Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng của Nông Viết Toại
lượt xem 2
download
Luận văn chỉ ra và làm rõ những biểu hiện cụ thể của bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó thấy được giá trị và những đóng góp của Nông Viết Toại cho mảng văn học các dân tộc thiểu số. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng của Nông Viết Toại
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VY NGUYÊN HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA NÔNG VIẾT TOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên, năm 2017
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VY NGUYÊN HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA NÔNG VIẾT TOẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Đăng Điệp Thái Nguyên, năm 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Vy Nguyên Huy i
- LỜI CẢM ƠN Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau Đại học, các giảng viên khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Thái nguyên, các thầy cô giáo Viện Văn học, gia đình, bạn bè đã động viên, tạo điều kiện cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu. Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, nhà văn Nông Viết Toại đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017 Tác giả Vy Nguyên Huy ii
- MỤC LỤC Trang TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii MỤC LỤC .................................................................................................................iii MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................... 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 6 5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 6 6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................... 6 7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 6 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7 Chương 1 VẤN ĐỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG VĂN HỌC VÀ KHÁI QUÁT VỀ NHÀ VĂN NÔNG VIẾT TOẠI ......................................... 7 1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc ............................................. 7 1.1.1. Khái niệm .......................................................................................................... 7 1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học ............................................. 11 1.2. Nhà văn Nông Viết Toại trong dòng chảy của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại .................................................................................................... 15 1.2.1. Vài nét về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ........................... 15 1.2.2. Hành trình sáng tác của Nông Viết Toại ......................................................... 22 Tiểu kết ..................................................................................................................... 26 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 27 Chương 2 CÁC BÌNH DIỆN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA NÔNG VIẾT TOẠI ................................................................. 27 2.1. Phong tục tập quán ............................................................................................. 27 2.1.1. Phong tục của người dân tộc Tày.................................................................... 27 iii
- 2.1.2. Nếp sinh hoạt của người dân tộc Tày.............................................................. 33 2.2. Quan niệm về những giá trị của con người ........................................................ 41 2.2.1. Quan niệm về vẻ đẹp của con người. .............................................................. 41 2.2.2. Quan niệm về các giá trị tinh thần của con người .......................................... 48 2.3. Sự hài hòa với tự nhiên ...................................................................................... 56 2.3.1. Truyền thống gắn bó với tự nhiên trong văn học người Tày .......................... 56 2.3.2. Sự gắn bó với tự nhiên của Nông Viết Toại ................................................... 60 Tiểu kết ..................................................................................................................... 66 Chương 3 CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA NÔNG VIẾT TOẠI ........................................ 67 3.1. Sử dụng các motif, các thể loại truyền thống một cách linh hoạt ...................... 67 3.1.1. Sử dụng motif .................................................................................................. 67 3.1.2. Sử dụng các thể loại truyền thống ................................................................... 72 3.2. Ngôn từ............................................................................................................... 81 3.2.1. Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của Nông Viết Toại .............................. 81 3.2.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ mang sắc thái dân tộc bản địa ............................ 87 Tiểu kết ..................................................................................................................... 93 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 96 iv
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1 Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của từng dân tộc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng thể hiện qua lối sống, cách ứng xử và các hành vi giao tiếp khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là thiêng liêng, quý giá, nó tạo nên đặc thù của một dân tộc. Nó được hình thành trong chiều dài lịch sử của một dân tộc, đúc kết từ kinh nghiệm sống, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và gắn bó máu thịt với con người. Mỗi quốc gia, dân tộc đều tìm mọi cách phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của mình nhất là trong thời kì hội nhập toàn cầu hóa việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và đã trở thành một trong những mục tiêu cao cả của Đảng ta là: Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên nhiều lĩnh vực trong đó có văn học nghệ thuật. Từ khi ra đời cho đến nay, trải qua hơn bẩy mươi năm phát triển nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam đã tạo nên một dấu ấn riêng độc đáo trên nhiều phương diện và thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý của độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình. Với những thành tựu mà mảng văn học dân tộc thiểu số đạt được nó đã thực sự trở thành một bộ phận và có nhiều đóng góp vào sự phát triển chung của nền văn học dân tộc nước nhà. Nhiều tác phẩm tiêu biểu đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt và được đánh giá rất cao. 1.2 Nông Viết Toại là một trong những cây bút tiêu biểu, có nhiều thành tựu trong mảng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. Hiện nay ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn. Sáng tác của ông mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc ở nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, tuy nhiên sáng tác của Nông Viết Toại chưa được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại chưa được chú ý tìm hiểu chuyên sâu. 1.3 Với những lí do trên, chúng tôi đặt vấn đề lựa chọn nghiên cứu Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. Lựa chọn đề tài: Bản sắc văn 1
- hóa dân tộc trong sáng của Nông Viết Toại, chúng tôi mong muốn được thể hiện tình yêu của mình đối với những sáng tác của Nông Viết Toại nói riêng, đối với nền văn học dân tộc nói chung. Qua đó chúng tôi hi vọng có thể đóng góp thêm một góc nhìn mới trong việc học tập và nghiên cứu về sáng tác của Nông Viết Toại. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Trong nền văn học Việt Nam, bộ phận văn học các dân tộc thiểu số hiện đại xuất hiện muộn, tuy xuất hiện chậm hơn nhưng nền văn học các dân tộc thiểu số đã có bước phát triển nhanh chóng và mau lẹ về lực lượng sáng tác luôn được bổ sung qua nhiều thời kì với nhiều tác giả thuộc nhiều dân tộc khác nhau cho đến số lượng tác phẩm ngày càng nhiều với chất lượng ngày một nâng cao. Các tác phẩm văn học thiểu số đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống của đồng bào người dân tộc thiểu số miền núi qua các giai đoạn lịch sử. Trong những sáng tác đó bản sắc dân tộc luôn được hiện lên trên nhiều phương diện, với sự nỗ lực hết mình các thế hệ tác giả người dân tộc thiểu số đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển chung của văn học nước nhà trên tất cả các thể loại làm phong phú và giàu có thêm cho nền văn học Việt Nam hiện đại. 2.2 Ngay sau ngày cách mạng tháng tám 1945 thành công, trên mảnh đất Bắc Kạn đã sớm hình thành một đội ngũ nhà văn, nhà thơ sáng tác bằng tiếng dân tộc của mình. Nhìn lại quá trình sáng tác bằng tiếng dân tộc thế hệ những nhà văn, nhà thơ đầu tiên của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại như “Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại.... chủ yếu viết tác phẩm bằng tiếng dân tộc” [30]. Ngay từ thuở ấu thơ Nông Viết Toại đã bộc lộ năng khiếu văn chương, khi mới 12 tuổi tình yêu văn nghệ truyền thống của dân tộc Tày đã sớm nảy nở qua những trang ghi chép sưu tầm những lời đối đáp trong bài hát lượn của người Tày, từ đó ông bắt đầu làm thơ thất ngôn bằng ngôn ngữ mẹ đẻ và là “Một trong những nhà văn đi đầu trong việc sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ” [18], những người đi đầu bao giờ cũng là những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Trong những năm tháng kháng chiến Nông Viết Toại tham gia viết báo và truyện ngắn tuyên truyền đấu tranh giải phóng dân tộc, ông là một trong những nhà văn người dân tộc thiểu số có nhiều cống hiến cho cách mạng vùng Việt Bắc. Là 2
- một trong những nhà văn tiêu biểu mở đường cho nền văn học dân tộc Tày phát triển và đến với công chúng bạn đọc. Tác giả Nguyễn Thùy Linh trong bài Nhà văn Nông Viết Toại - sức đời vẫn xanh nhận xét rằng “Nhà văn lão thành Nông Viết Toại cùng với hai nhà văn anh em là Nông Quốc Chấn và Nông Minh Châu được xem là những người có công khai sơn phá thạch dòng văn học cách mạng, đặc biệt là dòng văn học các dân tộc miền núi phía Bắc” [17]. Tác giả Hoàng Thị Dung cũng cùng nhận xét đó trên tạp chí Khoa Học Và Công Nghệ cho rằng Nông Viết Toại là “Một trong những nhà văn tiên phong đặt nền móng cho văn học của Bắc Kạn nói riêng cho nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung” [9]. Tham gia cách mạng với vai trò của một cán bộ văn hóa tuyên truyền thông tin, ban đầu Nông Viết Toại sử dụng ngòi bút của mình để tuyên truyền phục vụ kháng chiến, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân nhưng với tình yêu quê hương đất nước và tiếng mẹ đẻ nên nhà văn Nông Viết Toại đã tiếp tục hướng sâu ngòi bút của mình vào việc sáng tác những tác phẩm có giá trị về cuộc sống, con người miền núi qua những phong tục tập quán và những nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Tày bằng chính tiếng mẹ đẻ, đồng thời cũng là để lưu giữ những giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc mình qua những trang ghi chép sáng tác đó. Khi nhắc đến nhà văn Nông Viết Toại mọi người lại nhớ đến hình ảnh của một “Nhà văn lão thành giản dị, gần gũi cùng với những đóng góp lớn lao của ông trong việc đặt nền móng phát triển và giữ gìn, truyền bá văn học dân tộc Tày” [32]. Được biết đến qua nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại nhưng Nông Viết Toại dành nhiều tình cảm hơn hẳn cho thơ, thơ của ông luôn bám sát với những sự kiện chính trị to lớn của đất nước, trong những năm tháng kháng chiến ngôn ngữ Tày được sử dụng phổ biến ở hầu hết cộng đồng dân tộc thiểu số vùng Việt Bắc nên tác phẩm của ông có sức lan tỏa và được rất nhiều người yêu thích học thuộc. Ông không chỉ ghi lại những nét văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc mà còn là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa, nhiều bài thơ của ông có giá trị đã được 3
- phổ nhạc theo làn điệu hát then nổi tiếng của dân tộc trong đó đạt được nhiều thành công nhất phải kể đến bài Lập xuân. Tác giả Vũ Anh Tuấn cũng tìm về nguồn văn hóa Tày cổ “Với các tri thức Tày nổi tiếng: Vi Hồng, Triều Ân, Hoàng Hoa Toàn, Nông Viết Toại” [11]. Ông là cây bút tiêu biểu của việc kế thừa truyền thống trên cơ sở am hiểu sâu sắc tiếng mẹ đẻ và di sản văn hóa, văn học dân tộc mình. Là nhà văn sáng tác bằng song ngữ “Nông Viết Toại vận dụng hữu hiệu ngôn ngữ quần chúng trong tác phẩm và góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và làm phong phú tiếng Tày hiện đại” [54]. Hoàng Quảng Uyên trong bài báo Lập xuân cùng nhà thơ Nông Viết Toại, từng nói: “Nông Viết Toại là niềm tự hào, là tài tài sản quý của Bắc Kạn, của nền văn học nghệ thuật của dân tộc thiểu số Việt Nam, của nền văn học nước nhà” [55]. Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nông Viết Toại có thể nhận thấy rằng thơ của Nông Viết Toại “Mang nhiều hình ảnh gắn bó với đời sống sinh hoạt và các sự kiện của đất nước; Đặc biệt thơ Tày của ông thuần túy, các câu tục ngữ, thành ngữ cũng được ông sử dụng một cách tinh tế, linh hoạt; Thơ ông còn là nguồn phong phú để tìm ra những tiếng Tày cổ, những phong tục, tập quán, đời sống văn hóa tinh thần, ngôn ngữ cổ… đang bị mai một dần theo thời gian” [32]. Sáng tác của ông luôn gắn với mỗi bước đi của lịch sử, mỗi chặng đường của cách mạng, bám sát với mỗi sự kiện xảy ra trong đời sống chính trị nhưng không vì thế mà nó mất đi sức hấp dẫn riêng mà luôn mang đậm dấu ấn của dân tộc. Nhà nghiên cứu Nông Phúc Tước khi nhận xét về truyện ngắn của Nông Viết Toại đã cho rằng: “Đọc truyện ngắn của Nông Viết Toại có cảm giác như đang trở về làng bản của mình sau những ngày đi xa, với tất cả những cảnh vật quen thuộc, những con người xiết bao gần gũi, mến yêu”. Nó là chiếc cầu nối cho mỗi độc giả thêm gần hơn, gắn bó hơn với quê hương của mình, với truyện ngắn của Nông Viết Toại dù ở bất cứ nơi đâu thì quê hương không ở đâu xa mà ở ngay trong tâm hồn mỗi con người chúng ta. Với những cống hiến không ngừng nghỉ của Nông Viết Toại, tác giả Tôn Phương Lan trong cuốn Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đời và văn đã nhận xét “Đóng góp của Nông Viết Toại trong đời sống văn hóa của vùng đất này chắc 4
- chắn là không nhỏ… góp phần làm phong phú hơn đời sống tinh thần của đồng bào miền núi” [26]. Như vậy qua các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại đã được quan tâm nhưng chủ yếu được tìm hiểu lồng ghép trong những nghiên cứu khác và mới chỉ dừng lại ở những nhận xét, những bài báo mà chưa được tìm hiểu cụ thể trong một đề tài riêng biệt. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. Tuy những ý kiến đi trước chưa bao quát hết sự nghiệp của Nông Viết Toại nhưng sẽ là những gợi ý quý báu và định hướng cho chúng tôi thực hiện luận văn này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. - Phạm vi nghiên cứu: Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng toàn bộ sáng tác của Nông Viết Toại, cụ thể gồm các tác phẩm sau: - Rại róa vít pây (Xấu xa bỏ đi), (1956) - Sở Văn hóa Việt Bắc - Nam Kim - Thị Đan (1957) - Bản dịch - Hai em bé mồ côi (1957) - Nxb Phổ thông - Kin ngày phuối khát (Ăn ngay nói thẳng), (1962) - Nxb Việt Bắc - Boỏng tàng tập éo (Đoạn đường ngoặt), (1973) - Nxb Dân tộc - Đét chang nâư (Nắng ban trưa), (1976) - Nxb Việt Bắc - Đoạn đường ngoặt (1981) - Nxb Văn hóa - Ca dao tục ngữ Tày (in chung, 1993) - Hội văn nghệ Bắc Thái - Con đường Nam tiến (1995) – Ghi chép - Tuyển tập Nông Viết Toại (2005) - Nxb Văn hóa thông tin Để hiểu rõ hơn bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại chúng tôi tìm hiểu một số sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số khác để so sánh, đối chiếu và rút ra những nét khác biệt trong sáng tác của ông. 5
- 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn chỉ ra và làm rõ những biểu hiện cụ thể của bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó thấy được giá trị và những đóng góp của Nông Viết Toại cho mảng văn học các dân tộc thiểu số. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp hệ thống - Phương pháp so sánh - Phương pháp nghiên cứu liên ngành - Phương pháp phân tích tác phẩm - Phương pháp tiếp cận thi pháp học 6. Đóng góp mới của luận văn Đây là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê đầy đủ, có hệ thống, toàn diện vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. Qua luận văn, chúng tôi mong muốn góp thêm một góc nhìn mới về bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại, một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong văn học và khái quát về nhà văn Nông Viết Toại. Chương 2: Các bình diện bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. Chương 3: Các phương thức biểu hiện bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Nông Viết Toại. 6
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1 VẤN ĐỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG VĂN HỌC VÀ KHÁI QUÁT VỀ NHÀ VĂN NÔNG VIẾT TOẠI 1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc 1.1.1. Khái niệm Mỗi người chúng ta khi sinh ra đã được hít thở trong bầu không khí văn hóa, đó là lời ru của mẹ, câu hát của cha, câu chuyện của bà cho tới những bài thơ, câu chuyện cổ tích thuở đi học… đã nuôi nấng chúng ta trưởng thành tất cả đều thuộc về văn hóa. Văn hóa có vai trò rất quan trọng đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay “Văn hóa được mọi người chú ý, tầm quan trọng của văn hóa được nêu lên hàng đầu”[20, tr.14]. Vậy văn hóa là gì? Văn hóa - Culture có gốc chữ La Tinh là “Trồng cấy”. Theo nghĩa bóng culture có nghĩa là quá trình nuôi dưỡng tập thành con người như thể gieo trồng và chăm sóc mầm cây vậy. Văn hóa theo Hán tự là quá trình con người hóa con người. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (đó là trình độ văn hóa), lối sống (đó là nếp sống văn hóa), theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn ví dụ như văn hóa Đông Sơn… trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho tới tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động… Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rất rộng với nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Theo UNESCO hiện nay có khoảng bốn trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa xuất phát từ nhiều bình diện, quan điểm, góc nhìn khác nhau. Dựa trên khảo sát một số tài liệu nghiên cứu, chúng tôi xin nêu ra một số định nghĩa đáng lưu ý sau: “Nói tới văn hóa trước hết phải nói tới con người” [57, tr.12], văn hóa và con người là hai khái niệm không tách rời, con người xuất hiện khi nào thì văn hóa xuất hiện khi ấy. Con người là con người bởi có văn hóa, văn hóa là văn hóa bởi từ con người và cho con người. 7
- Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới đã định nghĩa “Văn hóa là tất cả những gì không phải thiên nhiên, nghĩa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp đến con người” [2, tr.19]. Bởi vì “Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo” [57, tr.17] đồng thời con người hưởng thụ thành quả của văn hóa. Con người vừa là chủ thể của văn hóa đồng thời là khách thể của văn hóa, là sản phẩm của văn hóa. Theo Trần Ngọc Thêm thì “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [36, tr.10]. Định nghĩa này nêu bật bốn đặc trưng quan trọng đó là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân văn của văn hóa. Tác giả Huỳnh Công Bá thì cho rằng “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần và ứng xử mang tính biểu trưng do một cộng đồng người sáng tạo ra và tích lũy được qua quá trình sinh tồn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và lịch sử - xã hội của mình cũng như sự hoàn thiện đối với bản thân mình” [2, tr.21]. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc lại định nghĩa “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất. Biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác” [20, tr.17-18]. UNESCO cũng đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những phong tục và những tín ngưỡng”. Như vậy, có thể thấy có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đã tập trung vào định nghĩa văn hóa gắn với con người, 8
- khẳng định con người trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội, văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra và con người chính là chủ nhân của nền văn hóa. Trong diễn văn của tổng giám đốc UNESCO - Fedrico Mayor tại lễ phát động Thập kỉ quốc tế phát triển văn hóa tại Pari ngày 21/1/1988, ông cho rằng văn hóa là “Tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỉ, các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [33, tr.453]. Mỗi nền văn hóa lại có một dấu ấn riêng phù hợp với nơi nó sinh ra, phù hợp với con người sinh sống ở đó, phù hợp đặc tính riêng làm nên bản sắc riêng biệt của từng dân tộc. Ở nước ta với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có màu sắc tạo nên bản sắc riêng của dân tộc mình. Vậy bản sắc văn hóa dân tộc là gì? Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa bản sắc là “Màu sắc, tính chất riêng, tạo thành đặc điểm chính” [31, tr.31]. Về từ nguyên tiếng Hán thì bản sắc là màu gốc chưa bị pha trộn là sắc thái tự nhiên chưa bị đẽo gọt. Nói đến bản sắc văn hóa là nói đến những giá trị hạt nhân “Nói tới cái phần ổn định trong văn hóa” [20, tr.114] nghĩa là không phải nói tới tất cả các giá trị mà chỉ nói đến những giá trị có tính hạt nhân vì “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [34] như vậy khái niệm bản sắc có hai quan hệ cơ bản, thứ nhất xét về quan hệ bên ngoài thì nó là dấu hiệu để phân biệt các cộng đồng với nhau và thứ hai xét về quan hệ bên trong nó chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng văn hóa phải có. Khi nói đến sự ổn định trong văn hóa cũng chính là nói đến mặt bất biến đã được định hình của văn hóa, nhưng nói như vậy cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi bởi vì không có một nền văn hóa nào là nền văn hóa chung và duy nhất cho tất cả các nền văn hóa và ở trong cái chung ấy thì mỗi dân tộc lại có một bản sắc văn hóa riêng làm nên diện mạo của dân tộc. 9
- Theo nhà thơ Tố Hữu thì “Mỗi dân tộc tồn tại và phát triển đều có bản sắc, bản lĩnh nhất định” [26], bởi không có một nền văn hóa nào lớn hơn một nền văn hóa nào cả và mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có màu sắc truyền thống văn hóa riêng của mình và họ luôn có ý thức nuôi dưỡng, làm phong phú thêm truyền thống của tộc người hình thành nên bản sắc dân tộc. Tác giả Thành Duy cho rằng “Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc ấy, đồng thời giúp dân tộc ấy giữ vững được tính thống nhất, tính nhất quán, tính độc đáo của bản thân mình trong quá trình phát triển” [10, tr.19]. Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có lịch sử hình thành và phát triển riêng của tộc người đã được định hình trong dấu ấn văn hóa vì vậy dân tộc có lịch sử riêng thì ắt hẳn sẽ có một nền văn hóa riêng và “Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của bản thân mình trong quá trình phát triển” [21, tr.77-78]. Tác giả Trần Thị Việt Trung thì cho rằng “Bản sắc dân tộc là những nét riêng biệt độc đáo của một nền văn hóa, văn học bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa văn hóa, văn mạch của dân tộc được vun đắp qua lịch sử, tạo thành phong cách dân tộc”[54, tr.26]. Khái niệm bản sắc văn hóa có nhiều nét tương đồng về cơ bản là thống nhất với khái niệm tính dân tộc. Tại hội nghị Văn hóa miền núi năm 1987, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định “Nói tới văn hóa thì phải có vấn đề dân tộc, nói văn học, nghệ thuật phải có vấn đề dân tộc”. Tính dân tộc là một thuộc tính tất yếu của văn nghệ, xuất phát từ mối liên hệ qua lại giữa văn học và dân tộc vì tác phẩm văn học là sự tự biểu hiện tâm hồn của chính tác giả người dân tộc ấy. Tính dân tộc là phẩm chất của văn học, là một phạm trù lịch sử và không phải là bất biến, văn học phục vụ dân tộc vì vậy trải qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử thì văn học cũng phải biến đổi theo. 10
- Ta có thể thấy tính dân tộc thể hiện trên ba phương diện ngôn ngữ, tính cách dân tộc và phong tục tập quán, lối sống “Tính dân tộc chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc, có mối quan hệ hữu cơ đến lịch sử hình thành và phát triển của mỗi dân tộc cũng như mỗi nền văn hóa dân tộc” [10, tr.17]. Tính dân tộc trong văn học là đặc điểm độc đáo tạo nên phong cách riêng cho sáng tác của một dân tộc và phân biệt nó với sáng tác của một dân tộc khác. Nói đến bản sắc văn hóa dân tộc trong văn học nghệ thuật chính là nói đến chiều sâu phản ánh những giá trị văn hóa, con người Việt Nam tới mức độ nào trong sáng tác văn học nghệ thuật. Vậy bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện ở những phương diện nào? 1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học Văn học nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hóa. Nói tới văn hóa của một dân tộc thì không ai không nghĩ tới văn học, bởi văn học có một vị trí không thể thiếu trong mỗi nền văn hóa nên các tác giả luôn ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc và coi đây là một phẩm chất cần phải phấn đấu trong sáng tác, bởi nó là vấn đề có liên quan mật thiết tới sự tồn vong của một dân tộc nói chung và văn học nói riêng, mất bản sắc dân tộc trong văn học thì văn học của dân tộc đó cũng không còn. Vì vậy giá trị của một tác phẩm văn học được xác định trước hết bởi bản sắc dân tộc của nó “Bản sắc dân tộc trong văn học là do chính nhà văn dân tộc sáng tạo ra… nó là sự thể hiện tâm hồn, tính cách dân tộc qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của nhà văn, là sự thể hiện một cách đẹp đẽ, sáng tạo những truyền thống văn hóa của dân tộc trong những điều kiện lịch sử nhất định” [54, tr.108]. Qua đó cho thấy bản sắc dân tộc trong văn học dân tộc thiểu số được thể hiện trên tất cả các phương diện từ đội ngũ sáng tác đến nội dung phản ánh lẫn phương diện nghệ thuật biểu hiện. Về chủ thể sáng tạo Suy cho cùng thì một tác phẩm văn học đều là “Sản phẩm tinh thần của một chủ thể sáng tạo cụ thể” [21, tr.32] mỗi một tác phẩm văn học đều là đứa con tinh thần của các nhà văn, nhà thơ, là biểu hiện của sự đào bới, tìm tòi và mổ xẻ, tái hiện lại một cách chân thực chính tâm hồn của tác giả. Đối với mảng văn học các dân tộc 11
- thiểu số, đa phần các thế hệ nhà văn, nhà thơ đều là con em của các dân tộc thiểu số được sinh ra và lớn lên trên những mảnh đất quê hương thuộc miền núi cao của tổ quốc nên họ am hiểu và chịu sự quy định của môi trường xã hội, văn hóa ấy. Các nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số đã sớm được hít thở trong bầu không khí văn hóa của dân tộc mình, họ đại diện cất lên tiếng nói của dân tộc mình và đưa những nét bản sắc văn hóa dân tộc vào trong các tác phẩm một cách tự nhiên nhất dưới nhiều cung bậc cảm xúc. Về phương diện nội dung Bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện rất phong phú, đa dạng dưới nhiều đề tài với nhiều đối tượng phản ánh sinh động, cụ thể từ thiên nhiên đến con người với những nét sinh hoạt văn hóa in đậm dấu ấn phong tục tập quán nghìn đời. Ngay ở việc lựa chọn đề tài đã tạo nên bản sắc riêng cho mỗi dân tộc, mỗi vùng miền văn hóa, chúng ta chỉ có thể tìm thấy hình ảnh tiếng cồng chiêng trong những sáng tác của các tác giả dân tộc thiểu số về vùng đất Tây Nguyên đầy nắng gió hay hình ảnh những điệu then, sli, lượn đặc trưng chỉ có trong sáng tác của các dân tộc Tày - Nùng vùng núi phía Bắc, đây là những biểu tượng văn hóa đại diện tiêu biểu của vùng miền được tác giả lựa chọn phản ánh với kinh nghiệm của mình để dẫn dắt người đọc thâm nhập vào tác phẩm. Các tác giả dân tộc thiểu số được sinh ra trong môi trường thiên nhiên rừng núi nên tình yêu quê hương, đất nước, thiên nhiên cuộc sống đã trở thành một truyền thống tốt đẹp và được chú trọng nhiều hơn cả. Thiên nhiên có một vị trí rất đặc biệt đối với các tác giả người dân tộc thiểu số, nó đã ăn sâu vào trong tiềm thức mỗi tác giả, họ dành nhiều trang viết về quê hương núi rừng thân thuộc với những dãy núi trùng điệp cao vút ẩn hiện trong mây, những cánh rừng xanh mướt nhẹ nhàng uốn lượn, những con thác bạc hùng vĩ từ trên cao như một dải lụa đào chảy xuống hai bên bờ in bóng những nương ngô tạo nên vẻ đẹp vừa hoang sơ quyến rũ, vừa hư vừa thực, vừa thơ mộng trữ tình. Thiên nhiên còn là nơi gắn bó với cuộc sống con người, thiên nhiên chở che, là nơi gửi gắm tình cảm của con người và là nguồn đề tài bất tận cho các tác giả người dân tộc thiểu số. 12
- Bên cạnh phản ánh tình yêu thiên nhiên đất nước, trong những trang viết của các tác giả người dân tộc thiểu số ta còn bắt gặp không khí lao động hăng say với sự gắn bó hòa quyện vào thiên nhiên đất trời của con người. Người dân tộc thiểu số không chỉ là những người nông dân miền núi khỏe mạnh, giản dị, thật thà, yêu lao động mà họ còn biết yêu quê hương làng bản, yêu tha thiết cách mạng, không sợ hi sinh gian khổ mà luôn sẵn sàng đứng lên chiến đấu mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng với một tinh thần quật cường góp phần làm nên chiến thắng. Khi cuộc sống hòa bình trở lại họ reo lên tiếng ngân vang hướng về cội nguồn văn hóa dân tộc với những tư tưởng tiến bộ, luôn ý thức đấu tranh chống lại những hủ tục lạc hậu để xây dựng một lối sống văn minh cho dân tộc trong quá trình phát triển đất nước. Họ là những con người có hoàn cảnh éo le nhưng luôn vượt lên số phận bằng ý chí nghị lực phi thường, tuy cuộc sống của họ còn nhiều khó khăn vất vả nhưng trong tâm hồn họ không bao giờ mất đi cái phần lãng mạn bay bổng. Không chỉ phản ánh chân thực tâm lí tính cách con người và những nét đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên mà các tác giả còn đi sâu miêu tả những nét đẹp sinh hoạt văn hóa đã ổn định trong đời sống với những phong tục tập quán rất phong phú và đa dạng của cộng đồng người dân tộc thiểu số. Đó là phong tục ma chay độc đáo được cử hành qua nhiều nghi lễ khác nhau ở mỗi dân tộc, những đám cưới hỏi với nhiều màu sắc riêng biệt đến việc lựa chọn vị trí địa lí sinh sống hay những dấu ấn riêng trong tổ chức quần cư. Đó còn là điệu hát đối đáp Quan làng của người Tày trong thủ tục xin dâu tại đám cưới hỏi, thể hiện cái tài ứng xử thông minh nhanh nhẹn của người dẫn đầu, hay tiếng gọi tha thiết yêu thương trong làn điệu Nàng ới của người dân tộc Nùng cho tới những lễ hội đón chào một mùa xuân mới với những trò chơi dân gian tung còn, đánh yến, đánh quay lung linh màu sắc… tất cả đều được các tác giả dân tộc thiểu số ghi lại trong những trang viết của mình với một niềm tự hào và ý thức tự tôn dân tộc, cho thấy bộ mặt văn hóa của từng dân tộc và tạo nên sự đa dạng cho màu sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Về phương diện nghệ thuật Bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện ở ngôn ngữ sáng tác, mỗi một dân tộc đều có một ngôn ngữ riêng và mỗi một tác giả người dân tộc thiểu số đều đặc biệt 13
- chú ý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của dân tộc mình trong sáng tác văn học. Đây là một nét rất đặc biệt làm nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Các tác giả rất coi trọng ngôn ngữ mẹ đẻ trong sáng tác văn chương, nổi lên là các tác giả người dân tộc Tày, họ luôn ý thức đưa ngôn ngữ mẹ đẻ cất giữ vào trong văn học. Ngôn ngữ mẹ đẻ là kho tàng quý giá kết tinh những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, nhiều tác phẩm sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác đã thể hiện rất độc đáo lối cảm, lối nghĩ của người dân tộc thiểu số với tư duy và tính cách dân tộc, thể hiện ý thức tự tôn dân tộc và đưa ngôn ngữ mẹ đẻ phát triển lên một tầm cao mới. Bản sắc dân tộc còn được thể hiện ở sự vận dụng các thể loại truyền thống, mỗi một dân tộc đều có một kho tàng văn học truyền thống với một hệ thống thi pháp là nền tảng để các tác giả người dân tộc vận dụng vào trong sáng tác của mình. Bên cạnh các thể thơ năm chữ, thể thơ bẩy chữ, thì thể thơ lục bát được các tác giả người dân tộc vận dụng nhiều nhất và đem đến nhiều thành công nhất trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác giả. Kết cấu của tác phẩm cũng là một phương diện thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc, kết cấu trong truyện dân gian của mỗi dân tộc đều có những nét khác biệt được nhận biết qua những đặc điểm riêng. Việc kế thừa và vận dụng kết cấu ấy ở mỗi tác giả người dân tộc thiểu số thông qua thế giới hình tượng, giọng điệu, các motif, các thủ pháp, các hình ảnh văn hóa giúp cho việc thể hiện quan điểm thẩm mĩ của tác giả được dễ dàng hơn và mang hơi thở riêng truyền thống đặc sắc của từng dân tộc. Bản sắc văn hóa còn được thể hiện ở hệ thống nhân vật, bất cứ tác phẩm văn học nào cũng đều có sự xuất hiện của nhân vật, văn học không thể thiếu nhân vật bởi thông qua nhân vật các tác giả mới có thể xây dựng nên thế giới hình tượng của mình để thể hiện quan điểm, cái nhìn của mình về hiện thực khách quan. Thông qua hệ thống nhân vật mà người đọc có thể nhận thấy được chiều sâu tư tưởng và những thông điệp văn hóa trong việc phản ánh bản sắc dân tộc của tác giả. Như vậy, có thể thấy bản sắc văn hóa thể hiện trên nhiều phương diện trong tác phẩm văn học, văn học là sự biểu hiện văn hóa vì vậy qua tác phẩm văn học chúng ta bắt gặp những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời được kết tinh dưới ngòi 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 667 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 229 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 238 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 155 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn