intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

36
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tìm hiểu sự đa dạng, phong phú của hệ thống từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội; tìm hiểu đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông; tìm hiểu phương thức định danh của các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ NGỌC LY TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở ĐA SỸ, HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ NGỌC LY TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở ĐA SỸ, HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 8 22 90 20 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ NGỌC ANH HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả luận văn Đặng Thị Ngọc Ly
  4. BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT TT QUY ƯỚC GIẢI THÍCH VIẾT TẮT 1 Thành tố độc lập 2 A Yếu tố có nghĩa dùng trong ngôn ngữ toàn dân 3 Thành tố không độc lập 4 B Yếu tố có nghĩa dùng trong phương ngữ
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN ..................................... 9 1.1.Cơ sở lý thuyết ........................................................................................ 9 1.2. Khái quát nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông ................................................ 25 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TỪ NGỮNGHỀ RÈN ĐA SỸ, HÀ ĐÔNG ...................................................................................................... 30 2.1. Dẫn nhập .............................................................................................. 30 2.2. Đặc điểm từ ngữ nghề rèn Đa Sỹ xét theo phạm vi ............................. 30 2.3. Đặc điểm từ ngữ nghề rèn Đa Sỹ xét theo cấu tạo............................... 32 2.4. Đặc điểm từ ngữ nghề rèn Đa Sỹ xét theo mô hình cấu tạo ................ 38 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA TỪ NGỮNGHỀ RÈN ĐA SỸ, HÀ ĐÔNG ...................................................................................................... 55 3.1. Dẫn nhập .............................................................................................. 55 3.2. Đặc điểm định danh của từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông .............. 55 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 85
  6. DANH MỤC BẢNG, BIỂU Biểu đồ 2.1: Các nhóm từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ - Hà Đông ................. 31 Bảng 2.2. Số lượng các nhóm từ ngữ nghề rèn xét theo cấu tạo từ ........ 32 Biểu đồ 2.2: Các nhóm từ đơn nghề rèn Đa Sỹ - Hà Đông (Xem phụ lục Bảng 2.2) ................................................................................................. 33 Biểu đồ 2.3: Nhóm các từ ghépnghề rèn Đa Sỹ - Hà Đông .................... 35 Biểu đồ 2.4: Phân loại từ ghép của từ ngữ nghề rèn Đa Sỹ .................... 36 Bảng 2.4:Nhóm các từ ngữ nghề rèn là từ ghép chính phụ .................... 36 và từ ghép đẳng lập. ................................................................................ 36 Biểu đồ 2.5:Nhóm các từ ngữ nghề rèn là từ ghép chính phụ ................ 37 Bảng 2.5: Ngữ định danh nghề rèn xét theo số lượng thành tố cấu tạo .. 46 Bảng 3.1: Biểu thức định danh dùng thành tố chung (cơ sở) ...................... 56 Bảng 3.2. Phương thức định danh phức hợp của từ ngữ nghề rèn Đa Sỹ - Hà Đông .................................................................................................. 58 Bảng 3.3. Phương thức định danh tên/loại sản phẩm nghề rèn Đa Sỹ - Hà Đông kết hợp với các dấu hiệu chỉ đặc điểm .................................... 59 Bảng 3.4: Mô hình định danh thành tố chỉ nguyên vật liệu kết hợp cácdấu hiệu chỉ đặc điểm ........................................................................ 67 Bảng 3.5: Mô hình định danh thành tố chỉ quy trình sản xuất kết hợp các dấu hiệu chỉ đặc điểm .............................................................................. 69 Bảng 3.6:Mô hình định danh thành tố chỉ công cụ hành nghềkết hợp ......... 73 các dấu hiệu chỉ đặc điểm ......................................................................... 73
