Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Khảo sát tư tưởng Mỹ học và Văn học của Phạm Quỳnh
lượt xem 14
download
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Khảo sát tư tưởng Mỹ học và Văn học của Phạm Quỳnh khảo sát tư tưởng Mỹ học và Văn học của Phạm Quỳnh nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống các quan niệm về Mỹ học cũng như Văn học được thể hiện trong các tác phẩm của ông. Trên cơ sở đó, đánh giá một cách đúng đắn và khách quan những đóng góp về tư tưởng Mỹ học và Văn học của Phạm Quỳnh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Khảo sát tư tưởng Mỹ học và Văn học của Phạm Quỳnh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ———————————— NGUYỄN THANH TÙNG LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Chuyên nghành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 Người hướng dãn khoa học: PHÓ GIÁO SƯ – TIẾN SỸ PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2010
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sư – Tiến sỹ Phùng Quý Nhâm. Những luận điểm khoa học trong luận văn này là kết quả do chúng tôi nghiên cứu, bảo đảm tính trung thực và chưa từng được ai giải quyết trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Tùng
- LỜI TRI ÂN Luận văn này là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu suốt ba năm trong chương trình đào tạo Thạc sỹ, dưới sự truyền dạy, hướng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc và khoa học của tập thể thầy cô là các Giáo sư, Phó giáo sư, tiến sỹ đáng kính của Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Văn Hiến, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Viện nghiên cứu giáo dục và Viện nghiên cứu văn học. Vì thế, trước tiên, tôi xin kính gửi đến quí thầy cô lời tri ân sâu sắc về những tri thức và tình cảm mà quý thầy cô đã dành cho tôi trong thời gian qua! Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến Phó giáo sư – Tiến sỹ Phùng Quý Nhâm, một nhà giáo mẫu mực trong nhân cách; tận tâm trong giảng dạy và nghiêm túc, khách quan trong khoa học, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này! Nhân đây, tôi cũng xin gửi đến vợ, con, bạn bè và những đồng nghiệp thân thiết của tôi – những người đã động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi, trong thời gian học tập và thực hiện công trình khoa học đầu tiên của mình – lời cảm ơn chân thành, thắm thiết! Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 9 năm 2010. Nguyễn Thanh Tùng
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Văn hóa Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam nói riêng, trong tiến trình lịch sử của mình đã có những cuộc tiếp xúc, ảnh hưởng lớn, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn hóa, văn học nước ngoài. Trong quá trình tiếp xúc ấy, văn hóa - văn học Việt Nam đã tiếp thu, chắt lọc tinh hoa của nhân loại để tự làm phong phú và tạo nên bản sắc riêng của dân tộc. Trong suốt hành trình dài hơn mười thế kỷ phát triển của văn hóa – văn học Việt Nam, phải kể đến hai cuộc tiếp xúc lớn, với những ảnh hưởng vô cùng quan trọng: - Một của văn hóa phương Đông, mà chủ yếu là văn hóa Trung Hoa, từ thế kỷ XIX trở về trước. - Và một của văn hóa phương Tây, mà chủ yếu là của văn hóa Pháp từ nửa cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, cuộc tiếp xúc sau đã tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ, đưa nền văn hóa – văn học Việt Nam chuyển mình từ một một nền văn hóa – văn học thuộc phạm trù văn hóa phương Đông cổ truyền, sang một nền văn hóa – văn học hiện đại chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa phương Tây. Trong công cuộc tiếp thu những kinh nghiệm và thành tựu của văn hóa – văn học phương Tây để hiện đại hóa nền văn hóa – văn học Việt Nam ở chặng đường những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, công đầu thuộc về những tên tuổi lớn như Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn…Đó là người thuộc lớp trí thức Tây học đầu tiên của Việt Nam, với tinh thần cầu thị, với tư tưởng tiến bộ và đặc biệt là với nhiệt tình yêu nước và ý thức dân tộc, đã tự nguyện làm người đi tiên phong trong công cuộc tiếp thu, truyền bá những tư tưởng văn hóa – văn học tiên tiến của phương Tây, góp phần không ít vào công cuộc chấn hưng, hiện đại hóa văn hóa – văn học dân tộc. Một trong những nhân vật xứng đáng được lịch sử văn học Việt Nam ghi công đầu trong công cuộc chấn hưng, hiện đại nói trên đó là nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn, nhà giáo, học giả Phạm Quỳnh. Trần Văn Chánh, trong Lời giới thiệu Phạm Quỳnh và Thượng Chi văn tập vào tháng 7 năm 2005, đã viết về trường hợp Phạm Quỳnh như sau:
- “Trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ cận – hiện đại, Phạm Quỳnh có lẽ là một trong những nhân vật nổi bật nhưng lại có vẻ gây nên nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Nói như vậy, dù tán thành hay phản đối, hoặc giữ thái độ chiết trung, mặc nhiên mọi người đã thừa nhận vai trò không thể xem thường của của nhân vật này trong bối cảnh lịch sử văn hóa cụ thể nhất định” [3, 9]. Bằng tài năng và sở học uyên bác, bằng sự kiên trì và cẩn trọng trong khoa học và đặc biệt là bằng tình yêu tha thiết với văn hóa, văn học nước nhà, Phạm Quỳnh đã đóng góp một sự nghiệp trước tác khá đồ sộ. Tạp chí Nam Phong, trong mười bảy năm tồn tại, ấn hành được 210 số, riêng Phạm Quỳnh đã đóng góp có tới chục ngàn trang viết, trải rộng ra trên hầu khắp mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, triết học, giáo dục đến văn chương, ngôn ngữ, …Với sự đóng góp lớn lao ấy, Phạm Quỳnh xứng đáng được thừa nhận là một trong những người có công lớn trong thời kỳ đầu xây dựng và phát triển của nền báo chí và văn học quốc ngữ nước nhà. Đặc biệt, với tư cách là một nhà văn, một nhà biên khảo, Phạm Quỳnh là người đầu tiên cung cấp cho người đọc những khái niệm bước đầu về mỹ học nói chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết… nói riêng. Ngay trước năm 1945, tên tuổi của Phạm Quỳnh đã được nhắc đến một cách trang trọng trong một số công trình nghiên cứu có giá trị như Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan…Ở miền Nam trước năm 1975, trong một số sách văn học sử tiêu biểu của các tác giả như Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ…Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong cũng được giới thiệu khá chi tiết qua hàng trăm trang sách với tất cả mọi khía cạnh phức tạp của vấn đề. Năm 1963, cũng ở miền Nam, diễn ra cuộc tranh luận với tên gọi Vụ án truyện Kiều hết sức kịch liệt và kéo dài, mà giáo sư Nguyễn Văn Trung đã tập hợp lại thành một “hồ sơ”. Tuy nhiên trong suốt một thời gian khá dài, vì những lý do khác nhau, vấn đề Phạm Quỳnh vẫn chưa thật sự được tìm hiểu, nghiên cứu một cách đầy đủ, đúng mức, xứng tầm với sự đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Thời gian gần đây, tư tưởng đổi mới tư duy do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức và đánh giá lại một cách khách quan hơn đối với một số vấn đề trong lịch sử văn hóa - văn học nước nhà. Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông đã được đặt ra và đánh giá lại trong tình hình chung ấy.
- Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện, khách quan và khoa học về sự nghiệp văn hóa – văn học của Phạm Quỳnh cũng như những đóng góp của ông đối với văn hóa – văn học Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Đó cũng là lý do mà chúng tôi chọn đề tài: KHẢO SÁT TƯ TƯỞNG MỸ HỌC VÀ VĂN HỌC CỦA PHẠM QUỲNH làm đối tượng nghiên cứu khoa học để thực hiện luận văn. Nghiên cứu về Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ như trên đã nói, sự nghiệp văn hóa - văn học của Phạm Quỳnh khá đồ sộ, trải rộng ra trên hầu khắp mọi lĩnh vực. Dẫu có nhiều tham vọng, nhưng vì nhiều lý do, người viết chỉ có thể tiến hành nghiên cứu một khía cạnh nhỏ trong sự nghiệp của Phạm Quỳnh như đã xác định ở trên, với mong muốn góp thêm tiếng nói vào việc nghiên cứu sự nghiệp của học giả này. 2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài được thực hiện với mục đích khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống các quan niệm về mỹ học cũng như văn học được thể hiện trong các tác phẩm của ông. Trên cơ sở đó, đánh giá một cách đúng đắn và khách quan những đóng góp về tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Sự nghiệp khoa học của Phạm Quỳnh, như đã giới thiệu một cách khái quát ở trên, rất đồ sộ, trải rộng ra trên nhiều lĩnh vực. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn qua việc tập trung khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh thể hiện qua các bài viết, công trình mà tác giả đã công bố. Khi khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh, luận văn chủ yếu tập trung tìm hiểu những quan niệm về mũ học và văn học của ông. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của học giả – nhà văn Phạm Quỳnh, với tư cách là một trong số những người đi tiên phong trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả luận văn sẽ nêu ý kiến đánh giá về những đóng góp của Phạm Quỳnh đối với văn hóa – văn học nước nhà, chủ yều ở giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý các yêu cầu khoa học do đề tài đặt ra, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê, là phương pháp vay mượn từ một ngành khoa học chuyên biệt của toán học – ngành thống kê học, được chúng tôi sử dụng như một công cụ hỗ trợ cho việc thu thập, tổ chức và phân tích các tài liệu, ý kiến có liên quan đến việc tìm hiểu các quan niệm về mỹ học và văn học của học giả Phạm Quỳnh được thể hiện một cách khá rải rác và tản mạn trên các số báo của tạp chí Nam Phong. Qua đó, chúng tôi mong có thể rút ra những kết luận khách quan về tư tưởng mỹ học và văn học của học giả này. - Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những nét tương đồng cũng như dị biệt về nội dung và hình thức giữa văn học Trung đại và hiện đại; làm rõ được sự khác biệt của tình hình báo chí trước và từ khi Nam Phong tạp chí ra đời để làm rõ được vai trò của Phạm Quỳnh và Nam Phong đối với tiến trình phát triển của văn học và báo chí trong thời kỳ đầu. Mặt khác, nó cũng được sử dụng để nghiên cứu tác giả Phạm Quỳnh trong mối tương quan với các tác giả cùng thời để qua đó có đánh giá một cách đúng đắn, khách quan về những đóng góp của Phạm Quỳnh đối với mỹ học và văn học của dân tộc. - Phương pháp hệ thống được dùng để hệ thống hóa các công trình trước tác của Phạm Quỳnh, từ đó có những đánh giá, kết luận về đóng góp của Phạm Quỳnh trong một bối cảnh đặc biệt của lịch sử văn hóa dân tộc. Ngoài ra chúng tôi đồng thời sử dụng các thao tác quen thuộc như liệt kê, phân tích, tổng hợp v.v… 4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 4.1. Ý nghĩa khoa học. Đề tài góp một số ý kiến đánh giá về tư tưởng mỹ học và văn học của học giả – nhà văn Phạm Quỳnh, bao gồm cả ưu điểm cũng như hạn chế. Những ý kiến mà tác giả thực hiện đề tài đề xuất, nếu được thẩm định là khách quan và có giá trị, thì sẽ là một đóng góp vào nỗ
- lực chung nghiên cứu sự nghiệp khoa học của Phạm Quỳnh, ghi nhận vai trò của học giả – nhà văn này đối với giai đoạn phát triển đặc biệt của văn hóa – văn học Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. 4.2. Ý nghĩa thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm một cái nhìn hệ thống về tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh; những đóng góp cũng như hạn chế của ông trong các lĩnh vực này. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này cũng có thể được sử dụng ở cấp học trung học phổ thông và đại học như một tài liệu tham khảo bổ ích, phục vụ cho giảng dạy và học tập văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. 5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. Vấn đề Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông đã được các nhà nghiên cứu quan tâm ngay từ khi ông còn sống. Trong tác phẩm Phê bình và cảo luận, xuất bản năm 1933, tác phẩm được xem như một trong những công trình lý luận phê bình hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam, Thiếu Sơn đã có những nhận định hết sức xác đáng và toàn diện cả về tư tưởng chính trị cũng như về sự nghiệp văn hóa của Phạm Quỳnh. Đánh giá những đóng góp của Phạm Quỳnh về văn hóa, ở phần thứ nhất, mục Phê bình nhân vật của tác phẩm này, Thiếu Sơn viết: “… những công trình về văn học, triết học của Âu châu và nhất là của nước Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng, thật hay, vừa biết tôn trọng cái nguyên ý của tác giả lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc văn. Bởi mưu cái công cuộc mới mẻ đó, mà cái tiếng nói bản quốc còn nghèo nàn túng thiếu quá, nên ông lại phải lo tài bồi cho quốc văn, mượn những danh từ triết học khoa học của tiếng Tàu, tiếng Nhật cho nhập tịch vào quốc ngữ để có thể diễn thuật được những cái mà tiếng Nôm ta không đủ để gọi ra…(…) Cái công phu trứ tác của ông, ích cho quốc dân không phải là nhỏ mà ảnh hưởng đối với nhân chúng cũng thiệt là sâu. (…) Cái cây bút quốc văn của ông Phạm Quỳnh nó đã ảnh hưởng đến thế mà cái cây bút Pháp văn của ông nó cũng danh giá lắm thay (.…) Mà đọc văn ông, tất cũng có thể biết thêm được cái tinh thần bổn sắc của nước Việt Nam nó cũng không đến nỗi hèn kém gì.” [18, 59; 60].
- Theo đánh giá của Thiếu Sơn trên đây, thì đóng góp của Phạm Quỳnh đối với văn hóa nước nhà quả là không nhỏ. Sự đóng góp ấy trải rộng ra trên nhiều lĩnh vực: Ngôn ngữ, trước tác, học thuật … Về sự nghiệp chính trị của Phạm Quỳnh, ông Thiếu Sơn cũng có những nhận xét khá khách quan và xác đáng. Theo ông, việc Phạm Quỳnh tham gia làm chính trị, nhằm thực hiện cái ước muốn về chủ trương lập hiến của mình, cho dù “Cái chương trình lập hiến của ông nó cũng có giá trị lắm chớ!” [19, 61], là không phù hợp với hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ. Đây là điều đáng tiếc, nếu không nói là sai lầm. Bản thân Phạm Quỳnh cũng chịu không ít hệ lụy từ hành động chính trị đó của mình. Tuy nhiên, động cơ, mục đích của hành động ấy cũng không ngoài tấm lòng thiết tha với đất nước, với dân tộc. Chiêu tuyết cho Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn viết: “Căn cứ vào cái quan niệm riêng của ông, ông khởi thảo ra một cái chương trình Lập hiến mà cho rằng nếu thiệt hành ra thì sẽ thỏa mãn được cái tư tưởng quốc gia của dân tộc An Nam và định yên được thời cục” [18, 61]. Năm 1941, trong Việt Nam văn học sử yếu, phần chương trình dành cho Năm thứ ba, ban Trung học Việt Nam, Dương Quảng Hàm đã viết hẳn một chương về Phạm Quỳnh với kết luận rất xác đáng về những đóng góp của học giả – nhà văn này đối với nền quốc văn như sau: “Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; Ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hóa cũ của nước ta thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân. Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy.” [8, 403]. Năm 1942, khi xuất bản bộ sách Nhà văn hiện đại, ở phần Các nhà văn đi tiên phong, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã dành hơn ba mươi trang sách viết về Phạm Quỳnh cùng những đánh giá khá trọng thị đối với các công trình khảo cứu, dịch thuật, du ký và bình luận của ông: “Ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong(…) [16, 73]. Nhưng một điều mà người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và trước thuật
- của ông là ông không cẩu thả(…) [16, 75]. Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong, vì nếu ai đọc toàn bộ tập tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn” [16, 109]. Ở miền Nam, trước năm 1975, tên tuổi và sự nghiệp của Phạm Quỳnh cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Kết quả nghiên cứu về Phạm Quỳnh được công bố qua một số công trình tiêu biểu như: các bộ sách văn học sử của các tác giả Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ…; như: Văn học Việt Nam dẫn luận (Introduction à la litérature Vietnamiene) của Maurice Durant và Nguyễn Trần Huân (Maison neulve et la rose, Paris, 1969); như: Bài học Phạm Quỳnh của Thiếu Sơn, Chủ đích Nam Phong, Trường hợp Phạm Quỳnh, Vụ án truyện Kiều của Nguyễn Văn Trung… Đặc biệt, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III, phần văn học hiện đại), tác giả Phạm Thế Ngũ đã dành hẳn một chương (Chương III) với hơn một trăm hai mươi trang sách để nghiên cứu một cách hết sức tỉ mỉ, nghiêm túc, khách quan về cuộc đời, sự nghiệp cũng như những đóng góp của Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đối với văn hóa, văn học dân tộc, mà ta có thể tách ra như một công trình khoa học độc lập. Trong mục bàn về Tư tưởng bảo thủ của Phạm Quỳnh, tác giả nêu nhận định: “Như vậy, việc ý thức cái cốt cách, cái cá tính, cái bản ngã của mình để mà bảo vệ, mà tài bồi thật là tối cần. Nó chỉ có thể có với dân tộc nào hoặc với những ai quay về mình còn thấy cái gì cho là đáng quý đáng yêu, nghĩa là còn có tinh thần bảo thủ. Không có nó, người ta sẽ trôi dạt đến chỗ bơ vơ mất gốc. Có nó, người ta có thể chống chọi lại mọi mưu mô quyến rũ từ ngoài, mọi mặc cảm tự ti từ mình. Vấn đề đặt ra cho cả dân tộc cũng như cho mỗi cá nhân [14, 145]. Tuy bàn về “tư tưởng bảo thủ” của Phạm Quỳnh nhưng cách viết như trên của Phạm Thế Ngũ chính là đã công tâm nhận ra cái ưu điểm của Phạm Quỳnh trong việc tiếp thụ và vận dụng kinh nghiệm văn hóa Thái Tây vào việc xây dựng văn hóa nước nhà. Kết thúc mục nghiên cứu về Chủ nghĩa quốc gia của Phạm Quỳnh, tác giả cũng có những ý kiến hết sức khách quan và công tâm:
- “Ngày nay chúng ta có nghiên cứu Phạm Quỳnh là nghiên cứu nhà báo và nhà văn của tạp chí Nam Phong, con người cùng tư tưởng trước 1932, con người tốt đẹp đã đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong một giai đoạn lịch sử chánh trị và nhất là đã dày công xây đắp cho nền học và nền văn mới” [14, 170]. Ở miền Bắc, từ sau năm 1945 đến năm 1975, vấn đề Phạm Quỳnh là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Trong suốt thời gian này, hầu như không có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, khách quan về Phạm Quỳnh cũng như những đóng góp của ông đối với văn hóa và văn học nước nhà. Học giả Đặng Thai Mai, một người có uy vọng lớn trong giới nghiên cứu văn học ở miền Bắc lúc bấy giờ, trong sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (xuất bản năm 1961), thủy chung vẫn đánh giá Phạm Quỳnh chỉ là một tên tay sai, bồi bút phục vụ cho mưu đồ xâm lăng, đồng hóa của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Ông cả quyết khẳng định: “Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì. Và về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng cuối cùng của người đọc Nam Phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người An Nam” [10, 124]. Sau những nhận định có tính chất phán quyết chung thẩm của Đặng Thai Mai thì vấn đề Phạm Quỳnh hầu như không có ai bàn đến hoặc có thì cũng chẳng nói khác hơn (ngoại trừ duy nhất ý kiến của nhà văn Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi, NXB Văn học. Hà Nội 1971)1. Đây có lẽ cũng là hiện tượng có thể giải thích được trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử! 1 Nhà văn Nguyễn Công Hoan cho biết, Phạm Quỳnh là “người có chính kiến”; là người chủ trương thuyết lập hiến, rằng “người Pháp nên thi hành đúng Hiệp ước 1884 nghĩa là chỉ đóng vai trò bảo hộ, còn công việc trong nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ, Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam triều. Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ để lấy danh nghĩa Chính phủ Nam triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn, ai không khóc thầm”.
- Cho đến gần đây, trong không khí đổi mới và dân chủ của đời sống văn hóa tư tưởng, với sự nhận thức trầm tĩnh, khách quan hơn về các vấn đề thuộc quá khứ lịch sử, Phạm Quỳnh và văn nghiệp của ông mới được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học quan tâm trở lại. Năm 2000, tên của Phạm Quỳnh chính thức được nêu lên thành mục trong quyển Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2004, Từ điển văn học, bộ mới (Nhà xuất bản Thế giới, tháng 10/ 2004) đã bổ sung mục Phạm Quỳnh, do Nguyễn Huệ Chi viết, dài đến ba trang. Trong đó, công lao của ông đối với văn học nước nhà đã được đánh giá một cách khách quan và thừa nhận một cách trang trọng. Kết luận về Phạm Quỳnh, tác giả Nguyễn Huệ Chi có đoạn viết: “Là người biên khảo, lần đầu tiên Phạm Quỳnh cung cấp cho người đọc những khái niệm bước đầu về mỹ học nói chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết…nói riêng” [9, 1366]. Ngoài những công trình có tính chất quy mô như trên, từ những năm 2000 đến nay tạp chí Nghiên cứu văn học lần lượt đăng tải nhiều bài nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc về Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí: “Báo chí và văn chương qua một trường hợp: Nam Phong tạp chí” (Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long – Số 2, 2005), “ Về thuật ngữ tiểu thuyết trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Đức Thuận – Số 2, 2005), “Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” (Vương Trí Nhàn – Số 7, 2005), “Tình hình nghiên cứu phần văn trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934) từ 1975 đến nay” (Nguyễn Đức Thuận – Số 5, 2006), “Thượng Chi bàn về tiểu thuyết trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Đình Chú – Số 4, 2007), “Thể tài du ký trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Hữu Sơn – Số 4, 2007) … Ý thức sâu sắc về giá trị di sản tinh thần quý báu của cha ông và với niềm kính trọng một bậc thức giả, chúng tôi đã dành nhiều thời gian tìm hiểu về vấn đề Phạm Quỳnh. Chúng tôi lấy làm băn khoăn khi nhận thấy rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh cũng như những đóng góp và hạn chế của những tư tưởng đó đối với văn hóa – văn học Việt Nam trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử văn hóa – văn học của dân tộc. Thảng hoặc, những vấn đề này cũng được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu uy tín nhưng để có một sự xem xét, nghiên cứu một cách hệ thống, kỹ lưỡng thì, như đã nói ở trên, cho đến nay vẫn còn là vấn đề bỏ ngõ.
- Đề tài Khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh có lẽ là một vấn đề vẫn mang tính nhạy cảm. Trở ngại không nhỏ đối với người thực hiện luận văn là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị điểm tựa hết sức hạn chế, chúng tôi hầu như phải tự mình giải quyết tất cả các nội dung khoa học mà không được kế thừa nhiều thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước. 6.CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN. Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gòm ba chương: Chương 1: Vai trò của Phạm Quỳnh đối với báo chí và văn học những năm đầu thế kỷ XX. Chương 2: Quan niệm về mỹ học của Phạm Quỳnh. Chương 3: Quan niệm về văn học của Phạm Quỳnh.
- CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA PHẠM QUỲNH ĐỐI VỚI BÁO CHÍ VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX. 1.1. Tình hình báo chí Việt Nam trước khi Nam Phong tạp chí ra đời. Mầm mống báo chí đã có ở nước ta từ lâu, thể hiện dưới nhiều hình thức hết sức đa dạng, phong phú. Đó là những câu vè lưu truyền trong dân gian, những lời rao của mõ làng, những cuộc “giảng thập điều” trong trong sinh hoạt làng xã… cho đến những hình thức “thông tin chính thức” của nhà nước phong kiến bằng cách yết bảng văn ở Quảng Văn Đình thời Lê Thánh Tông hay Quảng Minh Đình thời Nguyễn Gia Long… Nói về nguồn gốc báo chí, trong bài Nước ta xưa có được tự do ngôn luận không? đăng trên tạp chí Tri Tân, số 206 (04/ 10/ 1945), Ứng Hòe Nguyễn văn Tố cho biết: “Khâm định Việt sử (quyển 14, tờ 15a) chép lại rằng: “Nguyên trước, những chiếu, lệnh của nhà vua, lâm thời bộ đem yết bảng, đến năm Tân Hợi (1491), vua Lê Thánh Tông cho dựng một cái đình ở ngoài cửa Đại Hưng (tức cửa Nam thành Thăng Long) để làm nơi niêm yết những phép tắc trị dân, đặt tên là Quảng Văn Đình… Ba chữ “Quảng Văn Đình” nghĩa là một cơ sở để thu nhặt giấy tờ ở các nơi. Đến đời Gia Long (1802 – 1819), làm đình ở phường Nam Hưng (tức Cửa Nam bây giờ), trên có đặt tên là Quảng Minh Đình… cũng để dán những huấn lệnh của nhà vua. Cạnh đó có hai tòa nhà ngói ở cửa Đông Nam gọi là Hiệp Nghị đường (Nhà để họp bàn), phàm dân gian có việc gì uất ức, cho đến bày tỏ, cho nên các đình, ở mé ngoài miếu thờ Thành Hoàng vừa là nơi để tụ họp khi tế lễ, lúc hương ẩm, vừa để dán những huấn lệnh của nhà vua, cứ ngày Một và Rằm các huynh thứ trong làng ra đọc những huấn lệnh và giảng nghĩa cho dân gian nghe, thường gọi là giảng thập điều”. Như vậy cái đình tức là báo chí, có định lệ mồng Một và Rằm tức là nhật báo hoặc tuần báo…Báo chí tức là những tờ huấn lệnh dán ở đình làng tựa như tờ Acta diurna của người La Mã đời xưa” [Dẫn theo Đỗ Quang Hưng 37, 8; 9]. Cách cắt nghĩa độc đáo trên của Ứng Hòe cho ta ý niệm về một “hình thức báo chí” trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tuy nhiên, theo đúng nghĩa hiện đại, báo chí Việt Nam chỉ thực sự xuất hiện cùng với sự thiết lập chế độ thuộc địa của Thực dân Pháp trên đất nước ta.
- Báo chí ở Việt Nam ra đời đầu tiên và trước hết là nhằm phục vụ cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp về nhiều phương diện, đặc biệt là phương diện chính trị và văn hóa. Ngay từ khi chiếm được Nam Kỳ, vào năm 1861, thực dân Pháp đã cho xuất bản tờ công báo đầu tiên phục vụ cho công cuộc viễn chính của chúng ở xứ này. Đó là tờ Bulletin officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc viễn chinh xứ Nam Kỳ) mà nội dung của nó là những nghị định, công văn, đạo luật, các chỉ thị, các bài diễn văn… phát ra từ soái phủ Nam Kỳ. Tờ báo được lưu hành và sử dụng như một phương tiện thông tin và thống nhất chỉ đạo cho cuộc đánh chiếm và cai trị của Pháp ở Nam Kỳ. Nó đặt nền móng cho các tờ công báo chính thức về sau này của chính quyền thực dân. Cùng với tiến trình đánh chiếm và áp đặt chế độ cai trị của thực dân Pháp lên các vùng đất của Việt Nam, hàng loạt tờ báo, tạp chí bằng tiếng Pháp của chính quyền thực dân đã nối tiếp nhau ra đời: Le Courrier de Saigon (Tin Sài Gòn) ấn hành số đầu tiên vào ngày 01/ 01/ 1864, đến năm 1879 đổi thành Journal Officiel la Cochinchine (Công báo xứ Nam Kỳ), và cuối cùng, năm 1889, mang tên Journal Officiel de l'Indochine (Công báo Đông Dương); những bản Niên giám (An nuaire) được xuất bản hàng năm, từ năm 1865; Bulletin Officiel du protectorat de l'Annam et du Tonkin (Kỷ yếu công vụ của nền bảo hộ xứ Trung và Bắc kỳ) ấn hành vào năm 1883, đến năm 1886 đổi thành Moniteur du Protectorat de l'Annam et du Tonkin; L'Avenir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ - 1884); Bulletin du comité agricole et industriel de la Cochinchine (Kỷ yếu của Ủy ban canh nông và kỹ nghệ xứ Nam Kỳ - 1869 – 1881); Bulletin de la Societé Etudes Indochinoise (Kỷ yếu của Hội nghiên cứu Đông Dương – 1883); Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương – 1892)… Ngoài những tờ công báo của chính quyền thực dân, hàng loạt các tờ báo tư nhân bằng tiếng Pháp cũng thi nhau ra đời. Tính từ sau 1861 cho đến đầu thế kỷ XX, ta thấy số lượng các tờ báo bằng tiếng Pháp này chiếm một số lượng đáng kể ở cả Bắc và Nam Kỳ. Ở Nam Kỳ (chủ yếu tập trung ở Sài Gòn) có các tờ báo sau đây: Independance de Saigon (Sài Gòn độc lập – 1870), L'Ere nouvelle (Nhật tân báo – 1879), Journal de Saigon (Nhật báo Sài Gòn – 1880), Le Mékong (Mê Kông – 1883), Le Saigonais (Người Sài Gòn – 1883), L'Indochine (Đông Dương – 1884), Unité Indochinoise (Đông Dương thống nhất – 1884), La Trompette (Kèn đồng – 1884), L'Extrême Orent (Viễn Đông – 1887), L'Independant (Tự lập – 1888), Le Courier Saigonais (Tin Sài Gòn – 1889), Saigon Respublicain (Sài Gòn cộng hòa – 1888), Petites affiches (Rao vặt – 1888), Le Cochinchinois (Dân Nam Kỳ - 1888), Le progres de Saigon (Sài Gòn tiến bộ - 1889), …
- Ở Bắc Kỳ, dòng báo chữ Pháp có phần ít ỏi hơn. Cuối thế kỷ XIX, ngoài tờ báo L'Avernir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ) còn có các tờ Le Courier d'Haiphong (Tin tức Hải Phòng - 1886), L'Indépendance Tonkinoise (Xứ Bắc Kỳ tự lập - 1889), L'escho du Tonkin (Tiếng vang Bắc Kỳ - 1896), Le France d'Asie (Pháp – Á, 1893), Le gazette d'Haiphong (Báo Hải Phòng, 1895)… Có một thực tế là từ năm 1861, sau sự ra đời của tờ báo Bulletin officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc viễn chinh xứ Nam Kỳ) tuy hàng loạt tờ báo bằng tiếng Pháp đã xuất hiện trên khắp cõi Việt Nam với số lượng khá lớn nhưng chủ yếu chúng chỉ dành cho độc giả Pháp, chủ yếu là giới quân sự và dân sự trong bộ máy chính quyền thuộc địa mà rất ít người Việt sử dụng được. Như đã nói ở trên, báo chí ở Việt Nam ra đời trước hết là nhằm phục vụ cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp. Sau Hòa ước 1862, về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm và thiết lập chế độ cai trị ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Nhận thấy đã đến lúc cần phải truyền bá học thuật và tư tưởng văn hóa Pháp vào Việt nam, nhất là tạo cho việc đưa chữ Quốc Ngữ vào quĩ đạo xâm lăng văn hóa, đánh bại chữ Nho và văn hóa phương Đông, đầu năm 1865 Soái phủ Nam Kỳ đã quyết định cho xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, tờ Gia Định báo. Có thể nói đây là tờ báo mở đầu cho nền báo chí Việt Nam. Nhận thức được sức mạnh lớn lao của công cụ báo chí trong tiến trình xâm lăng, đô hộ và đồng hóa, nhưng đồng thời thực dân Pháp cũng ý thức một cách sâu sắc “tác hại” ghê gớm của nó đối với an nguy của nền đô hộ của chúng ở Việt Nam. Vì vậy mà trong suốt hơn 80 năm cai trị, thực dân Pháp đã thực hiện một chế độ báo chí hết sức khắt khe và không đồng nhất ở cả ba kỳ trên đất nước ta. Ngay cả ở Nam Kỳ, sau các hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã thực sự trở thành xứ thuộc địa trực trị của Pháp ở Đông Dương, lẽ ra phải được hưởng những điều khoản của Luật thừa nhận tự do báo chí ngày 29 tháng 7 năm 1881 ( Loi du 29 Juiller 1881, sur la liberté de la presse) của Pháp, nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Về phạm vi điều chỉnh, điều 10, đạo luật nói trên cho phép áp dụng tại chính quốc cũng như tại Algérie và các xứ thuộc địa khác. Về đối tượng áp dụng, các điều 5, 6, 7 của đạo luật này quy định: dù báo chí xuất bản bằng tiếng Pháp hay tiếng bản xứ đều tự do, muốn ra báo không cần phải có một điều kiện nào ngoài việc viên quản lý phải có quốc tịch Pháp, đã là thành viên và có đăng ký thủ tục với Sở Biện lý. Tuy nhiên sớm nhận thấy chỗ “sơ hở chết người” này, một mặt, thực dân Pháp vẫn cho phép báo chí bằng tiếng Pháp được
- tự do xuất bản, mặt khác, chúng ban hành sắc lệnh ngày 30 tháng 12 năm 1898, buộc tất cả các báo tiếng Việt, chữ Hán và các tiếng khác phải có giấy phép trước khi xuất bản. Tất nhiên là đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ thì việc xuất bản báo chí lại càng phức tạp và gắt gao hơn. Và một điều mỉa mai là hầu như đa số các tờ báo tiếng Việt, lúc đầu đều do người Pháp đứng tên: Gia Định báo (1865) với E. Poteau, Đồng Văn nhật báo (1893) với F. H. Schneider, Nông Cổ Mín Đàm (1901) với Cavanaggio… Do chính sách báo chí bất bình đẳng cùng với chế độ kiểm duyệt gắt gao như vậy nên từ năm 1865, kể từ thời điểm Gia Định Báo ra đời, cho đến đầu thế kỷ XX (năm 1900), thời gian ngót ngét gần nửa thế kỷ nhưng ở Việt Nam chỉ lác đác dăm bảy tờ báo lớn nhỏ, kể cả viết bằng chữ Hán: Gia Định báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nhựt Trình Nam Kỳ (1883), Thông loại Khóa Trình (1888), Đại Nam Đồng Văn nhật báo (1893)…trong số này, có những tờ phải sớm đình bản vì có hơi hướng yêu nước như trường hợp Phan Yên báo chẳng hạn. Sang đến đầu thế kỷ XX, do áp lực của phong trào yêu nước ngày một phát triển, đặc biệt là các phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, cùng với tình hình thế giới có nhiều biến động, thực dân Pháp có nới lỏng chính sách báo chí đôi chút. Chính điều này đã tạo điều kiện cho nhiều tờ báo ra đời, góp phần vào sự phát triển của báo chí Việt Nam cũng như sự phát triển của chữ quốc ngữ và văn học. Tính từ thời điểm đầu thế kỷ XX đến năm 1917, khi Nam Phong tạp chí ra đời, số lượng các tờ báo bằng tiếng Việt so với giai đoạn trước đó đã có sự gia tăng đáng kể. Chỉ trong 17 năm, số lượng các tờ báo đã gấp ba lần so với nửa thế kỷ trước đó. Với sự ra đời nhanh chóng như vậy trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của văn hóa và xã hội nước nhà, có thể nói báo chí trong thời kỳ này đã đóng vai trò “bà đỡ mát tay” cho sự sinh thành, phát triển của văn học quốc ngữ và đã góp phần hình thành nên đời sống văn học hiện đại. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, khi nghiên cứu về văn học giai đoạn 1907 – 1932, đã coi “vai trò tiên phong của báo chí” là một trong năm “yếu tính” của văn học. Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam cũng đặc biệt nhấn mạnh tới tầm quan trọng của báo chí khi nói đến “văn học thế hệ 1913” và dành hẳn một chương cho Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh với hai tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí, hai nhà văn – nhà báo và hai tờ báo theo ông là tiêu biểu đương thời. Bùi Đức Tịnh trong Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, Bằng Giang trong Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930 cũng cho báo chí là một “bộ môn tiên phong của nền văn học mới”
- Tuy nhiên, khảo sát chung các tờ báo ra đời trong giai đoạn từ năm 1900 đến năm 1917, trừ Đông Dương tạp chí và Trung Bắc tân văn, ta thấy chúng vẫn còn nhiều hạn chế so với báo chí phương Tây cả về ngôn ngữ, nội dung, đề tài, phạm vi phản ánh. Hầu hết các báo đều ở dạng sơ khai, chưa thật đúng với nghĩa một tờ báo hiện đại. Sở dĩ có hiện tượng trên là do sự chi phối của những nguyên nhân mà nhà chí sỹ Huỳnh Thúc Kháng đã phân tích khá khái quát trên tờ Tiếng Dân do ông làm chủ bút: - Thiếu tài liệu cho Bộ biên tập làm việc: Tài liệu là yếu tố quan trọng cho bất cứ tờ báo nào. Muốn viết bài xã luận hay một bài báo đều cần nhiều tài liệu. Riêng tờ Tiếng Dân thì tài liệu thiếu thốn quá nhiều. - Đường giao thông khó khăn: Muốn được độc giả chú ý, tờ báo cần có tin tức hằng ngày. Phương tiện giao thông ở xứ ta còn yếu kém, muốn đi từ Nam ra Bắc, phải tốn 5, 7 ngày, vùng thôn quê, vùng sơn cước lại là nơi khó tới lui. Như vậy làm sao thu thập tin tức? - Nạn mù chữ: Báo sống nhờ độc giả. Ở Trung Kỳ, ngoại trừ thành thị, chỉ có 10 phần trăm dân chúng ở thôn quê biết đọc. Bởi vậy người ta đọc báo rất ít. - Sự yếu kém về kỹ nghệ và thương mại: Báo phát triển mạnh khi giới doanh thương chú ý đến nó. Giới doanh thương cần quảng cáo hàng hóa trên báo và họ cần giúp đỡ cho tờ báo được sống. Ở xứ ta, thương mại và kỹ nghệ hầu như không có vậy thì tờ báo làm sao đứng vững lâu dài nếu thiếu người chịu đăng quảng cáo. - Hiện tượng tâm lý: Ở những nước tiên tiến, báo chí được phồn thịnh nhờ tất cả mọi người đọc báo, từ kẻ doanh nghiệp đến người lao động, từ văn sỹ đến chính trị gia. Báo chí nhờ đó mà trở thành một lực lượng đáng kể. Nhưng ở xứ ta, thấy ít nói đến báo chí và thích đọc báo. Không được dư luận công chúng biết đến thì báo khó mà sống dai được [Dẫn theo Đỗ Quang Hưng 37, 220]. Nhưng Huỳnh thúc Kháng cũng chỉ mới phân tích đến những nguyên nhân kinh tế, xã hội mà chưa đề cập đến một nguyên nhân hết sức quan trọng, kìm hãm sự phát triển của báo chí trong giai đoạn này đó là chính sách báo chí hà khắc cùng với một chế độ kiểm duyệt vô cùng gắt gao của thực dân Pháp. Tất cả những nguyên nhân trên đã kìm hãm sự phát triển của báo chí Việt Nam trong thời kỳ này. Tóm lại, cho đến đầu thế kỷ XX báo chí vẫn là một cái gì đó chưa được biết đến một cách rộng rãi trong đời sống Việt Nam. Do ảnh hưởng của phong trào yêu nước cùng với nhiệt tình, tâm huyết của những nhà trí thức nặng lòng với dân tộc, báo chí Việt Nam từ sau
- năm 1900 trở đi đã có phần khởi sắc nhưng phải đợi đến khi Đông Dương tạp chí (1913) và Trung Bắc tân văn (1915) ra đời thì báo chí Việt Nam mới bước sang một kỷ nguyên mới. Và đến năm 1917, với sự ra đời của Nam Phong tạp chí thì báo chí Việt Nam mới thực sự trưởng thành vượt bậc. 1.2. Vai trò của Phạm Quỳnh đối với báo chí. Bàn về những điều kiện cho sự phát triển của tư tưởng, học thuật, ngôn ngữ và văn học hiện đại những năm đầu thế kỷ XX, không thể không nhắc đến vai trò vô cùng quan trọng, có tính tiên phong của báo chí. Mà nói đến báo chí, thì không thể không nhắc đến những tên tuổi lớn, có ảnh hưởng đến sự phát triển của nó trong những bước phát triển đầu tiên của buổi sơ khai như Pestrus Trương Vĩnh Ký với Gia Định báo; Diệp Văn Cương với Phan Yên báo; Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Đồng Trụ, Lê Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt…với Nông Cổ Mín Đàm; Nguyễn Văn Vĩnh và một số cây bút của phong trào Đông kinh nghĩa thục với Đăng Cổ tùng báo…Một trong số những nhân vật có công rất lớn đối với sự phát triển của báo chí Việt Nam trong giai đoạn mở đầu này, nhất thiết phải nói đến là nhà báo Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong tạp chí. Nói đến Phạm Quỳnh là nói đến một trong những trường hợp đặc biệt của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là một trong “những người khổng lồ”1 cách đây hơn một thế kỷ mà tài năng, trí tuệ thể hiện một cách rờ rỡ trên mọi lĩnh vực văn hóa. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan, trong tác phẩm Nhà văn hiện đại (Quyển 1, phần III), khi bàn về Phạm Quỳnh, đã có những nhận xét khá xác đáng về sự uyên bác và nghiêm túc, cẩn trọng của nhân vật này như sau: “Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem bàn lên mặt giấy” [16, 109]. Nói Phạm Quỳnh là một trong những trường hợp đặc biệt là vì ngoài những uẩn khúc của cuộc đời đã gây nên không ít những cuộc tranh luận với lắm nhận định, đánh giá khen chê từ bảy thập kỷ qua, sự nghiệp văn hóa của ông cũng hết sức đồ sộ, thể hiện ở tất cả mọi lĩnh vực. Ở Phạm Quỳnh là sự tổng hòa của những nhân tố đáng khâm phục: một học giả uyên bác, một nhà văn hóa lớn, một nhà văn tâm huyết và một nhà báo có tài. Khác với Nguyễn Văn Vĩnh, khởi đầu sự nghiệp văn hóa là một nhà văn, báo chí là lĩnh vực mà Phạm 1 Chữ dùng của Nguyên Ngọc
- Quỳnh tiếp xúc trước nhất, và cũng ở lĩnh vực này, tinh hoa của con người học giả, con người văn hóa, con người nhà văn của ông được phát tiết. Sự nghiệp báo chí của Phạm Quỳnh bắt đầu từ rất sớm. Ngay từ khi Nam Phong tạp chí chưa ra đời, ông đã là một nhà báo chuyên nghiệp. Năm 1913, khi mới ngoài hai mươi tuổi, Phạm Quỳnh đã là một trong những thành viên của Ban biên tập, gồm nhiều cây bút tên tuổi của tờ Đông Dương tạp chí như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính…do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Với Đông Dương tạp chí, Phạm Quỳnh đã nổi danh là nhà báo sâu sắc, độc đáo, uyên thâm qua những bài dịch thuật văn học và tư tưởng mà ông gửi đăng trên báo này. Và năm 1917, khi Nam Phong tạp chí ra đời, ông trực tiếp làm tổng biên tập và là cây bút chủ lực với hàng ngàn trang viết trên tất cả mọi lĩnh vực trong suốt thời gian tồn tại của tờ báo cho đến khi nó đình bản vào năm 1934. Với Nam Phong tạp thí, Phạm Quỳnh là linh hồn của tờ báo và cũng trên mặt báo này toàn bộ sự nghiệp văn hóa của Phạm Quỳnh được thể hiện. Vì vậy mà khi nói đến Nam Phong tạp chí tức là nói đến Phạm Quỳnh và ngược lại. Có thể nói ngay rằng Phạm Quỳnh là một nhà báo lớn, có những đóng góp vô cùng quan trọng cho sự phát triển của báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Nếu chia tiến trình phát triển của báo chí Việt Nam từ năm 1865 (thời điểm ra đời của tờ báo tiếng Việt đầu tiên: Gia Định báo) đến năm 1945 ra làm bốn giai đoạn (1865 – 1907; 1907 – 1918; 1918 – 1930; 1930 – 1945) thì từ năm 1865 đến năm 1907 là giai đoạn hình thành, báo chí vẫn còn mang tính sơ khai; giai đoạn từ 1907 đến năm 1918, báo chí Việt Nam đã có sự trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Trong số hơn ba mươi tờ báo xuất bản trong giai đoạn này thì Đông Dương tạp chí được xem là tờ báo mở ra một kỷ nguyên mới và Nam Phong tạp chí là sự trưởng thành vượt bậc tạo nên sự phát triển mạnh mẽ, rầm rộ của báo chí Việt Nam ở các giai đoạn sau. Có được thành tích ấy là sự đóng góp tài năng tâm huyết của những cây bút xuất sắc, đặc biệt trong đó có Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Với Đăng Cổ tùng báo và đặc biệt là Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh được xem là người đóng vai trò tiên phong cho nền báo chí Việt Nam hiện đại thì với Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh là người có công đối với sự hoàn thiện và phát triển vượt bậc của thể loại báo chí. Ở giai đoạn đầu, báo chí ra đời mục đích chủ yếu là thông báo những tin tức trong các địa phương và ban bố những mệnh lệnh, chỉ thị của chính quyền thực dân. Một số tờ báo cũng có các mục về văn học với một vài bản dịch tiểu thuyết Trung Hoa ra tiếng Việt, nhưng nhìn chung nội dung của báo còn nghèo nàn, ngôn ngữ còn hạn chế, cách đưa tin còn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 433 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 347 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 184 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 118 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 135 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 195 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 103 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương
143 p | 108 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ
126 p | 45 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu đoạn văn kết thúc truyện ngắn của Nam Cao
118 p | 32 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 22 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 44 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nhật ký chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại
141 p | 32 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 80 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn