ thống pháp luật các quốc gia khác nhau trên thế giới, từ thời xa xưa cho đến hiện đại. Căn cứ để xác lập hợp đồng chính là sự tự do ý chí (sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên khi tham gia giao dịch). Như vậy, ý muốn cũng thuộc chủ quan của chủ thể, là động lực bên trong thúc đẩy các chủ thể xác lập giao dịch, do đó thể hiện ý chí là biểu lộ cái bên trong đó ra bên ngoài, làm thấy rõ nội dung của ‎ý chí dưới hình thức cụ thể là các hợp đồng (khả năng biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài). Và, người ta có thể nhận biết ý chí đó qua nhiều phương diện khác nhau, 13
  16. mà cơ bản là nhận biết qua: (i) nội dung và mục đích của giao dịch; (ii) tính tự nguyện của chủ thể (i) Sự biểu hiện ‎ý chí qua nội dung và mục đích của giao dịch Mục đích của giao dịch là yếu tố không thể thiếu được trong giao dịch. Mục đích đó có thể là những lợi ích vật chất hoặc những lợi ích tinh thần - điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng cũng như mong muốn của các chủ thể. Tuy nhiên, sự mong muốn của chủ thể sẽ mãi mãi chỉ tồn tại ở suy nghĩ bên trong của chủ thể nếu như không được bày tỏ, biểu lộ “ý chí” bên trong đó ra ngoài dưới một hình thức nhất định. Do vậy, để đạt được mục đích của mình, các bên phải có những cam kết, thỏa thuận với nhau về những nội dung cụ thể. Việc xác lập nội dung cụ thể của giao dịch (hay quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên) xuất phát từ chính các lợi ích, mong muốn bên trong mà chủ thể đang hướng tới. Vấn đề này được các chủ thể thực hiện khi hướng các hoạt động của mình, hành vi của mình vào việc cùng nhau tiến hành trên thực tế những cam kết, thỏa thuận, thống nhất với nhau về nội dung của giao dịch trên cơ sở nhận thức được những tác động của điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Tóm lại, mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thể hiện ý chí của chủ thể, vì thông qua các cam kết, thỏa thuận sẽ cho ta thấy rõ được nội dung của ý chí, đó là: Mục đích của mỗi bên chủ thể hướng tới là gì? họ sẽ có quyền và nghĩa vụ gì đối với nhau và sẽ sử dụng phương thức nào để đạt được y muốn đó? Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này, các bên phải thỏa thuận được với nhau về nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như đối tượng (vật bán), giá cả, thời hạn, phương thức thực hiện hợp đồng… Sự thỏa thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản. Từ đó có thể khẳng định rằng không thể có hành vi 14
  17. mang tính ý chí khi các chủ thể tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao dịch lại không nhằm vào một mục đích nhất định. Có nghĩa là khi tham gia vào các quan hệ trong phạm vi, giới hạn mà pháp luật quy định, chủ thể có năng lực hành vi hoàn toàn có khả năng tự xác định mục đích cho hành động của mình dù là hành vi tuyên bố đơn phương hay hành vi xác lập hợp đồng dân sự. Pháp luật tôn trọng và bảo đảm quyền tự do cam kết thỏa thuận của các bên tham gia giao kết hợp đồng, tôn trọng và bảo vệ những lợi ích mà các bên mong muốn đạt được nhưng không phải không có những giới hạn (hạn chế) nhất định, không thể có tự do ‎ý chí tuyệt đối được. Chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng không thể “bất chấp tất cả” để thỏa mãn nhu cầu của mình. Sự tồn tại đa dạng lợi ích trong xã hội hay xu hướng lấn át của chúng đòi hỏi pháp luật phải tạo ra được một giới hạn phát triển hợp l‎ý cho các lợi ích đó, tạo ra một sự hài hòa cho các lợi ích đang cùng tồn tại trong một mối liên hệ chung. Sự đấu tranh và thống nhất giữa các lợi ích chính là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều này đòi hỏi phải tạo ra phạm vi giới hạn cho quyền tự do phù hợp với yêu cầu xã hội, đòi hỏi của pháp luật. Vấn đề này có nghĩa là y chí của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng phải phù hợp với ý chí của Nhà nước được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật (ý chi của giai cấp thống trị). Bởi vậy trong quan hệ hợp đồng, ý chí của các chủ thể và ý chí của Nhà nước phải được kết hợp lại, ý chí của cá nhân phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Cho nên một trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là “mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội” - (khoản 2, điều 131, BLDS Việt Nam năm 1995). Mục đích và nội dung của giao dịch thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, còn pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước quy định khung pháp l‎ý, tạo hành lang pháp lý. Trong giới hạn hành lang pháp l‎ý đó, các bên 15
  18. tham gia vào hợp đồng được tự do thể hiện ý chí của mình. Việc thiết lập giới hạn của tự do cá nhân trước tiên nhằm bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của xã hội nhưng cũng là bảo đảm an toàn pháp l‎ý cho các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Tính không trái pháp luật phải được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là không chỉ trong phạm vi các điều cấm của pháp luật mà còn không trái với các nguyên tắc chung của pháp luật nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng. Ngoài ra, mục đích và nội dung của giao dịch còn không được trái với đạo đức xã hội (không trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, không trái với những phong tục tập quán). Do vậy, pháp luật và đạo đức xã hội thể hiện ý chí của Nhà nước đã hạn chế tự do ý chí của chủ thể trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng. Nghĩa là, nếu vi phạm điều cấm, vi phạm đạo đức xã hội thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu, tài sản trong giao dịch sẽ bị sung công quỹ nhà nước. Ví dụ: các giao dịch mua bán hàng bị cấm đưa vào lưu thông dân sự như thuốc phiện, chất nổ, vũ khí… Những hạn chế này chính là giới hạn đối với quyền của các chủ thể nhằm mục đích bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia và quốc phòng toàn dân. (ii) Sự biểu hiện của ý chí trong tính tự nguyện của chủ thể Một trong những điều kiện có hiệu lực của một giao dịch là: Những người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện. Điều kiện quan trọng trên đây đã được ghi nhận tại Điều 7 (tự do tự nguyện cam kết, thỏa thuận) và tại Khoản 1, điều 395 (nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng) của BLDS Việt Nam năm 1995. Theo đó, khi xác lập các quan hệ hợp đồng, các chủ thể có quyền: Tự do đề nghị giao kết, tự do chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của phía bên kia, tự do thỏa thuận các điều khoản căn bản của hợp đồng như đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán,… Có thể khẳng định, bản chất của hợp đồng chính là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ‎ý chí của các bên, cho nên tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai 16
  19. mặt của tự nguyện. Tự nguyện phải có tự do ý chí và bày tỏ y chi và phải thống nhất với nhau như là hai mặt của một vấn đề. Điều này được hiểu như sau: ‎ Ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình, khắc phục khó khăn nhằm đạt được mục đích đó tức là chủ thể có khả năng nhận thức được những quy luật tất yếu khách quan (gồm cả quy luật tự nhiên và xã hội) và vận động những quy luật tất yếu vào hành động vì lợi ích của mình. Biểu hiện cụ thể của tự do ý chí là chủ thể đó tự nguyện, hoàn toàn có khả năng lựa chọn một tình huống nhất định khi có nhiều tình huống khác nhau và quyết định theo ý chí của mình. Do đó đối với những người không có tự do ý chí, không có khả năng cân nhắc, phán đoán, lựa chọn và quyết định một cách tự do về cách xử sự của mình, không nhận thức được tính tất yếu và tự do như bị điên, tâm thần, mất trí…hoặc bị đe dọa, lừa dối thì những hợp đồng mà họ giao kết sẽ không có hiệu lực và bị coi là vô hiệu (theo các quy định từ điều 140 đến điều 143 của BLDS Việt Nam năm 1995). Mặt khác, hợp đồng chỉ được hình thành trên thực tế khi ý muốn bên trong của chủ thể phải được biểu lộ ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định. Song, sự biểu lộ ý chí ra bên ngoài phải phản ánh được thực chất nội dung của ý chí bên trong, tức là sự bày tỏ ý chí phải được phản ánh đúng nguyện vọng của chủ thể giao kết. Như vậy, sự thể hiện ý chí chính là phương thức, là cầu nối trong việc tiến hành xác lập hợp đồng sao cho phù hợp với mong muốn, với lợi ích của bản thân các chủ thể tham gia giao dịch. Đây chính là biểu hiện của sự thống nhất giữa cái bên trong (ý chí) với những biểu hiện cụ thể ra bên ngoài (bày tỏ ý chí) – tính tự nguyện của chủ thể. Khác với hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự thống nhất ý chi của một bên, bản chất thỏa thuận của hợp đồng lại luôn cần sự thống nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ. Sự thống nhất ý chí này có thể đạt được 17
  20. ngay sau khi các bên biết được ý chí của nhau, song cũng có thể phải trải qua một quá trình và cần một khoảng thời gian nhất định. Các bên sẽ phải bàn bạc, trao đổi nhằm làm rõ ý chí của nhau và cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn phát sinh về vấn đề lợi ích, quan điểm,…Chủ thể bên này sẽ xem xét ‎ý kiến của bên kia trên quan điểm, lợi ích của mình. Thông thường, sự thống nhất ý chí của các bên sẽ đạt được khi các bên dung hòa được lợi ích khi tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, do giới hạn của những điều kiện khách quan và chủ quan, không phải mọi ý muốn đều có khả năng thực hiện và không phải mọi phương thức mà chủ thể lựa chọn để đạt được ý muốn đều có tính khả thi. Do vậy, tự do ý chí của chủ thể phải trên cơ sở nhận thức được các điều kiện chủ quan và khách quan. Điều đó đồng nghĩa với quy luật: tự do chỉ có khi con người nhận thức được cái tất yếu. Trên thực tế, không phải hợp đồng nào cũng được giao kết xuất phát từ sự tự nguyện của các bên chủ thể mà họ có thể bị ép buộc, đe doạ, lừa dối hay bị nhầm lẫn. Chính vì vậy, hợp đồng được thiết lập trong khi bị đe dọa là hoàn toàn không có tính tự nguyện, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản “ tự do hợp đồng”. Tại Điều 3.9 - Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (Principles 0f International Commercial Contracts, viết tắt theo Tiếng Anh là PICC) của Viện thống nhất tư pháp quốc tế ((Insitut Internationl pour l, Unification des Droits Prive,,viết tắt theo Tiếng Pháp là UNIDROIT) có quy định: “ Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu hợp đồng, nếu bên đó giao kết hợp đồng là do bị bên kia đe dọa không chính đáng, trong trường hợp nghiêm trọng và tức thời đến nỗi họ không còn cách nào khác hơn là buộc phải giao kết hợp đồng. Cụ thể, sự đe dọa là không chính đáng khi hành vi hoặc bất tác vi với một bên trong hợp đồng bị đe dọa là bất hợp pháp, hoặc khi mục đích sử dụng nó là bất hợp pháp nhằm đạt được giao kết hợp đồng”. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2