Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tô Hoài với hai thể văn - Chân dung và tự truyện
lượt xem 2
download
Luận văn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: Chỉ ra những đặc sắc của thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài; khẳng định những đóng góp của Tô Hoài về mảng chân dung và tự truyện trong quá trình phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tô Hoài với hai thể văn - Chân dung và tự truyện
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------------- DƢƠNG THỊ THU HIỀN TÔ HOÀI VỚI HAI THỂ VĂN: CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên - Năm 2007 i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------------- DƢƠNG THỊ THU HIỀN TÔ HOÀI VỚI HAI THỂ VĂN: CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. PHONG LÊ Thái Nguyên - Năm 2007 ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2 3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 4 6. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 8 NỘI DUNG ........................................................................................................ 9 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI .................................... 9 1.1. Nhà văn Tô Hoài ....................................................................................... 9 1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác................................................................... 9 1.1.2. Quan niệm về nghề văn và người viết văn ........................................... 13 1.2. Về hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài ........................................15 1.2.1. Chân dung văn học của Tô Hoài .......................................................... 15 1.2.2. Tự truyện của Tô Hoài ......................................................................... 20 Chương 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC ....................... 23 2.1. Chung quanh khái niệm về chân dung văn học và chân dung văn học của Tô Hoài ........................................................................................... 23 2.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 23 2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thể chân dung văn học ................................ 24 2.1.3. Chân dung văn học của Tô Hoài .......................................................... 28 2.2. Đặc sắc trong chân dung văn học của Tô Hoài....................................... 35 22.1. Khắc hoạ chân dung trong không khí văn học thời đại ................................35 2.2.2. Dựng chân dung theo dòng hồi tưởng .................................................. 49 2.2.4. Dựng chân dung nhà văn trên cái nền phong tục lạ ............................. 54 i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- 2.3. Chân dung một số nhà văn và bức chân dung tự hoạ ............................. 58 Chương 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN ................................................... 68 3.1. Chung quanh khái niệm về tự truyện ...................................................... 68 3.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 68 3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của tự truyện ..................................................... 72 3.1.3. Tự truyện trong hành trình văn xuôi Tô Hoài ...................................... 76 3.2. Đặc sắc trong nội dung của tự truyện của Tô Hoài................................. 76 3.2.1. Nhãn quan sinh hoạt, thế sự ................................................................. 85 3.2.2. Tự truyện pha dấu ấn tiểu thuyết ......................................................... 93 3.3. Đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện của Tô Hoài 3.3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................. 93 3.3.2. Nghệ thuật trần thuật luôn mang một sắc thái riêng .......................... 106 KẾT LUẬN .................................................................................................... 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 122 ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Mười bảy tuổi Tô Hoài đã có một số sáng tác thơ đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy (Tiếng reo, Đan áo...). Những bài thơ non nớt về nghệ thuật đã giúp ông hiểu mình và ông sớm chuyển hướng. Từ giã vườn thơ ông đến với cánh đồng văn xuôi, từ chân trời lãng mạn ông đến với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo tuy vẫn mang chất trữ tình. Cảnh đời thường đã có sức thu hút, hấp dẫn mãnh liệt đối với ngòi bút của nhà văn Tô Hoài. Với hơn sáu mươi năm viết, ông đã để lại cho nền văn học hiện đại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Hầu như, ở độ tuổi nào ông cũng có tác phẩm. Vương Trí Nhàn đã từng đánh giá về sức sáng tác của nhà văn Tô Hoài: “Vừa vào nghề sớm lại vừa kéo dài tuổi nghề, một sự kéo dài đàng hoàng chứ không phải lê lết trong tẻ nhạt - đời văn Tô Hoài gợi ra hình ảnh một dòng sông miên man chảy mang trong mình cả cuộc sống bất tận” [32,tr .180]... 1.2. Nói đến thành công trong sáng tác của Tô Hoài là nói đến những sáng tác cho thiếu nhi đặc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký, và những sáng tác về đề tài miền núi… Nhưng thật là thiếu sót, nếu không nhắc đến hai thể chân dung và tự truyện. Có thể đánh giá đây là mảng viết đặc sắc của Tô Hoài. Cho đến bây giờ, người ta đều nhận ra rằng, cái làm nên giá trị trong văn chương Tô Hoài là hai thể văn này. Với hai thể chân dung và tự truyện đã cho ta thấy một Tô Hoài không lẫn với ai, hóm hỉnh, thông minh, và sống hết mình với nghề văn, nghiệp văn. Và cũng chính với những thể văn này, lần đầu tiên Tô Hoài đã đem lại cho độc giả hình ảnh một số “nhân vật lớn” của văn chương nước nhà ở một cự ly gần, và thấy một sự thật về chân dung của các nhà văn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra những đặc sắc nổi bật, và khẳng định những đóng góp, những sáng tạo độc đáo của Tô Hoài trong hai thể văn 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- này, là những vấn đề cần thiết và rất nên làm. Bởi nó là một phần tạo nên sức sáng tạo bền bỉ của nhà văn Tô Hoài. 1.3. Cỏ dại (1944), qua Tự truyện (1977), Những gương mặt (1988), đến Cát bụi chân ai (1992), và Chiều chiều (1999) là những mảng viết đặc sắc của Tô Hoài về chân dung và tự truyện. Những tác phẩm này đã để lại cho độc giả ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật mênh mông, đồ sộ, với một sức trẻ kéo dài. Nghiên cứu hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài là nghiên cứu những phần đặc sắc, những phần tạo nên cái riêng trong phong cách sáng tạo của nhà văn. Tìm hiểu về nhà văn Tô Hoài ta thấy, lâu nay, các nhà nghiên cứu phê bình văn học đã dành nhiều sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị của Tô Hoài. Nhưng những công trình coi hai thể chân dung và tự truyện là đối tượng nghiên cứu chuyên biệt lại chưa được chú trọng. Cho đến nay, đây vẫn là một khoảng trống. Nhận thấy điều đó, cho nên chúng tôi đã chọn hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn. Dẫu không phải là điểm nóng, nhưng luận văn vẫn muốn đóng góp thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài nói chung, và hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài nói riêng - những thể loại ghi dấu ấn thành công trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, đồng thời dây còn là những thể văn tạo nên cái riêng trong phong cách sáng tạo của ông. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, chúng tôi cần phải đọc, tham khảo các tài liệu có liên quan đến hai thể văn: chân dung và tự truyện của Tô Hoài. - Toàn bộ sáng tác về mảng đề tài chân dung và tự truyện của nhà văn Tô Hoài. - Đọc tham khảo những tác phẩm chân dung và tự truyện của một số nhà văn cùng thời. 