Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Sự nghiệp viết của nhà văn Dương Thị Xuân Quý
lượt xem 3
download
Nghiên cứu về nhà văn Dương Thị Xuân Quý luận văn mong muốn đề xuất một nhận thức và đánh giá về một nữ nhà văn có nhiều đóng góp với nền văn xuôi hiện đại còn chưa được nhiều người biết đến. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Sự nghiệp viết của nhà văn Dương Thị Xuân Quý
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÃ THỊ HƢƠNG MAI SỰ NGHIỆP VIẾT CỦA NHÀ VĂN DƢƠNG THỊ XUÂN QUÝ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. PHONG LÊ THÁI NGUYÊN, THÁNG 5 NĂM 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- LỜI CẢM ƠN! Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho lớp Cao học K18A- Văn học Việt Nam; Đài TT-TH Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho em có cơ hội học tập và nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới GS Phong Lê - Người thầy rất nghiêm khắc, tận tâm trong công việc đã truyền thụ nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Thái Nguyên ngày 26 tháng 05 năm 2012 Tác giả Lã Thị Hƣơng Mai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i
- LỜI CAM ĐOAN Trong luận văn này, toàn bộ tài liệu tham khảo được đưa ra hoàn toàn có cơ sở xác thực. Trước tôi chưa có công trình nghiên cứu nào cùng đề tài này được công bố. Tôi xin đảm bảo luận văn này là kết quả nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thái Nguyên, ngày 26 tháng 05 năm 2012 Tác giả Lã Thị Hƣơng Mai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài: ............................................................................................. 1 2.Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài.................................................... 2 3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3 4. Phạm vi tư liệu khảo sát .................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................ 4 6. Đóng góp mới của luận văn .............................................................................. 4 7. Cấu trúc luận văn .............................................................................................. 4 Chƣơng 1: BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HỌC ........................ 5 1.1. Bối cảnh xã hội .............................................................................................. 5 1.1.1 Thời kỳ từ 1954 đến 1964 ............................................................................ 5 1.1.1.1.Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa ...................................................... 5 1.1.1.2 Miền Nam chống chế độ Mĩ – Diệm và “chiến tranh cục bộ” ................. 7 1.1.2. Thời kỳ cả nước có chiến tranh (1965-1975) ............................................. 8 1.1.2.1.Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, vừa chiến đấu, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương...................................................................................... 8 1.1.2.2. Miền Nam chiến đấu chống “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ (1965-1968) .......10 1.2. Đời sống văn học .........................................................................................13 1.2.1. Không khí văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước ..................................13 1.2.2. Sự phát triển của Văn học giải phóng Miền Nam ....................................17 1.3. Đôi nét về nhà văn Dương Thị Xuân Quý ...................................................19 1.3.1.Tiểu sử gia đình ........................................................................................19 1.3.2. Đôi nét về cuộc đời nhà văn .....................................................................20 1.3.3. Đôi nét về sự nghiệp sáng tác ...................................................................22 Chƣơng 2: BÚT KÝ VÀ TRUYỆN NGẮN ....................................................24 2. 1. Bút ký ..........................................................................................................24 2.1.1. Giới thuyết về bút ký ................................................................................24 2.1.2.Các vấn đề nổi bật đặt ra trong bút ký Dương Thị Xuân Quý ..................24 2.1.2.1. Vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc .....................................25 2.1.2.2. Hiện thực chiến tranh .............................................................................35 2.2. Truyện ngắn .................................................................................................41 2.2.1.Giới thuyết về truyện ngắn ........................................................................41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn iii
- 2.2.2.Các vấn đề đặt ra trong truyện ngắn của Dương Thị Xuân Quý ...............42 2.2.2.1. Vấn đề xác định “chỗ đứng” của người phụ nữ trong xã hội ................42 2.2.2.2. Xây dựng thành công hình tượng người phụ nữ Việt Nam anh hùng ...50 Chƣơng 3: NHẬT KÝ.......................................................................................57 3.1. Giới thuyết chung về nhật ký .......................................................................57 3.2. Nội dung Nhật ký Dương Thị Xuân Quý .........................................................58 3.2.1. Tư cách một nhà báo .................................................................................58 3.2.2. Tư cách một nhà văn .................................................................................62 3.2.3. Tư cách một người mẹ ..............................................................................68 3.2.4. Tư cách một người vợ ...............................................................................76 3.2.5. Tư cách một chiến sĩ .................................................................................80 3.3. Nhật ký của một thế hệ cùng hy sinh ở chiến trường ..................................88 3.3.1. Chu Cẩm Phong ........................................................................................88 3.3.2. Đặng Thùy Trâm .......................................................................................94 3.4. Giá trị kiểm chứng tính chân thực của đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam .....................................................................................................................97 3.4.1 Cái đẹp có thật về chủ nghĩa anh hùng ......................................................97 3.4.2. Những sự thực về mặt trái của cuộc sống .................................................99 3.5. Ý nghĩa và giá trị của Nhật ký Dương Thị Xuân Quý...............................102 KẾT LUẬN ......................................................................................................104 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….106 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn iv
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại thời kỳ chống Mĩ cứu nước Dương Thị Xuân Quý là người trực tiếp tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Nam. Dương Thị Xuân Quý cũng đồng thời hoàn thành nhiệm vụ của một nhà văn xuất sắc tại Tạp chí Văn nghệ Trung Trung Bộ thuộc chiến trường khu V. Trẻ cả về tuổi đời và tuổi nghề, nhưng trong chị, ý thức về nghề cầm bút luôn luôn được nhà văn trân trọng và coi đó là công việc của một “Thƣ ký thời đại” để ghi lại những khoảnh khắc tuyệt vời nhất từ cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Vì vậy, mà đang trong thời kỳ nuôi con nhỏ (mới 16 tháng tuổi) nhưng nhà văn đã sẵn sàng gạt nỗi buồn phải xa con gái bé bỏng, xung phong lên đường vì nghĩa lớn, theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Bằng tình yêu nước nồng nàn, nhà văn đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đặc biệt là nỗi nhớ con để làm tròn nhiệm vụ của một nhà văn chiến sĩ tại một trong những chiến trường ác liệt nhất lúc bấy giờ. 1.2. Tình yêu nước gắn với tình yêu văn chương mãnh liệt là hai ngọn nguồn thường trực trong trái tim của nhà văn. Dù ở chiến trường vẻn vẹn chưa đầy một năm nhưng Dương Thị Xuân Quý đã để lại trong lòng bạn bè và đồng nghiệp những ấn tượng cao đẹp về một nữ nhà văn với vóc dáng nhỏ bé nhưng tràn đầy nhiệt huyết. Mà ngọn lửa nhiệt huyết ấy chính là niềm say mê viết. Viết trong mọi hoàn cảnh. Viết ngay cả khi sức khỏe không được tốt. Viết bằng cả niềm say mê như chưa bao giờ được cầm bút. Tuy thời gian dành cho công việc sáng tác không nhiều, bởi hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường nhưng hễ có thời gian là nhà văn lại tranh thủ sáng tác. Là người trực tiếp tham gia chiến đấu, được chứng kiến sự khốc liệt của chiến tranh, được tận mắt thấy tinh thần chiến đấu anh dũng của đồng bào chiến sĩ miền Nam cũng như tình thần hăng say dựng xây xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Bắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
