Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2005
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu về các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, pháp luật chuyên ngành quy định như thế nào về vấn đề này? thực trạng hiến bộ phận cơ thể của cá nhân được thực hiện tại Việt Nam ra sao? So với một số nước trên thế giới việc hiến bộ phận cơ thể của cá nhân có phát triển không?... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2005
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------- LÊ HƢƠNG TRÀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2008
- Công trình được hoàn thành tại: KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập Phản biện 1: ......................................................................................................... ............................................................................................................................. Phản biện 2: ......................................................................................................... ............................................................................................................................. Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi .............. giờ...............ngày ............ tháng .........năm ............... Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm Tư liệu-Thư viện-Đại học Quốc gia Hà Nội HÀ NỘI – 2008
- MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: …………………………………… 1 2. Mục đích nghiên cứu: ………………………………………………………………….. 3 3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: ……………………………… 4 4. Tình hình nghiên cứu đề tài: ………………………………………………………... 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: …………………………………………………………….. 7 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn ……………………………. 7 7. Cơ cấu của luận văn: …………………………………………………………………… 8 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN 9 1.1. Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ở một số nƣớc trên thế giới 9 …………………………………………………………………………………………………… 1.2. Khái niệm quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân …………………… 15 1.2.1. Khái niệm………………………………………………………………………………… 15 1.2.2. Nguyên tắc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân … 20 1.2.2.1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép ……………………… 20 1.2.2.2. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học ……………………………………………………………………………………........... 22 1.2.2.3. Không nhằm mục đích thương mại …………………………………………. 25 1.2.2.4. Giữ bí mật thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác …………………………………………………………………………………………... 27 1.3. Tiến trình phát triển những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ………………………………………. 28 1
- 1.3.1. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 ………………………………. 29 1.3.2. Điều lệ khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng ban hành kèm theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 23-HĐBT ngày 24 tháng 1 năm 1991 ………………………………………………………………………… 30 1.3.3. Bộ luật dân sự năm 1995 ………………………………………………………… 32 1.3.4. Bộ luật dân sự năm 2005 ………………………………………………………… 32 1.3.5. Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 …………………………………………………………………………………………………. 34 CHƢƠNG 2 CÁC YẾU TỐ CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN 36 2.1. Chủ thể của quan hệ hiến bộ phận cơ thể …………………………………. 36 2.1.1. Bên hiến bộ phận cơ thể…………………………………………………………… 36 2.1.2. Bên nhận bộ phận cơ thể người ………………………………………………. 44 2.1.2.1. Người nhận bộ phận cơ thể là cá nhân …………………………………… 46 2.1.2.2. Người nhận bộ phận cơ thể người để chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học ………………………………………………………………….. 49 2.2. Đối tƣợng của quan hệ hiến bộ phận cơ thể ……………………………… 53 2.3. Nội dung quan hệ hiến bộ phận cơ thể ngƣời ……………………………. 58 2.3.1. Quyền của bên hiến bộ phận cơ thể người và điều kiện hiến bộ phận cơ thể 59 người …………………………………………………………………………….. 2.3.2. Quyền của bên nhận bộ phận cơ thể và điều kiện nhận bộ phận cơ thể người ……………………………………………………………………………………… 62 2.3.3. Hình thức, thủ tục hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ….................... 64 2.3.3.1. Hình thức hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ……………………………. 64 2.3.3.2. Thủ tục hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ………………………………... 65 2.3.4. Điều kiện đối với cơ sở y tế lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người . 70 2.3.4.1. Điều kiện đối với cơ sở y tế lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người 70 2.3.4.2. Trình tự thủ tục cho phép cơ sở y tế hoạt động lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể ngườ ……………………………………………………………………………… 74 2.3.5. Các hành vi bị nghiêm cấm ……………………………………………………... 76 2.3.6. Trách nhiệm pháp lý và xử lý vi phạm …………………………………….. 80 2
- CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN 82 3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân 82 ……………………………………………………………………………………… 3.1.1. Tình hình ghép bộ phận cơ thể người và nhu cầu ghép bộ phận cơ thể người 82 tại Việt Nam ………………………………………………………………… 3.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam vể quyền hiến bộ phận cơ thể cùa cá nhân ……………………………………………………………………………………… 84 3.2. Hƣớng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ……………………………………………………………... 96 3.2.1. Những vấn đề bất cập của pháp luật liên quan đến quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân hiện nay ………………………………………………... 96 3.2.2. Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về hiến bộ phận cơ thể của cá nhân …………………………………………………………………... 100 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Theo xu huớng phát triển của thế giới, các nước liên kết với nhau trên tất cả các lĩnh vực để phát triển đất nước ngày một hoàn thiện hơn. Hội nhập kinh tế, quốc tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu nhất là vấn đề gia nhập Tổ chức thương mại thế giới đã giúp cho tất cả các nước khác nhau trên thế giới có điều kiện tăng trưởng và phát triển. Sự liên kết đã tạo nên sự bền vững trong tất cả các lĩnh vực trong xã hội về văn hóa, chính trị, kinh tế, giáo dục, pháp luật, công nghệ sinh học, khoa học ngành y…khoa học ngành y đã thực sự phát triển mạnh mẽ trong việc tìm tòi khám phá ra các phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể con người, cứu sống rất nhiều bệnh nhân với chất lượng cuộc sống rất tốt. Để các phương pháp chữa bệnh mới được thực hiện một cách có hiệu quả trong cuộc sống cần có quy pháp pháp luật để điều chỉnh. Vì vậy, đa số các nước phát triển trên thế giới đã ban hành pháp luật để điều chỉnh quan hệ trong lĩnh vực khoa học ngành y, quy chế pháp lý càng chặt chẽ, hoàn chỉnh, đúng đắn, kịp thời sẽ tạo nguồn lực quan trọng, góp phần định hướng phát triển cho một công nghệ y sinh học của các nước trên thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện mình về kinh tế, pháp luật, xã hội, văn hóa, y tế... để đáp ứng nhu cầu phát triển của toàn nhân loại. Sau thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp Việt Nam đã chuyển sang nền kinh tế thị trường vì vậy điều kiện kinh tế xã hội của đất nước ngày càng phát triển kéo theo sự phát triển của mỗi một người dân về điều kiện sống, nhu cầu của người dân ngày càng tăng, quyền của mỗi một cá nhân cần được pháp luật bảo hộ càng cao, các quan niệm về chính trị, đạo đức, xã hội, công nghệ…của người dân cũng có nhiều thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. 4
- Công nghệ sinh học ở Việt Nam cũng đang từng bước bắt kịp với thế giới, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng tự hào, đặc biệt là kỹ thuật y học. Trong đó, việc cho-nhận, cấy ghép các bộ phận cơ thể là một trong những thành tựu xứng đáng được tự hào, rất nhiều cuộc phẫu thuật cấy, ghép bộ phận cơ thể người đã được thực hiện rất thành công. Theo điều tra xã hội học cho thấy số người bị bệnh gan, tim, thận, phổi…cần phải thực hiện phẫu thuật cấy, ghép ở Việt Nam lên tới con số hàng trăm, hàng nghìn. Đây là nhu cầu rất khẩn thiết của những con người đang bị bệnh tật dày vò. Tìm kiếm bộ phận cơ thể để cấy, ghép cũng là một điều rất khó khăn vì ngoài vấn đề hiến bộ phận cơ thể người của cá nhân được đặt ra để cứu giúp những người trong thời kỳ bệnh tật rất quan trọng. Đồng hành với sự phát triển kỹ thuật y học hiện đại, quy chế pháp lý để kiểm soát nó cùng các hoạt động trực tiếp liên quan cũng dần được xây dựng và đang từng bước cố gắng hoàn thiện của Việt Nam cũng càng ngày càng phát triển. Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam quy định về lĩnh vực này trong Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989 với quy định cho và ghép các bộ phận cơ thể người (Điều 30) đã cho phép các cơ sở y tế có thể có một căn cứ pháp lý để thực hiện chức phận thầy thuốc cứu người của mình. Cho đến nay BLDS 2005 (Điều 33) đã chính thức ghi nhận quyền năng của các chủ thể trong vấn đề này với tư cách là quyền nhân thân không thể phủ nhận. Đây là cơ sở pháp lý mang tính tiền đề cho việc xây dựng và phát triển hoàn thiện quy chế pháp lý về cho, lấy, cấy, ghép bộ phận cơ thể người trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội phát triển mới của y học Việt Nam. Quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ mang tính nguyên tắc và những quy định này đã được cụ thể hóa trong Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc áp dụng những kỹ thuật y học tiến bộ này trong đời sống xã hội. Pháp luật quy định chặt chẽ vấn đề này vừa phù hợp với đạo 5
- đức, truyền thống, văn hóa, vừa đảm bảo quyền của cá nhân được Nhà nước bảo hộ. Quyền hiến bộ phận cơ thể nguời của cá nhân là quyền nhân thân thể hiện sự tự định đoạt của họ đối với các bộ phận trên cơ thể mình. Việc hiến bộ phận cơ thể người được thực hiện một cách đúng đắn sẽ có ý nghĩa tiến bộ và nhân đạo sâu sắc, góp phần vào sự phát triển của y học và khoa học vì con người. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này là rất quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi một cá nhân trong xã hội, đảm bảo các điều luật được ban hành trong Bộ luật dân sự được thực thi có hiệu quả cao. Tôi đã chọn đề tài “quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2005” để nghiên cứu, tìm hiểu giúp bạn đọc có thể hiểu hơn về quyền được hiến bộ phận cơ thể của mỗi một cá nhân trong xã hội, thực trạng hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam cũng như các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật Việt Nam trong hoạt động hiến, lấy, ghép Bộ phận cơ thể người. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể đã được thực hiện thành công ở nhiều nước trên thế giới từ rất lâu, đến nay đã rất phổ biến, đây là phương pháp điều trị mang lại cuộc sống cho rất nhiều người bệnh nên có ý nghĩa nhân đạo rất sâu sắc. Ở Việt Nam, nhu cầu được ghép là rất lớn và ngày càng gia tăng, tuy nhiên nguồn cung cấp bộ phận cơ thể người để đáp ứng nhu cầu được ghép lại rất khan hiếm khiến nhiều người bệnh phải ra nước ngoài để ghép trong khi chi phí cho một cuộc phẫu thuật ở nước ngoài lại rất cao. Kỹ thuật y khoa, trình độ y bác sỹ của Việt Nam đã phát triển đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật cấy ghép bộ phận cơ thể người nhưng tại sao người bệnh vẫn 6
- phải ra nước ngoài để ghép, tại sao dân số Việt Nam rất đông mà bộ phận cơ thể người để cứu sống bệnh nhân lại rất khan hiếm? Vì vậy, mục đích nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu về các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, pháp luật chuyên ngành quy định như thế nào về vấn đề này? thực trạng hiến bộ phận cơ thể của cá nhân được thực hiện tại Việt Nam ra sao? So với một số nước trên thế giới việc hiến bộ phận cơ thể của cá nhân có phát triển không? có thua kém hay tụt hậu gì so với các nước trong khu vực và trên thế giới không? qua đó đề ra hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật để đạt hiệu quả cao mà không vi phạm đạo đức, phong tục tập quán của người Việt Nam và đề xuất những quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tế và xu hướng phát triển của y học Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005” là: - Quy định của một số nước trên thế giới về quyền hiến bộ phận cơ thể; - Tiến trình phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể; - Các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân; - Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể; - Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ thể. Hiến, lấy, ghép bộ phận cơ thể là một lĩnh vực rất rộng vừa liên quan đến y học vừa liên quan đến pháp luật. Tuy nhiên trong Luận văn này chỉ nghiên cứu đến khía cạnh pháp lý về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam từ trước cho đến nay. Để các quy định 7
- về hiến bộ phận cơ thể được thực thi có hiệu quả trong thực tế Luận văn đã nghiên cứu, phân tích những hạn chế của các quy định pháp luật và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiến bộ phận cơ thể là một việc làm nhân đạo đã cứu sống rất nhiều người bệnh. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động hiến bộ phận cơ thể pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã quy định vấn đề này thành Luật riêng và quy định cụ thể trong pháp luật chuyên ngành như Pháp, Hoa kỳ, Nhật, Singapore, Trung Quốc....Do đó đã có rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều cuộc hội thảo thảo luận về vấn đề này. Hiến bộ phận cơ thể là vấn đề bức thiết để chữa bệnh cho bệnh nhân thoát khỏi hiểm nghèo, tuy nhiên ở Việt Nam đây là vấn đề mới có tính nhạy cảm cao liên quan đến phong tục tập quán của người Á Đông nên các đề tài nghiên cứu, các bài viết về vấn đề này còn rất ít. Trong ngành y học đã có nhiều công trình nghiên cứu cấp nhà nước về vấn đề ghép mô, thận, tạng...thực nghiệm cho những người bị bệnh mạn tính ở giai đoạn cuối như đề tài : Nghiên cứu một số vấn đề về ghép gan để tiến hành ghép gan trên người tại Việt Nam, đề tài cấp nhà nước của Học Viện Quân Y năm 2005 hay bài giảng tại Học viện Quân Y của Đỗ Tất Cường và Cộng sự : Ghép tạng, ghép thận và hồi sức điều trị sau ghép năm 2002. Về lĩnh vực pháp luật, hiến bộ phận cơ thể tuy là vấn đề cấp thiết nhưng nó mới được quy định mang tính nguyên tắc trong Bộ luật dân sự 2005 và được cụ thể hóa trong Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và 8
- hiến, lấy xác năm 2006 nên có rất ít người nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này. Tuy nhiên, cũng có mốt số bài viết đề cập về vấn đề này như: - Luận văn thạc sỹ: Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định trong Bộ luật dân sự 2005 của Lê Thị Hoa tháng 12/2006; - Bài viết của Tiến sỹ Phùng Trung Tập về quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5 tháng 3/2005; - Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Minh Du trường Đại học Luật Hà Nội về quyền hiến bộ phận cơ thể theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 tháng 5/ 2006; - Khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Thu Trang trường Đại học Luật Hà Nội về Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn năm 2008; - Bài viết của Nguyễn Mạnh Cường về Một số suy nghĩ khi Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được Quốc Hội thông qua trên Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về y tế số 04 tháng 12/2006; Ngoài ra còn có cuộc tọa đàm về Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và khám nghiệm tử thi do Nhà pháp luật Việt pháp tổ chức năm 2004. Các bài báo, tạp chí, tọa đàm và khóa luận tốt nghiệp đã đề cập về vấn đề này nhưng vào các thời điểm khác nhau trong khi tình hình thực tiễn và pháp luật có nhiều thay đổi mang tính chất bước ngoặt nên chưa toàn diện và chưa đầy đủ về mặt pháp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra, hơn nữa các bài viết trên không đi sâu phân tích quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân mà chỉ phân tích vấn đề này một cách tổng quát. Là điều luật mới trong bộ luật dân sự nhưng nó đã đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội cũng chính vì vậy tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này để quá trình thực 9
