intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

33
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, làm rõ nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự và đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định này tại Tòa án.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHƯƠNG HẠNH QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2004 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
  2. KHOA LUẬT NGUYỄN PHƯƠNG HẠNH QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2004 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình Hµ néi - 2010
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự 6 trong tố tụng dân sự 1.1. Khái niệm, bản chất và ý nghĩa của quyền tự định đoạt của 6 đương sự trong tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng 6 dân sự 1.1.2. Bản chất quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 11 1.1.3. ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 12 1.1.3.1. ý nghĩa về mặt xã hội 12 1.1.3.2. ý nghĩa về mặt pháp lý 13 1.1.3.3. Ý nghÜa vÒ mÆt kinh tÕ 14 1.2. C¬ së cña quyÒn tù ®Þnh ®o¹t cña ®-¬ng sù trong tè tông 14 d©n sù 1.2.1. Cơ sở lý luận của quyền tự định đoạt của đương sự trong tố 14 tụng dân sự 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của quyền tự định đoạt của đương sự trong 15 tố tụng dân sự 1.3. Nội dung quyền tự định đoạt của đương sự 19 1.4. Sự phát triển các quy định về quyền tự định đoạt của đương 21 sự trong tố tụng dân sự của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
  4. 1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 21 1.4.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 23 1.4.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2005 24 1.4.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 27 Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng năm 2004 về 30 quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 2.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu 30 2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết 30 việc dân sự 2.1.2. Quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập có liên quan 35 tới vụ án mà Tòa án đang giải quyết 2.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ 41 sung, rút yêu cầu 2.3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải 47 quyết vụ việc dân sự 2.4. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo, 50 khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng 58 dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến Nghị 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 58 năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 3.1.1. Tình hình thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 58 năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự 3.1.2. Nguyên nhân của hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự 66 trong tố tụng dân sự Việt Nam 3.1.2.1. Về hệ thống quy phạm pháp luật tố tụng dân sự liên quan 66
  5. đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 3.1.2.2. Việc giáo dục, tuyên truyền phổ biến pháp luật chưa được 71 sâu rộng trong nhân dân 3.1.2.3. Nguyên nhân về phía ngành Tòa án 72 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện các quy định của 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 3.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật 73 tố tụng dân sự về quyền tự định đoạt của đương sự 3.2.2. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tố tụng dân 83 sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân 3.2.3. Khắc phục những hạn chế, thiếu sót từ phía ngành Tòa án 84 nhằm nâng cao chất lượng xét xử và đảm bảo cho đương sự thực hiện tốt quyền tự định đoạt của mình kết luận 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, Nhà nước ta đã và đang có những hoạt động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Hiện nay, trong xu hướng hội nhập toàn cầu thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các quan hệ trong xã hội ngày càng được quan tâm, Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã hội đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 15/6/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự như các nguyên tắc của tố tụng dân sự, chứng cứ và chứng minh, thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự... là một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp thời, công bằng, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và xã hội. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Bộ luật này cho thấy còn có nhiều vướng mắc và bất cập trong đó có cả các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự, các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về vấn đề này và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án của Việt Nam là cần 1
  7. thiết. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự, tháo gỡ những bất cập, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự, bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài "Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố có đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam. Cụ thể là một số công trình sau đây: - Công trình nghiên cứu cấp Bộ: "Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự", do Tòa án nhân dân tối cao thực hiện năm 1996; - Luận án tiến sĩ luật học: "Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", do nghiên cứu sinh Phan Hữu Thư thực hiện năm 2001; - Luận văn thạc sĩ luật học: "Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự", do học viên Nguyễn Tiến Trung thực hiện năm 1997. - Các sách chuyên ngành đã xuất bản: Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện Tư pháp, do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007; Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2009; Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử của tác giả Tưởng Duy Lượng, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2009. - Các bài viết đăng trên các tạp chí có bài "Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự" của tác giả Phạm Hữu Nghị, đăng 2
  8. trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2000; "Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự" của tác giả Lê Minh Hải, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 4/2009; "Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2005; "Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm" của tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2007; "Sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự" của tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học, số 8/2007… Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Ngay cả luận văn thạc sĩ luật học "Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự" của học viên Nguyễn Tiến Trung là công trình nghiên cứu có đề cập trực tiếp đến vấn đề này nhưng do công trình này được nghiên cứu trước khi Nhà nước ta ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên cũng chỉ phân tích một số vấn đề có liên quan đến chúng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định này tại Tòa án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan để so sánh, tham khảo. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề lớn, có nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, 3
  9. kinh doanh thương mại và lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 với các nội dung cụ thể như quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện, đưa ra yêu cầu, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự, khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. 4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, làm rõ nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự và đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định này tại Tòa án. Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự như khái niệm, bản chất, ý nghĩa, cơ sở và nội dung của quyền tự định đoạt của đương sự, phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và khảo sát thực tiễn việc thực hiện các quy định này tại các Tòa án từ đó đánh giá, nhận diện được những bất cập của chúng và tìm ra các giải pháp khắc phục. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đường lối của Đảng, Nhà nước ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic… để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. 4
  10. 6. Những điểm mới về khoa học của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ về những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên có những điểm mới khoa học sau: - Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự; - Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; - Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự tại các Tòa án. - Đề xuất được một số kiến nghị về việc hoàn thiện và thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự trong bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. 7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và thực hiện chúng tại các Tòa án. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập về pháp luật tố tụng dân sự ở các cơ sở đào tạo Luật học tại Việt Nam. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. 5
  11. Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị. 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì quyền tự định đoạt của đương sự là: Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện; hòa giải với đương sự phía bên kia [33, tr. 224]. Theo TS. Nguyễn Công Bình thì "quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó" [34, tr. 49]. TS. Nguyễn Ngọc Khánh cho rằng quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự "… thể hiện ở khả năng của những người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại" [6, tr. 57]. Xét về lợi ích thì chính các đương sự trong tố tụng dân sự là chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ việc dân sự cần giải quyết nên đương sự hoàn toàn có quyền tự do quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, 7
  13. quyết định quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự tự quyết định. Sau khi khởi kiện, có thay đổi nội dung khởi kiện hay không, có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các đương sự; điều này đã thể hiện đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ thụ lý để giải quyết vụ việc dân sự khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo đảm cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Như vậy, về lý luận thì các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Tuy vậy, theo các quan niệm này và theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội [16]. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền tự quyết định về phương diện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm và quyền tự định đoạt này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể và có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định 8
  14. đoạt của các đương sự. Tuy nhiên, việc định đoạt của đương sự phải được tiến hành trong khuôn khổ mà luật pháp cho phép, sao cho không xâm hại tới các quyền tố tụng và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của Nhà nước và xã hội. Có thể thấy rằng, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương sự được thừa nhận trong pháp luật tố tụng của nhiều nước trên thế giới. Quyền năng này có nguồn gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận trong các quan hệ dân sự. Ở nước ta, quyền tự định đoạt của đương sự được coi là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, là nền tảng để xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự phản ánh bản chất của các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Đó là các quan hệ xã hội được xác lập trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động là hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng. Vì vậy, quyền tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này cũng được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Theo đó, để phù hợp với các quy định của pháp luật nội dung về các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động pháp luật phải ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Thực tế, khi nói đến khái niệm "quyền" thì nội hàm của nó đã bao hàm cả tính "tự định đoạt" của chủ thể có quyền, nhưng không phải trong mọi trường hợp thuộc tính "tự định đoạt" cũng được phản ánh đầy đủ trong phạm vi quyền. Điều này còn phụ thuộc vào quyền năng đó của chủ thể được thực hiện trong lĩnh vực quan hệ pháp luật nào như: quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, quan hệ pháp luật hành chính hay quan hệ pháp luật hình sự… Chỉ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân 9
  15. và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động thì quyền "tự định đoạt" của chủ thể mới được sử dụng rộng rãi và sâu sắc. Thuộc tính "tự định đoạt" của chủ thể được biểu hiện thông qua các hành vi quyết định về quyền lợi của mình trong các quan hệ được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mặt khác, khi nói đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là muốn nhấn mạnh tới quyền của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án trong suốt quá trình của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt còn thể hiện ở chỗ các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các đương sự. Nói đến quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thì không thể không đề cập đến phạm vi của quyền này, theo đó các đương sự chỉ có quyền định đoạt những vấn đề thuộc phạm vi đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Mặc dù quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là sự thể hiện tự do ý chí của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng đương sự không được thể hiện ý chí tự định đoạt một cách tùy tiện mà phải thực hiện trong một khuôn khổ nhất định do pháp luật quy định. Có nghĩa là quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải được giới hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác. Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội. Qua việc nghiên cứu cho thấy quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có những đặc trưng sau: - Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền về hình thức được thực hiện trong tố tụng dân sự, được quyết định bởi các quyền nội dung trong các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh 10
  16. thương mại và lao động. Vì vậy, về nguyên tắc thì quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự chỉ thuộc về các chủ thể có quyền lợi trong các quan hệ pháp luật nội dung hoặc các chủ thể được đương sự ủy quyền. Tuy nhiên, trong những trường hợp đương sự là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để thực hiện quyền tự định đoạt của mình thì quyền định đoạt này sẽ được thực hiện thông qua hành vi tố tụng của các chủ thể đại diện được pháp luật cho phép. - Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được thể hiện thông qua một hệ thống các quyền tố tụng dân sự mà theo đó trong suốt quá trình tố tụng các đương sự có thể quyết định sử dụng để định đoạt về quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong việc giải quyết vụ việc dân sự. - Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có mối quan hệ biện chứng với quyền công dân và chỉ thực sự được bảo đảm thực hiện khi được quy phạm pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận và bảo vệ. - Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền chủ quan được thực hiện theo ý chí của đương sự có quyền đồng thời cũng là một quyền khách quan được pháp luật quy định và chủ thể có quyền phải thực hiện quyền của mình theo khuôn khổ mà pháp luật cho phép. Do vậy, việc đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình không được xâm hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, quyền lợi của Nhà nước và xã hội. - Trong tố tụng dân sự thì hoạt động của Tòa án có vai trò quyết định đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Việc thực hiện được quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự một phần được quyết định thông qua các hoạt động tố tụng của Tòa án. Vì vậy, pháp luật cần quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự. 11
  17. Từ những vấn đề nêu trên có thể đưa ra kết luận: Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền tố tụng dân sự của đương sự được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương sự được tự mình lựa chọn quyết định các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. 1.1.2. Bản chất quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả các mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Bản chất quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện ở những mặt sau đây: - Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, có nguồn gốc từ các quyền về dân sự (theo nghĩa rộng) do pháp luật nội dung quy định. Do đó, nội dung của quyền dân sự quyết định quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Nếu các quyền dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự không được xác lập hoặc không được pháp luật nội dung thừa nhận thì các quyền tố tụng của đương sự cũng sẽ không tồn tại trên thực tế. Các quyền tố tụng chỉ phản ánh các quyền trong pháp luật nội dung. Điều này phù hợp với lý luận của phép duy vật biện chứng đó là nội dung quyết định hình thức và hình thức là sự phản ánh nội dung, phù hợp với nội dung. - Quyền tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện tính chất các quan hệ diễn ra trong đời sống dân sự của xã hội nói chung. Mà bản chất của các hành vi đó được xác lập trên cơ sở tự do, ý chí, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận và bình đẳng. Trong xã hội có giai cấp, khi sở hữu được xác lập thì quyền tự định đoạt của cá nhân được sử dụng như một giá trị phổ biến trong đời sống dân sự hàng ngày, được pháp luật ghi nhận đó là hình thức của quyền sở hữu và theo đó quyền sở hữu là quyền sử dụng và định 12
  18. đoạt theo ý mình. Khi trình độ phát triển của xã hội càng cao thì các giao lưu dân sự càng trở nên phong phú, phức tạp. Để tham gia vào các quan hệ dân sự, pháp luật phải ghi nhận và bảo đảm quyền tự định đoạt của mỗi chủ thể. Cá nhân, cơ quan, tổ chức tự bày tỏ ý chí, tự lựa chọn và quyết định thực hiện quyền (và nghĩa vụ) theo động cơ, mục đích của mình trong khuôn khổ của pháp luật. Trường hợp có tranh chấp, các đương sự tự do lựa chọn phương thức giải quyết như tự thỏa thuận với nhau hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc, các đương sự vẫn có quyền tự mình quyết định về nội dung tranh chấp và được Tòa án tôn trọng. Sự tham gia của đương sự trong quá trình tố tụng để giải quyết tranh chấp trên cơ sở ý chí, tự nguyện là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của quyền tự định đoạt. - Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong các giai đoạn của hoạt động tố tụng dân sự. Khi tiến hành giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự phải được bảo đảm tự do định đoạt các quyền về dân sự (theo nghĩa rộng) cũng như thực hiện các quyền tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trước Tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự chi phối hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, phạm vi giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc một phần rất lớn vào quyền tự định đoạt của đương sự. 1.1.3. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ và tôn trọng. Không chỉ với ý nghĩa là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, 13
  19. quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn có ý nghĩa đặc biệt cả về xã hội, pháp lý và kinh tế. 1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt xã hội Quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự (theo nghĩa rộng). Khi tham gia vào các quan hệ dân sự, các chủ thể có toàn quyền quyết định tham gia hay không tham gia vào các quan hệ, quyết định quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như phương thức để thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó trên cơ sở thể hiện sự tự do ý chí, cam kết thỏa thuận giữa các chủ thể và khi có tranh chấp hoặc vi phạm xảy ra thì họ cũng hoàn toàn có quyền quyết định việc bảo vệ quyền lợi của mình thông qua việc thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết tranh chấp hoặc quyết định việc có khởi kiện hay không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự vẫn có quyền tự mình quyết định về nội dung tranh chấp và được Tòa án tôn trọng thông qua hành vi rút yêu cầu khởi kiện hoặc tự thương lượng, thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Với việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định việc giải quyết tranh chấp. Vì vậy, đối với những trường hợp đương sự rút đơn khởi kiện, thỏa thuận với nhau việc giải quyết tranh chấp sẽ không làm mất đi những quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các đương sự. 1.1.3.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền được phản ánh và quy định bởi các quyền nội dung trong các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) và các quan hệ này diễn ra trong đời sống hàng ngày. Theo đó, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có quyền tự do, tự quyết định trong việc thiết lập các giao dịch nhằm phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của mình dựa 14
  20. trên cơ sở bình đẳng với nhau về mọi phương diện. Khi có vi phạm hoặc phát sinh tranh chấp thì các chủ thể có quyền tự do lựa chọn nhiều phương thức khác nhau để giải quyết tranh chấp như tự thương lượng, hòa giải hoặc thông qua các cơ quan tài phán như Tòa án, trọng tài. Khi vụ việc đến Tòa án giải quyết đương sự vẫn có quyền thương lượng, thỏa thuận giải quyết. Với việc quy định quyền tự quyết định của đương sự trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ quyền lợi của mình, quyền có thể hòa giải khi đã đưa vụ việc kiện ra Tòa án giải quyết về phương diện pháp lý đã tạo điều kiện cho đương sự có thể tìm cho mình một phương thức để giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. 1.1.3.3. Ý nghĩa về mặt kinh tế Quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các tranh chấp là một quyền đặc trưng của tố tụng dân sự, nó thể hiện ở khả năng các chủ thể tham gia tố tụng có quyền tự do định đoạt các quyền dân sự của mình nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước các vi phạm bằng việc khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự thỏa thuận, thương lượng với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Bằng việc pháp luật tố tụng ghi nhận và bảo đảm cho các chủ thể trong quan hệ dân sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình đã góp phần làm giảm bớt áp lực giải quyết các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án cũng như của đương sự bởi lẽ nếu người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và tự hòa giải thì quy trình tố tụng sẽ chấm dứt và Tòa án cũng không phải tiếp tục giải quyết các tranh chấp theo yêu cầu của đương sự nữa. 1.2. CƠ SỞ CỦA QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2