- nên nhà văn đã đưa những sự thật anh hùng ấy vào các sáng tác của mình. Bản thân chị cũng thường xuyên lao đến những nơi “ tuyến lửa” ác liệt ấy để lấy tư liệu sống cho các tác phẩm của mình. 1.3. Bằng sự nhạy cảm và ước muốn đưa thực tế của công cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc và cuộc chiến chống quân thù xâm lược ở miền Nam vào tác phẩm để phục vụ và cổ vũ cho sự nghiệp kháng chiến và kiến thiết tổ quốc nên trong quá trình sáng tạo văn chương nhà văn đã xây dựng được những hình ảnh rất đẹp, rất chân thực, có giá trị cổ vũ cao cho công cuộc kháng chiến và kiến thiết đất nước. Những giá trị ấy cũng mang tính phát hiện rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc; ca ngợi và khẳng định giá trị tốt đẹp và những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam Điều đặc biệt, Dương Thị Xuân Quý lại là nằm trong số rất ít nhà văn nữ của cả nước (trong cả hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ) có sự nghiệp viết đã được đánh giá bởi Giải thưởng Nhà nước về văn học năm 2007 cho 2 tác phẩm là Chỗ đứng và Hoa rừng. Tuy có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam như vậy nhưng Dương Thị Xuân Quý chưa có nhiều người biết đến. Với mong muốn góp một viên gạch nhỏ xây nên hình ảnh của một nữ nhà văn – chiến sĩ anh hùng tới đông đảo bạn đọc và người yêu mến văn chương hiện đại, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu về nhà văn Dương Thị Xuân Quý để lựa chọn làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình với mong muốn như một lời tri ân với một thế hệ những cây bút trẻ đã hiến dâng cả tuổi trẻ, sức sống, sức viết cho chiến trường, góp phần đem lại độc lập thống nhất cho nước nhà và đóng góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam những tác phẩm có giá trị. 2.Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích: Việc nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Dương Thị Xuân Quý có vai trò quan trọng trong việc đưa các sáng tác của nhà văn hòa nhập với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
- đời sống văn học hiện đại. Từ đó tạo môi trường nghiên cứu một cách rộng rãi sự nghiệp sáng tác của nhà văn, đồng thời ghi nhận những sáng tạo và đóng góp của nhà văn trong nền văn học hiện đại Việt nam thế kỷ XX. Ngoài ra, việc nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của nhà văn giúp ta hiểu được giá trị chân thực của cuộc sống, chiến đấu của quân, dân hai miền Nam, Bắc. Từ việc hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn, chúng ta sẽ thấy được những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học hiện đại Việt Nam cũng như đóng góp trong lĩnh vực tinh thần nhằm cổ vũ nhân dân ta trong công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. 2.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của nhà văn Dương Thị Xuân Quý. 3. Lịch sử vấn đề Vì là một nhà văn quá trình sáng tác còn ngắn, lại ra đi quá sớm khi mới ở 28 tuổi, nên sự nghiệp và cuộc đời của nhà văn chưa được nhiều người biết tới. Chính vì vậy mà cho đến nay chưa có nhiều công trình của cá nhân hay tập thể nghiên cứu riêng về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Sau khi hai tác phẩm của nhà văn là Chỗ đứng và Hoa rừng ra mắt thì nhà văn mới được người đọc chú ý. Phần lớn số bài viết về Dương Thị Xuân Quý đã được tập hợp in trong sáng tác: Dƣơng Thị Xuân Quý, Nhật ký và tác phẩm do Nxb Hội Nhà Văn phát hành năm 2007 với các tác giả như: Nguyễn Anh Tuấn, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Thị Việt Nga, Thương Huyền, Nguyễn Thế Khoa. Nguyên Ngọc cũng viết về Dương Thị Xuân Quý qua bài :Chiến trƣờng những năm tháng ấy, sống và viết…Ngoài ra còn một số đơn vị, cơ quan thông tin tuyên truyền cũng tổ chức lễ kỷ niệm, tổ chức các buổi nói chuyện về Dương Thị Xuân Quý vào dịp kỷ niệm ngày mất của nhà văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
- 4. Phạm vi tƣ liệu khảo sát Một số tác phẩm nhật ký đã được xuất bản: nhật ký Chu Cẩm Phong, Dương Thị Xuân Quý, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc… Một số tác giả: nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Thị Ngọc Hải…Các tác phẩm, bài viết viết về nhà Văn Dương Thị Xuân Quý của nhà thơ Bùi Minh Quốc, các nhà văn, tác giả là bạn bè, đồng nghiệp với nhà văn viết về nhà văn… 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Phương pháp lịch sử Phương pháp hệ thống Phương pháp phân tích –tổng hợp Phương pháp loại hình Phương pháp so sánh đối chiếu 6. Đóng góp mới của luận văn Nghiên cứu về nhà văn Dương Thị Xuân Quý luận văn mong muốn đề xuất một nhận thức và đánh giá về một nữ nhà văn có nhiều đóng góp với nền văn xuôi hiện đại còn chưa được nhiều người biết đến. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được triển khai trong ba chương: Chương I: Bôi cảnh xã hội và đời sống văn học Chương II: Truyện ngắn và bút ký Dƣơng Thị Xuân Quý Chương III: Nhật ký Dƣơng Thị Xuân Quý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