- hiện điều luật được hoàn thiện hơn, đưa ra một số giải pháp giải quyết sự tồn tại của pháp luật trong việc quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân. 5. Phương pháp nghiên cứu Để để tài đạt hiệu quả cao trong thực tiễn, trong quá trình nghiên cứu để tài đã sử dụng các phương pháp truyền thống như : + Phương pháp duy vật biện chứng + Phương pháp lịch sử + Phương pháp so sánh + Phương pháp phân tích tài liệu + Phương pháp tổng hợp, đánh giá + Phương pháp quy nạp + Phương pháp diễn dịch 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn Qua quá trình nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ thể của các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam tác giả đã đánh giá được thực trạng của Pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Dựa trên sự đánh giá đó tác giả đã đưa ra được một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân, đảm bảo các quy định của pháp luật được thực thi một cách có hiệu quả trong thực tế. Khi pháp luật về hiến bộ phận cơ thể người được hoàn thiện và thống nhất như thế sẽ có nhiều nguồn hiến bộ phận cơ thể cứu sống được nhiều người bệnh, giải quyết được tình trạng khan hiếm nguồn cung cấp bộ phận cơ thể người ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của Luận văn. - Phần mở đầu 10
- - Chương 1 : Khái quát chung về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân - Chương 2 : Các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân - Chương 3 : Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân và hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân - Kết luận Với đề tài còn khá mới này ở Việt Nam, tác giả biết rằng hạn chế của mình còn nhiều, thiếu sót và lỗi không phải là ít và rất có thể Quý thầy cô và các bạn đọc có những điều không đồng ý với tác giả song tác giả cũng hy vọng có được sự ủng hộ, đóng góp ý kiến của Quý thầy cô và các bạn đọc. Luận văn được hoàn thành dựa trên sự giúp đỡ nhiệt tình của Tiến sỹ Phùng Trung Tập và đồng thời là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Phùng Trung tập đã giúp tôi hoàn thành Luận văn này. CHƢƠNG 1 11
- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN 1.1. Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ở một số nƣớc trên thế giới. Từ nền văn minh cổ đại, ước mơ của con người thể hiện ở các huyền thoại với mong muốn có thể gắn lại đầu, tay, chân….cho con người. Từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVI từ ngữ (greffe, graft) ghép xuất phát từ tiếng Hy Lạp, greife là con dao sắc nhọn dùng để cấy ghép mô, cành tạo cây lai giống với đoạn ghép (greffon, graft) và cây chủ mang hoặc nhận đoạn ghép (porte greffe, implant, recipienti)1 Bắt đầu từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đã xuất hiện việc cấy ghép một số bộ phận cơ thể (BPCT) ở gia cầm, gia súc như cấy ghép cựa gà lên mào gà, lên tai bò, cấy ghép da trên lưng cừu và cấy ghép mảnh biểu bì da tự thân lên vết thương ở người. Từ thế kỷ XX việc hiến BPCT và ghép BPCT người được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Công tác ghép BPCT người được khởi đầu bằng việc ghép thận thực nghiệm và ghép thận tử thi vào người. Ở Áo năm 1902 có Emerich Ulmann thực hiện việc ghép thận trên chó và ghép thận lợn cho người. Năm 1912 ở nước Pháp có ông Elexis Carrel đã đạt giải thưởng Nobel từ việc ghép thận trên chó, kỹ thuật nối các mạch máu rửa thận bằng dung dịch Locke. Đồng thời thực hiện ghép nối chi, ghép tim phổi, ruột, lách, giáp trạng, buồng trứng, tinh hoàn trên động vật. Việc ghép thận tử thi cho người, ghép thận tử tù cho người, ghép thận lấy từ người bệnh đột tử trên bàn mổ ghép cho người đều được các nhà khoa học của các nước như Ukraina, Hoa 1 Giáo sư - tiến sỹ khoa học Lê Thế Trung: “Chiến lược tổng thể về ghép mô, tạng và bộ phận cơ thể trong giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020”, Tạp chí y học thảm họa và bỏng, số 1/2006, tr.7 12
- Kỳ, Pháp thực hiện nhưng đều thất bại. Việc cấy ghép BPCT đã thành công thực sự từ những năm 1954 ở Pháp và Hoa Kỳ2. Các nhà nghiên cứu trên thế giới thực hiện thành công việc ghép BPCT trên người và động vật là một thành tựu lớn trong ngành y học thế giới. Vì vậy, ghép tạng là một trong mười phát minh lớn của thế kỷ XX 3. Khi bước sang thế kỷ XXI các nhà khoa học trên thế giới đã nhất trí nêu mười phát minh lớn tiêu biểu trong thế kỷ XX trong đó có ghép tạng đó là: máy bay, truyền hình, máy tính, năng lượng hạt nhân, laser, internet, du hành vũ trụ, kháng sinh, cấu trúc DNA và ghép tạng. Các thành tựu về kỹ thuật ghép mô, BPCT người trên thế giới đã trải qua gần nửa thế kỷ thực hiện và đã có những bước tiến rất đáng kể. Vì thế, ngày nay việc hiến, lấy, ghép mô, BPCT người đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hiến, lấy, ghép mô, BPCT người một số nước trên thế giới đã có đạo luật điều chỉnh quan hệ trong việc hiến, lấy, ghép mô, BPCT người như Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Bỉ, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan… + Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở các nước Châu Âu. Ở các nước Châu Âu, các quy định pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, BPCT người đã được triển khai thực hiện từ rất sớm, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành phẫu thuật ghép mô, BPCT người phát triển một cách mạnh mẽ vào những thập kỷ gần đây như Pháp năm 1952, Vương Quốc Anh năm 1961, Đan Mạch, Italia năm 1967, Na-Uy năm 1973, Thụy Điển năm 1975, Hy Lạp năm 1983…các nước này đều quy định việc lấy mô, BPCT của người sống 2 Carpentier (1992), Transplantation d‟organes, Flammarion, Paris; J.A.Davidson (1998) “Kidney & Pancrcas Transplantation”, Landes Bioscience – Austin Texas, USA 3 Lê Thế Trung, Phạm Mạnh Hùng (2002): “Xây dựng ngành ghép tạng – Một thành tựu mới của y học Việt Nam”, Kỷ niệm 10 năm ghép thận 4/6/1992 – 4/6/2002 tạp chí thông tin y dược số 6/2002 13
- phải tự nguyện, vì mục đích chữa bệnh, điều trị, nghiên cứu khoa học hoặc vì mục đích chuyên biệt. Pháp luật của các nước này quy định các nguyên tắc, điều kiện cho và sử dụng bộ phận lấy từ cơ thể người. Điều này thể hiện trong Chỉ thị của Nghị Viện Châu Âu và Hội đồng châu Âu về việc xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng và tính an toàn trong hoạt động cho, nhận, kiểm soát, xử lý, lưu giữ, cung cấp mô và tế bào người. Việc lấy BPCT người trong mọi trường hợp phải có sự đồng ý của người cho, sự đồng ý được thể hiện trước một thẩm phán và mọi người đều có quyền hiến tặng BPCT của mình trong lúc còn sống với điều kiện đã đến tuổi thành niên, đủ năng lực hành vi dân sự, có quan hệ huyết thống với người nhận hoặc chứng minh được rằng đã sống chung ít nhất 2 năm với người nhận. Chỉ thị cũng quy định để tránh tình trạng thương mại hóa cơ thể người, mọi phát minh có mục đích sử dụng trái với nhân phẩm con người, trật tự công và thuần phong mỹ tục cũng như việc giải mã một phần hoặc toàn bộ gien người sẽ không được cấp bằng sáng chế. Trong Bộ luật dân sự (BLDS) và Pháp luật y sinh cộng hòa Pháp ngày 30/1/2003 có những quy định nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm đến nhân phẩm và bảo đảm cho con người được tôn trọng ngay từ khi bắt đầu sự sống. Pháp luật của Cộng hoà Pháp quy định cơ thể người là bất khả xâm phạm theo đó cơ thể, các BPCT và sản phẩm từ cơ thể người không thể trở thành đối tượng của quyền tài sản. Theo những nguyên tắc đó BLDS Cộng hoà Pháp quy định tại điều 16-2 chương II: “Tòa án có thể quyết định mọi biện pháp nhằm ngăn chặn hoặc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm trái phép đến cơ thể người hoặc hành vi bất chính nhằm vào BPCT người hoặc sản phẩm từ cơ thể người”. Ở Cộng hoà Pháp dân quyền được coi trọng, do vậy pháp luật Pháp có những quy định bảo vệ con người và tất cả những vấn đề liên quan đến con người. Tại các điều 16-5, 16-6 chương II BLDS Cộng hoà Pháp quy định: “Mọi thỏa thuận được giao kết nhằm mục đích sử dụng cơ thể người, các 14