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Có thể nói, từ nghề nghiệp vừa là công cụ, vừa là phương tiện giao tiếp của người làm nghề, đồng thời từ nghề nghiệp cũng là phương tiện phản ánh văn hóa của cư dân nơi đó. Hiện nay, do trình độ công nghiệp hóa ngày càng cao, kéo theo cơ giới hóa nông nghiệp khiến nhiều làng nghề truyền thống đang dần bị mai một hoặc thay đổi, điều này cũng đồng nghĩa với việc nhóm từ của các nghề truyền thống có nguy cơ biến mất. Do đó, việc thu thập và nghiên cứu từ nghề nghiệp là cần thiết, không những bổ sung và làm phong phú vốn từ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt nói chung và từ ngữ làng nghề nói riêng, mà còn góp phần làm nên bức tranh đa dạng của ngôn ngữ văn hóa dân tộc, bởi trong một tương lai không xa, khi máy móc thay thế con người, nhiều từ ngữ sẽ bị lãng quên đi một cách tất yếu. 1.2.Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, trong khi nghề rèn lại là nghề truyền thống mang đậm dấu ấn lao động nông nghiệp. Mặc dù nghề rèn có mặt ở nhiều vùng miền, nhưng nghề rèn ở Đa Sỹ - một làng cổ nằm bên dòng sông Nhuệ thuộc quận Hà Đông, Hà Nội, từ lâu đã được biết đến như một làng nghề truyền thống, nổi tiếng và có lịch sử lâu đời. Do được nhiều nơi biết đến với các vật dụng bằng kim khí, phục vụ sản xuất nông nghiệp và các vật sản phẩm khác như: dao, kéo, tràng, bào, đục,… nghề rèn Đa Sỹ đã mang đến nhiều sản phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày của người dân. Chính vì vậy mà năm 2014, làng nghề rèn Đa Sỹ vinh dự được Trung ương hội làng nghề truyền thống vinh danh là một trong sáu làng nghề truyền thống tiêu biểu toàn quốc. 1.3. Cho đến nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về từ nghề nghiệp; tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ (Hà Đông – Hà Nội). Việc tìm hiểu từ ngữ về nghề rèn ở Đa Sỹ không những góp phần xác lập được một hệ thống các đơn vị từ vựng liên quan đến nghề làm rèn ở nước ta, khẳng định vị thế xứng đáng của nhóm từ ngữ này trong vốn từ ngữ toàn 1
  8. dân, mà còn góp phần quảng bá cho ngành rèn ở Hà Đông nói riêng và nghề rèn ở Việt Nam nói chung. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu từ nghề nghiệp trên thế giới Các nhà nghiên cứu nước ngoài, tiêu biểu là các nhà nghiên cứu Xô viết: L.A. Kapanađze và A.V. Superanskaja trong khi bàn đến thuật ngữ, hệ thống thuật ngữ, các tác giả đã đề cập đến từ ngữ nghề nghiệp, đặc biệt là việc gọi tên các đối tượng. Tuy nhiên, các tác giả chưa bàn sâu đến lớp từ của những người làm nghề ở các phương diện định danh, ngữ nghĩa mà chỉ đề cập đến tên gọi các đối tượng một cách khái quát. Theo tác giả V.D. Bonđaletop - nhà ngôn ngữ học Xô viết đã phân loại các biến thể lời nói, trong có tiếng nghề nghiệp. Theo ông, “tiếng nghề nghiệp thật sự (đúng hơn là những hệ thống từ vựng), ví dụ như “tiếng” của người đánh cá, những người đi săn, thợ đồ gốm, công nhân làm gỗ, người làm len, thợ đóng dày, và cả những người làm các ngành nghề khác” [Dẫn theo 55, tr2]. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông mới chỉ dừng lại ở những quan niệm khái quát, nêu ra những hiện tượng ngôn ngữ đơn lẻ của những người làm nghề, mà chưa nghiên cứu cụ thể từ ngữ nghề nghiệp trên các phương diện cấu tạo, hay định danh, ngữ nghĩa. IU.V.Rozdextvenxki khi đề cập đến vấn đề “giáo dục ngôn ngữ nghề nghiệp” tuy không bàn sâu đến từ ngữ nghề nghiệp nhưng tác giả cũng đã chỉ ra lớp từ “được cá nhân học theo loại hình công việc”. Theo ông, từ điển bách khoa là một trong những cơ sở của giáo dục ngôn ngữ nghề nghiệp, “trong việc lựa chọn và giải thích vốn từ vựng nghề nghiệp”[Dẫn theo 31, tr.369]. 2.2. Từ ngữ nghề nghiệp ở Việt Nam Ở Việt Nam, từ nghề nghiệp đã được nghiên cứu theo hai hướng: 2
  9. Hướng thứ nhất: Từ nghề nghiệp được các nhà Việt ngữ học đề cập đến trong các giáo trình ngôn ngữ học từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX. Nguyễn Văn Tu trong Từ vựng học tiếng Việt hiện đại [53] là một trong những nhà ngôn ngữ học đầu tiên của Việt Nam trong khi trình bày hệ thống vốn từ tiếng Việt hiện đại đã đề cập đến lớp từ thuộc về nhóm người làm nghề - từ nghề nghiệp. Tuy nhiên, ông cũng mới chỉ dừng lại ở việc nêu khái quát, chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể vào từng nghề. Đỗ Hữu Châu trong giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt [10] cũng đã có những những nghiên cứu nhất định về từ nghề nghiệp nhưng tác giả cũng chỉ mới đưa ra khái niệm làm nền tảng cho nghiên cứu. Về sau này, các tác giả như Hoàng Thị Châu trong Phương ngữ học tiếng Việt [13] , Nguyễn Thiện Giáptrong Từ vựng học tiếng Việt [19] , nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt [15] cũng đã đề cập đến từ nghề nghiệp và phân biệt từ nghề nghiệp với các lớp từ khác (thuật ngữ, tiếng lóng, từ địa phương). Đặc điểm chung của các công trình trên là các nhà nghiên cứu xem từ ngữ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị công cụ, sản phẩm lao động, quá trình sản xuất của một nghề nào đó trong xã hội. Những từ ngữ này, nếu không là người trong nghề sẽ khó hiểu, thậm chí có những từ ngữ nghề nghiệp mà người ngoài nghề không thể hiểu. Do tính chất của giáo trình, các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chưa đi sâu tìm hiểu một cách đầy đủ mối quan hệ giữa từ ngữ nghề nghiệp với từ địa phương, thuật ngữ, tiếng lóng. Các nhà nghiên cứu cũng chưa có điều kiện để nghiên cứu sâu từ ngữ nghề nghiệp ở phương diện cấu tạo, đặc điểm về định danh, ngữ nghĩa từ bình diện ngôn ngữ - văn hóa. Hướng thứ hai: Nghiên cứu từ nghề nghiệp được thể hiện trong từng nghề cụ thể. Những năm gần đây, nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp từng nghề cụ thể trong từng địa phương đã được nhiều tác giả quan tâm. Cụ thể là của các tác giả: Phạm Hùng Việt: Về từ chỉ nghề gốm; Võ Chí Quế: Tên gọi các bộ phận của cái cày qua 3
  10. một số thổ ngữ ở Thanh Hóa; Triều Nguyên: Tên gọi các bộ phận của cái cày qua một số thổ ngữ ở Thừa Thiên Huế; Phạm Thị Tố Huyền: Đặc điểm tên gọi các công cụ qua các thổ ngữ Quảng Bình; Lương Vĩnh An: Vốn từ chỉ nghề cá ở tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng; Đoàn Nô: Ngư cụ thủ công chủ yếu và nghề cá ở Kiên Giang…và một số luận văn của Mã Thị Nguyệt: Từ ngữ nghề rèn của người Nùng ở Phúc Sen; Nguyễn Văn Dũng: Từ ngữ nghề nghiệp nghề biển ở Thanh Hóa (Từ bình diện ngôn ngữ - văn hóa); Nguyễn Văn An: Từ ngữ nghề gốm Thổ Hà; …. Các bài viết và các luận văn được công bố trên đã bước đầu nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp trên các phương diện cấu tạo, định danh; khảo sát một số lượng đáng kể từ ngữ của từng nghề; phân tích mối quan hệ giữa từ nghề nghiệp với từ địa phương, từ toàn dân, thuật ngữ. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu đó chủ yếu là làng nghề truyền thống của một địa phương hoặc do tính chất của công trình, một số công trình chưa có điều kiện đi sâu phân tích về vấn đề định danh, ngữ nghĩa. Trong số các tư liệu nghiên cứu về từ ngữ nghề nghiệp, đề tài khoa học cấp viện của Viện Ngôn ngữ học Từ ngữ nghề nghiệp gốm sứ Bát Tràng [55] do tác giả Nguyễn Văn Khang làm chủ nhiệm đề tài là đáng chú ý. Nhóm tác giả đã có những nghiên cứu khá toàn diện về tiếng nghề nghiệp, khu biệt với những loại từ cùng thuộc phương ngữ xã hội, chỉ ra mô hình cấu tạo, trường từ vựng- ngữ nghĩa, nguồn gốc các đơn vị định danh và thống kê được 861 đơn vị từ ngữ nghề gốm Bát Tràng. Tuy nhiên, công trình lại chưa đi sâu nghiên cứu ở phương diện định danh - một nhân tố quan trọng cho thấy những nét văn hóa làng nghề được phản ánh vào ngôn ngữ. Nghiên cứu về từ nghề rèn, luận văn thạc sĩ của tác giả Mã Thị Nguyệt “Từ ngữ nghề rèn của người Nùng ở Phúc Sen (Quảng Yên, Cao Bằng)” [41] là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tiếp thu, tham khảo. Từ những kết quả của các công trình đã được trình bày, vấn đề nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp nói chung, từ ngữ nghề nghiệp nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông nói 4
  11. riêng, cho tới nay chưa có công trình nào được công bố thu thập, nghiên cứu vốn từ này một cách đầy đủ và hệ thống trên bình diện của ngôn ngữ như đặc điểm cấu tạovà đặc điểm định danh của từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông. Một số tác giả có đề cập đến lĩnh vực từ nghề cá, nghề gốm, nghề rèn, nghề nông, nghề dệt thổ cẩm...nhưng do tính chất của từng công trình mà các tác giả mới chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp của từng ngành nghề và từng vùng miền. Điểm qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy việc tiến hành thực hiện đề tài “Từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội” làm đề tài luận văn là cần thiết, có tính lí luận và thực tiễn nhất định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu sự đa dạng, phong phú của hệ thống từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội. - Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông. - Tìm hiểu phương thức định danh của các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập những vấn đề lí thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài như: lí luận về từ nghề nghiệp, lí thuyết về từ và cấu tạo từ, lí thuyết về định danh ngôn ngữ. - Điều tra, thu thập, khảo sát, thống kê và phân loại các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông. - Miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo và phương thức định danh của các đơn vị từ vựng về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông. 5
  12. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các từ ngữ về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông gồm các từ ngữ chỉ nguyên liệu, công cụ, phương thức, hoạt động sản xuất, sản phẩmcủa nghề rèn Đa Sỹ – Hà Đông. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông về đặc điểm cấu tạo và đặc điểm định danh của các từ ngữ nghề rèn trong tiếng Việt. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Ngữ liệu nghiên cứu Ngữ liệu nghiên cứu của luận văn là các từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội được thu thập từ các nguồn sau: - Từ các từ điển, tài liệu, sách chuyên môn nghiên cứu, viết về nghề làm nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông. Cụ thể là: +Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nxb. Từ điển Bách khoa, 2010. + Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), Nxb. Văn hóa thông tin, 1999. + Các tác phẩm văn học về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông (như truyện thơ, dân ca, câu đố, thành ngữ, tục ngữ,…). - Phỏng vấn, ghi chép qua hỏi trực tiếp những người làm nghề rèn, các chuyên gia về nghề rèn, và các thương gia nghề rèn ở chợ,… 5.2. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp điều tra điền dã Để thu thập nguồn tư liệu cho đề tài, chúng tôi thực hiện điều tra, điền dã qua các hình thức như: ghi chép, phỏng vấn trực tiếp qua các cuộc điều tra điền dã tại Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội; tìm hiểu thực tế ở những khu trưng bày và giới thiệu sản phẩm tại làng Đa Sỹ. Đối tượng chúng tôi điều tra thường là những người trực tiếp 6
  13. làm nghề rèn, trực tiếp làm ra các sản phẩm, những bậc cao niên có kinh nghiệm lâu năm trong nghề rèn ở làng Đa Sỹ, Hà Đông, Hà Nội. b. Phương pháp miêu tả Phương pháp này được dùng để miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa của các từ ngữ nghề rèn, xác định các tính chất, đặc điểm được sử dụng để định danh các từ ngữ về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông. c. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp Phương pháp này được dùng để phân tích các thành tố trong cấu trúc của các từ ngữ nghề rèn. d. Thủ pháp thống kê phân loại Thủ pháp này được dùng để phân loại các từ ngữ nghề rèn đã thu thập được về cấu tạo, đặc điểm định danh. Các từ ngữ thu thập được sẽ được tiến hành phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau và sắp xếp chúng cho có hệ thống. e. Thủ pháp mô hình hóa Thủ pháp này được dùng để mô hình hóa các kiểu quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của các từ ngữ nghề rèn, mô hình định danh dựa trên các dấu hiệu đặc trưng của đối tượng được lựa chọn để định danh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lí luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng rõ những đặc điểm từ ngữ về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông và vai trò của lớp từ ngữ này trong hệ thống vốn từ tiếng Việt. Lần đầu tiên hệ thống từ ngữ về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và sâu sắc ở hai phương diện: Đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh; bước đầu nêu lên được những nét văn hoá đặc sắc của người Việt được phản ánh qua hệ thống lớp từ ngữ này. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc nghiên cứu lớp từ nghề nghiệp trong tiếng Việt. 7
  14. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng làm tài liệu giảng dạy về từ nghề nghiệp, biên soạn sổ tay về nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông, biên soạn các sách quảng bá cho nghề rèn ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông Chương 3: Đặc điểm định danh của từ ngữ nghề rèn ở Đa Sỹ, Hà Đông 8
  15. Chương1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 1.1.Cơ sở lý thuyết 1.1.1. Khái niệm từ, ngữ và phương thức cấu tạo từ 1.1.1.1. Quan niệm về từ Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Do xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn không giống nhau nên các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học có những quan niệm chưa thống nhất về “từ”. Theo Đỗ Hữu Châu (1981) định nghĩa:“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để cấu tạo câu” [10, tr.16]. Tác giả Nguyễn Kim Thản(1984) quan niệm:“Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách ra khỏi đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng hoặc ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp” [44, tr.64]. Trong khi đó, Nguyễn Thiện Giáp (1985), “từ của tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa… Trong tiếng Việt, mỗi từ là một âm tiết” [19, tr.68]. Sở dĩ có tình trạng phức tạp và khó thống nhất ý kiến giữa các nhà nghiên cứu trong quan niệm về từ như vậy là vì bản thân các từ rất khác nhau về nhiều mặt. - Về kích thước vật chất, các từ có kích thước lớn nhỏ không giống nhau. - Về cấu trúc và tổ chức trong nội bộ từ, các kiểu loại không giống nhau. - Về nội dung và cách thức biểu thị, giữa các từ với nhau cũng không giống nhau. 9
  16. - Về năng lực và chức phận khi đi vào hoạt động ngôn ngữ (như: các chức năng ngữ pháp, đảm nhận các vai trò làm thành phầ câu, các chức năng ngữ nghĩa, ngữ dụng,…trong quá trình tham gia tạo câu…) các từ lại càng không giống nhau. Do có nhiều quan niệm khác nhau và cũng không đi sâu bàn luận định nghĩa về từ, do vậy chúng tôi đồng tình với quan điểm của tác giả Nguyễn Tài Cẩn (1998): “Từ là đơn vị nhỏ nhất có thể vận dụng độc lập ở trong câu” [9, tr.326]. Với định nghĩa vừa nêu, từ có hai đặc điểm cần lưu ý: + Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một chiết đoạn âm thanh nhỏ nhất, đồng thời có nghĩa (dùng để gọi tên các sự vật hiện tượng, các thuộc tính, các quan hệ ... trong thực tiễn đời sống). + Từ được sử dụng độc lập, tự do trong lời nói dùng để tạo câu: Từ có thể tách biệt khỏi các đơn vị khác (khác với các từ khác, cụm từ ...) và được dùng theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu. Những đặc điểm trên giúp phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt với yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhưng không dùng trực tiếp để đặt câu); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có nghĩa nhưng không nhỏ nhất)... Như vậy, rõ ràng từ là một thực thể, tồn tại hiển nhiên sẵn có trong mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc điểm hình thức, cấu trúc nội tại và có thể có cách biểu thị nội dung ý nghĩa) khác nhau, được người bản ngữ trị giác (hiện thực về mặt tâm lý). Ví dụ: từ của nghề rèn như: đập, búa, nắn,... Như vậy, từ là đơn vị ngôn ngữ có tính hoàn chỉnh cả về ngữ âm và về ngữ nghĩa. Đặc điểm trên giúp ta phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt với hình vị - yếu tố cấu tạo nên từ; phân biệt từ với cụm từ và câu là các đơn vị lớn hơn nó. 1.1.1.2. Quan niệm về ngữ 10
  17. Cũng như từ, ngữ (còn có những tên gọi khác như cụm từ, đoản ngữ, ngữ đoạn, từ tổ… ) là đối tượng được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Lưu Vân Lăng, Cao Xuân Hạo… Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Như Ý [57, tr176 ]: “Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của thực tại khách quan”. Về cấu tạo, ngữ là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hoặc nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc – theo quan hệ phù hợp chi phối hay liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp, gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi là các thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tao nên ngữ danh từ), động từ (tạo nên ngữ động từ), tính từ (tạo nên ngữ tính từ). Về chức năng và đặc điểm: Cũng giống như từ, ngữ cũng là phươngtiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng, quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ pháp của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng. Ngữ thường chia thành hai kiểu: Ngữ tự do (cụm từ tự do) và ngữ không tự do (ngữ/cụm từ cố định). + Ngữ tự do/Cụm từ tự do: Bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo thành ngữ. Mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ linh hoạt và có sức sản sinh. + Ngữ không tự do/Ngữ cố định/Cụm từ cố định: Tính độc lập về mặt từ vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng của ngữ cũng trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biệt. 11
  18. Thay vì bàn luận phân tích sâu về khái niệm ngữ, chúng tôi chọn quan niệm của tác Nguyễn Tài Cẩn (1998) : “đoản ngữ là một tổ hợp từ tự do có ba đặc điểm: a) Nó gồm một thành tố trung tâm và một hay một số thành tố phụ quay quần xung quanh trung tâm đó để bổ sung thêm một số chi tiết thứ yếu về mặt ý nghĩa: b) Quan hệ giữa trung tâm và thành tố phụ có nhiều kiểu loại chi tiết rất khác nhau, nhưng nói chung đều thuộc vào loại quan hệ chính phụ. c) Toàn đoản ngữ có tổ chức phức tạp hơn, có ý nghĩa đầy đủ hơn một mình trung tâm nhưng nó vẫn giữ được các đặc điểm ngữ pháp của trung tâm” [9, tr.149-150]. 1.1.1.3. Các phương thc phương 0]. Do quan niệm về “từ” có sự khác nhau ở các nhà ngôn ngữ học, chúng tôi chọn quan niệm của Nguyễn Tài Cẩn về các kiểu cấu tạo từ để tiến hành khảo sát hệ thống từ ngữnghề rèn Đa Sỹ ở Hà Đông. Theo tác giả, dựa vào số lượng tiếng, từ tiếng Việt có từ đơn và từ ghép. Cụ thể: 1. “Từ đơn chỉ gồm một tiếng nên làm thành một đơn vị đơn giản” [9, tr.51]. 2. Từ ghép là “một đơn vị phức hợp, có tổ chức nội tại: trong từ ghép bao giờ cũng có thể tìm ra ít nhất là hai tiếng được kết hợp với nhau theo một loại quan hệ này hay quan hệ nọ” [9, tr.51]. Theo đó, nếu ghép hai hay nhiều tiếng lại với nhau theo quan hệ ngữ nghĩa gọi là từ ghép nghĩa (gồm từ ghép láy nghĩa và từ ghép phụ nghĩa); theo quan hệ ngữ âm gọi là từ láy âm; không dựa trên cơ sở quan hệ ý nghĩa, cũng không dựa trên quan hệ ngữ âm gọi là từ ghép ngẫu hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc xác định ranh giới giữa hai đối tượng từ ghép và cụm từ cố định là rất khó rành mạch. Chẳng hạn như: dao cầu thái thuốc Bắc, dao chặt thép nhíp Nga, dao làm lòng gà vịt,…là từ hay là ngữ. Những đơn vị như trên đều có chức năng định danh, gọi tên sự vật, phân biệt sự 12
  19. vật. Về lí thuyết, từ được xem là đơn vị có kết cấu chặt chẽ, còn ngữ (trừ thành ngữ) thì đều có kết cấu lỏng lẻo. Tuy vậy, trong thực tế, từ và ngữ định danh kết cấu chính - phụ đều mang tính chỉnh thể định danh về nghĩa (đều gọi tên một đối tượng nhằm khu biệt với cá thể khác cùng loại, tạo nên nghĩa biệt loại), điều đó làm cho việc phân biệt từ với ngữ định danh rất khó khăn. Đây là vấn đề rất phức tạp, chúng tôi không đi sâu bàn về ranh giới đâu là từ, đâu là ngữ mà theo cách phân loại sắp xếp thông dụng của từ điển. Nghĩa là, được xem là từ là những đơn vị định danh (bao gồm cả cụm từ cố định có nghĩa tương đương với từ về định danh). Những đơn vị này sẽ được chúng tôi thống kê vào bảng từ như cách làm của các nhà ngôn ngữ xếp vào danh mục từ điển, còn những đơn vị là cụm từ tự do có nghĩa theo dạng miêu tả thì không. Do vậy, chúng tôi xem những kiểu cấu tạo như những ví dụ trên là ngữ. Mặt khác, để tiện cho việc nghiên cứu và theo thói quen, chúng tôi gọi những từ ghép láy nghĩa là từ ghép đẳng lập và từ ghép phụ nghĩa là từ ghép chính phụ, từ láy âm là từ láy, từ ghép ngẫu hợp là từ ngẫu hợp. Như vậy, từ sẽ có bốn loại kiểu cấu tạo: từ đơn, từ ghép (ghép đẳng lập và ghép chính phụ), từ láy và từ ngẫu hợp. 1.1.2. Khái niệm từ ngữ nghề nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm Như đã biết, lao động là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp “con người cá nhân” thành “con người xã hội”. Để tồn tại, phát triển và đáp ứng nhu cầu cuộc sống, con người phải mưu sinh, lao động, tìm nghề, lựa chọn nghề và học nghề. Đây là cơ sở xã hội để hình thành nên một lớp từ ngữ của những người làm nghề riêng biệt phục vụ cho quá trình giao tiếp và tư duy. Lớp từ ngữ đó cũng tạo nên dấu ấn nghề nghiệp - từ ngữ nghề nghiệp. 13
  20. Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp (hay tiếng nghề nghiệp, từ vựng nghề nghiệp) nói chung, quan niệm về từ ngữ nghề nghiệp nói riêng đã được các tác giả trong nước và nước ngoài quan tâm. a. Quan niệm từ ngữ nghề nghiệp của các tác giả nước ngoài L.A. Kapanađze khi bàn về những khái niệm "thuật ngữ" và "hệ thống thuật ngữ" cũng đã đề cập đến từ ngữ nghề nghiệp và cho rằng: “Từ ngữ nghề nghiệp thường vốn mang một số tính hình ảnh, hình tượng "so sánh" [Dẫn theo 55, tr.6]. A.V. Superanskaja khi bàn về thuật ngữ và danh pháp đã quan niệm: Tên gọi kiểu này (tên gọi dài dòng được thừa nhận do yêu cầu tính hệ thống của việc miêu tả khoa học - khi đi vào phạm vi từ vựng thông thường không tránh khỏi bị rút gọn đi) "vốn sinh ra từ trong phạm vi của sự biểu đạt trong khoa học, đã biến thành yếu tố của lời nói thông thường hoặc ngôn từ nghề nghiệp" [Dẫn theo 55, tr.6]. Ông diễn giải thêm: “Để việc bán hàng được thuận lợi, các mặt hàng phải có tên gọi đặc biệt của mình...nhiệm vụ chủ yếu đề ra cho các từ này là biểu đạt các hàng hoá với tất cả các thuộc tính vật chất của nó. Nhờ điều đó mà, hoặc dù là những sự vật muôn màu muôn vẻ (...) và dường như trong chúng lại có tính duyên dáng, đầy tính biểu cảm" (nhất là vào những thời điểm sáng tạo ra chúng. Về sau này, những sắc thái biểu cảm sẽ nhanh chóng mất đi, chỉ còn gắn với tính vật chất của hàng hoá - và tuỳ thuộc vào tính vật chất ấy mà có sự đánh giá lại” [Dẫn theo 55, tr.6]. Như vậy, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi bàn đến thuật ngữ hay danh pháp thì cũng đã phần nào nhận ra một lớp từ ngữ do một tầng lớp người làm nghề trong xã hội tạo ra để phục vụ cho quá trình giao tiếp và tư duy - từ ngữ nghề nghiệp. b. Quan niệm về từ ngữ nghề nghiệp của các nhà ngôn ngữ học trong nước 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2