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- - Đọc những bài nghiên cứu, phê bình về những sáng tác của nhà văn Tô Hoài, đặc biệt là những bài viết về mảng đề tài chân dung và tự truyện. - Đọc và nghiên cứu một số tác phẩm lý luận làm cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Đương thời, khi xuất hiện, các tác phẩm của Tô Hoài đã được giới nghiên cứu văn học chú ý. Tìm hiểu những công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài, chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu đã tập trung và hai hướng tiếp cận chủ yếu: tiếp cận trên góc độ tổng quan và tiếp cận từ các tác phẩm cụ thể. Có nhiều công trình nghiên cứu về Tô Hoài, nhưng nghiên cứu về hai thể văn chân dung và tự truyện của ông thì lại có rất ít, chỉ có một vài ý kiến nằm rải rác trong các công trình nghiên cứu mang tính khái quát, giới thiệu, mà chưa thực sự đi sâu nghiên cứu chuyên biệt. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ điểm duyệt những ý kiến có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu hai thể chân dung và tự truyện của Tô Hoài. Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, quyển IV (1944), khi giới thiệu về Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá về phong cách viết tiểu thuyết của Tô Hoài. Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng tăng không ngừng. Những nhà phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như : Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Vân Thanh, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn, Đoàn Trọng Huy, … Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét khái quát về thể văn tự truyện của Tô Hoài : "Hồi ký, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài… Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy" [43]. Trong lời nhận định của mình, giáo sư đã chỉ ra cho độc giả thấy một trong những điều làm nên sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài, đó chính là " nhân vật trung tâm" - "cái tôi" của tác giả - cái tôi ấy được soi rọi, được thể hiện một cách trung thực " một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút khinh bạc" [43]. Giáo sư Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện : "… Hồi ký và tự truyện của ông kết hợp được dòng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân tích tỉnh táo các hiện tượng và phần tâm sự của tác giả" [10]. Cùng với hướng phát hiện đó, giáo sư Phong Lê đã khẳng định sức lôi cuốn, hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài đối với độc giả : "Đọc tự truyện tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một bầu khí quyển chung cho bao thế hệ" [32]. Vân Thanh với bài Tô Hoài qua Tự truyện đã nói đến sự đổi mới về tư tưởng, và phương pháp nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài : "Tự truyện được viết trên cả quá trình 30 năm, có bộ phận nói lên được sự đổi mới của tư tưởng, phương pháp nghệ thuật của Tô Hoài. Nếu Cỏ dại là hồi tưởng về thời thơ ấu được viết vào tuổi hai mươi, trước Cách mạng, thì đến…, Những người thợ cửi, Đi làm, được viết vào tuổi đời năm mươi của nhà văn trong những năm 70. Điều kỳ lạ là các mảng sống và chi tiết trước đây cũng như bây giờ, vẫn cứ gần như tươi rói trong ký ức nhà văn" [32]. Phạm Việt Chương trong Những gương mặt - chân dung văn học Tô Hoài đã từng nhận xét : "Chúng ta gặp lại Tô Hoài, tác giả của những tác phẩm phiêu lưu kì thú, khi anh viết một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu mến. Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua…"[32,tr .404]. Đây là những ý kiến đánh giá mang tính chất khái quát nhất và tiêu biểu nhất về hai thể văn của Tô Hoài : chân dung và tự truyện. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết nghiên cứu, bàn luận xoay quanh những sáng tác chân dung và tự truyện Tô Hoài của các nhà nghiên cứu như : Vương Trí Nhàn, Trần Hữu Tá, Võ Xuân Quế, Trần Đình Nam… Ở Cỏ dại, mặc dù không gây được tiếng vang như tập Tự truyện sau này, song cũng được đánh dấu bằng ý kiến của nhà báo, nhà nghiên cứu Võ Xuân Quế : "Mặc dù còn có một vài hạn chế nhất định về tư tưởng, song nó đã vẽ lên được bức tranh chân thực về một vùng quê ở ngoại thành Hà Nội. Đó là cảnh sống nghèo khó, khốn khổ cùng cực, những phong tục tập quán cổ hủ với những tâm tình u uẩn của người thợ thủ công Nghĩa Đô… Tô Hoài đã miêu tả thành công các mối quan hệ gia đình, bạn bè, trai gái, làng xóm ở thôn quê" [45]. Khi nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đặc biệt chú ý tới mảng hồi kí trong đó có Cỏ dại. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định : "Nghiên cứu Tô Hoài, không thể không đọc Cỏ dại như một tài liệu cơ bản, vì tác phẩm cho ta biết một cách cụ thể những gì đã tạo nên tâm hồn ấy, cây bút ấy..." [42,tr .53]. Nhận định trên đã chỉ ra cho độc giả thấy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tác phẩm Cỏ dại đối với sự hình thành tư tưởng và phong cách của cây bút tài năng Tô Hoài. Đến Tự truyện (1973), nhà nghiên cứu Vân Thanh đã đánh giá cao và cho rằng: “Sau Cỏ dại, Trăng thề, Nhà nghèo… những năm 70, Tô Hoài tiếp tục bổ sung để có Tự truyện như hôm nay. Theo tôi, nói Tô Hoài trong phần 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- đặc sắc của anh là nói về mảng đề tài miền núi như ta đã thấy, nhưng đến hôm nay không thể không nói đến phần ký ức tuổi thơ và tuổi thanh niên của anh… Tôi cho là Tô Hoài đã thực sự đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ - hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ đề nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ" [32, tr 399, 403]. Cát bụi chân ai (1990) là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại chân dung văn học của Tô Hoài. Cát bụi chân ai ra đời, gây xôn xao trong dư luận công chúng, được bàn cãi nhiều, có khen, chê song điều cốt lõi là không ai không thừa nhận giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật của tác giả cuốn sách. Nó vừa là tác phẩm có giá trị văn học vừa là cuốn tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã dựng lại đời sống tinh thần của một số cây bút lớn cũng như môi trường mà nhà văn phản ánh trong đó. Nhà văn Xuân Sách từng nhận xét: "Tác phẩm mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài - từ văn phong đến con người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai muốn nghe thì nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn… Và vì thế… sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực"[32,tr.414]. Còn nhà văn Trần Đức Tiến thì cho rằng : "Bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ cầm bút chũng tôi nhìn một số "nhân vật lớn" của văn chương nước nhà từ một cự li gần... Bây giờ qua Tô Hoài - chúng tôi được nhìn gần : một khoảng cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc"[32, tr .413]. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét : Hồi ký Cát bụi chân ai "kể chuyện những nhà văn, những người bạn mà tài năng văn học không ai chối bỏ được nhưng đồng thời cũng là những con người bình thường với những tính tốt và tật xấu như mọi người"[4]. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Cát bụi chân ai là tác phẩm được bàn cãi nhiều, có người khen kẻ chê, song cốt lõi không ai không thể không thừa nhận giá tri nội dung và tài năng nghệ thuật của Tô Hoài. Nhìn chung khi viết tác phẩm này nhà văn đã phát huy được mặt mạnh sở trường của mình, trước hết đó là nghệ thuật dẫn truyện. Hà Minh Đức đã nhận xét về mặt ngôn ngữ : "ngôn ngữ người kể chuyện trong tác phẩm của Tô Hoài linh hoạt và nhiều màu vẻ. Ông chủ động trong câu chuyện kể kết hợp kể chuyện và miêu tả tạo nên sự diễn biến uyển chuyển và linh hoạt của mạch truyện"[10] Những bài viết trên đã trở thành những ý kiến tham khảo rất hữu ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Với đề tài Tô Hoài với hai thể văn : chân dung và tự truyện, người viết mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về chân dung và tự truyện - hai thể văn đặc sắc của Tô Hoài, đồng thời có dịp hiểu rõ hơn cuộc đời cũng như phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tô Hoài. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Luận văn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Chỉ ra những đặc sắc của thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài. - Khẳng định những đóng góp của Tô Hoài về mảng chân dung và tự truyện trong quá trình phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: - Phương pháp khảo sát, thống kê. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp hệ thống, và một số phương pháp khác. 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Nghiên cứu một cách có hệ thống về những đóng góp của hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài, qua đó, góp phần tìm hiểu phong cách văn xuôi Tô Hoài và những đóng góp đặc sắc của ông cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Toàn bộ luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo được trình bày trong 3 chương: CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI CHƢƠNG 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC CHƢƠNG 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI 1.1. NHÀ VĂN TÔ HOÀI 1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại quê ngoại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ - nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy - Hà Nội. Ông sinh ra, lớn lên gắn bó mật thiết lâu dài với nơi đây. Là con một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công. Tô Hoài chỉ học hết bậc tiểu học, sau đó phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy học tư, thợ thủ công, bán hàng, kế toán tiệm buôn… Tô Hoài đã tự học để trở thành nhà văn. Ông là một nhà văn có nghề nghiệp vững vàng với sức sáng tạo công phu dẻo dai, bền bỉ. Cũng giống như Xuân Diệu, Tô Hoài nêu gương sáng về tinh thần “tay siêng làm lụng mắt hay kiếm tìm”. Bằng sức lao động cần cù hiếm thấy, với hơn 60 năm viết trong một đời người, cây bút này có những đóng góp đặc sắc trước và cả sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong trào thanh niên phản đế. Năm 1943, gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia phong trào Nam tiến rồi lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc. Từ năm 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam, nhưng vẫn thường xuyên đi với bộ đội, tham gia chiến dịch Biên giới, theo bộ đội chủ lực tiến vào giải phóng Tây Bắc… Sau hòa bình lặp lại, trong Đại hội nhà văn lần thứ nhất, năm 1957, ông được bầu làm Tổng thư ký của Hội. Từ năm 1958-1980 ông tiếp tục tham gia Ban chấp hành, rồi Phó Tổng thư ký của Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1966-1996 Chủ tịch Hội văn nghệ Hà 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Nội. Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác, đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch ủy ban đoàn kết Á - Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Ấn, ủy viên Ban chấp hành Hội nghị Việt Xô. Năm 1996 Tô Hoài được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Phần thưởng cao quý này đã khẳng định một tài năng, một sức sáng tạo dồi dào phong phú, mang bản sắc dân tộc đậm đà, phong cách riêng rõ nét của Tô Hoài. Có thể thấy hiếm có nhà văn nào lại có tuổi đời và tuổi nghề gắn bó với công việc sáng tạo nghệ thuật - một “công việc bình dị mà cao đẹp” chung thủy như Tô Hoài. Tính đến nay, Tô Hoài đã có hơn 60 năm cầm bút với số lượng tác phẩm gấp đôi tuổi đời. Ông là một trong số những những nhà văn có những thành tựu và đóng góp hết sức to lớn cho sự trưởng thành và phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với sức viết bền bỉ và số lượng tác phẩm đồ sộ, ta thấy hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Trước Cách mạng tháng Tám, những sáng tác của ông thể hiện một cây bút sung sức, một sức viết mạnh mẽ, in đậm cảm quan nghệ thuật và giọng điệu riêng, không lẫn với ai. Những sáng tác trong thời gian này cũng đóng góp làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam. Từ giã vườn thơ lãng mạn đến với cách đồng văn xuôi hiện thực, Tô Hoài đã dành hết sức và quyết tâm đi vào con đường của chủ nghĩa hiện thực. Với một thời gian ngắn, “ trong ngoài ba năm viết như chạy thi”[32,tr.19], Tô Hoài đã để lại một khối lượng lớn các tác phẩm, làm nên một Tô Hoài mang dấu ấn riêng. Đến với nghề văn thật tự nhiên. Ông được nhận xét là “một nhà văn xuôi bẩm sinh” (Trần Đình Nam). Truyện Con dế mèn ra đời, đã có sức chiếm lĩnh đối tượng độc giả rộng lớn, không chỉ có trẻ con mà ngay cả người lớn cũng rất thích thú khi đọc nó. Với tuổi đời 20, sáng tạo “nhân vật” dế mèn trong thế giới các sinh vật nhỏ bé, Tô Hoài đã sớm bộ lộ tài năng đột xuất về nhiều mặt. Đọc Dế mèn, ta thấy, ở Tô Hoài khả năng hóa thân vào sự sống 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- của vật và đồng thời đưa đến cho thế giới loài vật sự sống của con người. Sự chung sống, sự hòa trộn, sự chuyển hóa của hai thế giới đã giúp cho bạn đọc cảm giác mở rộng, nhân đôi các giới hạn sống. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng ngòi bút của Tô Hoài đã xiết bao linh hoạt. Quan sát kỹ lưỡng và tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên mà giàu có, có sắc thái giọng điệu riêng, tất cả đều rất sắc nét. Sau Dế mèn…, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng truyện ngắn của mình trong miêu tả thế giới loài vật, trong tập truyện O chuột (gồm 8 truyện) (1942). Xuất thân trong một gia đình nghèo, chất nhân văn trở thành yếu tố tự nhiên căn bản trong văn chương Tô Hoài. Làng Nghĩa Đô - quê ngoại Tô Hoài đã trở thành mảng đề tài lớn trong những sáng tác của ông. Những truyện như Nhà nghèo (1942); Giăng thề (1941); Quê người (1942), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944) đều miêu tả vùng quê thân yêu của nhà văn. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, trước 1945, ngòi bút Tô Hoài đã hướng tới hai mối quan tâm, hai đối tượng quan sát. Trong “mảnh vườn” hiện thực ấy, ông đã dệt lên bức tranh muôn màu của cuộc sống chung quanh mình, nơi một miền quê gần thành thị đã không còn mấy sự yên lành, thơ mộng và bên cạnh đó ông còn khao khát cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp khi vẽ lên bức tranh về thế giới loài vật với những ước mơ, tưởng tượng cao đẹp. Hai đối tượng tưởng như tách nhau, nhưng thực ra chúng lại hội vào nhau tạo nên một bức tranh hoàn thiện về một thế giới nghệ thuật chung, mang cảm quan nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Chính vì vậy, khi nói đến Tô Hoài, người ta nói đến sự thống nhất của thế giới nghệ thuật ấy. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một trong số ít cây bút không phải trăn trở, ngập ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác phẩm đầu tiên trong thời gian này. 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Mảng đề tài thu hút tâm lực Tô Hoài nhiều hơn và ông cũng đạt được thành công lớn hơn trong giai đoạn này là cuộc sống con người miền núi. Ông là người đầu tiên đặt viên gạch xây nền cho văn học viết về các dân tộc ít người. Ông viết về sự chuyển mình, thay da của vùng đất này trong cách mạng dân tộc dân chủ (Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc…) và trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lên Sùng Đô, Nhật ký vùng cao, Miền Tây…). Viết về miền núi, tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài là Truyện Tây Bắc. Tập truyện được nhận Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Truyện Tây Bắc gồm 3 tác phẩm: truyện Mường Giơn và hai truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A phủ. Tập truyện miêu tả cuộc đời thống khổ của những người dân miền núi đưới ách thực dân Pháp và bọn thổ ti lang đạo. Nỗi khổ ấy tập trung vào người phụ nữ. Nhờ có nhà văn Tô Hoài, người đọc có được kinh nghiệm sống, biết được cảnh đau khổ của nhân dân miền núi, làm nảy sinh những cảm xúc thương yêu đối với con người và vùng đất này. Nếu như Truyện Tây Bắc ghi nhận bước đổi đời quyết định của đồng bào Tây Bắc trong Cách mạng dân tộc dân chủ thì Miền Tây là một sự đóng góp tích cực của Tô Hoài trong việc miêu tả những bước đi đầu tiên đầy gian khổ của vùng đất này lên xã hội chủ nghĩa. Miền Tây được Giải thưởng Hội nhà văn Á - Phi năm 1972. Sau Miền Tây, đề tài về vùng cao vẫn còn được Tô Hoài tiếp tục viết: Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971); Họ Giàng ở Phìn Sa (1984); Nhớ Mai Châu (1988). Rõ ràng Tô Hoài vẫn mệt mài theo đuổi nó với một kiên nhẫn không nản mỏi… Trở về với những miền thân thuộc qua mảng đề tài chân dung và tự truyện, mảng đề tài Hà Nội - ngoại ô, quê ông vẫn là đề tài chủ yếu trong những sáng tác của ông. Dẫu đi bất cứ đâu, Hà Nội vẫn cứ đi theo ông, để làm 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- thành hành trang, làm nên một vóc dáng Tô Hoài, với hình ảnh “Người Hà Nội - Văn Hà Nội” [32]. Từ Cỏ dại đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), đến Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự trở về trọn vẹn của Tô Hoài với những miền thân thuộc, quê hương yêu dấu của ông. Tóm lại, toàn bộ sáng tác của Tô Hoài đã có những đóng góp to lớn và hết sức quan trọng cho sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của Tô Hoài đưa đến người đọc những hiểu biết thêm về đời sống, về ngôn ngữ và cũng chính những sáng tác của Tô Hoài mà người ta hiểu hơn thế nào là văn chương chân chính, đích thực. 1.1.2. Quan niệm về nghề văn và ngƣời viết văn Quan niệm về nghề văn: Mọi hành động đều xuất phát từ một tư tưởng, mà mọi tư tưởng đều bắt đầu từ một quan niệm. Trong Tự truyện Tô Hoài từng kể: “ Bây giờ khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi cũng không có mục đích gì, đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết văn”[19,tr.234-235]. Tô Hoài quan niệm viết văn là một nghề - một nghề kiếm sống như bất cứ nghề nào. Không hão huyền, không viển vông và ảo tưởng. Ông bước vào làng văn không ngẫu nhiên nhưng cũng không vì mục đích nổi danh, thoả mãn sĩ diện của kẻ sĩ. Vì thế ông chọn nghề viết văn là nghề để kiếm sống, cũng thật dễ hiểu bởi nó thật phù hợp và cũng hết sức chân chính. Bước vào nghề, Tô Hoài cũng sớm nhận ra hai mặt của một vấn đề. Ông đã rất vui mừng nhận những đồng tiền nhuận bút đầu tiên song ông cũng ý thức được rằng nghề viết văn là nghề hết sức nghiêm túc. Ông đã xác định: “Nghề viết là nghề phải học suốt đời” và “sẽ không thể viết được gì nếu 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- không có một trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách sâu xa” ,và “nếu nhát sợ nhu nhược, chủ quan, chỉ quanh quẩn gặm nhấm dăm ba suy nghĩ cũ, đã sẵn trong đầu, không chịu tiếp xúc và nghiên cứu đời sống, không thể thành cuộc sống, không xứng đáng cầm bút”[23]. Hơn bao giờ hết, Tô Hoài hiểu được để cho ra đời những sản phẩm có giá trị, người cầm bút phải: “Rèn luyện đem đến kết quả, đó là công lao của kiên trì, cố gắng, chịu mày mò, nghe ngóng, tìm kiếm, thu thập, tích trữ mọi mặt vốn liếng, tư tưởng, văn hoá, nhiệm vụ” [23]. Xuất phát từ quan niệm nghiêm túc, đúng đắn về nghề viết văn, Tô Hoài đã dành được ưu thế cho mình trên lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật nói chung và với hai thể chân dung và tự truyện nói riêng. Quan niệm về người viết văn: Tô Hoài quan niệm người viết văn trước hết họ cũng là người - người lao động, chỉ khác là họ là người lao động nghệ thuật mà thôi. Là người trong cuộc nên ông hiểu được rất rõ các bạn đồng nghiệp của mình. Ở họ trước hết cũng là người như bao nhiêu người bình thường khác. Họ cũng có đầy đủ mọi vẻ đẹp cao quý và không ít những điều bình thường, thậm chí cũng tầm thường nữa: “Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ”[22,tr.385]. Chính cái nhìn giản dị mà chân thực ấy đã khiến cho Tô Hoài không hề giấu giếm về mình khi xây dựng bức chân dung tự hoạ. Ông ghi lại cả những câu đùa mỉa mai của các bạn đồng nghiệp khi nhận xét về mình. Không tô điểm, không cần cường điệu, mà ông cứ đem sự thật ra để kể: “Chúng tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ nhen”[17,tr.16]. Đối với Tô Hoài người viết văn cũng giống như bất cứ người bình thường nào khác. Tô Hoài không chỉ nhìn thấy ở họ một con người bình thường mà ông còn thấy ở họ những tâm hồn nghệ sĩ, mỗi người một vẻ, có tài năng khác nhau. Ở 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Tô Hoài tài năng nghệ sĩ được ông rất coi trọng, song ông không cho rằng đó là siêu phàm bởi vì theo ông trong bất cứ nghề nào thì cũng có những người tài giỏi, chứ không cứ gì nghề viết. Quan niệm về nghề viết văn và người viết văn như trên đã chi phối toàn bộ tư tưởng nghệ thuật trong những sáng tác chân dung và tự truyện của Tô Hoài, góp phần làm nên sức hấp dẫn ở những sáng tác của ông. 1.2 VỀ HAI THỂ VĂN CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI 1.2.1. Chân dung văn học của Tô Hoài Chân dung văn học là một đề tài mới mẻ và khó. Sự xuất hiện và phát triển của chân dung văn học được coi là một sự thật ngày càng có ý nghĩa trong đời sống văn học nói chung và trong lịch sử phát triển của phê bình văn học nói riêng. Nó đã thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác. Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Chân dung văn học là thể loại khá mới trong tiến trình văn học Việt Nam. Vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, nó mới bắt đầu xuất hiện trên diễn đàn văn học Việt Nam. Còn trước đó, ở thế kỉ XIX, thời kì văn học trung đại ta chưa thấy xuất hiện thể loại này. Có lẽ là do quan niệm, do lí tưởng thẩm mĩ của mỗi tầng lớp giai cấp trong mỗi thời đại khác nhau. Lí tưởng thẩm mĩ của giai cấp phong kiến thiên về vẻ đẹp truyền thống cổ điển, luôn lấy hình mẫu những con người từ thế kỉ trước khi mà xung quanh những hình mẫu ấy đã lấp lánh ánh hào quang, được tô vẽ bởi lòng người mến mộ, muốn nâng lên thành mẫu hình lí tưởng nhằm phục vụ cho giáo lí phong kiến. Đối tượng phản ánh của họ là những con người đương đại. Sang đến thời cận đại và đặc biệt là thời hiện đại, lí tưởng thẩm mĩ của người sáng tác đã có sự đổi khác. Người ta không thoả mãn với hình mẫu xa xưa, người ta muốn ca ngợi, tìm 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- hiểu, phát hiện cái đẹp ngay trong cuộc sống đời thường. Không chỉ có nhu cầu thẩm mĩ, người ta còn có nhu cầu giải quyết những vấn đề đầy tính mâu thuẫn mà thời đại đặt ra, nhu cầu tự đánh giá và tự bộc lộ mình. Phải chăng vì thế mà đối tượng phản ánh của thời hiện đại không chỉ là những mẫu hình lí tưởng mà được mở rộng sang cả những người lao động nói chung và nhà văn nói riêng. Nhà văn cũng là những người lao động - lao động nghệ thuật. Ở họ cũng tạo ra những sản phẩm có giá trị như một hàng hoá đặc biệt. Khi nói về họ, cũng có thể nói được cả những điều mang ý nghĩa cuộc đời, mang hơi thở thời đại, biểu hiện suy tư của người viết một cách dễ dàng hơn bao giờ hết. Chính họ đã trở thành đối tượng phản ánh của văn học. Nhiều nhà văn trong quá trình hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, đã tạo ra được những tác phẩm xuất sắc, họ vươn tới đỉnh cao nghệ thuật như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… Những nhà văn nổi tiếng này dễ thu hút độc giả - người thưởng thức, và thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác. Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Đối tượng của thể chân dung văn học không chỉ là những nhà văn mà còn là những nhà khoa học, các danh nhân văn hoá, những nhà hoạt động xã hội nổi tiếng… Họ là những nguyên mẫu trong văn học. Từ góc độ thể loại, lí luận văn học đã xác định chân dung văn học là một thể loại đặc thù, thuộc về thể loại kí văn học. Đây là thể loại lấy từ nguyên mẫu đời sống. Trước khi cầm bút, Tô Hoài đã từng trải qua cuộc sống gian truân vất vả của một người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời. Nhưng chính từ kho kinh nghiệm sống ấy, với năng khiếu quan sát, ghi nhớ đặc biệt sắc sảo, 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 429 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 346 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 183 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 117 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 191 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc
120 p | 87 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 102 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương
143 p | 103 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung
129 p | 127 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề dạy học “Nguyễn Du và Truyện Kiều” trong chương trình Văn ở trường trung học phổ thông
123 p | 133 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 21 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 42 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 19 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 78 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn