intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc sắc tản văn Y Phương

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

29
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá những đặc sắc ở một số phương diện nội dung và nghệ thuật của Tản văn Y Phương các tác giả chỉ ra những mạch nguồn cảm hứng và bản sắc văn hóa Tày đậm nét trong từng trang viết của Y Phương, từ đó khẳng định cá tính sáng tạo cùng đóng góp của Y Phương cho văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng, và cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc sắc tản văn Y Phương

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM SÙNG THỊ HƯƠNG ĐẶC SẮC TẢN VĂN Y PHƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thái Nguyên, năm 2013 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM SÙNG THỊ HƯƠNG ĐẶC SẮC TẢN VĂN Y PHƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh Thái Nguyên, năm 2013 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu “Đặc sắc tản văn Y Phương” dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác đều được tác giả trích dẫn rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm Luận văn và Nhà trường về sự cam đoan này. Thái Nguyên, tháng 8, năm 2013 Tác giả Sùng Thị Hương Xác nhận Xác nhận của người hướng dẫn khoa học của khoa chuyên môn PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh TS. Cao Thị Hảo i Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên; Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Ban chủ nhiệm Khoa Sau đại học và các cán bộ Khoa Sau đại học Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học cũng như hoàn thành công trình nghiên cứu này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… đã khích lệ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn Sùng Thị Hương ii Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  5. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn ...................................................................................................... i Lời cam đoan ................................................................................................. ii Mục lục ......................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4 4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................ 5 6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 5 7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 6 8. Cấu trúc luận văn .............................................................................................. 6 Chương 1. VÀI NÉT VỀ TẢN VĂN VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG TRONG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG ................................................... 7 1.1. Vài nét về tản văn .......................................................................................... 7 1.1.1. Tản văn - một thể loại của văn xuôi hiện đại ............................................... 7 1.1.2. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Y Phương. ........................................... 15 1.2. Tản văn của Y Phương................................................................................. 19 1.21. Bản sắc văn hóa Tày - miền thương nhớ sâu thẳm nhất trong Tản văn của Y Phương. .................................................................................................... 19 1.2.2. Những kỉ niệm thân thương với người thân, bạn bè gắn bó cùng quê hương miền núi................................................................................................... 23 1.2.3. Những trải nghiệm trong cuộc đời của Y Phương. .................................... 25 Chương 2. ĐẶC SẮC NỘI DUNG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG .................... 28 2.1. Bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con người miền núi trong cái nhìn hoài niệm. 28 2.1.1. Bức tranh thiên nhiên vừa thơ mộng vừa dữ dội trong tản văn của Y Phương.... 28 2.1.2. Hình ảnh con người miền núi trong tản văn của Y Phương. ...................... 32 2.2. Cảm hứng chủ đạo trong tản văn của Y Phương........................................... 37 iii Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  6. 2.2.1. Cảm hứng ngợi ca và khát vọng bảo tồn bản sắc văn hóa Tày trước “mặt trái” của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa. ..................................... 37 2.2.2. Cảm hứng chiêm nghiệm - triết lí về lẽ sống ở đời, về mối quan hệ giữa văn hóa và nhân cách, về số phận của con người. ............................................... 41 Chương 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG.............. 49 3.1. Kết cấu tự do, linh hoạt với sự kết hợp nhiều phương thức, phương tiện nghệ thuật. .......................................................................................................... 49 3.1.1. Kết cấu liên tưởng - đồng hiện trong dòng hoài niệm của nhân vật người trần thuật. ................................................................................................. 50 3.1.2. Kết cấu “Vòng sóng đồng tâm”................................................................. 53 3.2. Kiểu nhân vật người trần thuật ngẫm ngợi, chiêm nghiệm và tự biểu hiện ... 56 3.2.1. Kiểu nhân vật người trần thuật “tha hương – hồi cố” mà chiêm nghiệm về quê hương...................................................................................................... 56 3.2.2. Kiểu nhân vật người trần thuật thi sĩ đi tìm chất thơ mang đặc trưng miền núi trong hồi ức.......................................................................................... 59 3.3. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương ......................................... 63 3.3.1. Bút pháp chấm phá khắc hoạ bức tranh thiên nhiên và xã hội miền núi hiện về trong hồi ức. ........................................................................................... 64 3.3.2. Bút pháp chấm phá trong tản văn của Y Phương với chân dung con người miền núi hiện về trong hồi ức ................................................................... 65 3.4. Cấu trúc câu đặc biệt và hệ thống từ láy mới mẻ đầy sáng tạo trong tản văn của Y Phương. .................................................................................................... 69 3.4.1. Cấu trúc câu đặc biệt trong tản văn của Y Phương .................................... 69 3.4.2. Hệ thống từ ghép, từ láy mới mẻ, đầy sáng tạo trong tản văn của Y Phương ... 77 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 89 iv Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, bộ phận văn học thiểu số có bản sắc văn hóa riêng và có đóng góp to lớn vào thành tựu chung của nền văn học nước nhà. Trong bộ phận văn học thiểu số Việt Nam hiện đại, nhà thơ Y Phương có một vị trí đặc biệt. Ông không chỉ là một nhà thơ tài năng từng đạt nhiều giải thưởng cao của thơ ca Việt Nam hiện đại mà còn là tác giả của những tản văn đặc sắc, chiếm được tình yêu và sự mến mộ của đông đảo độc giả. Hai tập tản văn của Y Phương “Tháng giêng - tháng giêng một vòng dao quắm”, “Kungfu người Co Xàu” đã mang lại cho tên tuổi Y phương một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới. Thể loại tản văn ở Việt Nam ngày càng có một vị trí đặc biệt trong hệ thống các thể loại văn học của nền văn học Việt Nam hiện đại. Đã có rất nhiều tác giả thành công với thể loại văn học vừa mang đặc trưng của tác phẩm ký văn học vừa giầu chất thơ này. Ví dụ như: Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Nguyễn Ngọc Tư... và Y Phương với sự kết tinh bản sắc văn hóa Tày độc đáo, có sự giao thoa - tiếp biến với bản sắc văn hóa Việt đã mang lại một “hương sắc riêng” không thể lẫn với tản văn của các nhà văn khác. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận hợp thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu sáng tác của Y Phương nói chung, tản văn của Y Phương nói riêng không chỉ góp phần nhận diện thành tựu văn học, cá tính sáng tạo độc đáo, và đóng góp của Y Phương vào thành tựu chung của nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại, mà còn qua đó chỉ ra hành trình vận động, phát triển ở phương diện cấu trúc thể loại của thể tản văn trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại. Nghiên cứu tản văn của Y Phương, chúng ta nhận ra bản sắc văn hóa Tày đặc sắc như một “tầng vỉa” nằm sâu thẳm trong mạch nguồn cảm hứng của Y Phương. Bằng tác phẩm của mình, Y Phương không chỉ biểu hiện tình yêu và lòng tự hào, ý thức bảo lưu, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình mà còn gián tiếp chứng minh cho một chân lí: - Không có một nghệ sĩ lớn nào ở bất cứ 1 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  8. loại hình nghệ thuật nào lại không được nuôi dưỡng và lớn lên từ “dòng sữa” ngọt ngào là truyền thống văn hóa mang tính dân tộc của anh ta. Chính truyền thống văn hóa đặc sắc của từng dân tộc sẽ trở thành “hộ chiếu” văn hóa để mỗi nhà văn đi ra thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh “toàn cầu hóa” hôm nay, đứng trước cuộc “xâm lăng” văn hóa từ các quốc gia phát triển tràn vào các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển, chúng ta càng thấm thía và hiểu sâu sắc hơn một châm ngôn tưởng chừng rất giản dị mà hệ trọng, liên quan đến sự sống còn của mỗi dân tộc mất văn hóa là mất tất cả! Tản văn của Y Phương cũng đã góp một tiếng chuông báo động về tình trạng mai một về văn hóa dân tộc, đã và đang diễn ra trên khắp đất nước ta và từ sự tha hóa về văn hóa ấy sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự mất mát trong nhân cách con người. Tản văn của Y Phương đã phản ảnh thực trạng ấy, và qua đó đã gửi gắm những thông điệp văn hóa khẩn khiết tới bạn đọc cả nước. Đã có một số bái báo giới thiệu và phân tích, đánh giá về tản văn Y Phương, nhưng đó mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu có tính sơ lược về tản văn của nhà thơ dân tộc Tày xuất sắc này. Một công trình nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về tản văn của Y Phương vẫn còn vắng bóng. Đây là lí do khiến chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc sắc tản văn của Y Phương”. Nếu công trình nghiên cứu được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác dạy và học chuyên đề văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại trong trường đại học, hệ cử nhân và thạc sĩ văn học nói riêng, và cho những ai yêu mến muốn tìm hiểu nghiên cứu về sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Thơ của Y Phương sớm thu hút sự quan tâm của bạn đọc và đặc biệt của giới lí luận phê bình, nghiên cứu văn học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, luận văn thạc sĩ tìm hiểu và đánh giá về thơ của Y Phương - nhà thơ được tôn vinh là một trong những gương mặt thơ Tày sáng giá nhất của thơ Việt Nam hiện đại. Nhưng với tản văn của Y Phương, do thời gian công bố tác phẩm còn rất mới mẻ, số lượng các công trình nghiên cứu về nó còn rất khiêm tốn. 2 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  9. Bài viết “Dấu ấn văn hóa Tày qua Tản văn của Y Phương” của tác giả Trần Công Văn là bài viết không dài nhưng đã bao quát một vấn đề lớn: những biểu hiện của bản sắc văn hóa Tày trong Tản văn của Y Phương. Tác giả đã triển khai ba vấn đề trong bài viết của mình: Văn hóa ẩm thực của người Tày trong Tản văn của Y Phương; văn hóa tâm linh của người Tày trong Tản văn của Y Phương; khát vọng bảo tồn văn hóa dân tộc trong Tản văn của Y Phương. Trong từng tiểu mục kể trên, Trần Công Văn đã phân tích, chứng minh các ví dụ cụ thể trong Tản văn của Y Phương để đi tới một kết luận khoa học: “dấu ấn văn hóa Tày trong Tản văn Y Phương không chỉ biểu hiện ở ẩm thực, lễ tết, tâm linh mà còn in đậm trong phương thức thể hiện, từ ngôn ngữ, giọng điệu cho đến hình ảnh đều mang dáng dấp, lối tư duy của người vùng cao (...). Tháng giêng - tháng giêng một vòng dao quắm của Y Phương nhẹ nhàng mà tinh tế, giản dị mà sâu sắc, chứa chan tình nhân ái, hướng người đọc tới sự thanh cao của cái đẹp, cái thiện, cái rất thực, rất tự nhiên mang hồn cốt của người Tày [51]. Không bao quát một vấn đề lớn rồi luận giải kĩ lưỡng như bài viết của Trần Công Văn, tác giả Tuy Hòa trong bài viết “Một sự công nhận dành cho thể loại Tản văn” Nguồn: (tonvinhvanhoa.doc.vn), chỉ khái lược về Tản văn của Y Phương như một bài điểm sách được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2010 [52]. Tuy vậy, trong bài viết ngắn này, Tuy Hòa đã chỉ ra một vài nét đặc sắc của Tản văn Y Phương: có một không gian văn hóa Tày độc đáo của vùng núi Cao Bằng; mạch nguồn cảm hứng của Tản văn Y Phương là nỗi nhớ quê hương của một người con xa xứ “Chuyển về Hà Nội sinh sống, Y Phương như một cánh chim khắc khoải đêm ngày nhớ nhung gió chuyển, mây bay” [52]; chất thơ trong Tản văn Y Phương “Tản văn của Y Phương không chinh phục người đọc bằng ánh mắt sắc sảo, mà bằng cái nhìn âu yếm. Có lúc Y Phương cao hứng, tung tẩy ý tứ theo bút pháp nhà thơ”. Điều đáng tiếc là trong bài viết này, tác giả khẳng định nhiều mà ít chứng minh cho các kết luận khoa học của mình. Trong bài viết “Tản văn - thể loại không dành cho người viết trẻ?” (Nguồn: phongdiep.net), tác giả Nguyễn Hồng Nga dành nhiều công sức để giới thuyết về thể loại tản văn, giới thiệu một số tác giả trẻ đã thành công với thể loại văn học này, và trong đó tác giả đã dành cho tản văn của Y Phương lời chào đón trân trọng: “chỉ 3 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  10. kể riêng trong một vài năm gần đây, người đọc đã đón nhận nhiều tập tản văn của thế hệ nhà văn đã định hình tên tuổi chào đời. Đó là Y Phương, một nhà thơ Tày đã đến và chinh phục những người yêu tản văn với Tháng giêng - tháng giêng một vòng dao quắm”[53]. Quả thực, nếu xét ở cương vị nhà thơ, Y Phương là một nhà thơ không còn trẻ và đã thành danh trên thi đàn Việt Nam hiện đại, nhưng ông lại là một nhà văn trẻ khi đột ngột xuất hiện bằng hai tập tản văn được người đọc yêu mến và tìm đọc. Tìm hiểu, đánh giá toàn diện cả hai tập Tản văn của Y Phương với cái nhìn sâu sắc, nhà phê bình Văn học Dân tộc Thiểu số Việt Nam hiện đại Lâm Tiến, với bài viết “Vẫn cứ xanh một màu rừng” đã mang lại cho chúng ta ấn tượng sâu đậm nhất. Trong bài viết này, Lâm Tiến đã đề cập đến nhiều nét đặc sắc của Tản văn Y Phương, nhưng nổi bật nhất là: qua tản văn Y Phương đã vẽ “chân dung tâm hồn” mình chân thật nhất: “ít ai viết tản văn mà lại thể hiện con người mình rõ ràng và thực đến vậy” [34]. Đó là hình ảnh quê hương và con người vùng cao Co Xàu đẹp cả về thể chất lẫn tinh thần. Đó là chiều sâu văn hóa Tày trong tản văn Y Phương: “Mỗi tản văn của Y Phương như một lát cắt, một tầng vỉa làm lộ dần chiều sâu văn hóa của quê hương, của dân tộc (...), Y Phương viết tản văn với một tầm nhìn chủ động, áp đảo, với một màu xanh của rừng không thể nào pha lẫn” [34] Như vậy, qua khảo sát, tìm tòi, chúng tôi mới chỉ thấy có một số bài viết bước đầu tìm hiểu, đánh giá về Tản văn của Y Phương, điều đó không tương xứng với giá trị đặc sắc của hai tập tản văn này. Bởi vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc sắc tản văn của Y Phương” để thực hiện luận văn của mình. Là một người con của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cực Bắc, chúng tôi đã tìm thấy bóng dáng quê hương và con người dân tộc mình ít nhiều qua Tản văn của Y Phương. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong hai tập tản văn của Y Phương. “Kungfu người Co Xàu” – NXB. Hội Nhà văn, 2010, “Tháng Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm” – NXB. Phụ Nữ, 2009.. 4 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  11. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát, phân tích, đánh giá hai tập tản văn của Y Phương là “Tháng giêng – tháng giêng một vòng dao quắm”, “Kungfu người Co Xàu”. Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng so sánh tản văn Y Phương với tản văn của những nhà văn khác như tản văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Nguyễn Ngọc Tư... Những công trình nghiên cứu về văn hóa Tày cũng được sử dụng làm tư liệu nhằm góp phần làm nổi bật đối tượng nghiên cứu của luận văn. 4. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá những đặc sắc ở một số phương diện nội dung và nghệ thuật của Tản văn Y Phương chúng tôi chỉ ra những mạch nguồn cảm hứng và bản sắc văn hóa Tày đậm nét trong từng trang viết của Y Phương, từ đó khẳng định cá tính sáng tạo cùng đóng góp của Y Phương cho văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng, và cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Thống kê, phân tích, đánh giá lí thuyết về tản văn nói chung, từ đó “soi chiếu” vào tản văn của Y Phương. Từ cơ sở lý thuyết ấy, chúng tôi khảo sát, đánh giá một số phương diện đặc sắc nhất như cảm hứng nghệ thuật, kết cấu, nhân vật người trần thuật, ngôn ngữ, bức tranh thiên nhiên xã hội và hình ảnh con người miền núi... trong tản văn Y Phương, qua đó khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc săc của mảng sáng tác độc đáo này. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học...). - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp thống kê – phân loại. - Phương pháp đối chiếu so sánh. 5 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  12. 7. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính toàn diện về tản văn của Y Phương. Thông qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá một số nét đặc sắc ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật của tản văn Y Phương, chúng tôi không chỉ khẳng định tài năng, tâm huyết và cá tính sáng tạo của nhà văn mà còn từ đó khẳng định thành tựu của văn học thiểu số Việt Nam hiện đại. Chúng tôi muốn góp phần làm sáng tỏ hơn những đặc trưng thể loại của tản văn trong đời sống thể loại văn học Việt Nam đương đại. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần thư mục tại liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Vài nét về tản văn và những mạch nguồn cảm hứng trong tản văn của Y Phương. Chương 2: Đặc sắc nội dung tản văn của Y Phương. Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật tản văn của Y Phương. 6 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  13. Chương 1 VÀI NÉT VỀ TẢN VĂN VÀ NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG TRONG TẢN VĂN CỦA Y PHƯƠNG 1.1. Vài nét về tản văn 1.1.1. Tản văn - một thể loại của văn xuôi hiện đại 1.1.1.1. Khái niệm tản văn. Ở Việt Nam cách gọi tản văn đến nay còn chưa được thống nhất về mặt nội hàm của khái niệm. Còn nhiều ý kiến khác nhau khi định danh về thể loại văn học này. Khái niệm tản văn ở Trung Quốc được dùng với ba cấp độ: tản văn theo nghĩa là văn xuôi; tản văn theo nghĩa là những thể loại ngoài truyện, thơ và kịch; tản văn là một thể loại văn học. Đầu thế kỉ XX, trong quan niệm của nhiều người, tản văn vẫn được hiểu theo nghĩa là văn xuôi, “là lối văn không đối nhau và không có vần” [8,118]. Hầu như tất cả các thể loại văn xuôi đều có chung cách gọi là tản văn để phân biệt với văn vần, theo cách hiểu này trong tản văn bao gồm cả Tựa, Truyện, Ký, Bi, Luận (theo cách chia của Bùi Kỷ); luận thuyết, văn sách, sử ký, tiểu thuyết, biện thuyết, kịch bản, giáo khoa, thơ từ (theo cách chia của Nguyễn Ứng). Hiện nay cách hiểu này không còn thông dụng nữa [8]. Ở một số Từ điển, ngoài cách hiểu là “văn xuôi” thì tản văn còn được hiểu là các loại văn gồm các thể ký và các thể văn khác ngoài truyện, thơ và kịch [8] Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tản văn được dùng để chỉ một thể loại văn học xác định. Trong các cuốn Từ điển Thuật ngữ Văn học, Năm bài giảng thể loại tản văn được dùng như một thuật ngữ chỉ tên thể loại văn học. Xét thực tiễn sáng tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại, qua những tác phẩm được gọi tên là tản văn của những cây bút có tên tuổi như Tản Đà, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Mai Văn Tạo, Nguyễn Khắc Phê, Hoàng Minh Thắng, Thảo Hảo... Chúng ta thấy khái niệm tản văn không chỉ được hiểu là văn xuôi như trước mà đã được dùng để chỉ những sáng tác văn xuôi ngắn, bộc bạch trực tiếp cảm xúc, tỉnh cảm, tư tưởng của người viết, trực tiếp bày tỏ 7 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  14. chính kiến, bàn luận về vấn đề xã hội nhân sinh, có cốt truyện rõ ràng hoặc cốt truyện “mờ”... nhưng xoay quanh tên gọi tản văn vẫn còn có những ý kiến khác nhau chưa phải đã thống nhất. Bởi vậy, chúng tôi cố gắng đưa ra cách hiểu của mình về thể loại tản văn như sau: tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm xúc có hoặc không có cốt truyện. Tản văn biểu hiện rõ nét “cái tôi” tác giả bởi mỗi tản văn sẽ vẽ lên một chân dung tâm hồn tự họa của người viết. Kết cấu của tản văn phóng khoáng, không có tính quy phạm chặt chẽ bởi được xây dựng theo dòng cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ với những liên tưởng bất ngờ, hồi ức gần và xa cùng sự luận giải các vấn đề nhân sinh - xã hội đậm tính chủ quan của người cầm bút. Với một nội dung như thế tản văn có phương thức biểu hiện tự do, giọng điệu đa thanh và ngôn ngữ đa sắc thái, kết hợp linh hoạt các bút pháp nghệ thuật khác nhau (tự sự, trữ tình, huyền ảo...), dung nạp cả chất thơ và chất văn xuôi. Có thể nói tản văn là một thể loại văn học nằm ở giữa truyện ngắn và ký văn học. Bởi vậy, chúng tôi chọn khái niệm về tản văn trong Từ điển Thuật ngữ Văn học để từ đó có cơ sở triển khai đề tài của mình: “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác giả.”[49,293] 1.1.1.2. Một số đặc trưng cơ bản của tản văn Thứ nhất Tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm xúc có hoặc không có cốt truyện. Tản văn là những tác phẩm văn xuôi thường có dung lượng không lớn, phổ biến là những bài văn ngắn ngọn, hàm xúc, có thể là những tiểu phẩm được trình bày dưới dạng một mẩu truyện nhỏ nhằm vẽ lại một vài nét chân dung của ai đó, hoặc kể lại một vài kỷ niệm từng ám ảnh trong ký ức, hay trở về theo dòng hoài niệm, hoặc miêu tả một ấn tượng sâu đậm nào đó dành cho một sự vật, sự kiện, con người có thực trong cuộc đời... 8 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  15. Sự ngắn gọn của tản văn trước hết có được là do tản văn thường xây dựng kết cấu xoay quanh một tín hiệu thẩm mĩ trung tâm nào đó (Ví dụ như một hình ảnh, sự kiện, một tình huống, một nhân vật...), trong tản văn “Ăn cháo Tiều” của Lý Lan, hình ảnh bát cháo trắng ăn với củ cải muối là một tập quán quen thuộc của người Hoa gốc Triều Châu đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ trung tâm, mọi cảm xúc và suy tư của người viết đều được khêu gợi từ tín hiệu này, để cuối cùng nỗi thương nhớ cố hương là tư tưởng nghệ thuật, là cảm hứng chính của tản văn này. Trong tản văn “Chim Huyền Hạc” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn đã chọn hình ảnh chim Huyền Hạc là tín hiệu thẩm mĩ trung tâm - là biểu tượng cho nhân cách cao đẹp và khát vọng không thành của người chí sĩ. [28] Như vậy, cấu trúc của tản văn thường chọn “hạt nhân” là một tín hiệu thẩm mĩ trung tâm - một biểu tượng, một hình ảnh có tính tượng trưng để rồi xoay quanh nó mà “dệt” những trường liên tưởng, đan cài cảm xúc và suy tư. Chính lí do này khiến tản văn có quy mô nhỏ gọn, không dàn trải và thường đạt được sự hàm xúc. Ở đặc trưng này, tản văn có nét tương đồng với thơ. Tản văn có thể có hoặc không có cốt truyện. Ví dụ như: trong tập “Kungfu người Co Xàu” của Y Phương, tản văn “Tiếng ve cay đắng”, “Trảy khu tư”, “Nhúng xuống thành phố” không có cốt truyện, nhưng tản văn “Bắt khách” lại có cốt truyện tương đối rõ ràng, tuy nhiên cốt truyện trong tản văn không có vai trò và ý nghĩa như cốt truyện trong truyện ngắn và tiểu thuyết. Nó chỉ là cái cớ để người viết trực tiếp bộc bạch tâm trạng và suy nghĩ của mình về một vấn đề nhân sinh nào đó. Trong tản văn, hình ảnh và chi tiết nghệ thuật mới là yếu tố quan trọng nhất, là hạt nhân cơ bản nhất. Người đọc có thể quên đi cốt truyện nhưng sẽ còn ám ảnh mãi với những hình ảnh, những chi tiết nghệ thuật có giá trị như những “thi nhãn” trong thơ. Đọc tản văn “Uống rượu trong lòng tháp Mỹ Sơn” của Thanh Thảo chúng ta bâng khuâng mãi với hình ảnh một viên gạch Chăm [28]. Đọc tản văn “Tập hát Quan họ” của Nguyễn Phan Hách, người đọc không thể không bâng khuâng với sự âm vang, lan tỏa từ một câu hát “huê tình” xứ Kinh Bắc.[28] 9 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  16. Thứ hai Tản văn bộc lộ rõ nét “cái tôi” của tác giả. Nếu như trong truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, “cái tôi” của tác giả luôn “giấu mình” để cho câu chuyện tự nói lên tất cả, nếu như trong thơ “cái tôi” thường tự bộc lộ rõ nét về mình nhưng chỉ là bộc lộ thế giới tâm trạng của anh ta (còn các yếu tố về tiểu sử, nghề nghiệp, gia đình, tính cách... của anh ta luôn bị xóa mờ), thì tản văn là thể loại duy nhất cho ta biết tỉ mỉ, chân xác về “cái tôi” tác giả của nó, ở cả phương diện tâm hồn, tư tưởng, đến các chi tiết xác thực về đời tư của tác giả. Nguyên tắc tự biểu hiện đã khiến tác giả của tản văn lấy ngay “cuộc sống của chính mình theo cách hiêu rộng nhất của từ này, làm “chất liệu” để xây dựng tác phẩm. Đặc điểm này khiến tản văn vừa gần gũi với ký văn học, vừa gần gũi với thơ, chẳng hạn qua tản văn “Tờ hoa” của Nguyễn Tuân, chúng ta như nhìn thấy chính chân dung tự họa của nhà văn ở cả hai phương diện đời sống tâm hồn và đời sống sinh hoạt thường ngày của ông, hay trong tản văn “Tắc kè nhớ núi” của Y Phương, trước hết người đọc hiểu biết rõ quá trình đi học của nhà văn cùng số bạn bè và thày cô có thật của Y Phương, như nhà giáo làm thơ Nguyễn Đức DZụ rồi người bạn Nguyễn Tuấn, nhà thơ Trần Hùng v v... Thứ ba Tản văn viết về người thật, việc thật và sử dụng hư cấu có hạn chế trong nhưng phạm vi và mức độ nhất định. Do tản văn thường viết về nhưng kỉ niệm máu thịt, những ấn tượng sâu đậm của chính tác giả trong dòng hoài niệm về một quá khứ đã qua của chính cuộc đời mình: viết về quê hương, về người thân, về những nét đẹp văn hóa của dân tộc mà bản thân thường chiêm nghiệm... Đặc biệt, tản văn miêu tả thế giới và con người qua “đôi mắt”, “trái tim”, “trí tuệ” đậm tính chủ quan của chính người viết - người viết trở thành nhân vật người trần thuật chiếm vị trí trung tâm trong tác phẩm, tham gia trực tiếp vào câu chuyện. Đặc trưng này khiến tản văn rất gần gũi với tác phẩm ký văn học ở nguyên tắc viết về người thật, việc thật, chẳng hạn như tản văn: “Hương sắc ô môi” của Mai Văn Tạo đã khắc họa hình tượng trung tâm - cũng là tín hiệu thẩm mĩ trung tâm là cây ô môi, một loài cây không có gì đặc biệt: “Quả dài thậm thượt, sần sùi, gút mắc, cong cong, đen đúa, cứng đờ như thanh gỗ”[28], và đây cũng không phải là loại cây có giá trị kinh tế khiến người ta phải lo chăm bón nâng niu. Nhưng hoa ô môi lại là hình ảnh có thật, là vẻ đẹp riêng của vùng sông 10 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  17. nước An Giang khiến cho tác giả say mê, ám ảnh trước vẻ đẹp dân dã của loài hoa nở vào dịp cuối xuân này: “Nở đỏ bờ kênh, gò đất, làm đẹp xóm làng, làm vui bờ kênh vắng vẻ”[28]. So sánh vẻ đẹp của hoa ô môi với vẻ đẹp của hoa đào, người con của sông nước An Giang ấy bộc bạch tâm tư tình cảm của mình với bao kỷ niệm gắn bó cùng loài hoa thân thuộc của quê hương. Trong tản văn “Sử thi buồn” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên tắc tôn trọng “người thật, việc thật” trong tản văn không phải là “chụp ảnh” nguyên xi hiện thực, mà là cái cớ để từ đó người viết mở rộng trường liên tưởng của mình về quá khứ mờ xa, đào sâu nhằm phát hiện nhưng ý nghĩa văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị từ những “người thật việc thật” ấy. Trong “Sử thi buồn”, hình ảnh sông Hương trở thành tín hiệu thẩm mĩ trung tâm, để từ đó, nhà văn mở rộng trường liên tưởng tới sông Hoàng Hà trong thơ Lý Bạch, đến những người bạn văn chương của nhà thơ từng xao xuyến với sông Hương như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán, để cuối cùng nhà văn mở rộng suy tư khi liên tưởng dòng sông Hương với dòng sông lịch sử - dòng sông văn hóa đã chảy qua kinh thành Huế mà phù sa trầm tích lại là bao tác phẩm văn chương nghệ thuật đã ra đời trên mảnh đất đế đô này: “Có một chiều sương sa, sông Hương mịt mù như cả con sông Ngân Hà đang xuống trần và trôi qua trước mắt tôi. Chợt hiện ra một vệt lửa lung linh tiến dần về phía tôi (...) tôi giật mình kêu lên con thuyền Phan Bội Châu...”[54] Nếu như truyện ngắn, tiểu thuyết sử dụng hư cấu tự do thì cả tản văn và ký văn học, dù vẫn tôn trọng nguyên tắc tái hiện “người thật việc thật”, nhưng vẫn sử dụng hư cấu có hạn chế trong những phạm vi và ở những mức độ nhất định. Hư cấu có hạn chế được sử dụng trong tản văn ở một số phương diện sau đây: Sự thật trong đời sống như một tảng đá hoa cương xù xì thô nhám, người viết tản văn như một nghệ sĩ điêu khắc phải biến tảng đá xù xì kia thành một pho tượng tuyệt mĩ. Cũng chỉ là đá hoa cương kia thôi, nhưng người viết tản văn đã phải “đục đẽo” loại bỏ những gì thừa thãi, không cần thiết, sửa sang, gọt rũa, để biến khối đã thành pho tượng. Công việc ấy đã là hư cấu nghệ thuật rồi. Trong tản văn “Ở Đà Tẻ tôi có một que tăm”, Y Phương kể chuyện về một người cháu gái gọi nhà văn là cậu ruột tên là Hoàng Thị Đăm nhà văn không kể lại toàn bộ số phận của người cháu gái này mà chỉ nhấn mạnh đến quãng đời xa xứ của người cháu gái và niềm vui gặp gỡ 11 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  18. đến trào nước mắt: “Cháu tôi như một cây phong lá đỏ, ở gần nhà ông bà. Cây phong hớn hở chạy như lao ra, ôm chầm lấy tôi. Nó thì cười hết cỡ, còn tôi thì khóc. Khóc mà không thành tiếng. Khóc thầm trong ruột” [13] Hư cấu có hạn chế trong tản văn còn được sử dụng để tái hiện lại những bức tranh thiên nhiên và bức tranh xã hội đã một đi không trở lại cùng thời gian. Nhà văn chỉ có thể làm sống lại những hình ảnh chỉ còn trong kí ức bằng hư cấu. Đây là “Tết quê” hiện về trong hồi ức của Trọng Bảo và cũng nhờ bức tranh vẽ bằng hoài niệm ấy, thế hệ trẻ hôm nay mới biết tết quê ngày xưa có những gì mà làm bao người đọc lại nhói lòng đến vậy: “Ngày tết năm xưa có bao nhiêu trò chơi như bịt mắt đập niêu, đi xe đạp đốt pháo, kéo co, đánh vật, chơi cờ tướng... Tiếng trống mùa xuân hội làng nghe náo nức. Bây giờ về quê...”[55] Hư cấu có hạn chế trong tản văn được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất so với kí văn học. Ở đây, “người thật việc thật” được chọn làm “tâm điểm” để từ đó mở ra bao nhiêu vòng sóng “đồng tâm” - Những dòng sóng liên tưởng, tưởng tượng có sự hòa nhuyễn của cả cảm xúc và suy tư, để từ hiện tại trở về quá khứ nghìn năm trước hay mơ tới tương lai trăm năm sau. Từ một bát phở Việt mà Nguyễn Tuân suy ngẫm và tôn vinh giá trị của văn hóa ẩm thực Việt.[28]. Từ một bát cháo ăn liền đựng trong một chiếc cốc giấy, tác giả Lưu Dung trong tản văn “Bát cháo của cha” cũng trở về với quá khứ 57 năm trước, sử dụng hư cấu để tái hiện chân dung người cha cùng bát cháo nghèo. [28] Trong tản văn, hư cấu có hạn chế còn được sử dụng khi đặt sự vật, sự việc và con người vào những trường liên tưởng có tính “lạ hóa”, nhằm tạo ra những vẻ đẹp mới, giá trị mới cho những đối tượng không mới, để sự vật, sự việc quen thuộc ấy vẫn là nó mà không chỉ là nó, độc đáo hấp dẫn và mới mẻ lạ thường. Chúng ta hãy nghe Y Phương miêu tả nước mắt của người chị xa quê trong tản văn “Chị em”: “Không thấy bóng dáng người anh chị em ruột thịt. Không biết nói tiếng Tày cùng ai. Vậy nên nước mắt tan chảy dưới làn da mặt. Nước mắt không sao thoát nổi ra ngoài. Nước mắt ngấm qua từng chân tóc. Làm cho chúng khô ròn như nướng”[13]. Hoặc là hư cấu được sử dụng trong tản văn “Rơm” của Tạ Duy Anh: nhân vật trần thuật xưng “tôi” nhớ lại một đêm nằm trong ổ rơm mà nghe tiếng rơm thì thầm từ kiếp trước: “Tôi cuộn tròn trong ổ rơm nghe tiếng 12 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  19. thì thầm từ kiếp trước: Rơm hy vọng cho tương lai” [ 55]. Tiếng nói của rơm thật kỳ diệu, có được nhờ hư cấu nghệ thuật (bởi nếu chỉ tả người thật, việc thật thì làm sao nghe được tiếng rơm thì thầm từ kiếp trước đã gợi liên tưởng đến những câu thơ có suy tư gần gũi với ý tưởng của Tạ Duy Anh: “Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no Riêng hơi ấm nồng nàn như lửa Từ những cọng rơm xơ xác gầy gò Cái vị ngọt nên hương của lúa Đâu dễ chia cho tất cả mọi người” (Nguyễn Duy - Hơi ấm ổ rơm) Đặc biệt hư cấu có hạn chế được người viết tản văn sử dụng để tái hiện tâm trạng vốn mơ hồ của nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong tản văn “Sử thi buồn”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng hư cấu có hạn chế để tái hiện chân dung và tâm trạng bà Trần Thị Nữ - người chèo đò cho cụ Phan Bội Châu suốt 15 năm ở Huế: “Hơn 40 năm sau ngày cụ Phan qua đời, tôi được gặp bà Trần Thị Nữ, người chèo đò cho cụ Phan suốt 15 năm ở Huế. Được biết trong bấy nhiêu năm, bà đã như quên hết chuyện đời, chỉ giữ lại một tấm lòng cô trung với nhà yêu nước vĩ đại. Bà kể lại với mọi người đến thăm vô vàn những kỷ niệm về cụ Phan, và nhiều đêm như người mộng du bà quanh quẩn giữa cây lá trong vườn, ngâm vang “Hải ngoại huyết thư” trong tiếng đại bác dội vào thành phố”.[54] Thứ tư Tản văn sử dụng phương thức nghệ thuật tự do linh hoạt - đa bút pháp. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, trong tản văn, chúng ta bắt gặp chất thơ cùng sự cô đọng hàm xúc, những hình ảnh mang tình biểu tượng rất giống với đặc trưng của tác phẩm trữ tình, sự dồn nén dung lượng hiện thực tối đa vào phạm vi câu chữ ngắn ngọn, cùng ý tứ, cốt truyện của truyện ngắn, viết về “người thật, việc thật” và nguyên tắc tự biểu hiện của cái “tôi” tác giả giống như tác phẩm ký văn học...Với thế mạnh này, tản văn là thể loại có thể dung hòa mọi phương thức nghệ thuật như tự sự, trữ tình, ký, nghị luận chính trị xã hội. Và tương ứng với phương thức nghệ thuật tự do linh hoạt này là sự đa dạng của các bút pháp nghệ thuật. Đây là một nhận định có tính khái quát chung cho thể loại tản văn. Còn ở mỗi tản văn 13 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
  20. riêng lẻ thường chỉ sử dụng một bút pháp nghệ thuật, tô đậm một sắc thái thẩm mĩ mà thôi. Chẳng hạn như một số tản văn của Phùng Tất Đắc, nghèo chất thơ nhưng lại giàu chất văn xuôi, gắn với sự xù xì, thô nhám của đời thường đa tạp. Ông dùng bút pháp của thể văn nghị luận chính trị, xã hội để mổ xẻ, phân tích, lí giải về những “ung nhọt” của xã hội Việt Nam trước 1945. Trong tản văn “Lời người bán cám”, nhà văn tái hiện một cảnh tượng bi thảm xuất hiện ở một chợ thuộc tỉnh Nam: “Nhân khi ngồi trong một hàng bán cám ở tỉnh Nam, tôi thấy mấy người nhà quê đang cúi lom khom trên mấy nong cám, lấy tay vốc một chút bỏ vào mồm, nếm ra vẻ ngon lành lắm”. Thì ra đó là những người đói ăn giả vờ đi mua cám, lấy cớ nếm cám để kiếm chút thức ăn cho qua cơn đói khát. Từ việc nếm cám kể trên, nhà văn bàn luận tới số phận khốn khổ của người dân quê Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đầy máu và nước mắt này: “Thời buổi văn mình vật chất mà có người cơ cực về vật chất còn hơn loài cầm thú”[28]. Để rồi sau khi phân tích, luận giải về thảm cảnh trên, nhà văn kín đáo mỉa mai các chính sách hà khắc của thực dân phong kiên đã đẩy đồng bào ta đến bước đường cùng. Ngược lại với bút pháp hiện thực, cùng những yếu tố của thể văn nghị luận chính trị xã hội xuất hiện trong tản văn của Phùng Tất Đắc, chúng ta gặp chất thơ và bút pháp trữ tình trong tản văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Sương mù là một nét phong vận riêng của sông Hương, xuất hiện khoảng cuối xuân đến đầu hạ vào tinh mơ, cuối chiều và những đêm trăng lạnh; cũng nhiều khi ghé lại bất ngờ như một gã lãng du. Nhiều tháng dài thành phố hư ảo trong sương, dòng sông mịt mù trôi trong cơn mê dại, chỉ còn ánh lửa thuyền chài lay động ý thức giữa cõi thực và cõi mộng”[54] Còn đây là bút pháp tả thực với giọng điệu bông đùa, suồng sã rất gần gũi với thể ký “bám sát” người thật việc thật: “Truyện tranh vào Việt Nam từ năm 1992, cuốn Doremon của nhà xuất bản Kim Đồng. Chú Nguyễn Thắng Vu một lần tình cờ đi công tác ở Nhật, bất ngờ “chộp” được một bộ Doremon, thế là chú đem về Việt Nam in rồi bán thật thà hơn đếm. Mà chú ấy là giám đốc nhà xuất bản Kim Đồng mới gớm, cũng may chú Thắng ngây thơ như thế, thì mình mới có Doremon mà đọc, chứ chú mà đàm phán bản quyền thì chắc giá bản quyền sẽ làm chú ngất lên ngất xuống, mà mình sẽ chắng có đếch truyện gì mà đọc” [56] 14 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu http://lrc.tnu.edu.vn/
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2