- Chƣơng 1 BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HỌC 1.1. Bối cảnh xã hội 1.1.1 Thời kỳ từ 1954 đến 1964 1.1.1.1.Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, nước ta bị chia cắt làm 2 miền: miền Bắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân thù xâm lược và bè lũ tay sai. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng là một thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nó tạo ra cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh để tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình. Với quyết tâm xây dựng miền Bắc phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn ra sức chi viện cho tiền tuyến, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, nhân dân miền Bắc ra sức thi đua trên tất cả các mặt. Với khẩu hiệu:“một ngƣời làm việc bằng hai”, trên tất cả các lĩnh vực từ sản xuất nông nghiệp đến công nghiệp… nhân dân đều hăng hái thực hiện với một quyết tâm rất cao. Giữa lúc kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc sắp hoàn thành và cách mạng ở miền Nam đã tiến một bước nhảy vọt thì Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được chính thức khai mạc tại Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960. Trong diễn văn khai mạc Đại hội Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nhấn mạnh: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà” [6]. Đại hội đã thông qua phương hướng và nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đồng thời xác định rõ nhiệm vụ cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Còn cuộc cách mạng ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp để đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
- hoàn toàn miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Cách mạng XHCN ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất cá thể về tư liệu sản xuất thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế phân tán lạc hậu trở thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại. Công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta. Đó là con đường tất yếu để cải biến nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu của đất nước. Từ tinh thần của Đại hội, miền Bắc bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Một phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội được dấy lên sôi nổi khắp miền Bắc: “Đại phong” trong nông nghiệp, “Duyên hải” trong công nghiệp, “Ba nhất” trong quân đội, “Thành công” trong thủ công nghiệp, “Bắc Lý” trong giáo dục… Các phong trào trên đã trở thành khẩu hiệu tại tất cả các thôn, xóm, đơn vị, nhà máy, nông trường…tạo ra một khí thế thi đua sôi nổi trên toàn miền Bắc với “ngƣời ngƣời thi đua”, “ngành ngành thi đua” [6]…và không khí ấy đã tạo thành một sức mạnh đoàn kết khổng lồ để kiến thiết đất nước và chiến đấu chống giặc xâm lược. Trước những chuyển biến tích cực và những kết quả to lớn mà nhân dân miền Bắc thu được, Hồ Chủ Tịch đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt vào tháng 7 năm 1966 để biểu thị quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bằng những cố gắng vượt bậc theo lời kêu gọi của Người: “Mỗi ngƣời chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”[6]. Sau 10 năm hòa bình, nhân dân miền Bắc đã vượt qua mọi khó khăn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
- gian khổ, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa miền Bắc và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tạo sự chuyển biến trên nhiều mặt, kinh tế, văn hóa, giáo dục … và thu được nhiều thành tựu to lớn. Miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam với chế độ chính trị ưu việt, cùng lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh. Thắng lợi đó đã tạo tiền đề để miền Bắc bước từng bước vững chắc trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa và tạo được một nguồn của cải vật chất to lớn chuyển vào chiến trường giúp cho nhân dân miền Nam chiến đấu và chiến thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ sau này. Mặt khác, miền Bắc đã làm tròn nhiệm vụ cơ sở của cách mạng giải phóng miền Nam, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. 1.1.1.2 Miền Nam chống chế độ Mĩ – Diệm và “chiến tranh cục bộ” Trong khi nhân dân miền Bắc sống trong hòa bình và làm nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa thì nhân dân miền Nam ruột thịt phải liên tiếp đương đầu với các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai cướp nước. Nhân dân miền Nam đã chịu biết bao khổ đau, mất mát do Mĩ và chính quyền tay sai gây ra. Tuy nhiên, với tinh thần yêu nước nồng nàn và quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lược mạnh mẽ, quân và dân miền Nam anh hùng đã kiên cường, anh dũng đấu tranh với chúng tới cùng, giành được nhiều thắng lợi quyết định, đập tan chính sách “tố cộng”, “ diệt cộng” của giặc. Đặc biệt là sự kiện chiến thắng vang dội của phong trào Đồng khởi năm 1960 đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam: từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công liên tục, thời kỳ ổn định tạm thời của chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam đã chấm dứt và chuyển sang thời kỳ khủng hoảng triền miên không lối thoát. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi còn đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng miền Nam. Nó chứng tỏ chiến tranh đơn phương của Mĩ - Ngụy, dùng chính quyền tay sai để đàn áp cách mạng miền Nam đã hoàn toàn thất bại. Lực lượng chống Mĩ cứu nước đã tăng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
- lên nhanh chóng. Và một sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng là từ thắng lợi này, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra đời. 1.1.2. Thời kỳ cả nước có chiến tranh (1965-1975) 1.1.2.1.Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, vừa chiến đấu, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phƣơng Đế quốc Mĩ thấy rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Miền Bắc còn là nơi tiếp viện khổng lồ cho cuộc chiến của nhân dân miền Nam, nếu diệt được miền Bắc thì miền Nam sẽ bị suy yếu và sẽ như “rắn mất đầu”, nên nhất thiết phải triệt hạ miền Bắc và phải nhổ ngay lập tức “cái gai” đó đi. Vì vậy, ngay từ đầu đặt chân đến Việt Nam, cũng như trong suốt cuộc chiến xâm lược Việt Nam, chúng luôn tìm cách phá hoại miền Bắc, bởi phá hoại được miền Bắc là đã chiến thắng được một nửa chặng đường đánh chiếm xâm lược Việt Nam. Năm 1964 Kennơdy bị mưu sát, Giôn xơn lên thay. Tháng 3 năm 1964, Giôn xơn phê chuẩn kế hoạch dùng tàu khu trục Mĩ tuần tiễn ở vịnh Bắc bộ để ngăn chặn sự tiếp tế bằng đường biển của ta; tiến hành quấy rối, trinh sát vùng ven biển; yểm trợ cho tàu biệt kích ngụy vây bắt ngư dân đánh cá để khai thác tin tức. Đêm ngày 4-8-1964, chính quyền Giôn xơn dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc bộ”, chính thức đưa quân ra ném bom xâm lược miền Bắc. Ngày 7-2 -1965, lấy cớ “trả đũa” việc quân giải phóng miền Nam Việt Nam tiến công doanh trại quân Mĩ ở Plâycu, Giôn xơn ra lệnh cho không quân Mĩ mở chiến dịch “mũi lao lửa” ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh không quân và hải quân lần thứ nhất phá hoại miền Bắc. Với mục tiêu phá tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời uy hiếp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
- tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước. Thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược ra miền Bắc, Mĩ đã huy động một lực lượng rất lớn những trang thiết bị hiện đại, tối tân để tập trung đánh phá các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các nhà máy xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thủy lợi, khu đông dân, trường học, bênh viện…Máy bay, tàu chiến Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục, khắp nơi, mọi lúc, trong mọi thời tiết với cường độ ngày càng tăng. Bom đạn của chúng đã cướp đi biết bao sinh mạng, gây thương tích cho người dân vô tội, phá tan hoang nhà cửa, tài sản, của cải, cơ sở kinh tế, đường giao thông, trường, trạm…mà nhân dân ta đã xây dựng trong mười năm sau khi chiến tranh chống Pháp kết thúc. Trước tình hình đó, đặt ra cho cách mạng miền Bắc nhiệm vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, đồng thời phối hợp với cuộc chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; vừa ra sức chiến đấu, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh và làm nghĩa vụ hậu phương lớn. Để thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ chiến lược là vừa chiến đấu vừa sản xuất, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta vừa có quyết tâm cao, vừa có tinh thần sáng tạo. Trên toàn miền Bắc, đã dấy lên một cao trào cách mạng rộng lớn chưa từng có của quần chúng nhân dân trong sản xuất và chiến đấu. Các lực lượng vũ trang nhân dân đã đẩy mạnh phong trào thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”, nêu cao khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”…Giai cấp công nhân nêu cao quyết tâm “Chắc tay súng, vững tay búa”, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, quyết bảo vệ sản xuất, máy móc và phấn đấu đạt “Ba điểm cao”. Nông dân tập thể nêu quyết tâm “Chắc tay súng, vững tay cày”, lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu dũng cảm… Trong chiến đấu, lao động sản xuất ở khắp miền Bắc đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng tiêu biểu, góp phần vào sự nghiệp chiến đấu, xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
- Tất các các phong trào trên đều vươn tới mục đích: “ Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một ngƣời” [6]. Từ phong trào yêu nước mãnh liệt đó, quân và dân ta ở miền Bắc đã tỏ rõ sức mạnh của một dân tộc có truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giành thắng lợi trong lao động xây dựng đất nước, trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ của hậu phương lớn. Có thể nói trong hơn bốn năm (từ tháng 8-1964 đến tháng 11-1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi và bắn cháy trên 3 nghìn máy bay Mĩ, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm hàng trăm tàu chiến…Do thất bại nặng ở hai miền, Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào và ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ ngày 1-11-1968. 1.1.2.2. Miền Nam chiến đấu chống “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ (1965-1968) Sau khi mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, Mĩ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược nhằm cứu vãn cuộc “chiến tranh đặc biệt” đang có nguy cơ bị thất bại hoàn toàn. Mĩ cũng quyết định chuyển cuộc “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cụ bộ” ở miền Nam Việt Nam. Đây là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới được đề ra với chiến lược quân sự toàn cầu “ phản ứng linh hoạt”. Cuộc chiến tranh này bắt đầu từ giữa năm 1965, được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mĩ, và của một số nước thân Mĩ ở châu Á - Thái Bình Dương như Hàn Quốc (Nam Triều Tiên), Thái Lan, Philippin… Trước tình thế trên, Đảng ta đã nhận định: đây thực chất là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, tính chất và mục tiêu chính trị không có gì thay đổi so với cuộc chiến tranh đặc biệt trước đó, nhưng cuộc chiến tranh này ác liệt hơn nhiều. Việc Mĩ tăng cường hoạt động chiến tranh xâm lược Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
- miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc làm cho mâu thuẫn vốn có từ trước giữa nhân dân ta ở hai miền với đế quốc Mĩ và tay sai càng thêm sâu sắc, càng thêm bốc cao ngọn lửa căm thù và gắn bó chặt chẽ nhân dân hai miền trong chiến đấu. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương V, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Quyết chiến thắng giặc Mĩ xâm lƣợc”, lại được sự phối hợp và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, nhân dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Các chiến thắng tiêu biểu của quân và dân miền Nam trong thời kỳ này như chiến thắng với quân đội viễn chinh Mĩ ở Núi Thành (Vạn Tường) trở thành chiến thắng có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta. Sau những trận thắng đó, một làn sóng “tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” dâng cao trên khắp miền Nam. Nhiều “vành đai diệt Mĩ” xuất hiện như ở Hòa Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)… Một phong trào thi đua trở thành “dũng sĩ diệt Mĩ” và “ đơn vị anh hùng diệt Mĩ” được dấy lên sôi nổi khắp nơi. Tiếp đó là các chiến thắng trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Song song với những chiến thắng trên mặt trận quân sự, nhân dân miền Nam anh dũng còn giành chiến thắng trên mặt trận chính trị. Ở hầu khắp các vùng nông thôn miền Nam, quần chúng nông dân được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, trừng trị bọn ác ôn, phá từng mảng “ấp chiến lƣợc”, làm thất bại âm mưu “bình địch”, giành dân của chúng. Đặc biệt, trong thời kỳ chống chiến tranh cục bộ này, quân và dân miền Nam đã tổ chức thành công cuộc “tổng công kích – tổng khởi nghĩa” với quy mô rộng lớn trên khắp các đô thị toàn miền Nam. Mặc dù còn có một số hạn chế song ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vẫn hết sức to lớn, đã mở ra bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
- làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mĩ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Giữa lúc cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước diễn ra ác liệt nhất thì nhà văn Dương Thị Xuân Quý gửi lại con nhỏ xung phong lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Và cũng noi gương chồng chị, nhà thơ Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly) vào công tác tại chiến trường khu V, một trong những địa bàn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ lúc bấy giờ. Sau 3 tháng trời hành quân dòng dã, chị đã đến miền Nam và nhận nhiệm vụ làm phóng viên của tạp chí Văn nghệ Trung Trung Bộ. Trong thời gian công tác tại đây, chị đã sống, làm việc và chiến đấu trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của chiến tranh, với cái chết luôn rình rập. Bằng ý thức của người cầm bút với sứ mệnh lịch sử của mình trong vai trò “thƣ ký thời đại” chị đã xung phong đi Quảng Đà (Quảng Nam) một trong những địa bàn đồng bằng ác liệt nhất của chiến trường miền Nam để viết về những tấm gương cá nhân và tập thể anh hùng. Thời điểm đó, vào cuối những năm 1968, đầu năm 1969 – sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, giặc Mĩ càng điên cuồng chống phá cách mạng, phá tan làng mạc, thôn xóm và tàn sát tàn bạo nhân dân ta. Chúng tiến hành các cuộc càn quét dọc các xã ven biển vùng Đông Thăng Bình. Và trong một trận càn của địch tại Duy Xuyên, nhà văn cùng mấy du kích địa phương đã bị địch phát hiện và giết hại khi đang cố gắng thoát khỏi hầm trú ẩn tìm cách thoát khỏi vòng vây của quân thù. Nhà văn đã anh dũng hy sinh đúng vào ngày mùng 8-3-1969 cũng là ngày Quốc tế phụ nữ. Và sau 6 năm nhà văn hy sinh, nhân dân ta ở hai miền Nam, Bắc đã kiên cường chiến đấu, chiến thắng giặc Mĩ một cách vẻ vang. Ngày 30- 4 - 1975 miền Nam nơi nhà văn đã sống những ngày tháng ngắn ngủi nhưng oanh liệt và đẹp nhất của cuộc đời đã hoàn toàn được giải phóng, đất nước trọn niềm vui khi non sông thu về một mối. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
- 1.2. Đời sống văn học 1.2.1. Không khí văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước Những năm đầu 1960 trở đi là thời kỳ văn học có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, là thời kỳ tập trung thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân trong chiến đấu và sản xuất, nhằm bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” như lời Bác Hồ kính yêu đã nói, hầu hết các nhà văn sống trong thời kỳ này đều hướng ngòi bút theo chủ đề này một cách say sưa, mãnh liệt. Dưới ánh sáng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, văn học đã được hướng theo nhiệm vụ phục vụ kháng chiến. Tình yêu tổ quốc đã trở thành đề tài nóng trong mỗi sáng tác của các nhà văn. Các tác phẩm thời kỳ này đã để lại những dấu ấn mạnh mẽ như trong Trăng sáng, Đôi bạn của Nguyễn Ngọc Tấn, Rẻo cao, của Nguyên Ngọc, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cỏ non của Hồ Phương … Cùng với tiếng súng đánh Mỹ nổ ran trên bầu trời Hồng Gai, Lạch Trường, Vĩnh Linh, Cồn cỏ…một loạt bút ký, phóng sự, ghi chép xuất hiện để kịp thời thông báo ngay những chiến thắng dồn dập của nhân dân ta, quyết “nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Trên các trang Họ sống và chiến đấu (1965) của Nguyễn Khải, Đội ngũ hôm nay (1965), Chiến công tháng Tám (1965), Tuyến lửa (1966)….đã thấy hiện dần lên không chỉ có các chiến công, mà là khuôn mặt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam với Đặng Đình Lống, Nguyễn Viết Xuân, Trần Thị Lý, với Mẹ Suốt chèo đò…Và rất tự nhiên trong văn xuôi đã hiện ra bộ mặt đất nước, với nhiều bối cảnh, với hình ảnh mọi tầng lớp nhân dân trong hoạt động khẩn trương quyết liệt cho việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu. Bộ mặt đất nước với những con sông, con suối, những nhịp cầu, bến phà, bầu trời, mặt biển…tất cả cùng hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
- lên, và vẻ đẹp của chúng lại một lần nữa được người viết phát hiện với biết bao rung động, đến mức say lòng người. Có lẽ chưa bao giờ được thể hiện rõ như vậy trong văn xuôi niềm tự hào hướng vào mọi mặt đời sống để khám phá những vẻ đẹp, những kỳ tích anh hùng nảy nở hàng ngày, hàng giờ, hoặc được kết tinh với mức độ cao ở khắp các đơn vị và cá nhân anh hùng, hoặc tiềm tàng dưới nhiều dáng vẻ trong đời sống thường ngày. Chưa bao giờ nhiệm vụ cách mạng giao cho nhà văn lại có ý nghĩa cao cả và thiêng liêng đến như vậy. Chỉ trong một thời gian ngắn nhiều người viết đã đưa được mọi giá trị của cuộc sống vào trong tác phẩm của mình như Từ tuyến đầu tổ quốc, Sống nhƣ Anh (1965), Ngƣời mẹ cầm súng (1966), Truyện và ký, 1969 của Nguyễn Thi, Hòn đất(1966) của Anh Đức, Rừng xà nu (1966) của Nguyễn Trung Thành, Rừng U Minh(1970) của Trần Hiếu Minh…Và nói sao cho hết các tên đất, tên người, Ngƣời Giồng tre của Giang Nam, hoặc Ngƣời sông Hƣơng của Tô Nhuận Vỹ, … Như vậy, chúng ta dần dần được chứng kiến sự triển khai của văn xuôi trên tiền tuyến lớn, theo hai hướng. Trước hết đó là sự mở rộng nhanh chóng phạm vi miêu tả để, trong một thời gian ngắn, văn xuôi có thể bám được vào những vùng đất nóng bỏng, các chiến công và sự tích anh hùng. Đồng thời gắn bó với quá trình mở rộng phạm vi miêu tả đó là quá trình nâng cao dần sức khái quát, khả năng đúc kết, để từ những phác thảo, những ghi chép, những quan sát riêng lẻ, bộ phận tiến lên xây dựng những bức tranh lớn nắm bắt được đặc sắc riêng của cuộc chiến đấu từng vùng, đánh dấu những chuyển biến lớn trên mỗi giai đoạn. Rõ ràng chưa bao giờ hình ảnh cuộc sống lại thâm nhập vào văn xuôi với những đường nét nổi rõ như những ngày này. Đây là một cuộc chiến tranh với tất cả sức huy động hùng hậu của nó, một sự huy động hầu như toàn bộ quá khứ và hiện tại, hầu như tất cả mọi phương tiện mà ta có trong tay từ tên lửa, đến tên tre, hầm chông, súng ngựa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
- trời, từ những binh đoàn lớn đến “đội quân đầu tóc” của những bà mẹ chỉ có khăn quàng đầu và tay không. Một cuộc chiến tranh với rất nhiều hy sinh. Văn xuôi không dấu diếm điều đó. Có thể nói, hiếm có lúc nào, và cũng khó có so sánh ở đâu, con người phải chịu đựng những đau thương lớn lao như dân tộc ta vào những ngày này. Đau thương đến tột cùng, như được nói đến trong tùy bút Hội lớn mùa xuân (trong tập Bức thƣ làng Mực, 1969) của Nguyễn Chí Trung: “Không biết trên trái đất này có cảnh bi thảm nào lớn hơn thế này nữa không, khi ngƣời mẹ Việt Nam đau thƣơng đó chỉ có thể nhận ra đƣợc xác con mình bị bọn quỷ Mĩ và lũ tay sai hèn hạ moi gan, mổ bụng qua núm dạ dày bị đâm thủng toạc, để lòi ra những nắm rau khoai lang xanh rờn của bữa ăn đói cuối cùng” [17]…Cuộc sống ngột ngạt, đến mức thà giết được nó, rồi có chết ngay cũng được…Nhưng đây là một cuộc chiến tranh mà dân tộc ta, từ Bắc chí Nam sẵn sàng chấp nhận, vì quyền lợi cơ bản của mình, vì sự nhận thức rõ ràng những hy sinh, tổn thất mà ta phải chịu đựng trong chiến tranh không thấm gì với nỗi đau của nô lệ và nỗi nhục của người dân mất nước, vì chân lý “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”… Và đây chính là điểm khởi đầu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Lửa cháy, bom rơi, pháo rầy, B52, chất độc hóa học, những cuộc rào làng dồn dân, những vùng ven, những khu trắng và đói rét…không thể nào làm nhụt chí con người, mà còn nâng cao thêm ý chí chiến đấu. Từ thực tế đó, văn xuôi chống Mỹ Việt Nam trên cả hai miền và trước hết là trên tiền tuyến lớn, tuyệt không mang một dấu ấn bi quan. Ở đây tất cả chỉ nhằm hướng tới một mục tiêu: chiến đấu để chiến thắng. Và hình ảnh nổi bật lên ngay từ đầu và quán xuyến suốt các quá trình cuộc sống là hình ảnh con đường ra trận, con đường tìm Mĩ mà diệt. Trên miền Bắc, đời sống văn xuôi cũng có nhiều thay đổi và mang nhiều màu sắc mới. Những ánh sáng của cuộc đời đã xuất hiện trong văn thơ, mà Bài thơ xuân 61 với những câu thơ thắm thiết và lâng lâng như có cánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 433 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 347 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Con người trong thơ thiền Lý Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại
131 p | 201 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 184 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 118 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 135 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 195 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 103 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề dạy học “Nguyễn Du và Truyện Kiều” trong chương trình Văn ở trường trung học phổ thông
123 p | 134 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu thơ các vua thời Thịnh Trần (từ Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông)
132 p | 119 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu đoạn văn kết thúc truyện ngắn của Nam Cao
118 p | 32 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 22 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 44 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 80 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn