intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

38
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh” nhằm tiếp bước quá trình tìm hiểu về ca dao Quảng Ninh, đặc biệt là ca dao vùng biển và vùng mỏ, đi sâu vào khám phá, phân tích tâm trạng của nhân vật và đối tượng mà các bài ca dao hướng tới để hiểu thêm về cuộc sống vật chất và tinh thần của người lao động xưa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN BÍCH NGỌC NHÂN VẬT VÀ ĐỐI TƯỢNG TRỮ TÌNH TRONG CA DAO QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM THÁI NGUYÊN, 2017
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN BÍCH NGỌC NHÂN VẬT VÀ ĐỐI TƯỢNG TRỮ TÌNH TRONG CA DAO QUẢNG NINH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG THÁI NGUYÊN, 2017
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương - Người đã tận tình hướng dẫn, động viên, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, phòng Đào tạo trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập. Xin cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này. Học viên NGUYỄN BÍCH NGỌC i
  4. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ............................................................................................. i MỤC LỤC .................................................................................................. ii MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ......................................................... 7 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .................................................. 8 5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 9 6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 9 7. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 9 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................................................................... 11 1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đời sống văn hóa ở Quảng Ninh .............................................................................................. 11 1.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên ......................................................... 11 1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ................................................................ 12 1.1.3. Đời sống văn hóa............................................................................ 14 1.2. Một số vấn đề lí luận ......................................................................... 15 1.2.1. Nhân vật trữ tình ............................................................................ 15 1.2.2. Đối tượng trữ tình........................................................................... 18 1.3. Tổng quan về văn học dân gian Quảng Ninh .................................... 19 1.3.1. Khái quát về văn học dân gian Quảng Ninh .................................. 19 1.3.2. Diện mạo ca dao Quảng Ninh ........................................................ 25 Chương 2. NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG CA DAO QUẢNG NINH ........................................................................................................ 33 2.1. Khảo sát nhân vật trữ tình ................................................................. 33 2.2. Diện mạo và tâm trạng của nhân vật trữ tình .................................... 34 2.2.1. Diện mạo nhân vật trữ tình............................................................. 34 ii
  5. 2.2.2. Tâm trạng nhân vật trữ tình ............................................................ 52 Chương 3. ĐỐI TƯỢNG TRỮ TÌNH TRONG CA DAO QUẢNG NINH ....................................................................................................................................69 3.1. Khảo sát đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh ...................... 69 3.2. Diện mạo và cung bậc cảm xúc của đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh .............................................................................................. 70 3.2.1. Diện mạo đối tượng trữ tình ........................................................... 70 3.2.2. Cung bậc cảm xúc của đối tượng trữ tình ...................................... 85 KẾT LUẬN ............................................................................................. 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 101 PHỤ LỤC iii