- BPCT người hoặc sản phẩm từ cơ thể người như một tài sản đều vô hiệu; nghiêm cấm trả thù lao cho người tự nguyện cho người khác tiến hành thí nghiệm trên cơ thể của mình, lấy BPCT của mình hoặc thu thập sản phẩm từ cơ thể mình”. Pháp luật còn quy định không ai được phép công bố bất kỳ thông tin nào cho phép xác định người cho, người nhận BPCT người hoặc sản phẩm từ cơ thể người. Người cho không được phép biết danh tính của người nhận và ngược lại. Trong trường hợp cần thiết vì mục đích chữa bệnh, chỉ các bác sỹ của người cho và người nhận mới được phép tiếp cận những thông tin cho phép xác định danh tính của họ. + Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở các nước Châu Á Tại các nước Châu Á, từ năm 1959 đến nay, nhiều nước như Thái Lan, Nhật Bản, Philippin, Singapore, Malaysia, Indonesia…đều đã có luật quy định về hiến, lấy, ghép mô, BPCT người. Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT của Singgapore năm 2004, Luật về phẫu thuật ghép tạng của Nhật Bản năm 1997. Việc ban hành các quy định về hiến, lấy, ghép mô, BPCT người sớm tạo hành lang pháp lý cho ngành y học có thể tiến hành nghiên cứu để cứu sống người bệnh và quyền của người hiến BPCT được bảo đảm một cách chính đáng. Chính vì những lý do trên mà số bệnh nhân được ghép mô, BPCT người ở các nước này ngày càng tăng lên nhanh chóng. Luật về phẫu thuật ghép tạng của Nhật Bản quy định nghiêm cấm việc mua bán nội tạng, hiến nội tạng phải nhằm mục đích ghép tạng phải tự nguyện, nội tạng dùng được ghép phải dựa trên tinh thần nhân đạo, phải xem xét trao đổi với người cần ghép nội tạng. Theo pháp luật Singapore, thì bất cứ người nào có trạng thái tinh thần khỏe mạnh và từ đủ 18 tuổi trở lên có thể cho bất cứ phần nào của cơ thể người đó cho việc giảng dạy, nghiên cứu, sự tiến bộ của y học hoặc khoa học 15
- răng, điều trị hoặc ghép tạng ở bất cứ bệnh viện nào được ghép, các trường về y tế và răng, các trường đại học hoặc bất cứ cá nhân nào cho việc điều trị hoặc ghép tạng. Đạo luật cũng quy định cho những người không muốn hiến bộ phận của họ phải đăng ký sự phản đối của họ. Người Hồi Giáo và những người trên 60 tuổi không áp dụng quy định của đạo luật. Người dưới 21 tuổi và những người mất trí không áp dụng quy định của đạo luật này trừ trường hợp bố, mẹ hoặc người giám hộ của họ đồng ý việc lấy tạng đó. Những quy định này đã giúp cho ngành cấy ghép của Singapo phát triển nhanh chóng. Trung Quốc được xem là nơi lý tưởng cho việc hiến, cấy. ghép mô, BPCT người vì kỹ thuật ghép tạng khá tốt và giá lại rẻ (chỉ bằng khoảng nửa giá ở các nước phương tây). Trong nhiều năm qua, Trung Quốc đã thu hút được rất nhiều bệnh nhân châu Á, trong đó có bệnh nhân Việt Nam đến ghép tạng. Những quy định liên quan đến vấn đề này cũng được pháp luật Trung Quốc quy định rất chặt chẽ như các vấn đề về thủ tục, về ngoại ngữ, về thời gian, về kinh phí cho việc cấy, ghép BPCT người: * Vấn đề thủ tục: Bệnh nhân muốn đến cấy ghép cơ thể người tại Trung Quốc cần có: - Hộ chiếu và 02 ảnh 4x6 - Visa (theo dạng đi chữa bệnh) Thông thường, nếu là bệnh nhân Việt Nam đi chữa bệnh tại Trung Quốc xin cấp visa thì Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam sẽ cấp visa trong thời hạn 1 tháng. Nếu có nhu cầu gia hạn visa, người nhà bệnh nhân có thể đem giấy giới thiệu của Bệnh viện và visa đến phòng Quản lý Xuất nhập cảnh ở tỉnh có bệnh viện bệnh nhân đang điều trị để xin gia hạn. * Vấn đề ngoại ngữ : Những bệnh viện lớn ở Trung Quốc thường có người phiên dịch bằng tiếng Anh cho khách nước ngoài. Nhưng phần lớn y bác sĩ lại nói tiếng bản địa. Nên nếu muốn thuận tiện hơn, bệnh nhân nên tìm người có 16
- khả năng nói tiếng Trung giúp đỡ khi cần trao đổi. Họ sẽ truyền đạt chính xác những thuật ngữ chuyên môn hơn. * Vấn đề thời gian, kinh phí: Thời gian cho một ca ghép tạng thông thường diễn ra trong một tháng. Tuy nhiên, nhiều khi lại tuỳ thuộc vào phần nội tạng mà bệnh nhân cần có sẵn hay không. Nếu sau khi thử máu và thực hiện các xét nghiệm khác, phần nội tạng bệnh nhân cần có sẵn trong “ngân hàng” nội tạng, thì cuộc đại phẫu thuật có thể được tiến hành ngay. Nhưng nếu “ngân hàng” không có sẵn, bệnh nhân sẽ phải chờ đợi. Nhưng sự chờ đợi cũng không quá lâu, vì “nguồn” nội tạng của Trung Quốc nổi tiếng là rất dồi dào. Chi phí cho một ca ghép tạng tùy thuộc vào từng bệnh viện. Nếu thực hiện ở những bệnh viện lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải giá sẽ cao hơn. Nhưng thông thường sự chênh lệch không quá nhiều. Chi phí từ 20.000USD/ca trở lên. Bệnh nhân có thể chọn các bệnh viện như Bệnh viện Quân đội, thị trấn Hổ Môn, huyện Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông; Bệnh viện Tứ Xuyên; Bệnh viện Vũ Hán, tỉnh Quảng Đông; Bệnh viện Bắc Kinh; Bệnh viện Thượng Hải... để thực hiện phẫu thuật ghép tạng4. + Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở Châu Mỹ Hiến, cấy, ghép mô, BPCT người đã phát triển từ rất sớm và đạt được rất nhiều thành công tại Hoa Kỳ. Đạo luật năm 1987 quy định về cho tạng. Đạo luật quy định một cá nhân ít nhất phải là người 18 tuổi mới có thể thực hiện việc cho tạng với mục đích chữa trị, ghép tạng, giáo dục hoặc nghiên cứu khoa học. Việc cho tạng được thực hiện chỉ với văn kiện cho tạng được ký bởi người cho. Người cho có thể tuyên bố sửa đổi hoặc hủy bỏ việc cho tạng. Việc cho tạng có thể được in trên bằng lái xe. + Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở Châu Đại Dương. 4 “Ghép tạng – Một hoạt động y học không đơn giản”, http:/www.dep.com.vn ngày 19/04/2007 17
- Việc hiến lấy, ghép mô, BPCT người được quy định trong đạo luật về mô người của bang New South Wales của Ôxtrâylia năm 1983 quy định việc hiến BPCT của người lớn và trẻ con. Một người nếu không phải là trẻ em có thể viết cam kết cho lấy đi từ cơ thể họ BPCT nhằm mục đích ghép cho cơ thể người sống khác, dùng cho mục đích điều trị khác, mục đích y khoa hay mục đích chuyên biệt, bác sỹ là người chứng nhận cho cam kết đó. Đối với người hiến là trẻ em thì cha mẹ của đứa trẻ có thể ký cam kết viết tay để ghép vào cơ thể cha, mẹ hay anh chị của trẻ và bác sỹ cũng là người ký chứng nhận vào cam kết trên với điều kiện cha mẹ trẻ là người bình thường, cha mẹ trẻ hiểu được bản chất và ảnh hưởng của việc lấy đi BPCT của trẻ, cam kết được ký tự nguyện và trẻ đồng ý việc lấy và ghép mô, BPCT. 1.2. Khái niệm quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân 1.2.1. Khái niệm Hiến BPCT là một khái niệm không mới đối với nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều nguời dân ở nhiều nước trên thế giới đã quen thuộc với khái niệm này, nó không chỉ là khái niệm thuần túy trong y học mà còn là khái niệm trong luật học và đã rất phổ biến trong đời sống nhân dân các nước. Trên thế giới, số người có nhu cầu cấy, ghép BPCT để chữa bệnh là rất lớn, số người hiến BPCT để chữa bệnh cho người khác hoặc vì mục đích nhận đạo hay vì mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy ngày càng tăng, vì thế khái niệm này không xa lạ với nhiều người dân. Thực tế, các nước phát triển trên thế giới đã thực hiện việc cấy, ghép các BPCT từ rất lâu, kết quả đạt được rất khả thi và đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân nặng. Trong những năm gần đây, nền y học phát triến khá mạnh nên việc hiến, cấy, ghép mô, BPCT đã được thực hiện tại Việt Nam với những tiến trình rất thành công, tuy nhiên đối với người dân Việt Nam những năm 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn