intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

28
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày những vấn đề lý luận về Toà án trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, thực trạng về Toà án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam; quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò của Toà án trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HẰNG TOµ ¸N TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN X· HéI CHñ NGHÜA VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HẰNG TOµ ¸N TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN X· HéI CHñ NGHÜA VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứa khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Bùi Thị Hằng
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ........ 9 1.1. Nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................................. 9 1.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền ......................................................... 9 1.1.2. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................................................ 12 1.2. Tòa án trong Nhà nước pháp quyền............................................... 17 1.3. Nhu cầu nâng cao vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................ 33 1.4. Các yếu tố tác động đến vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam ................................................. 37 1.4.1. Nhận thức chính trị về vai trò, sứ mệnh của Tòa án .......................... 37 1.4.2. Tổ chức Tòa án và tính độc lập của Tòa án ....................................... 38 1.4.3. Tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật ............................................. 40 1.4.4. Nguồn lực cho hoạt động của Tòa án ................................................. 41 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ........................................................... 43 2.1. Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ................ 43 2.1.1. Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người theo pháp luật Việt Nam ..................................................................................... 43
  5. 2.1.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền con người .... 60 2.2. Vai trò của Tòa án trong đảm bảo tính thống nhất của pháp luật ........ 66 2.2.1. Thực trạng pháp luật và nhu cầu thực tiễn của việc giải thích pháp luật của Tòa án........................................................................... 66 2.2.2. Thực trạng vai trò của Tòa án trong đảm bảo tính thống nhất của pháp luật ............................................................................................. 69 2.3. Vai trò của Tòa án trong kiểm soát hoạt động của cơ quan Nhà nước ... 78 2.3.1. Thực trạng quy định pháp luật về Tòa án kiểm soát hoạt động của cơ quan Nhà nước ........................................................................ 78 2.3.2. Thực trạng hoạt động Tòa án kiểm soát hoạt động của cơ quan Nhà nước ............................................................................................ 83 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....... 95 3.1. Quan điểm nâng cao vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................ 95 3.1.1. Đổi mới nhận thức về vai trò của tòa án ............................................ 95 3.1.2. Bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án ................................................... 96 3.1.3. Đổi mới tổ chức Tòa án gắn liền với quá trình hội nhập pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền con người......................... 100 3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .......................... 103 3.2.1. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền con người ..... 103 3.2.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo đảm tính thống nhất của pháp luật ............................................................................. 106 3.2.3. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong kiểm soát hoạt động của cơ quan Nhà nước ...................................................................... 108 KẾT LUẬN .................................................................................................. 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 115
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CNH- HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa HĐXX: Hội đồng xét xử NNPQ: Nhà nước pháp quyền QPPL: Quy phạm pháp luật TAND TC: Tòa án nhân dân tối cao UBNN: Ủy ban nhân dân UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc Hội VKS: Viện kiểm sát XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước tình hình quan hệ quốc tế ngày càng trở nên sôi động, đa dạng hóa, đa phương hóa như hiện nay, việc hợp tác, ký kết với các nước cũng đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, phương diện và các mối quan hệ; Vì yêu cầu đó, Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ trương này đã dần dần đi vào cuộc sống và phát huy nhiều mặt tích cực của nó ngay cả khi mới chỉ ở giai đoạn lý luận. Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền được thể hiện ngay trong Hiến pháp năm 2013, đây là một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, chi phối các quá trình xã hội và có ý nghĩa như một điều kiện tiên quyết cho việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước cũng như việc xây dựng và thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Tư tưởng pháp quyền phải được thể hiện và thực thi trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Hiến pháp đã thể hiện nhận thức đó trong từng chương, từng điều, quy định với tư cách là đạo luật cơ bản của Nhà nước. Song song với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương cải cách tư pháp, để công tác tư pháp ngang tầm với những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước, xu thế hội nhập, hợp tác, bang giao quốc tế bởi vì cải cách tư pháp có đóng góp trực tiếp đến nhà nước pháp quyền. Trước nhiệm vụ phát triển, bảo vệ đất nước và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới, cùng với cải cách nền hành chính, Đảng ta chủ trương ban hành và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm và lấy tranh tụng làm khâu đột phá. 1
  8. Với vị trí là cơ quan duy nhất nhân danh nước CHXHCN Việt Nam thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân đã góp phần to lớn vào việc giữ gìn, bảo đảm công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đem lại niềm tin cho nhân dân đối với nhà nước và chế độ xã hội. Kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 2013 khẳng định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (Khoản 3, Điều 102). Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải nhận thức rõ hơn về Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp sửa đổi 2013 khẳng định tính bức thiết, tất yếu phải xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta. Nhận thức rõ tư tưởng pháp quyền phải được thể hiện và thực thi trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, Hiến pháp đã thể hiện nhận thức đó trong từng chương, từng điều quy định với tư cách là luật cơ bản của Nhà nước. Chính nội dung Hiến pháp đã giúp cho mỗi cơ quan Nhà nước, đội ngũ công chức và mọi công dân nhận thức đầy đủ hơn về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa hiện nay là dựa trên những quan điểm và đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Trong đó, nội dung đầu tiên là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật bắt đầu từ Hiến pháp và khẳng định tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật là công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước. Mọi cơ quan tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, nếu vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật. 2
  9. Hiến pháp 2013 đã được thông qua là căn cứ để xây dựng hệ thống pháp luật, ban hành luật mới và sửa đổi các luật đã có cho phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thông suốt và nghiêm minh. Song hành với hoàn thiện pháp luật là việc xây dựng và cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy Nhà nước. Theo đó, bản Hiến pháp mới đã quy định rõ vai trò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định cơ chế vận hành: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước gắn liền với xây dựng đội ngũ công chức có trình độ, năng lực đạo đức, trách nhiệm và thượng tôn pháp luật. Hiến pháp là cơ sở để đổi mới hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, bảo đảm cho quản lý của Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực trên cơ sở quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, trong toàn bộ tiến trình đổi mới của đất nước, so với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách hành chính, đổi mới trong lĩnh vực tư pháp còn chậm và chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay. Mặc dù đã có đổi mới nhưng tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay về cơ bản vẫn không thay đổi, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp theo các mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bất cập hiện nay trong hệ thống Tòa án đã và đang tồn tại và khó có hướng giải quyết đó là cơ cấu về các tòa án chưa hợp lý về cả thẩm quyền lẫn tổ chức bộ máy đó là: Đối với Tòa án địa phương, ngay trong nội tại tên gọi đã thể hiện sự chịu ảnh hưởng của chính quyền, do vậy, sự độc lập là tương đối. Về thẩm 3
  10. quyền xét xử thì tòa án địa phương là cơ quan xét xử chủ yếu của hệ thống tòa án; Tòa án nhân dân cấp huyện là nơi giải quyết xét xử theo thủ tục sơ thẩm trên 80% các loại vụ án thuộc thẩm quyền của hệ thống Tòa án nhân dân. Nhưng cơ sở vật chất, cơ cấu cán bộ lẫn hệ thống pháp luật của hệ thống tòa án địa phương còn hạn chế và chưa xứng tầm và chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Mặt khác, Tòa án nhân dân cấp huyện được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện. Vì vậy, hình thành tâm lý coi Tòa án cấp huyện như đơn vị chức năng thuộc đơn vị hành chính cấp huyện, mặc nhiên hạ thấp địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân cấp huyện và ảnh hưởng đến tính độc lập tương đối của Tòa án nhân dân cấp huyện. Xuất phát từ phát triển kinh tế xã hội của các đơn vị hành chính cấp huyện không đồng đều, tình hình dân số, tình hình phát sinh diễn biến tội phạm, tình hình các tranh chấp không đồng đều giữa các đơn vị hành chính cấp huyện, do đó phát sinh sự không đồng đều số lượng vụ án mà các Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết xét xử. Có đơn vị Tòa án cấp huyện hàng năm phải giải quyết, xét xử trên dưới 3000 vụ án các loại (tình trạng quá tải), trong khi đó có Tòa án cấp huyện hành năm giải quyết xét xử trên dưới 1000 vụ án các loại (huyện miền núi). Tồn tại, bất cập nêu trên đã và đang diễn ra, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, nhất là các Tòa án cấp huyện rơi vào tình trạng quá tải. Ở Toà án nhân dân cấp tỉnh, tồn tại bất cập nổi bật hiện nay là tổ chức và hoạt động của các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Số lượng vụ án cần giải quyết của các tòa chuyên trách luôn không đồng đều và biến động ngay trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh, và không đồng đều giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Do vậy, việc bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ chuyên trách nhiều khi rất khó và không thể hợp lý. Đối với Tòa án nhân dân tối cao: Bất cập lớn nhất của Tòa án nhân dân tối cao hiện nay là tình trạng quá tải về xem xét giải quyết đơn đề nghị theo 4
  11. thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tình trạng này ảnh hưởng đến các hoạt động khác của Tòa án nhân dân tối cao. Một trong những nguyên nhân của tình trạng nêu trên là do pháp luật hiện hành quy định về thẩm quyền, và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao. Điều này thể hiện ở chỗ Tòa án nhân dân tối cao vừa có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, nên phải dàn trải nguồn lực để thực hiện 2 nhiệm vụ này, trong khi đó không thể phân cấp cho Tòa án cấp dưới thực hiện. Về cơ cấu tổ chức, trong đó có quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi mở phiên họp để xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia, quyết định của Hội đồng phải được quá nửa tổng số thành viên tán thành nghĩa là thành viên Hội đồng Thẩm phán phải tham gia đầy đủ các phiên họp, mà các thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đều giữ các chức vụ chủ chốt của Tòa án nhân dân tối cao. Trong cơ cấu tổ chức các đơn vị giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao hiện nay chủ yếu là giúp việc để lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao điều hành các hoạt động của ngành Tòa án nhân dân, chưa được tổ chức theo hướng thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, cần phải có sự thay đổi để các đơn vị chuyên trách, giúp việc của TAND tối cao phải được tổ chức để đủ khả năng, điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ đó, đồng thời cũng là đảm bảo cho Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao điều hành các hoạt động của ngành Tòa án nhân dân. Hàng loạt các vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò của Tòa án đang đặt ra cấp thiết cần phải làm rõ và giải quyết như việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân gắn liền với quyền nhân thân và tài sản; các quyền tự do, dân chủ của công dân trong một xã hội pháp luật, dựa trên sự công bằng, bảo vệ công lý, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật gắn với nhu cầu Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 5
  12. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” là đề tài vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân chẳng hạn như: Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam liên quan đến tòa án: Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước pháp luật “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Lê Thành Dương năm 2002; Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005; “Một số vấn đề về bộ máy Nhà nước” của GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải năm 2002; “Hệ thống các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của tập thể tác giả do GS. TSKH Đào Trí Úc làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 2002... Các bài viết công bố trên các tạp chí chuyên ngành luật như: “Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam ” của GS. TSKH Lê Cảm - Tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006; “Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp” của tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002... Các nghiên cứu trên đã phân tích, đánh giá ở những mức độ khác nhau nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của Tòa án vẫn 6
  13. chưa được giải quyết một cách có hệ thống trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: Một là: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền. Hai là: Đánh giá, phân tích thực trạng về vai trò của Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ba là: Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến vị trí, vai trò của Tòa án nhằm phân tích, đánh giá ở những mức độ khác nhau nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, việc nghiên cứu phát triển tổng thể liên quan đến lĩnh vực Toà án vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách có hệ thống trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đề tài xem xét, phân tích những điểm mới của vị trí, vai trò của Tòa án trong xây dựng nhà nước pháp quyền, và điểm chưa phù hợp với thực tiền nhằm đưa ra nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí, vai trò của Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. 5. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá khái quát thực trạng những quy định pháp luật hiện hành và thực trạng thực hiện pháp luật về vai trò của Tòa án nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. 7
  14. 6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN. - Phân tích thực trạng vị trí, vai trò của Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. - Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 6.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin - Các phương pháp khác: Phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh… 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về Toà án trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng về Toà án trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò của Toà án trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. 8
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.1. Nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu Nhà nước pháp quyền một cách đơn giản đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật và mọi hoạt động của nhà nước đều tuân thủ pháp luật, coi pháp luật là tiêu chí cho mọi hoạt động của Nhà nước mà ở đó mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ và thượng tôn pháp luật. Tư tưởng pháp quyền được hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử của văn minh nhân loại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của pháp quyền đã không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiện theo từng giai đoạn và từng thời kỳ lịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện, nơi mà nền dân chủ sơ khai bắt đầu được hình thành; Trong giai đoạn này, các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ thuần túy quan tâm tới tính thượng tôn của pháp luật mà còn coi pháp quyền như là một phương thức tìm kiếm sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà nước. Tư tưởng và các học thuyết pháp quyền được tiếp tục bổ sung và phát triển khi giai cấp tư sản ở các quốc gia phương Tây không ngừng lớn mạnh, đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội, từ đó từng bước giành ảnh hưởng trên chính trường. Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp quyền được phát triển và hòa quyện vào các học thuyết về phân quyền, chủ nghĩa lập hiến và dân chủ; Nhiều nhà nghiên cứu lớn đã xuất hiện với vai trò hết sức quan trọng trong việc bồi đắp và phát triển các học thuyết pháp quyền. Các tên tuổi 9
  16. và tác phẩm trứ danh trong thời kỳ này cần phải kể đến là John Locke với tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, J.J. Rousseau với tác phẩm “Khế ước xã hội” và Ch.L. Montesquieu với tác phẩm “Tinh thần pháp luật”. Đặc điểm nổi bật nhất của tư tưởng pháp quyền trong giai đoạn này là đề cao các giá trị dân chủ, tự do và quyền con người. J.J. Rousseau đã bắt đầu tác phẩm của mình với câu nói bất hủ: “Con người được sinh ra một cách tự do, nhưng khắp nơi lại bị xiềng xích”. Từ đó, các nhà tư tưởng trong giai đoạn này tập trung tìm kiếm một cơ chế chế ước quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm quyền và xây dựng một mô hình chính phủ hợp lý nhằm hạn chế việc vi phạm các quyền con người. Ch.L. Montesquieu với học thuyết tam quyền phân lập đã được các học giả tư sản phương Tây coi là hòn đá tảng trong việc xây dựng lý luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản. Các hướng tiếp cận về pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới là hết sức phong phú, đa dạng, để có thể hiểu được toàn diện khái niệm pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới, chúng ta cần xem xét các học thuyết pháp quyền trong mối quan hệ biện chứng, liên tục, đan xen, gắn bó và bổ sung cho nhau. Trong khi hệ thống pháp luật Anh - Mỹ nhấn mạnh pháp quyền như một sự cơ chế đảm bảo cho sự vận hành hợp lý và hiệu quả của hệ thống pháp luật nhằm giúp các cá nhân trong xã hội có thể hợp tác và theo đuổi những kế hoạch phát triển của mình thì các học thuyết pháp quyền của Đức nhấn mạnh đến nguyên tắc phân chia, phân công quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước, củng cố cơ chế tiếp cận công lý và đảm bảo quyền con người. Hướng tiếp cận về pháp quyền của Trung Quốc, quốc gia có hệ thống pháp luật XHCN lại thể hiện thái độ thận trọng trên con đường tìm kiếm mô hình nhà nước pháp quyền XHCN. Trong khi đó, các tổ chức quốc tế nhấn mạnh đến tính linh hoạt, tính mở và năng động của khái niệm pháp quyền trên thế giới tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống, tính cách dân tộc của từng quốc gia. 10
  17. Tư tưởng và học thuyết pháp quyền hiện đại của phương Tây được truyền bá vào Việt Nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần và lên án chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp quyền của Chính phủ Pháp tại thuộc địa Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian dài sau khi giành được chính quyền, do đất nước rơi vào hoàn cảnh chiến tranh, cộng với những định kiến sai lầm trong quan niệm về pháp quyền, đồng nhất một cách máy móc nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản nên các tư tưởng, học thuyết và nguyên tắc pháp quyền vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu, tìm tòi, hoàn thiện. Khi bàn về Nhà nước pháp quyền, thì các Nhà khoa học pháp lý trên thế giới cũng như các nhà khoa học pháp lý của Việt Nam có những quan điểm khác nhau. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, thì “Nói đến Nhà nước pháp quyền, trước hết người ta nói đến sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội và chính trị với tư cách là ý chí của nhân dân, có giá trị phổ biến” [6, tr.11]. Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt thì, “Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả Nhà nước) đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật-một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người” [6, tr.11]. Theo PGS.TSKH. Lê Cảm thì: Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền trong hệ thống chính trị của xã hội công dân (dân sự) được xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như: Công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giá trị xã hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, sự phân công quyền lực (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và chủ quyền của nhân dân [6, tr.11]. 11
  18. Quan điểm của các nhà khoa học nói trên đều tiếp cận khái niệm NNPQ nhưng từ các góc độ khác nhau. Tóm lại rút ra từ các quan điểm trên thì “Nhà nước pháp quyền là nhà nước luôn đề cao vai trò của pháp luật, quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có những công cụ hữu hiệu đảm bảo để pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh trong đời sống xã hội; mọi tổ chức, cơ quan và mọi cá nhân con người trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Pháp luật là nguyên tắc cơ bản nhằm tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, tổ chức cuộc sống cộng đồng của toàn xã hội, điều hoà phối hợp tất cả các hành vi, ứng xử của các thành viên trong cộng đồng xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó một “xã hội công dân” văn minh và dân chủ, ở đó Nhà nước và công dân là bình đẳng với nhau, đều tuân theo pháp luật, dựa trên sự điều chỉnh của pháp luật, là Nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người phải được pháp luật bảo vệ và tôn trọng; những hành vi đối xử với nhân dân thể hiện thái độ lộng quyền, hách dịch và quan liêu của bất kỳ cá nhân có chức vụ hay tổ chức nào đều bị xử lý, mọi hành vi xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ và những quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật”. 1.1.2. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Từ năm 1986, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp từng bước được xóa bỏ, yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã yêu cầu nhà nước Việt Nam phải được tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ chức để thích ứng tốt hơn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sau 5 năm thực hiện chính sách đổi mới, tại Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ngày 29 tháng 11 năm 12
  19. 1991, khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được đề cập tới như một mục tiêu cần hướng tới của một xã hội văn minh. Sau một thời gian dài của quá trình nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm, đến năm 2002, yêu cầu xây dựng “Nhà nước pháp quyền XHCN” mới chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định định hướng cho quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 12 tháng 01 năm 2011 đến ngày 19 tháng 01 năm 2011. Trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế bộ máy, Đảng ta nhận định: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam là một tất yếu khách quan, công tác xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nhà nước với mong muốn dân chủ, nhân đạo và công bằng nhất, là nhà nước mà nhân dân lao động không chỉ là khách thể của quyền lực nhà nước mà còn là chủ thể tối cao của quyền lực đó. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, pháp luật phải thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ nhân dân. Các cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức xã hội và mọi công dân hoạt động trên cơ sở pháp luật và chịu sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật. Đặc biệt mọi công dân sống trong xã hội phải hiểu biết pháp luật, pháp luật không phải của riêng Nhà nước mà của toàn xã hội, công dân phải biết dùng pháp luật để bảo 13
  20. vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời hiểu biết pháp luật sẽ giúp cho bản thân ý thức và tuân thủ pháp luật được tốt hơn. Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm 1959. năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [11, tr.14]. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2