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Có thể nói văn học dân gian giống như là cội nguồn, là bầu sữa mẹ trong trẻo, mát lành nuôi dưỡng nền văn học dân tộc ngay từ buổi đầu. Bởi lẽ ngay từ khi thoát khỏi thời kì hồng hoang nguyên thủy, con người đã biết mở rộng tâm hồn đến với thế giới xung quanh. Họ đã biết yêu, biết ghét, có đầy đủ những cung bậc, trạng thái cảm xúc khác nhau và đó cũng là lúc ca dao, dân ca xuất hiện như một phương tiện giúp họ giãi bày những tâm tư trong tâm hồn. Với tư cách là hình thái văn học đầu tiên của dân tộc, văn học dân gian nói chung, ca dao nói riêng đã phải trải qua mọi biến cố thăng trầm của lịch sử, thời gian nhưng vẫn có một sức sống bất diệt giống như nhà văn Serdin từng nhận xét: “Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó là không thừa nhận cái chết”. Ca dao Việt Nam có một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử văn hóa dân tộc, trong đời sống sinh hoạt và tinh thần của người dân Việt từ bao đời nay “Ca dao tự vạch cho mình một lối đi, dẫu không hào nhoáng, song hết sức hiên ngang, hết sức độc lập. Phát sinh vì Dân Tộc, sống còn nhờ Dân Tộc, ca dao là kết tinh thuần tuy của tinh thần Dân Tộc” [31]. Không những thế, ở mỗi địa phương lại có những mảng ca dao riêng biệt, góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng cho kho tàng ca dao dân tộc. Được sinh ra và lớn lên trên quê hương Quảng Ninh, nơi được coi là địa đầu vùng Đông Bắc Tổ quốc - một trong những cái nôi đầu tiên xuất hiện loài người - nơi hội tụ, giao thoa nhiều dân tộc khác nhau như Kinh, Tày, Dao, Sán Chỉ, Hoa, Sán Dìu… nên tôi có cơ hội tìm hiểu, tiếp xúc với một nền văn hóa đa dạng và đậm bản sắc riêng. Và văn học với chức năng giống như một tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống khách quan vào trong tác phẩm với những cảm xúc của con người một cách chân thực nhất đã lưu giữ được những điều đó. Đặc biệt, ở thể loại ca dao - vốn là tiếng nói của tình cảm, khúc tâm tình giàu nhạc điệu lại phản ánh sâu sắc đời sống nội tâm của con người Quảng Ninh qua các thời kì. Đây chính là mảnh đất màu mỡ, tạo nên nguồn thi liệu quý giá, phong phú để khám phá, tìm hiểu về cuộc sống sinh hoạt, lao động, tâm tư tình cảm, khát vọng của con người lao động trên quê hương từ xa xưa, nhất là những cư dân sống vùng ven biển và những người thợ mỏ. Trong khi đó, chưa có một công trình nào nghiên cứu để làm rõ đời sống tinh thần, tâm trạng của nhân vật và đối tượng trữ tình trong các bài ca dao. 1
  7. Ngay trong nội dung chương trình dạy học Ngữ văn địa phương Quảng Ninh lớp 6, 7 có những bài nội dung dạy về ca dao như: Ngữ văn địa phương lớp 6: có bài đọc thêm về “Ca dao vùng mỏ”; Ngữ văn địa phương lớp 7 ở bài 18 - Tiết 74 theo phân phối chương trình mới dừng lại ở việc hướng dẫn học sinh sưu tầm các bài ca dao, dân ca, tục ngữ lưu hành ở địa phương; Bài 33 - tiết 134, 135 theo phân phối chương trình giáo viên tổ chức, đánh giá, nhận xét các bài cảm nhận của cá nhân học sinh về ca dao đã sưu tầm ở tiết 74 chứ chưa có bài dạy nào cụ thể định hướng cách thức phân tích, đi sâu khai thác để giúp các em cảm nhận được tiếng nói của tâm hồn nhân vật và đối tượng trữ tình gửi gắm qua các bài ca dao. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn: “Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh”, đặc biệt ở mảng ca dao vùng mỏ, vùng biển làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mong rằng công trình nghiên cứu này sẽ góp một phần công sức nhỏ bé vào việc khám phá, giữ gìn, bảo tồn cho nền văn học dân gian nói chung và ca dao Quảng Ninh nói riêng; khơi dậy tình yêu đối với văn học dân gian của dân tộc đồng thời tạo thêm một nguồn tư liệu về văn học dân gian để giúp giáo viên Ngữ văn ở Quảng Ninh có thể thực hiện tốt các tiết dạy Ngữ văn địa phương một cách thuận lợi hơn. 2. Lịch sử vấn đề Ca dao nảy sinh và xuất hiện ở Quảng Ninh từ rất sớm, nhất là ca dao vùng biển. Còn mảng ca dao vùng mỏ ra đời muộn hơn một chút vì nó gắn liền với quá trình đấu tranh của công nhân mỏ. Trước Cách mạng tháng tám, do nhân dân ta vẫn phải chịu ách áp bức một cổ hai tròng, chưa được giải phóng, điều kiện kinh tế xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu cho nên các nhà nghiên cứu khoa học chưa có điều kiện thâm nhập thực tế ghi chép, sưu tầm, xuất bản phát hành thành sách để lưu truyền cho thế hệ con cháu về sau. Chính vì thế, ca dao dân ca chủ yếu là tiếng hát cất lên từ trong lao động, lưu truyền trong đời sống để giãi bày tâm tư, tình cảm trong tâm hồn, làm xua đi những vất vả, lo âu, mệt mỏi trong cuộc sống thường ngày. Những bài ca dao ấy nếu có giá trị thì cũng chỉ được lưu truyền bằng miệng, dựa vào trí nhớ của nhân dân mà thôi. 2
  8. Sau khi cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, đặc biệt là sau khi miền Bắc được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (tháng 2 năm 1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định những đóng góp to lớn của các văn nghệ sĩ đối với cách mạng, kháng chiến. Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của người nghệ sĩ trong thời bình và đưa ra lời khuyên: Các văn nghệ sĩ muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thì phải học tập, phải “trau dồi tư tưởng, trau dồi nghệ thuật, đi sâu vào quần chúng. Phải đi sát sự thực. Và trong lúc tiến tới thì chúng ta phải trau dồi đạo đức cách mạng, trước hết là đức khiêm tốn” [24, tr. 325, 326]. Làm theo lời căn dặn của Bác, các nhà văn, nhà thơ hăng hái lên đường, hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân để hiểu, cảm nhận và khơi nguồn sáng tạo. Đây cũng là thời điểm thuận lợi để các nhà nghiên cứu văn học dân gian có điều kiện đi sâu vào quần chúng, sưu tầm, nghiên cứu, tập hợp lại các bài ca dao, dân ca đã bị thất lạc, còn lưu truyền trong dân gian thành các bản thảo, tập tài liệu. Trước năm 1955, Sở Văn hóa - Thông tin khu Hồng Quảng đã cho xuất bản một tập tài liệu tuyên truyền có tựa đề là “Đời sống thợ mỏ thời Tây qua một số bài ca dao… ”. Cuốn khảo cứu này dày khoảng 20 trang, mang tính chất tài liệu tuyên truyền là chủ yếu. Tuy nhiên, từ đó đến trước những năm 1968 việc thu thập, tìm kiếm và biên soạn một cách thống nhất các bài ca dao của vùng mỏ và vùng biển còn bị bỏ ngỏ và thực hiện chưa đồng bộ. Từ đó đến năm 1969, ba nhà biên soạn Lý Biên Cương, Trần Nhuận Minh và Sỹ Hồng đã kết hợp với Ty Văn hóa Quảng Ninh xuất bản tập “Ca dao vùng mỏ” (chống Mỹ cứu nước) gồm 160 bài đã sưu tầm. Đến năm 1980, Ty Văn hóa - Thông tin Quảng Ninh xuất bản cuốn “Ca dao vùng mỏ (trước Cách mạng)” do nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài chủ biên, tập hợp lại các bài ca dao vùng mỏ được sáng tác, lưu truyền trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Cuốn sách này là tập tư liệu sinh động, chia làm ba phần. Phần đầu tiên, tác giả giới thiệu vài nét về sự hình thành, giá trị và đóng góp của ca dao vùng mỏ, phần thứ hai là một số các bài ca dao chọn lọc và phần thứ ba là các sáng tác vận động Cách mạng cùng vè dân gian ở nơi đây. Cuốn sách bước đầu đã thể hiện được về giá trị nội dung (lời tố cáo đanh thép, tình yêu thương và tiếng cười cay đắng, tiếng thét rực lửa cách 3
  9. mạng của công nhân mỏ) và chỉ ra giá trị nghệ thuật của ca dao vùng mỏ là nghệ thuật hiện thực, chủ nghĩa hiện thực trong hình thức thơ ca dân gian. Những luận điểm mà nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài nêu ra đã đề cập tương đối đầy đủ giá trị của ca dao vùng mỏ trước Cách mạng. Và trong bài viết còn đưa ra luận điểm ca dao vùng mỏ phản ánh tình yêu thiên nhiên. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thiên nhiên ở đây là phương tiện nghệ thuật để con người bày tỏ tình cảm với quê hương, đất nước và thể hiện tình yêu lứa đôi chứ không phải đối tượng hướng tới. Trong giai đoạn hợp tác và hội nhập với quốc tế như hiện nay thì yếu tố văn hóa bản địa, văn học dân gian càng ngày được coi trọng hơn, là mảnh đất màu mỡ thu hút các nhà nghiên cứu tìm tòi, sưu tầm một cách đầy đủ, hoàn chỉnh hơn. Năm 2007, nhà biên soạn Vũ Thị Gái kết hợp với Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ninh đã xuất bản cuốn “Ca dao - dân ca vùng biển Quảng Ninh”. Trong cuốn sách, PGS.TS Nguyễn Thị Huế trong bài giới thiệu “Đọc ca dao, dân ca vùng biển Quảng Ninh đôi điều cảm nhận” đã nhận định ca dao vùng biển là bộ phận ca dao mang đậm chất biển vùng Quảng Ninh bởi nó thể hiện được tâm hồn người dân biển, tình yêu, niềm tự hào về quê hương; đồng thời bước đầu tác giả đã phác thảo được đặc điểm thi pháp ca dao của người Việt ở Quảng Ninh. Đến năm 2010, trong cuốn “Di sản văn hóa làng chài Vịnh Hạ Long” do Thạc sỹ Cao Đức Bình và Thạc sỹ Hoàng Quốc Thái đồng nghiên cứu và biên soạn đã đi vào hướng “Phục dựng, bảo tồn và phát huy một số sinh hoạt văn hóa dân gian của ngư dân làng chài Cửa Vạn (Vịnh Hạ Long)”. Cuốn sách đã thể hiện được quan điểm của tác giả về sự phong phú, giàu giá trị nhân văn, đậm tính trữ tình của các bài ca dao - dân ca vùng biển. Công trình nghiên cứu đã bước đầu khái quát về nội dung và nghệ thuật cũng như hình thức lưu truyền gắn với môi trường diễn xướng của ca dao - dân ca vùng biển Quảng Ninh. Cũng trong năm 2010, Hội văn nghệ dân gian Quảng Ninh kết hợp với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam xuất bản cuốn “Ca dao vùng mỏ” do Tống Khắc Hoài chủ biên gồm hai phần: Ca dao Vùng mỏ trước Cách mạng tháng 8/ 1945 và Ca dao Vùng mỏ sau ngày giải phóng 25/ 4/ 1955. Cuốn sách đã sưu tầm thêm được hơn vạn câu ca dao làm sống lại không khí sinh hoạt văn hóa xã hội sâu rộng tại Vùng mỏ Quảng Ninh: lịch sử hình thành, truyền thống đấu tranh của giai 4
  10. cấp công nhân mỏ - đây là một sản phẩm văn hóa phi vật thể vô giá không phải ở vùng đất nào, ngành nghề nào có được. Cuốn sách ghi lại nội dung nổi bật, phong phú, sinh động cuộc sống tinh thần, lao động và chiến đấu của ca dao vùng mỏ cũng như một số hình thức nghệ thuật đặc trưng. Năm 2011, trong cuốn “Địa chí Quảng Ninh” tập 3, ca dao vùng mỏ được giới thiệu tại mục “Ca dao vùng mỏ trước Cách mạng tháng 8 - những sáng tác văn học đầu tiên của giai cấp công nhân”. Hai phương diện nội dung và nghệ thuật trong những sáng tác trước Cách mạng đã được đề cập đến một cách khái quát, đem đến cái nhìn tổng quan cho người đọc. Năm 2012, luận văn thạc sỹ của Lê Thị Nga với đề tài “Khảo sát ca dao - dân ca người Việt lưu truyền ở Quảng Ninh” đã khảo sát diện mạo ca dao - dân ca người Việt trên phương diện ngôn từ (nội dung, nghệ thuật biểu hiện) và trên phương diện diễn xướng, nghiên cứu sự gắn bó mật thiết với chức năng thực hành - sinh hoạt của một số hình thức dân ca tiêu biểu. Bên cạnh đó, còn rất nhiều các bài báo viết về ca dao vùng mỏ và ca dao vùng biển ở Quảng Ninh. Trên tạp chí Than - Khoáng sản vào ngày 11/11/2014, nhân kỉ niệm 78 năm ngày truyền thống Công nhân Vùng mỏ - truyền thống ngành than (12/11/1936 - 12/11/2014) đăng bài “Từ ca dao vùng mỏ nghĩ về thợ mỏ ngày xưa” nhằm ôn lại cuộc sống của công nhân và giới thiệu về ca dao vùng mỏ trước Cách mạng. “Ca dao vùng mỏ là “mỏ đá quý” mà hiện vẫn chưa được khai thác nhiều…” là tiêu đề bài báo của tác giả Huỳnh Đăng đăng trên báo điện tử Báo Quảng Ninh ngày 13/12/2015. Bài báo là cuộc trò chuyện xung quanh công trình nghiên cứu của ông Lê Văn Lạo - một lương y nhưng lại say mê khảo cứu văn hóa dân gian Quảng Ninh, đặc biệt là về công nhân vùng mỏ qua ca dao nơi đây. Tiếp theo, bài “Ca dao vùng mỏ trước Cách mạng: Giá trị văn hóa phi vật thể quý báu của Quảng Ninh” của nhà văn Vũ Thảo Ngọc in trên báo điện tử Báo Quảng Ninh ngày 20/12/2015 đã giới thiệu lịch sử sưu tầm các bài ca dao vùng mỏ từ những tư liệu đầu tiên cho đến cuốn “Ca dao vùng mỏ” xuất bản năm 2010 là cuốn sách hoàn thiện nhất. Đồng thời, tác giả còn khẳng định giá trị của ca dao vùng mỏ trước Cách mạng đối với lịch sử và với văn hóa dân gian Quảng Ninh. 5
  11. Cũng trên báo điện tử Quảng Ninh, trang “Văn hóa Đất và Người Quảng Ninh” tác giả Hoàng Long có bài viết “Người đi gom những câu ca trên vịnh Hạ Long” ngày 12/ 2/ 2016. Bài báo ghi lại cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài khi biết tin công trình nghiên cứu, sưu tầm “Ca dao - dân ca của dân chài trên Vịnh Hạ Long” mà ông là chủ biên đã được trao giải nhì Giải thưởng Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2015. Bản thảo của cuốn sách gồm hai phần: phần đầu giới thiệu những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật, nguồn gốc xuất xứ v.v.. trong ca dao, dân ca của dân chài Hạ Long như một nét đặc trưng chỉ riêng có ở đây. Phần thứ hai là tập hợp những câu ca dao, dân ca, hát chèo đường và hát đám cưới… của dân chài trên Vịnh Hạ Long do ông cùng những cộng sự sưu tầm từ năm 1965 đến nay. Ông Hài nói: “Kho tàng ca dao, dân ca làng chài trên Vịnh Hạ Long rất lớn, rất đồ sộ. Những gì đã in thành sách còn quá ít, quá nhỏ nhoi. Vậy mà trong xu thế đô thị hoá hiện nay, nếu không tổ chức sưu tầm, gom nhặt nhanh thì chẳng còn cơ hội nào nữa! Những câu ca dao, dân ca của người dân ở các làng chài tích luỹ từ bao đời nay sẽ “theo” người già về với cội nguồn mất thôi!” “Ca dao, dân ca thợ mỏ nặng về phản ánh hiện thực thống khổ của người thợ dưới ách áp bức bóc lột của chủ mỏ; còn ca dao, dân ca của dân chài trên Vịnh Hạ Long thì thiên về phản ánh khát vọng chinh phục thiên nhiên, tình yêu lứa đôi v.v.. một cách hồn hậu. Chính đây là cái vốn quý đã góp phần làm cho “hòn ngọc” Hạ Long càng trở nên lung linh hơn!”. Hội Văn nghệ dân gian Quảng Ninh đang trong quá trình thực hiện việc in ấn và phát hành cuốn sách “Ca dao dân ca của dân chài trên Vịnh Hạ Long”. Năm 2016, Nhà xuất bản Lao Động cho phát hành cuốn “Một số loại hình ca dao, dân ca ở Quảng Ninh” do nhà báo Phạm Văn Học sưu tầm, nghiên cứu. Cuốn sách tập hợp, tuyển chọn những bài viết của tác giả đã đăng trên Báo Quảng Ninh về một số loại hình ca dao, dân ca thuộc lĩnh vực Văn học dân gian Quảng Ninh như: Ca dao Vùng mỏ, hát Soóng cọ của người dân tộc Sán Chỉ, hát giao duyên trên Vịnh Hạ Long của dân chài, hát Đúm ở Hà Nam (Quảng Yên), hát Nhà tơ - Hát múa cửa đình ở các huyện miền Đông, hát Then của người Tày, hát Sán cô của người Dao... Ở mỗi bài viết, tác giả đã có những nhận xét, đánh giá tương đối xác đáng về đặc điểm nội dung, nghệ thuật nổi trội của mỗi loại hình ca dao, dân ca ở 6
  12. Quảng Ninh, những kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của chúng trong thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu. Tất cả các công trình nghiên cứu trên là những chỉ dẫn quý báu, định hướng cho chúng tôi có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn, sâu sắc hơn về kho tàng ca dao Quảng Ninh. Tuy nhiên, những bài viết trên mới chỉ nghiên cứu một vài phương diện về nội dung, nghệ thuật hay môi trường diễn xướng trên từng mảng ca dao riêng lẻ. Từ những lí do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh” nhằm tiếp bước quá trình tìm hiểu về ca dao Quảng Ninh, đặc biệt là ca dao vùng biển và vùng mỏ, đi sâu vào khám phá, phân tích tâm trạng của nhân vật và đối tượng mà các bài ca dao hướng tới để hiểu thêm về cuộc sống vật chất và tinh thần của người lao động xưa. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là ca dao Quảng Ninh. Trong đó, chúng tôi tập trung vào nghiên cứu: - Nhân vật trữ tình trong ca dao Quảng Ninh - Đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu hai hình tượng nghệ thuật đặc trưng của ca dao Quảng Ninh, khám phá những giá trị thẩm mĩ tinh túy trong tâm hồn, tình cảm, những cung bậc cảm xúc, diễn biến tâm trạng… của người dân lao động. Thông qua việc sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu về các văn bản ca dao ở Quảng Ninh, luận văn sẽ làm sống lại hiện thực khách quan về cuộc sống và tâm tư, tình cảm của ông cha ta ngày trước gửi gắm trong các bài ca dao. Từ đó góp phần kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp cho con người thời nay không quên lịch sử, nguồn cội của quê hương mình, có ý thức giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng thông qua các bài ca dao do nhân dân lao động xưa sáng tác, làm phong phú hơn vốn hiểu biết và bồi dưỡng tâm hồn thông qua các bài ca dao trữ tình mượt mà, đằm thắm. 7
  13. Một trong những mục tiêu nữa mà luận văn muốn hướng tới là dùng kết quả sưu tầm, nghiên cứu để ứng dụng vào việc giảng dạy trong chương trình Ngữ văn địa phương ở các đơn vị trường trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài, trước tiên cần tìm hiểu và nắm vững những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài làm nền tảng khoa học cho việc nghiên cứu. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hóa của nhân dân sống ở vùng mỏ và vùng ven biển Quảng Ninh bởi đó là những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của văn học dân gian, trong đó có ca dao từ khi ra đời cho đến ngày nay ở mảnh đất vùng ven biển Đông Bắc của Tổ quốc. Tập hợp các bài ca dao trong những cuốn sách sưu tầm về ca dao Quảng Ninh làm có sở triển khai đề tài luận văn. Ngoài ra, trong điều kiện có thể, chúng tôi còn đi điền dã để sưu tầm thêm những bài ca dao đang được lưu truyền trong đời sống dân gian ở tỉnh Quảng Ninh. Trên cơ sở hệ thống những văn bản, tác phẩm đã được tập hợp, sưu tầm, chúng tôi khảo sát, phân loại, phân tích để từ đó rút ra những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật được phản ánh thông qua tâm trạng của nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điền dã văn học dân gian: Chúng tôi đi thực tế về các phường, xã, thu thập thêm những bài ca dao còn lưu truyền trong nhân dân, tìm hiểu về đời sống văn hóa của người dân Quảng Ninh từ cổ truyền đến hiện đại để hiểu sâu sắc hơn về văn hóa, sức sống của văn học dân gian, trong đó có ca dao đối với con người nơi đây. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Dựa trên cơ sở đi thực tế thu thập tài liệu và nghiên cứu các văn bản hiện có, chúng tôi phối hợp với một số phương pháp sử học, địa lí học, dân tộc học... để nghiên cứu. - Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp người nghiên cứu sau khi đọc, sưu tầm tác phẩm sẽ thống kê, xác định số lượng, tần số xuất hiện của nhân vật và đối tượng trữ tình trong các bài ca dao để có được sự phân loại hợp lí nhất. 8
  14. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ kết quả thống kê, phân loại ở trên, phương pháp phân tích, tổng hợp sẽ giúp chúng tôi đưa ra những lời nhận xét, đánh giá, làm nổi bật sự phong phú, đa dạng trong đời sống tâm hồn của các nhân vật thông qua diễn biến tâm trạng của của nhân vật và đối tượng trữ tình trong các bài ca dao. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân tích, tổng hợp chúng tôi cố gắng so sánh, đối chiếu với các thể loại văn học dân gian khác ở Quảng Ninh và ca dao ở các vùng miền khác nhằm làm rõ những nét tương đồng hay dị biệt trong những trường hợp cần thiết. 5. Phạm vi nghiên cứu 5.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu Tư liệu nghiên cứu chủ yếu ở các bài ca dao trong các cuốn sách: 1. Tống Khắc Hài (chủ biên) (2010), Ca dao vùng mỏ Quảng Ninh, Hội văn nghệ dân gian Quảng Ninh, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam. 2. Vũ Thị Gái (2007), Ca dao - Dân ca vùng biển Quảng Ninh, Sở Văn hóa thông tin Quảng Ninh. 3. Thu thập thêm những bài ca dao về vùng biển và vùng mỏ còn lưu truyền trong dân gian mà các tác giả chưa đưa vào tác phẩm hiện có. 5.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi tập trung đi sâu vào việc tìm hiểu, hệ thống hóa nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh. Phạm vi khảo cứu chính là ca dao vùng biển và vùng mỏ Quảng Ninh. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lí luận và thực tế liên quan đến đề tài Chương 2. Nhân vật trữ tình trong ca dao Quảng Ninh Chương 3. Đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh 7. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối hệ thống, toàn diện về hai hình tượng nghệ thuật quan trọng trong thể loại ca dao ở Quảng Ninh - một vùng miền có truyền thống văn hóa, văn học dân gian. 9
  15. Nghiên cứu về nhân vật và đối tượng trữ tình trong ca dao Quảng Ninh giúp người ta hiểu rõ hơn về đời sống, những tâm tư, tình cảm, khát vọng, ước muốn của nhân dân lao động xưa, đặc biệt là những người dân sống ở vùng mỏ và ven biển. Khơi dậy truyền thống yêu quê hương đất nước, trân trọng quá khứ của quê hương và có ý thức giữ gìn, trân trọng hiện tại. Cung cấp thêm một tài liệu thiết thực cho nhà trường THCS tại địa phương Quảng Ninh giảng dạy. Góp phần giữ gìn, phát huy vốn văn hóa, văn học dân gian truyền thống của quê hương. 10
  16. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Để hiểu được nguồn cội sản sinh ra ca dao Quảng Ninh, trước hết phải nắm được một cách khái quát về vùng đất mỏ này cũng như hiểu được một số khái niệm cơ bản có liên quan đến nội dung nghiên cứu trong luận văn. 1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đời sống văn hóa ở Quảng Ninh 1.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên Quảng Ninh là một tỉnh ven biển, nằm ở địa đầu phía Đông Bắc. Nơi đây phần lớn là đồi núi nhưng do kinh tế đặc biệt phát triển và là một cực của tam giác kinh tế nên Quảng Ninh được xếp vào nhóm các tỉnh đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ. Với toạ độ địa lý khoảng 106 độ 26' đến 108 độ 31' kinh độ Đông và từ 20 độ 40' đến 21 độ 40' vĩ độ Bắc, tỉnh Quảng Ninh có dáng một con cá sấu nằm chếch theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Phía Đông hướng ra phía Vịnh Bắc Bộ; phía Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng; phía Bắc giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) với cửa khẩu Móng Cái và Trinh Tường. Diện tích toàn tỉnh Quảng Ninh là 8.239,243 km2. Trong đó diện tích đất liền là 5.938 km2 (chiếm 87%) còn vùng đảo, vịnh, biển (nội thuỷ) là 2.448,853 km2 (chiếm 13%). Riêng các đảo có tổng diện tích là 619,913 km2 với hơn 2000 hòn đảo (chiếm 2/3 số đảo cả nước) đã liên kết lại thành tuyến dài 200km theo hướng vòng cung, tạo thành bức tường vững chãi chống xâm lược. Trong sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã miêu tả vùng đất này “Lấy núi làm thành, chiếm chỗ cao, giữ chỗ hiểm, núi che sau lưng, biển bọc quanh mình, thế đất hẻo lánh mà ổn định, trong vững, ngoài kín. Quả thật là nơi hình thẳng của nước Nam”. [21] Với vị trí địa lý đắc địa như trên cùng kiến tạo địa hình tự nhiên, có cả núi cao (chiếm 80% diện tích đất đai) và sông suối (có khoảng 30 sông suối) đã chia Quảng Ninh thành 3 vùng: vùng núi gồm những dãy núi có độ cao từ 900 - 1100m với hướng chủ đạo là Đông Bắc - Tây Nam; vùng trung du và đồng bằng ven biển - nơi được bồi đắp phù sau màu mỡ quanh năm từ các con sông; vùng biển và hải đảo. Ba tiểu vùng 11
  17. này đã góp phần tạo điều kiện cho Quảng Ninh thêm phong phú, đa dạng và phát triển về mọi mặt như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Vì thế, từ xa xưa, đây đã là nơi giao thương, buôn bán sầm uất trong cả nước. Còn ngày nay, Quảng Ninh là tỉnh có nhiều thành phố nhất Việt Nam, có 4 thành phố trực thuộc (Hạ Long, Móng Cái, Cẩm Phả, Uông Bí), 1 thị xã (Quảng Yên) và 9 huyện (Đông Triều, Tiên Yên, Hải Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Cô Tô, Đầm Hà, Hoành Bồ, Vân Đồn). Như vậy, với điều kiện tự nhiên cùng sự đa dạng về dân tộc, khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng... là một trong những điều kiện thuận lợi để Quảng Ninh phát triển kinh tế, chính trị và giao lưu văn hóa với các vùng trong nước và quốc tế, là mảnh đất màu mỡ cho văn học dân gian phát triển ở Quảng Ninh. 1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội Trong thời kì hội nhập quốc tế, đất nước ta đang tích cực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đưa Việt Nam sánh ngang với các nước năm châu như lời Bác căn dặn. Vì thế, việc xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm là điều rất quan trọng. Được ví như một Việt Nam thu nhỏ, hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi (về vị trí địa lý, địa hình, tự nhiên, nhân lực) để phát triển kinh tế - xã hội, Quảng Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, là cửa ngõ quan trọng của hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Hình thành các trung tâm kinh tế lớn tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và xây dựng khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn (Quảng Ninh)”. Năm 2010, Quảng Ninh là tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đứng thứ 7 ở Việt Nam. Nền kinh tế ở Quảng Ninh phát triển rất đa dạng, trong đó có các ngành chủ lực như than, điện, cảng và du lịch đều ở mức cao. Về giao thông: Đường bộ có đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng; Có đường biên giới đất liền với Trung Quốc, Quảng Ninh có hệ thống cửa khẩu phân bố trên dọc tuyến biên giới (cửa khẩu Móng Cái, Hoành Mô, Bắc Phong Sinh), đặc biệt cửa khẩu quốc tế Móng Cái là nơi hội tụ giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ và thu hút các nhà đầu tư, là cửa ngõ giao dịch xuất nhập khẩu với Trung Quốc và các nước trong khu vực. Đường biển có hệ thống cảng biển, cảng nước sâu như cảng 12
  18. Cái Lân - cửa khẩu quốc tế đường biển có năng lực bốc xếp cho tàu hàng vạn tấn... tạo ra nhiều thuận lợi cho ngành vận tải đường biển giữa nước ta với các nước trên thế giới. Về các khu công nghiệp: có khu công nghiệp đóng tàu, khu công nghiệp Cái Lân, Việt Hưng (Hạ Long), Hải Yên (Móng Cái); Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà (huyện Hải Hà); Khu công nghiệp phụ trợ ngành than; Khu kinh tế Vân Đồn, Khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái... Đặc biệt, việc hình thành vùng công nghiệp khai thác than từ rất sớm bởi 90% trữ lượng than của cả nước thuộc về tỉnh Quảng Ninh. Vùng khai thác than, chế biến, tiêu thụ than có phạm vi rất lớn, trải dài từ Đông Triều, Uông Bí, Hoành Bồ, Hạ Long và Cẩm Phả... Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp, sản xuất trong và ngoài nước, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với sự phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ ở khắp các lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, thủy hải sản… Quảng Ninh là tỉnh đầu tàu của phía Bắc và cũng là nơi tạo nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều tác gia, cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng gắn với những loại hình văn học nghệ thuật mang nét đặc sắc rất riêng mà chỉ địa phương này mới có. Tiêu biểu có thể kể đến ca dao vùng mỏ hay ca dao vùng biển, hình thức hát giao duyên trên biển, hát đối, hát nhà tơ cửa đình… Không những thế, là một trong những cái nôi xuất hiện loài người từ rất sớm trên trái đất với nền văn hóa Soi Nhụ, Hạ Long; là nơi ghi lại dấu ấn các đời vua Hùng; mảnh đất có bề dày lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước; hội tụ đầy đủ các yếu tố tự nhiên: rừng, núi, nước non, biển đảo, sông hồ... Quảng Ninh là mảnh đất lưu giữ lại rất nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Đến nay, toàn tỉnh có 626 danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa các loại, trong đó có 125 di tích được xếp hạng, với 64 di tích được xếp hạng quốc gia, 61 di tích cấp tỉnh. Vì thế, Quảng Ninh là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Các hệ thống danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa có tầm vóc quốc gia và quốc tế như: di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mĩ và địa chất, địa mạo và là một trong bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của thế giới. Với di tích văn hóa Yên Tử, bãi cọc Bạch Đằng, Đền Cửa Ông, Đình Quan Lạn, 13
  19. Đình Trà Cổ, núi Bài Thơ, chùa Long Tiên, đình Quan Lạn, chùa Cái Bầu, chùa Ba Vàng, chùa Lôi Âm... thuận lợi cho phát triển du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch thể thao, du lịch văn hóa tâm linh. Và chính những địa danh, những thắng cảnh tươi đẹp này đã khơi gợi cảm hứng sáng tác, cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp, sự giàu có của thiên nhiên, đất nước, con người của người dân nơi đây và du khách thập phương khi đến với Quảng Ninh. 1.1.3. Đời sống văn hóa Nền văn hóa Việt Nam được xem là một nền văn hóa có bản sắc, có đặc tính là thống nhất trong sự đa dạng. Sự thống nhất ấy được minh chứng bằng một nền văn hóa chung đậm đà bản sắc dân tộc. Còn sự đa dạng được biểu hiện qua các đặc điểm nổi trội của các vùng văn hóa và các khía cạnh văn hóa trong đời sống con người. Tác giả Ngô Đức Thịnh trong cuốn “Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, H, 1993) đã chia nước ta thành bảy vùng văn hóa là: Đồng bằng Bắc Bộ, Việt Bắc, Tây Bắc và vùng núi Bắc Bộ, Duyên hải Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung và Nam Trung Bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên, Nam Bộ. Sự phân chia đó dựa vào đặc trưng của từng vùng lãnh thổ có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống, các mối quan hệ về nguồn gốc và lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội... Còn trong cuốn “Các vùng văn hóa Việt Nam” của Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận (Nxb Văn học, 1995) lại dựa trên tiêu chí về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà chia Việt Nam thành chín vùng văn hóa, tiêu biểu là văn hóa Thăng Long Đông Đô - Hà Nội; Vùng văn hóa đồng bằng miền Bắc Việt Nam; Vùng văn hóa Việt Bắc... Trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” do Trần Quốc Vượng chủ biên (NXB Giáo dục, 1997) đã đưa ra cách hiểu của mình về vùng văn hóa “Điều kiện tự nhiên và lịch sử, xã hội của mỗi vùng không giống nhau. Những nét khác nhau của các vùng đất về các phương diện ấy sẽ tạo ra phát triển của văn hóa có những điểm khác nhau”. Dựa vào đặc điểm tự nhiên và xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa chia Việt Nam thành sáu vùng văn hóa như: Vùng văn hóa Tây Bắc; Vùng văn hóa Việt Bắc; Vùng văn hóa Bắc Bộ; Vùng văn hóa Trung Bộ; Vùng văn hóa Tây Nguyên; Vùng văn hóa Nam Bộ. 14
  20. Từ những quan điểm trên thì Quảng Ninh nằm trong vùng văn hóa Bắc Bộ - vùng văn hóa được coi là cái nôi của quốc gia Đại Việt, có nền văn hóa dân gian lâu đời và phong phú. Quảng Ninh là ngôi nhà chung của rất nhiều dân tộc anh em, trong đó người Kinh chiếm phần lớn với hơn 1 triệu người, xếp thứ hai là dân tộc Dao, tiếp đó là người Tày, Sán Dìu, Sán Chay, người gốc Hoa… Cũng vì là đất nhập cư nên người nơi khác mang vốn văn hoá truyền thống của mình đến với Quảng Ninh rất nhiều. Họ sống ở các đô thị, nông thôn, các khu công nghiệp và vùng đồng bằng ven sông, ven biển với nghề khai mỏ, đánh bắt cá, làm rừng... Với mật độ và sự phân bố dân cư như trên đã tạo nên sự đa dạng về sắc tộc, ngôn ngữ và văn hóa tín ngưỡng bởi họ còn giữ được bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ, y phục, lễ hội và phong tục. Theo GS. TS. Nguyễn Xuân Kính, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hoá, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thì Quảng Ninh là vùng đất hội tụ văn hoá của cả nước nên rất phong phú về các giá trị Văn nghệ dân gian, và “hàng độc” của văn hoá, Văn nghệ dân gian Quảng Ninh phải nói đến dân ca, ca dao sông nước và ca dao Vùng mỏ. Có thể nói tỉnh Quảng Ninh là nơi giao thoa, thống nhất của nhiều nền văn hóa và cũng là cái nôi nuôi dưỡng, gìn giữ và phát triển văn học dân gian trong đời sống của nhân dân từ xưa đến nay. 1.2. Một số vấn đề lí luận 1.2.1. Nhân vật trữ tình Ca dao thuộc loại trữ tình, một trong ba loại (bên cạnh tự sự và kịch) của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đây là thể loại của thơ ca trữ tình dân gian. Là tác phẩm trữ tình, ca dao phản ánh cảm xúc, tâm trạng, tức thế giới nội tâm, ý thức của con người đối với thực tại. Nó là âm vang của trái tim, tâm hồn, là sự chất chứa, dồn nén, “bùng nổ” của suy nghĩ, cảm xúc trong những khoảnh khắc nhất định. Nếu tác phẩm tự sự “tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó..., phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố, hành vi của con người” [16, 373], thì tác phẩm trữ tình “phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩa, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới nhân sinh” [16, 373]. Trong tác phẩm trữ tình, toàn bộ chất liệu đời sống, thực tại đều biểu hiện qua lăng kính cảm xúc, tâm trạng của chủ thể trữ tình. Nói cách khác, tác phẩm trữ tình, trong đó có ca dao, là tiếng nói của bản thân chủ thể trữ tình 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2